Chương ii. Thực trạng thu hút FDI ở Mĩ La Tinh
Các chính sách và biện pháp nhằm thu hút FDI
Sau cuộc khủng hoảng nợ vào những năm đầu của thập niên 80, các nước Mĩ La Tinh đã thay đổi cách nhìn đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ thái độ chống đối mang tính dân tộc chủ nghĩa, các nước này đã chuyển sang thái độ sẵn lòng chào đón FDI.
Sự thay đổi này một phần là do việc thay thế thu hút FDI bằng các khoản vay ngân hàng trong thập niên 70 trong nỗ lực nhằm “duy trì sự độc lập” đ
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Mĩ La Tinh và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã đem lại kết quả ngược với sự mong đợi của các nước này. Trên thực tế, cuộc khủng hoảng nợ xảy ra sau đó đã tác động mạnh mẽ tới chủ quyền của họ. Từ bài học này, phần lớn các nước Mĩ La Tinh đã có thái độ cởi mở hơn đối với dòng vốn FDI ngay từ nửa sau thập kỉ 80.
Như trong các lý thuyết về đầu tư quốc tế chỉ rõ, FDI có tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. Nó không chỉ đem lại nguồn vốn bổ sung cho phát triển kinh tế mà cả khoa học công nghệ tiến tiến, kinh nghiệm quản lý, và những kinh nghiệm cần thiết khác - điều mà các nước đang phát triển đang thiếu.
Nhận thức được tầm quan trọng của FDI, đặc biệt trong bối cảnh các nước Mĩ La Tinh đang tích cực chuyển hướng sang đường lối tự do kinh tế. Ngay từ cuối những năm 80, chính phủ nhiều nước Mĩ La Tinh đã thực hiện một số biện pháp nhằm tăng tính hấp dẫn đối với việc tự do di chuyển vốn. Tuy nhiên, các chính sách, biện pháp chỉ thực sự được đẩy mạnh và đạt hiệu quả khi các nước này bước vào thập niên 90. Sau đây là một số biện pháp, chính sách chủ yếu trong những nỗ lực nhằm thu hút FDI của Mĩ La Tinh.
1. Sử dụng nguyên tắc “đãi ngộ quốc gia” đối với các nhà đầu tư nước ngoài
Để thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng, luật của tất cả các nước Mĩ La Tinh đã đưa ra một nguyên tắc, đó là “đối xử bình đẳng” với đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài.Nguyên tắc này thậm chí còn được đưa vào hiến pháp của một số nước.
ở Mêhicô, Luật đầu tư nước ngoài ra đời năm 1993 thay thế luật đầu tư nước ngoài năm 1973, quy định các nhà ĐTNN (kể cả pháp nhân, thể nhân) có quyền bình đẳng với các nhà đầu tư trong nước, có quyền mua bán bất động sản, thành lập doanh nghiệp mới trên lãnh thổ Mêhicô, có quyền di chuyển những doanh nghiệp hiện có đến nơi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mà mình cho là thuận lợi dọc theo chiều dài biên giới 100 km và ven biển 50 km, sâu trong nội địa 20 km. Các doanh nghiệp nước ngoài có thể tổ chức, quản lý sản xuất theo các điều kiện như của người bản xứ khi có thể sử dụng các vật tư dao động tại chỗ, kể cả nguồn khoa học kĩ thuật [5].
Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi số 4930/64 của Braxin chỉ rõ “ Cả tư bản trong nước và tư bản nước ngoài đều được hưởng sự đãi ngộ như nhau” [64].
Tại Chilê, nguyên tắc đối xử không phân biệt đối với tư bản nước ngoài cũng được phản ánh rõ tại hiến pháp và tất cả các luật, trong đó có luật ĐTNN (Foreign Investment Statute) được biết đến như là luật DL600 (Decree Law 600) của nước này [44].
Ngoài ra hầu hết các nước Mĩ La Tinh đều không đưa ra những yêu cầu, những điều kiện liên quan đến hoạt động của dự án ví dụ như những điều kiện về vị trí địa lý, về lĩnh vực hoạt động, về hàm lượng công nghệ, hay những quy định về tỷ lệ xuất khẩu... đối với tư bản nước ngoài. Trong trường hợp các nước này có những quy định thì đó thường là những quy định liên quan đến số lao động nước ngoài trong doanh nghiệp mà thôi. Chẳng hạn như ở Chi lê, lao động người nước ngoài và lao động người Chi lê có chung một nguồn luật điều chỉnh. Mặc dù vậy các doanh nghiệp là có trên 25 lao động chỉ có thể sử dụng tối đa là 15% người nước ngoài.
2. Đơn giản hoá các thủ tục
Để tránh phiền hà cho các nhà đầu tư nước ngoài muốn vào đầu tư tại nước mình, trong những năm 90 các nước Mĩ La Tinh đã tinh giảm đáng kể những điều tiết trong lĩnh vực điều chỉnh vốn ĐTNN. Điều này được phản ánh trong việc đơn giản hoá các quy tắc, thủ tục. Phần lớn các nước đều xoá bỏ những quy định về tiền phê duyệt (prior authorization) và chỉ yêu cầu trong một số trường hợp nhất định. Trong các trường hợp mà vẫn yêu cầu phê duyệt trước thì các thủ tục hành chính cũng được đơn giản hoá và tiến hành nhanh chóng. Ngoài ra, một số nước còn đưa ra giới hạn thời gian làm thủ tục và sau đó dự án sẽ tự động được xét duyệt.
Về thủ tục đăng kí ĐTNN, phần lớn các nước Mĩ La Tinh đều không bắt buộc phải đăng kí nhưng các nhà ĐTNN cần phải đăng kí để được đảm bảo những quyền lợi liên quan đến việc rút vốn và chuyển lợi nhuận về nước. Ví dụ, Luật ĐTNN sửa đổi 4390/64 của Braxin không yêu cầu phải đăng kí nhưng để được rút vốn và chuyển lợi nhuận về nước, điều kiện tiên quyết là các nhà ĐTNN phải đăng kí với phòng quản lý vốn của Ngân hàng Trung ương nước này. Riêng ở Achentina và Bôlivia đã huỷ bỏ hoàn toàn những quy định về đăng kí ĐTNN.
3. Xoá bỏ những hạn chế đối với việc chuyển vốn và lợi nhuận của nhà ĐTNN
Nhằm tạo tâm lý yên tâm cho các nhà ĐTNN khi đầu tư vào nước mình, các nước Mĩ La Tinh đã xoá bỏ những quy định về việc hạn chế chuyển vốn và lợi nhuận với số lượng lớn ra nước ngoài.
Trong Luật ĐTNN của Mêhicô (1993) ghi rõ “xoá bỏ những hạn chế về hồi hương vốn, về chuyển ra nước ngoài những khoản thu nhập kiếm được từ Mêhicô như: lợi nhuận, cổ tức, thu nhập bản quyền, thu nhập về cố vấn pháp lý, thu nhập từ tư vấn kĩ thuật...”[5].
Còn trong Luật ĐTNN sửa đổi của Braxin cũng chỉ rõ “ không có hạn chế nào về việc rút vốn, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và đăng kí tái đầu tư cổ tức như là vốn ĐTNN mới” đối với nhà ĐTNN [64].
Tuy nhiên, Chi lê có quy định chặt hơn, đó là “nhà đầu tư nước ngoài có quyền rút vốn một năm sau khi vào nước này và có quyền chuyển lợi nhuận về nước bất kì lúc nào” [44].
4. Mở rộng lĩnh vực thu hút vốn
Có thể nói thay đổi quan trọng nhất trong chính sách tự do hoá đối với luồng vốn FDI của các nước Mĩ La Tinh thể hiện ở chỗ nhà nước đã giảm bớt chức năng điều hoà đối với các luồng vốn ĐTNN cho các ngành, các lĩnh vực kinh tế.
Từ chính sách hạn chế và cấm đoán trong những năm 70 và đầu những năm 80, các nước Mĩ La Tinh đã có một bước ngoặt chuyển sang sách lược khuyến khích ĐTNN, mở cửa các ngành sản xuất trước đây chỉ dành cho nhà nước và tư bản trong nước. Tuy không bỏ việc kiểm soát hoàn toàn nhưng các nước này đã ban hành các văn bản luật mở rộng rõ rệt không gian kinh tế cho hoạt động kinh doanh của các công ty nước ngoài.
Với luật ĐTNN năm 1973, Mêhicô là một nước mà các chuyên gia Liên Hợp Quốc cho rằng đứng đầu về việc hạn chế tư bản nước ngoài. Tuy nhiên trên cơ sở luật ĐTNN năm 1993 đã công bố “Tư bản nước ngoài được tự do hoạt động trong mọi lĩnh vực kinh tế không thuộc diện quy chế đặc biệt”. Luật mới đã cho phép người nước ngoài tham gia sản xuất, kinh doanh 688 trong tổng số 754 mặt hàng làm ra khoảng 81,4% GDP hàng năm của Mêhicô [5]. Bên cạnh đó luật này cũng mở rộng cho người nước ngoài tham gia vào một số ngành dịch vụ mà trước đây cấm như: vận tải bằng đường hàng không, truyền hình cáp, thư chuyển nhanh, dịch vụ tư vấn giáo giục, dịch vụ luật gia, đại lý bảo hiểm, dịch vụ thông tin khai thác dầu mỏ và hơi đốt, xây dựng đường ống dẫn dầu và hơi đốt... Các lĩnh vực kinh doanh tiếp tục được mở rộng khi Mêhicô đưa ra Nghị định về Luật ĐTNN (Decree of Foreign Investment Law) năm 1998, nghị định này cho phép nhà đầu tư nước ngoài được tham gia vào một số lĩnh vực thuộc các ngành mà trước đây độc quyền nhà nước như điện năng, hoá dầu và khí đốt tự nhiên. Với việc tự do hoá trong lĩnh vực đầu tư, hiện nay chúng ta có thể nói “Mêhicô là một thị trường rất rộng mở đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài” [65].
Những thay đổi tương tự cũng diễn ra ở Braxin, nơi cho đến tận gần đây vẫn thực hiện những hạn chế cứng rắn trong việc tiếp cận một số ngành kinh tế không những đối với tư bản nước ngoài mà còn đối với cả tư bản trong nước. Các dự án luật được Quốc hội nước này thông qua năm 1995 có liên quan đến việc bãi bỏ độc quyền của nhà nước trong một số ngành công nghiệp hàng đầu như thăm dò, khai thác và chế biến dầu mỏ. Nhà nước cũng bãi bỏ độc quyền trong một số ngành dịch vụ như viễn thông, cung cấp khí đốt và một số loại hoạt động kinh doanh khác [6, 135].
Tại Chi lê, nhà ĐTNN được phép tham gia tất cả các hoạt động sản xuất và tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, trừ một số rất ít các ngành bao gồm buôn bán ven biển, vận tải máy bay và thông tin đại chúng. Nhà nước đóng vai trò rất nhỏ trong sản xuất, chỉ tham gia một số hoạt động chiến lược như thăm dò và khai thác lithium, hydrocacbon lỏng và khí ở vùng duyên hải hoặc một số vùng được coi là quan trọng đối với an ninh quốc gia. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định, các công ty nước ngoài vẫn có thể được phép đầu tư vào các khu vực này.
5. Xây dựng những ưu đãi đặc biệt cho vốn đầu tư nước ngoài
Có thể nói rằng, khuyến khích dòng FDI chảy vào nước mình bằng việc đơn giản hoá thủ tục, bãi bỏ những hạn chế đối với vốn ĐTNN thôi chưa đủ mà còn phải là việc đưa ra những ưu đãi hấp dẫn và những đặc quyền cho nhà đầu tư nữa.
Ưu đãi được sử dụng nhiều nhất là ưu đãi về thuế. Các nước Mĩ La Tinh đều đưa ra những hình thức ưu đãi như mức thuế ưu đãi, miễn thuế... Chẳng hạn như, Mêhicô cho phép người nước ngoài được miễn thuế lợi nhuận và cổ tức đầu tư; Chi lê cũng miễn thuế và các chi phí cho việc rút vốn khi tổng số vốn rút về nhỏ hơn hoặc bằng số vốn thực hiện.
Để khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành, các khu vực cần phát triển một số nước cũng đưa ra những ưu đãi về thuế như Bôlivia, Braxin, Chi lê, Vênzuêla. Achentina, Peru cũng đưa các khoản ưu đãi về thuế để khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các hoạt động khai mỏ, dầu khí, điện năng và ngân hàng.
Ưu đãi về thuế cũng được sử dụng để khuyến khích các nhà ĐTNN đầu tư vào các sản phẩm xuất khẩu. Một số nước Mĩ La Tinh đã xoá bỏ hoặc giảm thuế nhập khẩu cho những sản phẩm là nguyên liệu đầu vào để sản xuất hàng xuất khẩu hoặc miễn thuế cho những sản phẩm dùng để xuất khẩu.
Ngoài những ưu đãi về thuế, các nước Mĩ La Tinh còn dùng các ưu đãi tài chính khác như trợ cấp, cho vay ưu đãi, bảo lãnh cho vay...Ví dụ như ở Chi lê, để khuyến khích ĐTNN vào vùng Arica và Parinacota ở phía Bắc Chi lê, theo chương trình DFL 15, các dự án phát triển tại những khu vực này mà có doanh thu hàng năm đạt 1 triệu USD trở lên sẽ được nhận một khoản trợ cấp trị giá 1,3 triệu USD[60].
Bên cạnh việc đưa ra những khoản ưu đãi, các nước Mĩ La Tinh còn xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp, và khu miễn thuế để thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu vực đó. Khu chế xuất Maladorodos của Mêhicô là một ví dụ điển hình. Khu vực này dài 2000 dặm dọc theo bờ biển Thái Bình Dương tới vịnh Mêhicô, rộng 130 dặm dọc theo biên giới giữa Mỹ và Mêhicô. Với những chính sách tự do hoá thương mại, khu vực này đã thu hút được phần lớn FDI đổ vào Mêhicô.
Chi lê cũng có hai khu miễn thuế, một ở phía bắc vùng Iquique, một ở Punta Arenas. Các doanh nghiệp sản xuất trong khu vực này sẽ được miễn thuế doanh nghiệp, thuế giá rị gia tăng (VAT) và các loại thuế đối với hàng nhập khẩu với điều kiện sản phẩm làm ra phải được xuất khẩu. Nếu sản phẩm được bán trong nước thì phải nộp lại thuế VAT và thuế nhập khẩu.
6. Thực hiện tự do hoá thương mại
Nhận thức rằng FDI chỉ chảy về những nơi có chính sách thương mại thông thoáng, cởi mở. Trong nửa cuối thập kỉ 80 và đầu thập kỉ 90, hàng loạt các nước Mĩ La Tinh đã tiến hành cải cách chính sách thương mại, tiến tới mô hình kinh tế mở, thực hiện tự do hoá mậu dịch với nội dung chủ yếu là dỡ bỏ những hạn chế đối với hoạt động xuất nhập khẩu và điều hành tỉ giá hối đoái.
Trước hết, các nước này đã giảm mức thuế quan trung bình xuống một cách đáng kể. Số liệu trong bảng 8 cho thấy rõ điều này.
Bảng 8: Cải cách thuế quan ở Mĩ La Tinh
Nước
Mức thuế quan TB (%)
Hạn chế số lượng (%)
1985-1987
1991-1992
1985-1987
1991-1992
Braxin
51
21,1
39
10
Mêhicô
34
10
92,2
19,9
Chi lê
35
11
10,1
0,0
Achentina
29,4
12,2
88
8,0
Trung bình
37,3
13,5
57,3
9,4
Nguồn: Graham Bird, sdd, tr.23; World Bank Discussion Papers No 267, Washington, D.C. 1994, tr.61
Trước cải cách, mức thuế quan trung bình ở 4 nước là 37,5%. Trong tiến trình cải cách, mức thuế quan trung bình của khu vực này đã giảm xuống còn 13,5%. Ngay cả Braxin là một nước khá thận trọng cũng cắt giảm đáng kể thuế quan nhập khẩu xuống 21,1%. ở Mĩ La Tinh không có nước nào có mức thuế quan trung bình vượt quá 25%, riêng Mêhicô và Chi lê có mức thuế quan tương ứng là 10% và 11%. Theo báo cáo của Ngân hàng phát triển Châu Mỹ thì mức thuế quan trung bình của Mĩ La Tinh hiện nay chỉ còn cao hơn mức thuế quan của các nước phát triển [8]. Việc cắt giảm thuế quan đã tạo ra môi trường cạnh tranh nhiều hơn và giảm khuynh hướng chống lại xuất khẩu của chế độ bảo hộ mậu dịch. Điều này đã làm tăng tính hấp dẫn đối với dòng FDI vào Mĩ La Tinh.
Xoá bỏ hoặc giảm một cách đáng kể hàng rào phi thuế quan cũng là một bộ phận quan trọng trong quá trình thực hiện tự do hoá thương mại của Mĩ La Tinh. Cho đến thập kỉ 80 ở 4 nước Braxin, Mêhicô, Chi lê và Achentina, trung bình có 57,3% số mặt hàng nhập khẩu phải được cấp giấy phép nhập khẩu. Riêng Mêhicô, năm 1984, các hàng rào phi thuế quan bao trùm 100% hàng nhập khẩu. Trong quá trình cải cách hầu hết các nước đã giảm đáng kể các hàng rào phi thuế quan. Số liệu trong Bảng 8 cho thấy Chilê đã xoá bỏ hoàn toàn các hạn chế định lượng. Ba nước còn lại cũng đều thay dần các hạn chế số lượng bằng thuế quan. Điều này cũng góp phần làm chính sách thương mại của Mĩ La Tinh thông thoáng hơn.
Chính sách tỉ giá hối đoái ngày càng thống nhất và linh hoạt cũng góp phần làm môi trường đầu tư hấp dẫn hơn. Trước những năm 80, những nước Mĩ La Tinh áp dụng cơ chế hối đoái song trùng hoặc đa trùng. Cơ chế này quan hệ mật thiết với chính sách bảo hộ mậu dịch, do đó không khuyến khích được ĐTNN. Từ những năm 90, các nước này đã bắt đầu cải cách cơ chế tỉ giá hối đoái bằng cách xoá bỏ hệ thống đa tỉ giá, áp dụng cơ chế hối đoái thống nhất và linh hoạt. Điều này chẳng những khuyến khích xuất khẩu mà còn làm tăng dòng ĐTNN vào trong nước.
Tham gia vào các khu vực tự do thương mại cũng là chủ trương nhằm tăng tính hấp dẫn môi trường đầu tư của các nước Mĩ La Tinh. Việc tham gia vào các thoả thuận thương mại khu vực sẽ làm gia tăng niềm tin của các nhà ĐTNN về tính ổn định của môi trường và tính nhất quán trong việc thực hiện các cam kết của nước chủ nhà.
Như vậy sau một loạt những thay đổi, chính sách thương mại của Mĩ La Tinh đã trở nên cởi mở, thông thoáng góp phần tích cực vào việc nâng cao tính cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
7. Tích cực tham gia các hiệp định đầu tư quốc tế
Để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư nước ngoài, chỉ dựa vào luật quốc gia thôi thì chưa đủ mà còn phải đưa vào các hiệp định đầu tư song phương, đa phương và các hiệp định quốc tế khu vực. Bởi vì các hiệp định này có mục đích là bảo vệ và hỗ trợ các nhà đầu tư. Nhận thức rõ điều này, các nước Mĩ La Tinh đã tích cực, chủ động tham gia vào các hiệp định đầu tư song phương, đa phương và các hiệp định quốc tế khác.
Hiệp định đầu tư song phương (Bilateral Investment Treaty – BIT) là hiệp định dựa trên những nguyên tắc đãi nộ quốc gia và những nguyên tắc tối huệ quốc. Các hiệp định này bao gồm các cơ chế giải quyết tranh chấp sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc bảo vệ các nhà đầu tư. Nhiều nước Mĩ La Tinh đã tham gia các hiệp định này.Năm 1990 các nước Mĩ La Tinh mới chỉ tham gia có 49 hiệp định BITs mà đến năm 2002 con số này đã lên tới 413 hiệp định. Trong đó, các nước Mêhicô, Chilê, Braxin chưa kí một hiệp định nào năm 1990 thì đến năm 2002 Mêhicô đã kí 15 hiệp định, Braxin kí 14 hiệp định và Chi lê kí 47 hiệp định [78].
Bên cạnh đó, các hiệp định tự do thương mại (Free Trade Agreements - FTAs) cũng có tác dụng củng cố lòng tin của các nhà đầu tư vì các hiệp định này cũng có một số quy định về giải quyết tranh chấp liên quan đến đầu tư tương tự như các hiệp định đầu tư song phương. Do đó các nước trong khu vực cũng tích cực tham gia các FTAs. Ví dụ Mêhicô đã kí 32 FTAs với các nước trong khu vực Bắc Mỹ, Mĩ La Tinh, Tây Âu và Trung Đông. Chi lê cũng kí các FTAs với EU, Hàn Quốc...
Ngoài ra, phần lớn các nước Mĩ La Tinh đã tham gia hệ thống các tổ chức đảm bảo đầu tư quốc tế như :Tổ chức đảm bảo đầu tư đa phương (MICA) của World Bank là một tổ chức được thành lập năm 1988 nhằm đảm bảo cho các nhà đầu tư tránh khỏi những rủi ro phi thương mại; hoặc Trung tâm về giải quyết các tranh chấp liên quan đến đầu tư (CIRDS). Một số nước còn tham gia Cơ quan đầu tư tư nhân nước ngoài của chính phủ Mỹ nhằm đảm bảo cho các nhà đầu tư tránh khỏi những rủi ro về chính trị.
Thực trạng thu hút FDI tại Mỹ la tinh
1. Giai đoạn 1960-1970 (giai đoạn tăng trưởng)
Dẫu rằng trong các thập kỉ 60 và 70, Mĩ La Tinh không được đánh giá cao như khu vực Đông á, song khu vực này cũng được coi là một hiện tượng kinh tế đáng chú ý. Bởi vậy trong suốt hai thập kỉ này, các nhà đầu tư trên thế giới cũng đã đầu tư một lượng đáng kể FDI vào khu vực này để khai thác tiềm năng to lớn từ nguồn lực mà thị trườngTây Bán Cầu này hứa hẹn mang lại. Điều này đã tạo ra làn sóng FDI mạnh mẽ vào khu vực Mĩ La Tinh trong những năm 1960-1970.
Tỷ lệ vốn FDI mà Mĩ La Tinh tiếp nhận hàng năm trong hai thập kỉ 1970 và 1980 luôn chiếm khoảng 40- 50% tổng lượng FDI dành cho các nước đang phát triển. Trong năm 1970, trong 2,1 tỷ USD đổ vào các nước đang phát triển thì đã có tới 1,1 tỷ USD đổ vào Mĩ La Tinh, chiếm hơn 50% về tỷ trọng. Đặc biệt trong năm 1980, Mĩ La Tinh đã thu hút được 6,1 tỷ USD trong khi tất cả các nước đang phát triển chỉ thu hút được có 8,4tỷ USD[78]
Cũng trong thập kỉ 70, trong mười Quốc gia đang phát triển thu hút được nhiều FDI nhất thì Mỹ la tinh có tới 3 Quốc gia: Braxin đứng đầu thu hút được 1390 triệu USD, Mêhicô đứng thứ 2 với 743 triệu USD và Achentina đứng thứ 9 với 121 triệu USD [4].
Nói riêng về Mêhicô, trong giai đoạn 1971-1981, một năm trước khi khủng hoảng nợ xảy ra, dòng FDI luôn tăng trưởng ở mức trung bình là 18%. Giai đoạn 1978-1982, lượng FDI trung bình tăng gấp 2 lần lượng FDI trong khoảng thời gian 1974-1977 và gấp 3 lần FDI của thập kỉ 60 [27].
Có thể nói rằng sự gia tăng mạnh mẽ của dòng FDI vào khu vực Mĩ La Tinh trong thời kì này là do sự bùng nổ của nhu cầu tìm kiếm các nguồn dầu mỏ, thêm vào đó là giá nhân công, nguyên liệu và năng lượng ở đây rất rẻ. Đặc biệt là do cuộc khủng hoảng dầu mỏ, tỷ trọng dòng FDI vào khu vực này càng tăng lên mạnh mẽ từ 9% thời kì 1968-1978 lên 15% thời kì 1978-1981 mặc dù, như đã nêu, một số nước Mĩ La Tinh trong thời kì này đã đưa ra các luật, các qui định nhằm ngăn cản sự gia tăng của dòng FDI vào nước mình, như luật ĐTNN 1973 của Mêhicô chẳng hạn nhưng cũng không ngăn cản nổi sự bùng nổ của dòng FDI tràn vào khu vực này trong giai đoạn đó [27].
Nhưng điều gì xảy ra sau đó? Đầu tư trực tiếp nước ngoài quả thật đã dẫn đến tăng trưởng, song muốn tăng trưởng ổn định và lâu dài thì cần phải quản lí và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Sự tăng trưởng mà khu vực này có được trong giai đoạn những năm 1960 và 1970 chủ yếu là do sự gia tăng về khối lượng đầu tư chứ chưa thực sự phải là do hiệu quả đầu tư mang lại cũng như chưa tạo ra những biến đổi về chất trong cơ cấu kinh tế. Rốt cuộc, khủng hoảng dầu mỏ nổ ra, nợ nước ngoài tăng nhanh, lạm phát phi mã ở mức 4 con số khiến cho các nền kinh tế “bong bóng” của khu vực này bắt đầu xì hơi mạnh, rơi vào suy thoái và các khủng hoảng tài chính trầm trọng khi bước vào thập kỉ 80.
2. Giai đoạn đầu 1980 đến nửa cuối những năm 1980 (giai đoạn suy giảm)
Bước vào đấu thập kỉ 80, dòng FDI vào Mĩ La Tinh có sự suy giảm mạnh, từ 6,1 tỷ USD năm 1980 xuống còn 4,1 tỷ USD năm 1985. Năm 1985, Mĩ La Tinh chỉ chiếm có 38,6% và năm 1990 còn 31% tổng FDI vào các nước đang phát triển trong khi đó các nước Đông á lại tăng rất mạnh từ 5,9% năm 1980 lên 28,1% năm 1985 và 43,9% năm 1990 [4].
Từ 1983 đến 1985, vốn FDI mới và tái đầu tư lợi nhuận vào Mêhicô giảm trung bình khoảng 3/4 so với những năm khủng hoảng dầu lửa. Kết quả là đầu tư trực tiếp nước ngoài trung bình hàng năm vào Mêhicô trong giai đoạn này thấp hơn thời kì 1962- 1973 và dòng FDI xuống mức thấp nhất vào năm 1984, đạt có 404 triệu đôla. Không nằm trong vòng ngoại lệ, FDI vào Braxin cũng giảm mạnh và giảm tới 40% trong giai đoạn 1983-1985 so với thời kì 1978-1981[27].
Theo các chuyên gia nhận định, việc giảm sút mạnh dòng FDI chảy vào Mĩ La Tinh là kết quả của các nhân tố bên ngoài gây bất ổn định cho nền kinh tế các nước này do việc giảm giá dầu trong giai đoạn đó gây ra. Thêm vào đó, việc trì hoãn các cuộc tái thương lượng đối với các khoản nợ nước ngoài của chính phủ các nước Mĩ La Tinh đã gây tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy họ đã hoặc là hoãn việc đầu tư các khoản FDI mới hoặc là rút vốn về nước và làm cho dòng FDI bị thu hẹp lại.
3. Giai đoạn nửa cuối những năm 1980 - nửa đầu những năm 1990 (giai đoạn phục hồi)
Như đã nói vào cuối những năm 1980, các nước Mĩ La Tinh đã thay đổi quan điểm đối với dòng FDI và đã có những chính sách, biện pháp nhằm thu hút FDI. Nhờ vậy mà dòng FDI chảy vào khu vực đã có dấu hiệu phục hồi từ cuối 1980. Tại Mêhicô, năm 1986, FDI tăng nhanh và đạt 1849,7 triệu USD. Trong năm 1987, FDI vào nước này tăng vượt mức trung bình những năm khủng hoảng dầu mỏ và đạt 3090,3 triệu USD [27].
Tuy nhiên trong giai đoạn cuối những năm 80, luồng FDI chảy vào khu vực chủ yếu được thực hiện thông qua việc trao đổi nợ lấy cổ phần. Đây là chương trình được thực hiện tại các nước Mĩ La Tinh nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng nợ trong đó các nhà đầu tư nước ngoài thường là các công ty đa quốc gia mua lại một khoản nợ đã giảm giá trên thị trường thứ cấp và bán lại cho chính phủ nước con nợ để lấy lại tiền của nước con nợ đó. Sau đó nhà đầu tư phải dùng tiền này để đầu tư vào nước con nợ hoặc mua lại cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước. Kết quả cuối cùng là nước con nợ có thể chuyển đổi món nợ nước ngoài của mình thành cổ phiếu thuộc sở hữu nhà nước. Tại Mêhicô năm 1986-1987, trong tổng dòng vốn đầu tư nước ngoài có tới 48% là vốn thực hiện thông qua hoán đổi nợ và con số này lên tới 67% nếu tính trong khoảng thời gian từ 1983 đến 1987 [27].
Bước sang những năm đầu thập kỉ 90, lượng vốn FDI chảy vào khu vực có sự gia tăng mặc dù tỷ trọng trong tổng FDI vào các nước đang phát triển không tăng hoặc tăng ít.
Bảng 9: FDI vào Mỹ La tinh (1990-1996)
Đơn vị: Tỷ USD
Nước
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Mỹ La tinh
7,8
12,8
14,5
15,7
20,8
17,8
25
Braxin
0,989
1,102
2,061
1,291
2,130
4,405
10,792
Mêhicô
2,633
4,761
4,393
4,398
10,973
9,647
9,943
Chi lê
0,661
0,882
0,935
1,034
2,583
2,956
4,815
Achentina
1,836
2,439
4,431
2,793
3,635
5,609
6,949
Nguồn: - T/c Châu Mỹ ngày nay số 3/ 1997, tr.12.
-
Nhìn vào bảng 9 ta thấy FDI vào Mêhicô tăng mạnh vào 1994 đạt 10,973 tỷ USD tăng 2,5 lần so với năm 1993. Điều này được giải thích là do luật đầu tư nước ngoài mới (1993) với cơ chế thông thoáng đã khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài thấy rằng Mêhicô thật sự chào đón họ. Hơn nữa, hiệp định khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) đi vào hiệu lực cũng làm cho FDI vào Mêhicô tăng lên nhanh chóng vì các nhà đầu tư nước ngoài thấy được rằng đầu tư vào Mêhicô chính là con đường để tiếp cận với một khu vực thị trường rộng lớn đó là Mỹ và Canađa. Vì vậy mà trong khoảng thời gian 1994- 1996, FDI vào Mêhicô đã đạt trên 30 tỷ USD, chiếm 10% trong tổng số FDI vào các nước đang phát triển và 40% lượng FDI vào khu vực Mĩ La Tinh, cho phép Mêhicô đứng thứ 2 trên thế giới sau Trung Quốc trong các nước đang phát triển và đứng đầu khu vực Mỹ la tinh về thu hút FDI.
Bên cạnh đó ta thấy FDI vào Braxin cũng tăng rất mạnh đạt mức tăng trung bình là 32% mỗi năm trong khoảng 1990-1995, đến năm 1996, FDI vào nước này tăng mạnh nhất, gấp 1,5 lần năm 1995 đạt 10,792 tỷ USD.
Tương tự FDI vào Chilê và Achentina cũng tăng lên nhanh chóng trong những năm đầu của thập kỉ 90 đạt 45,5% và 31% tương ứng trong giai đoạn 1990-1996.
4. Giai đoạn từ nửa sau những năm 1990 đến nay (giai đoạn tăng nhanh)
Vào cuối những năm 90, FDI vào Mĩ La Tinh tăng lên nhanh chóng. Năm 1999, lượng FDI đã tăng gấp hơn 4 lần lượng FDI năm 1996.
Có thể nói lượng FDI chảy vào Mĩ La Tinh tăng nhanh trong giai đoạn 1997- 2002 là do các nước đều có những biện pháp ổn định kinh tế chính trị, các biện pháp thu hút vốn FDI và đặc biệt là quá trình tư nhân hoá diễn ra mạnh mẽ. Một điều đáng chú ý là khu vực này không hề bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á 1997. Bởi vì chính những năm sau đó là những năm mà lượng FDI đạt được mức cao và kỉ lục. Hình thức đầu tư chủ yếu trong giai đoạn này là thông qua các cuộc sáp nhập và mua lại (M&A).
Nhìn vào bảng 10 ta thấy , năm 1997, lượng FDI đột ngột tăng nhanh đạt 69 tỷ USD tăng 176% so với năm 1996, và đạt mức kỉ lục vào năm 1999 với khối lượng là gần 110 tỷ USD tăng gần 60% so với năm 1997.
Trong những năm 1997- 1998, lượng FDI vào Mêhicô đạt 26,33 tỷ USD trong khi Braxin lại thu hút được 47,849 tỷ USD. Nhờ đó Braxin đã được đẩy lên vị trí hàng đầu và kéo Mêhicô xuống vị trí thứ 2 trong số các nước thu hút được nhiều FDI nhất khu vực. Có được điều này một phần là do Braxin đã tham gia vào khu vực thị trường chung Nam Mỹ (Mercosur) nên đã thúc đẩy tư bản nước ngoài đầu tư vào đây để có thể thâm nhập vào thị trường các nước Nam Mỹ.
Bảng 10: Lượng FDI vào Mỹ la tinh và các nước (1997-2002)
Đơn vị: Tỷ USD
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Mĩ La Tinh
69,0
82,2
109,3
95,4
85,3
56,0
Braxin
Mêhicô
Chilê
Achentina
18,993
14,160
5,271
9,160
28,856
12,170
4,628
7,291
28,578
12,586
8,761
23,988
32,779
15,456
3,639
11,657
22,457
25,334
4,477
3,206
16,566
13,627
1,605
1,003
Nguồn:
Bước sang năm 1999, Braxin vẫn là nước tiếp nhận FDI lớn nhất của khu vực với số vốn thu hút được là 28,578 tỷ USD. Lượng FDI vào Achentina đã tăng gấp 3 lần năm 1998, đạt gần 24 tỷ USD vượt qua Mêhicô (thu hút được 12,856 tỷ USD) trở thành nước tiếp nhận lớn thứ hai trong khu vực. Tuy rất khó để xác định lượng FDI vào Achentina thông qua tư nhân hoá, nhưng rõ ràng quá trình tư nhân hoá đóng góp phần không nhỏ trong FDI vào nước này. Riêng năm 1999, công ty xuyên quốc gia Repsol của Tây Ban Nha đã mua lại công ty dầu lửa Yaccmientos Petroliferos Fiscales (YPF) của Achentina trị giá lên tới 13 tỷUSD. Tương tự trường hợp của Achentina, lượng FDI mà Chi lê nhận được trong năm 1999 gần gấp 2 lần năm 1998, đạt 8,561 tỷ USD. Chi lê đạt được con số này phần lớn là do có vụ mua lại hãng sản xuất và phân phối điện Chi lê của công ty xuyên quốc gia Endesa Espana của Tây Ban Nha trị giá 3,5 tỷ USD.
Năm 1999, phần lớn lượng FDI mới chảy vào lĩnh vực dịch vụ phi thương mại và các ngành công nghiệp chế tạo sản xuất phục vụ thị trường trong nước. Trái với năm 1998, chỉ có một lượng nhỏ FDI là do các vụ mua lại các doanh nghiệp nhà nước. Tổng FDI đổ vào khu vực thông qua các vụ sáp nhập và mua lại (M&A) các công ty nhà nước đã tư nhân hoá giảm từ 29 tỷ USD năm 1998 xuống còn 21 tỷ USD năm 1999. Trong khi đó dòng FDI vào khu vực thông qua sáp nhập và mua lại các công ty tư nhân đã đạt được tốc độ cao.
Sau khi tăng gấp 3 lần vào nửa sau của thập kỷ 90, dòng FDI hàng năm vào Mĩ La Tinh đã giảm xuống ngay trong năm đầu của thế kỷ mới trong khi đó lượng FDI vào các nước trên toàn thế giới và các nước đang phát triển đã đạt mức kỷ lục vào năm này. Năm 2000, FDI vào Mĩ La Tinh đạt có 86 tỷ USD, giảm 12,7% so với năm 1999. Tuy nhiên lượng FDI vào Braxin vẫn tăng và đạt 32,779 tỷ USD, giữ cho nước này vẫn tiếp tục dẫn đầu trong số các nước nhận được nhiều FDI nhất trong khu vực. FDI chảy vào Braxin trong năm 2000 vẫn tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ. Tốc độ tư nhân hoá ở nước này đã giảm nhưng vẫn giữ vai trò quan trọng, chiếm khoảng 22% so với 28% năm 1999 tổng FDI vào Braxin. Trong năm này, trường hợp tư nhân hoá lớn nhất là bán cổ phiếu điều hành ngân hàng Banespa cho BSCH của Tây Ban Nha trị giá 3,6 tỷ USD.
Với lượng FDI vào đạt 15,464 tỷ USD năm 2000, Mêhicô trở về vị trí số 2 trong khu vực về tiếp nhận FDI, chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất. Tuy nhiên lượng FDI vào ngành dịch vụ tài chính tăng nhanh đạt 31% so với 10% trung bình trong 5 năm trước đó. Điều này có được là do sự bùng nổ trong việc mua lại các ngân hàng nước này bởi các ngân hàng Tây Ban Nha do việc xoá bỏ những trở ngại về sở hữu nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng từ lâu vẫn còn tồn tại ở nước này. BSCH đã mua lại Serfin trị giá 1,6 tỷ USD, BBVA sáp nhập với Bancomer làm cho lượng tư bản tăng thêm là 1,9 tỷ USD.
FDI vào Achentina và Chilê chịu sự suy giảm mạnh với tỷ lệ giảm là 51,4% và 58,4% tương ứng so với năm 1999.
Sang năm 2001, dòng FDI vào Mĩ La Tinh tiếp tục suy giảm, đạt hơn 85 tỷ USD, giảm 11% so với năm 2000. Trong năm này FDI vào ngành công nghiệp viễn thông giảm mạnh, nhất là ở Braxin và Achentina.
Trái với chiều hướng suy giảm của khu vực, FDI vào Mêhicô tăng gấp 2 lần đạt hơn 25 tỷ USD, đưa nước này vượt qua Braxin vươn lên dẫn đầu khu vực về tiếp nhận FDI kể từ khi đạt được vị trí này lần đầu tiên vào 1995. FDI vào Mêhicô đạt mức cao như vậy là do vụ mua lại hãng Banamex của tập đoàn Citygroup của Mỹ trị giá 12,5 tỷ USD - một vụ mua bán lớn thứ 2 trong khu vực từ trước đến nay và đứng thứ 3 trên thế giới năm 2001.
Sự sụt giảm dòng FDI vào Mĩ La Tinh năm 2001 là do có sự sụt giảm trong dòng FDI của Tây Ban Nha vào các nước này- nguồn tài chính chủ yếu cho các vụ sáp nhập và mua lại (M&A) lớn trong lĩnh vực dịch vụ; luồng FDI thông qua tư nhân hoá trong khu vực giảm do quá trình tư nhân hoá đã đi vào giai đoạn hoàn tất, đặc biệt là ở Braxin nơi mà FDI qua con đường tư nhân hoá đạt 8,7 tỷ USD năm 1999 và 7 tỷ USD năm 2000 nhưng đến năm 2001 chỉ còn 1 tỷ USD.
So với những năm trước, năm 2001 có sự thay đổi trong lĩnh vực đầu tư. FDI vào lĩnh vực dịch vụ tăng lên gần 2/3 tổng lượng FDI vào Mêhicô so với 23% trong thời kì 1994- 2000. Điều này là do có các vụ mua lại các công ty trong nước trong lĩnh vực ngân hàng và viễn thông bởi các TNC của nước ngoài. Ngược lại với Mêhicô, FDI vào Braxin giảm trong ngành dịch vụ, đặc biệt là trong dịch vụ viễn thông và tài chính đã giảm xuống trong khi lại tăng lên trong lĩnh vực sản xuất - lĩnh vực thu hút được lượng lớn FDI từ sự giảm giá đồng tiền Real của nước này năm 1998. FDI vào ngành điện của Braxin cũng giảm 1/2 mặc dù ngành này đang rất cần vốn đầu tư do có sự bất đồng về mặt pháp lý điều chỉnh đầu tư nước ngoài trong ngành này.
Năm 2002 là năm thứ 3 liên tiếp, dòng FDI vào Mỹ la tinh sụt giả._.