Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài tại Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Tính tất yếu của đề tài Tiền thân là một xí nghiệp lắp máy ra đời vào những năm 60, chuyển lên mô hình Tổng công ty theo quyết định số 999/BXD vào ngày 1/12/1995 đến nay Tổng công ty Lắp máy đã có 14 công ty thành viên, hàng chục công ty liên kết. Vượt qua muôn vàn khó khăn của một nền kinh tế sau chiến tranh Lilama đã đứng vững và phát triển. Nay đứng trước những thay đổi lớn của đất nước Tổng công ty đã làm gì để đứng vững và phát triển? Vào sân chơi chung toàn cầu, Việt Nam phả

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1398 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài tại Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i tuân thủ theo những nguyên tắc, luật lệ của sân chơi chung ấy. Thị trường cho các doanh nghiệp cũng mở ra rộng hơn nhưng cũng có nghĩa là thử thách lớn hơn. Đứng trước những thách thức về môi trường cạnh tranh, tiềm lực vốn và công nghệ buộc Lilama phải hợp tác, thu hút đầu tư nước ngoài. Vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài là một vấn đề không còn mới mẻ đối với chúng ta. Luật đầu tư của Việt Nam ra đời vào năm 1987 và đến nay Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành công trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Nhưng thu hút đầu tư nước ngoài vào một doanh nghiệp nhà nước, một doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực mà nhà nước đang độc quyền như lắp máy, điện, xi măng … là những vấn đề mới mẻ. Do đó, bài viết trình bày về tình hình thu hút đầu tư nước ngoài của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam từ đó rút ra những thành công cũng như những khó khăn mà Tổng công ty gặp phải trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Qua đó, có thể rút ra những kinh nghiệm quý báu cho sự phát triển của Lilama nói riêng và các Tổng công ty lớn của Việt Nam nói chung trong quá trình hội nhập. Mục đích nghiên cứu của đề tài Phân tích tình hình thu hút đầu tư nước ngoài của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam nêu lên những thành công và khó khăn của Tổng công ty trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài. Từ đó, đưa ra những giái pháp để Tổng công ty phát huy những thành công đã đạt được cũng như khắc phục những hạn chế để có thể đứng vững và phát triển trong quá trình hội nhập Nhiệm vụ nghiên cứu Trình bày những khái niệm chung về hoạt động đầu tư nước ngoài, tìm ra vai trò của hoạt động đầu tư nước ngoài đối với Tổng công ty Lắp máy Việt Nam Phân tích tình hình thu hút đầu tư nước ngoài của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam chỉ rõ những thành công đạt được và những khó khăn cùng những nguyên nhân của những khó khăn ấy. Đưa ra phương hướng phát triển trong những năm tiếp theo của Tổng công ty Lắp máy và với những thành công và hạn chế phân tích ở trên đưa ra những giải pháp tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài của Lilama. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Với mục đích và nhiệm vụ trên, luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam dưới hai hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Phạm vi nghiên cứu Hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài là một hoạt động còn mới mẻ đối với Tổng công ty nên bài viết trình bày lại những hoạt động nổi bật nhất từ năm 2004 đến năm 2007. Phương pháp nghiên cứu Để làm nổi bật được nội dung, luận văn đã sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các nguồn số liệu tổng hợp được từ Tổng công ty Lắp máy Việt Nam, sách báo, tạp chí và mạng Internet. Kết cấu luận văn Chương 1 Tổng quan về đầu tư quốc tế và tầm quan trọng của việc thu hút đầu tư nước ngoài đối với Tổng công ty Lắp máy Việt Nam. Chương 2 Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài tại Tổng công ty Lắp máy Việt Nam Chương 3 Phương hướng phát triển và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI TỔNG CÔNG TY LẮP MÁY VIỆT NAM Tổng quan về đầu tư quốc tế Khái niệm và vai trò của đầu tư quốc tế 1.1.1.1 Khái niệm về đầu tư quốc tế Theo Luật đầu tư Việt Nam năm 2005, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư - kinh doanh theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan của Việt Nam. Đầu tư quốc tế là hình thức di chuyển tư bản từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời. Tư bản di chuyển gọi là vốn đầu tư quốc tế. Vốn đó có thể thuộc một số tổ chức tài chính quốc tế, có thể thuộc một nhà nước hoặc vốn đầu tư tư nhân. Vốn đầu tư có thể đóng góp dưới các dạng sau : - Các ngoại tệ mạnh và tiền nội địa. - Hiện vật hữu hình: tư liệu sản xuất, nhà xưởng, hàng hoá, mặt đất, mặt nước và tài nguyên thiên nhiên… - Hàng hoá vô hình : sức lao động, công nghệ, bí quyết công nghệ, bằng phát minh, nhãn hiệu, biểu tượng, uy tín hàng hoá … - Các phương tiện đầu tư đặc biệt khác : cổ phiếu, hối phiếu, vàng bạc, đá quý… Ngày nay, dòng vốn đầu tư quốc tế đang luân chuyển mạnh mẽ giữa các nước theo xu hướng đa phương, đa chiều do những nguyên nhân sau : - Do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển, lực lượng sản xuất làm cho chi phí sản xuất hàng hoá giữa các nước không giống nhau. Ngoài ra điều kiện sản xuất giữa các nước không giống nhau, chênh lệch nhau về giá cả hàng hoá sức lao động, tài nguyên, vốn, khoa học kỹ thuật, vị trí địa lý…Tìm kiếm sự đầu tư ở bên ngoài cho phép lợi dụng những chênh lệch này để giảm chi phí sản xuất, chi phí nguyên vật liệu, chi phí lương, chi phí vận chuyển, chi phí bán hàng… - Ở các nước công nghiệp phát triển tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần và kèm theo là hiện tượng “dư thừa” tư bản ở trong nước. Cho nên đầu tư ra nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Theo Bộ trưởng Thương mại Mỹ, tỷ lệ lãi trung bình của các công ty Mỹ ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương là 23%, gấp 2 lần tỷ lệ lãi trung bình cùng kỳ ở 24 nước công nghiệp phát triển. Các nước công nghiệp có tỷ lệ lãi trung bình thấp hơn so với các nước đang phát triển dẫn đến hiện tượng di chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. - Nhu cầu về vốn của thế giới rất lớn, trong khi khả năng tự thoã mãn ở từng nước, từng khu vực có hạn cho nên dẫn tới gia tăng đầu tư quốc tế. Các nước chậm và đang phát triển cần vốn để thực hiện quá trình công nghiệp hoá đất nước, đầu tư vào cơ sở hạ tầng để duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Nguồn vốn cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá rất lớn do nhu cầu vốn trong nước không đủ đáp ứng nên các nước này thực hiện các biện pháp nhằm thu hút đầu tư đầu tư nước ngoài. - Sự quốc tế hoá kinh tế toàn cầu gia tăng dẫn đến sự hợp tác phân công lao động quốc tế và khu vực phát triển theo hướng mới, các nước đi trước (như Nhật Bản, EU) phải chuyển dịch cơ cấu lao động lên cao hơn và những lợi thế cũ để phát triển ngành dệt, lắp ráp, chế biến… được chuyển sang Thái Lan, Philippin, Việt Nam…Chính sự thay đổi trong phân công lao động tạo động lực kích thích đầu tư ra nước ngoài để chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nhằm khai thác có hiệu quả những lợi thế so sánh mới. - Tình hình bất ổn định và an ninh quốc gia cũng là nguyên nhân khiến những người có tiền, những nhà đầu tư chuyển vốn ra nước ngoài đầu tư nhằm bảo toàn vốn, phòng chống rủi ro khi có sự cố về chính trị xảy ra ở trong nước. - Sự ra đời của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia cũng là nguyên nhân dẫn tới hoạt động đầu tư quốc tế sôi động, sự dịch chuyển vốn giữa các nước diến ra sôi động không ngừng nghĩ. Bởi các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia có sức mạnh to lớn, giữ vai trò chi phối một lĩnh vực thị trường liên quan đến nhiều quốc gia. Do đó, các công ty này có khả năng vượt ra khỏi tầm kiểm soát của một quốc gia. 1.1.1.2 Vai trò của đầu tư quốc tế Đầu tư nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp hay đầu tư gián tiếp đều có những vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của nước tiếp nhận. Đối với các nước nghèo và đang phát triển, vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế. Những quốc gia này thường lâm vào tình trạng thiếu vốn đầu tư. Khi nghiên cứu nền kinh tế của các nước kém và đang phát triển, Paul A.Samuelson ví hoạt động sản xuất và đầu tư của những nước này như là một vòng đói nghèo luẩn quẩn Đồ thị 1.1 Vòng luẩn quẩn Tiết kiệm và đầu tư thấp Thu nhập bình quân thấp Tốc độ tích luỹ vốn thấp Năng suất thấp Nguồn: Paul A. Samuelson, Economics, McGraw-Hill Đồ thị 1.1 cho thấy thu nhập dẫn đến tiết kiệm và đầu tư thấp, tiết kiệm và đầu tư thấp sẽ cản trở đến quá trình phát triển của vốn và làm cho tích tụ vốn thấp, không có đủ vốn cho đầu tư, không có đủ vốn cho đầu tư sẽ làm cho năng lực sản xuất của quốc gia đó giảm, năng lực sản xuất giảm đẫn đến thu nhập và lại quay trở lại chu kỳ ban đầu. Vòng luẩn quẩn đói nghèo cứ lặp đi lặp lại theo chu kỳ như trên. Do vậy, để phá vỡ vòng luẩn quẩn, các nước nghèo và đang phát triển phải tạo ra “một cú huých lớn” để phá vỡ vòng luẩn quẩn này. Một trong những khâu của vòng luẩn quẩn đó là vốn dành cho đầu tư phát triển. Biện pháp hữu hiệu nhất có thể coi là bước đột phá để phá vỡ vòng luẩn quẩn đó là tăng vốn cho đầu tư, huy động các nguồn lực để phát triển nền kinh tế để tạo ra tăng trưởng kinh tế dẫn đến thu nhập tăng. Vốn đầu tư được huy động chủ yếu từ nguồn vốn trong nước và vốn nước ngoài. Vốn trong nước được hình thành thông qua tiết kiệm và đầu tư. Vốn nước ngoài được hình thành thông qua vay thương mại, đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Như vậy, thu hút đầu tư nước ngoài là một biện pháp để tăng trưởng nguồn vốn tạo một cú huých lớn để phá vỡ vòng luẩn quẩn. Đối với nền kinh tế Việt Nam, thời kỳ 1991-1995 vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư xã hội, thời kỳ 1996-2000 số vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,8 lần so với giai đoạn trước đó, chiếm 24% tổng vốn đầu tư xã hội. Giai đoạn 2000-2005 đầu tư nước ngoài có sự gia tăng mạnh mẽ, sang năm 2006 số vốn đầu tư nước ngoài tăng vượt bậc với tổng số vốn 10,2 tỷ USD. Hoạt động đầu tư trực tiếp còn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển khoa học- công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và năng suất lao động cho các doanh nghiệp tiếp nhận vốn đầu tư. Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong nền kinh tế có trình độ công nghiệp kém như nước ta để có công nghệ mới và tiên tiến phục vụ cho hoạt động sản xuất thì cần phải có quá trình chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển. Tuy vậy, việc chuyển giao công nghệ công nghệ trong thời đại hiện nay khác nhiều so với ba bốn thập kỷ trước. Nhận thức về chuyển giao công nghệ cũng đã thay đổi, việc chuyển giao không chỉ đơn thuần là chuyển giao các máy móc, thiết bị mà chuyển giao liên quan đến việc sử dụng dây chuyền công nghệ, kỹ năng sử dụng công nghệ và phần mềm công nghệ. Hiện nay, việc chuyển giao công nghệ từ nước có công nghệ phát triển sang các nước tiếp nhận công nghệ được tiến hành theo hai phương thức đó là chuyển giao trực tiếp và chuyển giao gián tiếp. Chuyển giao trực tiếp là hoạt động đặt mua công nghệ hoặc yêu cầu nước có công nghệ chuyển giao. Chuyển giao gián tiếp chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc thông qua các hình thức gián tiếp khác. Do hoạt động chuyển giao công nghệ ngày càng trở nên phức tạp nên đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một kênh chuyển giao công nghệ có hiệu quả nhất, nhanh nhất và tiết kiệm chi phí nhất. Bởi vì, công nghệ đã được các công ty đa quốc gia chuyển giao trực tiếp phần cứng (máy móc, thiết bị) và phần mềm ( quy trình hoạt động của công nghệ ) từ nước gốc đến nước tiếp nhận đầu tư. Sau khi chuyển giao, công nghệ trực tiếp được được các chuyên gia kỹ thuật lành nghề của nước đi đầu tư đưa vào hoạt động mà không gặp bất kỳ khó khăn nào. Chi phí mua và chuyển giao công nghệ thấp hốn với hình thức mua công nghệ trực tiếp. Bời vì, công nghệ là một trong những đối tượng được bảo hộ về quyền sỡ hữu trí tuệ nên việc sao chép công nghệ hoặc một quy trình sản xuất nên việc sao chép công nghệ khó có thể thực hiện được. Như vậy, một dây chuyền công nghệ hoặc một quy trình sản xuất nếu mua trực tiếp sẽ đắt hơn rất nhiều khi nó được chuyển giao giữa công ty mẹ sang công ty con. Đây chính là ưu điểm lớn nhất về chuyển giao công nghệ trong hoạt động FDI so với các hình thức chuyển giao công nghệ khác. Chuyển giao công nghệ thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm cho khoảng cách công nghệ giữa các nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư bị thu hẹp. Hình thức chuyển giao công nghệ thông qua FDI được thực hiện thông qua: chuyển giao bên trong và chuyển giao bên ngoài. Chuyển giao bên trong là hình thức được chuyển giao chủ yếu nhất và được thực hiện giữa công ty mẹ (ở nước đi đầu tư) vào chi nhánh công ty con (nước tiếp nhận đầu tư). Chuyển giao bên ngoài được thực hiện giữa các công ty khác nhau như liên doanh với doanh nghiệp trong nước, hợp đồng li- xăng, hỗ trợ công nghệ…Việc chuyển giao công nghệ bên trong và bên ngoài tại nước tiếp nhận đầu tư phụ thuộc vào một số nhân tố như bản chất công nghê, chiến lược của người chuyển giao, khả năng của bên tiếp nhận và chính sách của nước tiếp nhận đầu tư. Khi chuyển giao công nghệ vào các nước tiếp nhận đầu tư, bên chuyển giao còn thực hiện hoạt động phổ biến công nghệ. Hoạt động FDI đã tạo ra hiệu ứng tích cực đối với các doanh nghiệp của nước tiếp nhận đầu tư thông qua: Cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước sẽ thúc đẩy việc cải thiện và nâng cao công nghệ cả doanh nghiệp trong nước góp phần vào việc sản xuất có hiệu quả. Nhà đầu tư nước ngoài hợp tác với các chi nhánh hoặc doanh nghiệp nước tiếp nhận đầu tư để phổ biến công nghệ. Di chuyển lao động có trình độ chuyên môn cao từ chi nhánh công ty nước đầu tư sang doanh nghiệp nước nhận đầu tư góp phần chuyển giao công nghệ. Tạo điều kiện tiếp xúc giữa các doanh nghiệp nước nhận đầu tư với các công ty đã quốc gia có trình độ công nghệ trong quá trình phổ biến và chuyển giao công nghệ. Đầu tư trực tiếp có nghĩa là các nhà đầu tư nước ngoài cũng trực tiếp tham gia điều hành sản xuất. Qua đó, các doanh nghiệp Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các chuyên gia nước ngoài. Đồng thời dưới sức ép tuyển lao động địa phương và chi phí thuê lao động nước ngoài cao hơn so với lao động địa phương, các chi nhánh công ty nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn FDI phải tuyển dụng lao động địa phương. Để lao động địa phương có thể sử dụng thành thạo những công nghệ tiên tiến đã được chuyển giao thì doanh nghiệp FDI phải có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực này để đáp ứng nhu cầu của công ty. Ngoài ra, trong các chiến lược phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, các tập đoàn lớn hay các công ty đã quốc gia luôn có chiến lược đào tạo lao động tại chỗ để thay thế cho lao động nước ngoài. Đào tạo lao động của doanh nghiệp FDI không chỉ dừng lại đối với những người trực tiếp sản xuất mà còn đào tạo cả kỹ năng, trình độ cho các đối tượng làm công tác quản lý hay quản trị doanh nghiệp. Phương thức đào tạo của các doanh nghiệp FDI rất đa dạng, có thể tiến hành đào tạo trực tiếp người lao động thông qua các khoá học do các chuyên gia của các công ty tiến hành hoặc kết hợp với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước để tiến hành đào tạo. Các dự án đầu tư trực tiếp góp phần tạo môi trường cạnh tranh là động lực kích thích nền kinh tế tăng trưởng về lượng cũng như về chất. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với lợi thế về khoa học công nghệ hiện đại, quy mô vốn lớn khi xâm nhập vào thị trường sẽ là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, để có thể đứng vững các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng đổi mới trình độ khoa học công nghệ để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Dòng vốn đầu tư gián tiếp khi đổ vào Việt Nam sẽ trực tiếp làm tăng lượng vốn trên thị trường vốn trong nước. Hơn nữa, khi vốn đầu tư gián tiếp gia tăng sẽ làm phát sinh hệ quả tích cực gia tăng dây chuyền đến dòng vốn đầu tư gián tiếp trong nước. Nói cách khác, các nhà đầu tư trong nước sẽ “nhìn gương” các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và tăng động lực bỏ vốn đầu tư gián tiếp của mình, kết quả tổng đầu tư gián tiếp xã hội sẽ tăng lên. Sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp và phát triển thị trường tài chính sẽ đặt ra những yêu cầu mới và cũng tạo các công cụ, khả năng mới cho quản lý nhà nước nói chung và quản lý, quản trị doanh nghiệp nói riêng. Việc quản lý và quản trị doanh nghiệp phát hành chứng khoán sẽ được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hơn do yêu cầu về báo cáo tài chính doanh nghiệp và minh bạch hóa, cập nhật hóa thông tin liên quan đến các chứng khoán mà doanh nghiệp đã và sẽ phát hành. Hơn nữa, về nguyên tắc, các nhà đầu tư chỉ lựa chọn đầu tư vào chứng khoán của các doanh nghiệp đáng tin cậy, đang và sẽ có triển vọng, phát triển tốt trong tương lai. Chính điều này sẽ cho phép quá trình “chọn lọc nhân tạo”, “bỏ phiếu” cho sự hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp này trở nên khách quan và phù hợp với cơ chế thị trường hơn còn những doanh nghiệp khác mà chứng khoán của họ không hấp dẫn sẽ phải điều chỉnh lại định hướng và chất lượng quản trị kinh doanh, sáp nhập hoặc giải thể. Hệ thống luật pháp, cũng như các cơ quan, bộ phận và cá nhân trong hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến thị trường tài chính, nhất là đến đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ phải được hoàn thiện, kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc điểm của thị trường này, cũng như các cam kết hội nhập quốc tế. Đồng thời, thông qua tác động vào thị trường tài chính, Nhà nước sẽ đa dạng hóa các công cụ và thực hiện hiệu quả việc quản lý của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp. Trên cơ sở đó, năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, thị trường tài chính nói riêng sẽ được cải thiện hơn. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài Các yếu tố bên trong Hệ thống chính trị của nước tiếp nhận đầu tư. Đây là yếu tố quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định đầu tư. Khi triển khai chiến lược đầu tư tại một quốc gia nào đó, các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn tại quốc gia tiếp nhận đó có một hệ thống chính trị ổn định để đảm bảo an toàn trong quá trình đầu tư đồng thời để thực hiện được mục đích đầu tư. Đối với quốc gia nhận đầu tư cũng mong muốn xây dựng mối quan hệ bền vững với các quốc gia khác trên cơ sở một hệ thống chính trị ổn định, giữ vững độc lập dân tộc trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài. Một yếu tố cũng có tác động quan trọng đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài đó là Chính sách vĩ mô trong việc tiếp nhận đầu tư. Chính sách vĩ mô tác động đến hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài được chia làm 2 nhóm : - Những tác động tích cực hỗ trợ nhà đầu tư đó là : Sự thân thiện của chính quyền địa phương thông qua các thủ tục hành chính. Hệ thống dịch vụ công minh bạch, hiệu quả và công bằng qua việc cấp giấy phép, thủ tục hải quan, thu thuế… có hiệu quả và không tham nhũng. Những chính sách này tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình triển khai dự án của các nhà đầu tư nước ngoài. Sự ổn định, nhất quán, bình đẳng của các chính sách quản lý đối với các dự án đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài. Kế hoạch, qui hoạch các vùng, các ngành nghề, lĩnh vực địa bàn … của bên tiếp nhận đầu tư để hoạch định chương trình, kế hoạch cho công ty khi đầu tư. - Những rào cản đối với hoạt động của nhà đầu tư như mức thuế suất, chính sách đầu tư thiếu nhất quán, hệ thống dịch vụ công kém hiệu quả, thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp… Và để thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài cần sự nỗ lực rất lớn của nhà đầu tư. Sự nỗ lực của nhà đầu tư thể hiện qua việc xây dựng thương hiệu của công ty, xây dựng thương hiệu để tạo lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Sự nỗ lực của các nhà đầu tư còn bao gồm sự nỗ lực của Nhà nước tiếp nhận đầu tư. Sự nỗ lực của Nhà nước thể hiện ở việc xây dựng kế hoạch đầu tư, quy hoạch đầu tư cụ thể rỏ ràng. Các hoạt động xúc tiến đầu tư của Nhà nước để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. 1.1.2.2 Các nhân tố bên ngoài Bao gồm những quy định quốc tế liên quan đến đầu tư nước ngoài. Nói cách khác là những tác động bên ngoài đối với hoạt động của nhà đầu tư bao gồm: - Môi trường thương mại- kinh tế quốc tế Quan hệ giữa hai nước chủ nhà càng thân thiện, càng kích thích các nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư sang nhau và ngược lại. Ví dụ Hiệp định Thương mại Việt Mỹ có hiệu lực từ năm 2001 không những làm tăng cơ hội tiếp cận thị trường Mỹ của doanh nghiệp Việt Nam, mà còn là cơ hội để Việt Nam gia tăng thu hút nguồn vốn FDI. Theo những báo cáo về tác động của Hiệp định Thương mại Việt Mỹ đối với nền kinh tế Việt Nam của Bộ kế hoạch và đầu tư vào cuối tháng 5/2005: Trước khi Hiệp định có hiệu lực, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam chỉ tăng 3%/ năm nhưng sau khi HIệp định Thương mại có hiệu lực đầu tư của Mỹ vào Việt Nam đã tăng 27%/năm. Một tác động khác của Hiệp định Thương mại Việt Mỹ đối với môi trường đầu tư ở Việt Nam là làm tăng tính minh bạch của pháp luật, mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ, giảm phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, thông thoáng môi trường cấp phép đầu tư và thực thi sở hữu trí tuệ tốt hơn…Mức độ hội nhập kinh tế thế giới và hội nhập khu vực của nước tiếp nhận đầu tư càng sâu, rộng càng có tác dụng thu hút dòng chảy vốn đầu tư nước ngoài. - Môi trường tài chính quốc tế Hệ thống tiền tệ quốc tế : bao gồm các tổ chức tài chính quốc tế và các qui định luật lệ đảm bảo cho sự hoạt động của các tổ chức này và ổn định tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối quốc tế. Hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành trên cơ sở thoả thuận trực tiếp giữa Ngân hàng trung ương các nước. Hoạt động của Hệ thống tiền tệ quốc tế đặt dưới sự điều hành của Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới. Theo thoả thuận giữa các nước thành viên năm 1944, các nước cùng góp vốn để duy trì hoạt động của IMF và WB. Mỗi nước được xác định mệnh giá cho đồng tiền quốc gia dựa theo chế độ bản vị vàng và USD, IMF cho phép giá trị đồng tiền mỗi nước được phá giá trong phạm vi 1% trừ trường hợp khẩn cấp đồng tiền mỗi nước có thể phá giá đến 10% nhưng có thời hạn và phải được sự chấp thuận của IMF. Tuy nhiên khi quy mô của IMF mở rộng với nhiều nước mới xin gia nhập, IMF đưa ra yêu cầu : trong một thời gian nhất định, sau khi trở thành thành viên của IMF, mỗi thành viên phải xác định tỷ giá tiền tệ của mình so với vàng hay một loại ngoại tệ mạnh nào đó, nhưng chủ yếu là USD. Tỷ giá này có thể dao động ở mức 10% mà không cần có sự chấp thuận trước của IMF. Hệ thống tỷ giá linh hoạt còn cho phép tỷ giá chịu tác động của nhiều nhân tố khác trên thị trường như dòng chảy vốn đầu tư, chính sách vĩ mô của Nhà nước, các thành viên trên thị trường ngoại hối - Những quy định của WTO liên quan đến đầu tư nước ngoài Các quy định của WTO về đầu tư nước ngoài gồm các nội dung sau : Thứ nhất: Nguyên tắc không phân biệt đối xử : trong Quy chế tối huệ quốc có ghi rõ về nguyên tắc không phân biệt đối xử, nguyên tắc này được hiểu theo hai cách: + Không phân biệt đối xử quốc gia qui định : hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu từ nước ngoài được đối xử không kém thuận lợi hơn so với hàng hoá, dịch vụ cùng loại được sản xuất trong nước. Nguyên tắc này nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước. + Không phân biệt đối xử quốc tế quy định: nước nhận đầu tư sẽ giành ưu đãi cho nhà đầu tư của một nước khác không kém thuận lợi hơn những ưu đãi đã giành cho các nhà đầu tư ở nước thứ ba khác khi họ đầu tư trên lãnh thổ của quốc gia mình. Nguyên tắc này nhằm chống phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư hoạt động trên cùng một lãnh thổ, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Thứ hai: Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs- Trade Related Investment Measures). TRIMs quy định các nước không được sử dụng 5 loại biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại về đối xử quốc gia và các quy định cấm sử dụng định lượng. Trong thực tế, nhiều nước đang phát triển thường sử dụng những biện pháp này để bảo hộ sản xuất trong nước. Chẳng hạn, các biện pháp hạn chế định lượng như yêu cầu về hàm lượng nội địa, yêu cầu về cân đối thương mại, hạn chế nhập khẩu, hạn chế khả năng tiếp cận ngoại hối, hạn chế nhập khẩu. Tuân thủ TRIMs có nghĩa là các nước phải xoá bỏ những biện pháp hạn chế định lượng trên đây, điều đó có thể đặt các doanh nghiệp trong nước đứng trước sự cạnh tranh gay gắt, nhưng lại là một trong những giải pháp làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, thu hút vốn đầu tư nước ngoài mạnh hơn. Thứ ba: Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs- Trade Related Intelectural Propety Right). TRIPs quy định các quyền được hưởng quyền sở hữu trí tuệ, phạm vi duy trì và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, khả năng được bảo hộ và bình đẳng giữa người nước ngoài và công dân nước tiếp nhận đối với quyền sở hữu trí tuệ. Thông thường nhà đầu tư nước ngoài mang vốn và công nghệ vào nước sở tại để tiến hành sản xuất- kinh doanh. Nếu quyền sỡ hữu trí tuệ của nhà đầu tư nước ngoài không được đảm bảo họ lo ngại rằng đến một lúc nào đó sẽ bị đối tác địa phương chiếm hữu quyền sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, nếu quyền sở hữu trí tuệ của nhà đầu tư không được đảm bảo còn làm cho nạn hàng giả phát triển ảnh hưởng đến uy tín và hiệu quả kinh doanh của nhà đầu tư. Hiệp định TRIPs giảm độ rủi ro trong đầu tư nước ngoài và bảo đảm quyền lợi cho các nhà đầu tư. Muốn tránh rủi ro trong đầu tư nước ngoài và tham gia vào kinh doanh thương mại quốc tế, nhà đầu tư phải đăng ký bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ nhằm tạo lập một cơ sở pháp lý bảo hộ cho sản phẩm của mình. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng ở mọi nơi trên thế giới, việc đăng ký bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Nhưng chỉ có 5% số doanh nghiệp Việt Nam chú ý đến điều này dễ dàng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác sao chép hoặc giành quyền sở hữu trí tuệ đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp. Thứ tư: Tính minh bạch trong cơ chế thị trường. WTO quy định với các Chính phủ, trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO phải cam kết lộ trình và một sô nội dung về cơ chế đầu tư và thương mại và thực hiện những cam kết ấy mà không được thay đổi trong quá trình thực hiện. WTO cũng quy định rằng Chính phủ các nước phải minh bạch hoá các chính sách của mình bằng cách thông báo cho các bên liên quan biết những quy định hoặc những thay đổi đối với chính sách thương mại và đầu tư. Một nước khi tham gia WTO, phải tuân thủ các quy định của WTO về đầu tư. Với các quy tắc này tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các loại hình đầu tư quốc tế 1.1.3.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư. - Đặc điểm của hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài : + Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu, tuỳ theo quy định của Luật đầu tư từng nước. Theo quy đinh của Luật đầu tư Việt Nam “số vốn đóng góp tối thiểu của phía nhà đầu tư nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự án”. + Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn, nếu đóng góp 100% vốn thì xí nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành. + Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của xí nghiệp. Lời và lỗ được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi đã nộp thuế và lợi tức cho nước chủ nhà. - Các hình thức đầu tư trực tiếp tại Việt Nam + Hợp đồng hợp tác kinh doanh Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt Nam mà không hình thành pháp nhân. Cơ sở pháp lý quan trọng của sự hợp tác trên cở sở hợp đồng là hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đây là văn bản được ký kết giữa bên nước sở tại và bên nước ngoài để tiến hành đầu tư, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho môi bên mà không thành lập pháp nhân mới. Đặc điểm của hình thức đầu tư Hợp đồng hợp tác kinh doanh - Các bên Việt Nam và nước ngoài hợp tác với nhau để tiến hành kinh doanh sản xuất và dịch vụ tại Việt Nam trên cơ sở văn bản hợp đồng đã ký giữa hai hoặc nhiều bên, trong Hợp đồng quy định rõ nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên tham gia. - Các bên tiến hành hoạt động kinh doanh mà không cần lập ra một pháp nhân mới, tức không cho ra đời công ty, xí nghiệp mới.Tuy không tổ chức dưới dạng doanh nghiệp, nhưng hợp tác trên cơ sở hợp đồng đã hình thành nên một tổ chức kinh doanh chung. Các bên hợp doanh cùng nhau thực hiện các công việc chung hoặc có thể phân công nhau thực hiện từng phân công việc với tư cách của những đơn vị độc lập. + Doanh nghiệp liên doanh Là doanh nghiệp mới được thành lập trên cơ sở góp vốn hai hoặc nhiều bên Việt Nam và nước ngoài. Đặc điểm của hình thức doanh nghiệp liên doanh - Doanh nghiệp được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, mang tư cách pháp nhân Việt Nam. Doanh nghiệp liên doanh chịu trách nhiệm hữu hạn. Tính trách nhiệm hữu hạn của doanh nghiệp liên doanh thể hiện ở sự tách bạch về mặt tài sản giữa doanh nghiệp liên doanh với các bên liên doanh và giới hạn trách nhiệm của doanh nghiệp liên doanh trong quan hệ tài sản với các chủ thể khác. Theo đó, vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh được hình thành từ sự đóng góp của các bên liên doanh. Mỗi bên liên doanh chỉ chịu trách nhiệm với các bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp vào liên doanh và không chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản trong phạm vi vốn của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp liên doanh không được phép phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp liên doanh phát sinh kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư. Tính pháp nhân của doanh nghiệp liên doanh là đặc điểm để phân biệt hình thức đầu tư này với hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng. Là pháp nhân, doanh nghiệp liên doanh là chủ thể pháp lý độc lập, có tài sản riêng tách bạch với tài sản của các bên sáng lập và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản triêng đó. Doanh nghiệp liên doanh hoạt động nhân danh mình và không phải là chi nhánh của các bên liên doanh. Ở đây, trách nhiệm vô hạn được hiểu là tính vô hạn của nghĩa vụ trả nợ còn trách nhiệm hữu hạn là tính có giới hạn về khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Theo lý thuết chung và thông lệ quốc tế, một doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn chỉ có khả năng trả nợ đến mức giá trị vốn tài sản của nó.._. Chế độ trách nhiệm vô hạn hay hữu hạn chỉ được đưa ra áp dụng kho doanh nghiệp đó bị tuyên bố phá sản và toàn bộ tài sản của nó được đưa ra phát mại để thanh toán các khoản nợ. Lúc này, khi doanh nghiệp thuộc loại trách nhiệm vô hạn sẽ có số tài sản để trả nợ doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp mà không đưa vào kinh doanh. Trong trường hợp này, nếu toàn bọ tài sản phá sản đó không đảm bảo để thanh toán hết các khoản nợ thì chủ doanh nghiệp phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Đây chính là tính vô hạn của nghĩa vụ trả nợ. Trong khi đó, doanh nghiệp có quy chế trách nhiệm hữu hạn khi bị tuyên bố phá sản, chỉ trả nợ đến mức giá trị toàn bộ tài sản thuộc sỡ hữu của nó vào thời điểm đó. Vì ở những doanh nghiệp có sự tách bạch về tài sản giữa nó và chủ sỡ hữu của nó và chúng đều được thừa nhận là pháp nhân. Nói cách khác, tất cả các phấp nhân đều hưởng quy chế trách nhiệm hữu hạn. - Vốn pháp định của liên doanh ít nhất bằng 30% vốn đầu tư, đối với những dự án đầu tư vào hạ tầng cơ sở, trồng rừng, đầu tư vào các vùng kinh tế khó khăn có thể chấp nhận vốn pháp định thấp đến 20% nhưng phải được cơ quan cấp giấy phép chấp thuận. - Phần vốn đóng góp của bên phía nước ngoài không thấp hơn 30% vốn pháp định trừ trường hợp đặc biệt có thể cho phép thấp đến 20% - Thời gian đầu tư cho phép không quá 50 năm, trong trường hợp đặc biệt có thể kéo dài đến 70 năm. Tuỳ vào quy mô của vốn đầu tư và lĩnh vực đầu tư mà nhà nước quy định thời hạn đầu tư khác nhau. - Tổng giám đốc điều hành liên doanh có thể là người nước ngoài trong trường hợp đó Phó tổng giám đốc thứ nhất là người Việt Nam, thường trú tại Việt Nam. - Hội đồng Quản trị là cơ quan lãnh đạo của doanh nghiệp liên doanh. Số thành viên của Hội đồng quản trị do các bên quyết định, mỗi bên cử người của mình tham gia Hội đồng quản trị ứng với phần vốn đóng góp trong vốn pháp định. Mỗi bên ít nhất là hai người. - Lãi và lỗ được chia cho mỗi bên căn cứ vào tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định trừ trường hợp các bên thoã thuận khác. Trong các hình thức đầu tư, hình thức liên doanh thường được các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn trong giai đoạn đầu tại nước sở tại. Vì hình thức này thường quy định nghĩa vụ của bên nước sở tại liên hệ với chính quyền địa phương về mặt thủ tục để thủ tục để thành lập liên doanh. Hơn nữa, nếu trước khi liên doanh, doanh nghiệp nước sở tại đã có sẵn thị trường tiêu thụ sản phẩm thì liên doanh sẽ tiết kiệm được khoản chi phí tiếp thị đáng kể. Tuy nhiên, nếu bên nước tiếp nhận không đủ khả năng về chuyên môn và trình độ ngoại ngữ có thể bị bên nước ngoài vô hiệu hoá, dùng thủ thuật đưa liên doanh vào tình trạng thua lỗ thời gian đầu, nhằm mục đích giảm dần và tiến tới xoá bỏ quyền điều hành của bên nước tiếp nhận thông qua tỉ lệ góp vốn. +Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài Đây là doanh nghiệp thuộc phần sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự tổ chức quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Đặc điểm của hình thức đầu tư doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: - Doanh nghiệp được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, mang tư cách pháp nhân Việt Nam. - Vốn pháp định của doanh nghiệp ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư, trừ trường hợp đầu tư vào những vùng kinh tế khó khăn tỷ lệ này có thể thấp đến 20% vốn pháp định. - Trong quá trình hoạt động không được giảm vốn pháp định, tăng vốn pháp định phải xin phép. So với các nước trong khu vực, Việt Nam là nước duy nhất cho phép đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài ngay từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài lần đầu tiên. Trong những năm gần đây, hình thức này có xu hướng gia tăng mạnh một mặt là do Việt Nam chủ trương cho phép nhà đầu tư nước ngoài chủ động lực chọn hình thức, địa điểm, đối tác đầu tư (trừ những lĩnh vực đầu tư có điều kiện), cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được hưởng những ưu đãi như đối với doanh nghiệp liên doanh, mặt khác còn do thời gian qua chúng ta đã phát triển mạnh các khu công nghiệp mà ở đó hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ( chiếm 85% số dự án được cấp phép trong các khu công nghiệp). +Hình thức doanh nghiệp cổ phần Nghị định 38/2003 của Thủ tướng chính phủ ban hành ngày 15/4/2003 về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động công ty cổ phần. Trong Nghị định này nêu rõ : “Doanh nghiệp cổ phần là doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là “cổ phần” trong đó các cổ đông sáng lập nước ngoài nắm giữ ít nhất 30% vốn điều lệ, được tổ chức hoạt động theo hình thức công ty cổ phần…được hưởng các đảm bảo của Nhà nước Việt Nam và ưu đãi theo Luật đầu tư tại Việt Nam”. Có 3 điều kiện để một doanh nghiệp nước ngoài từ hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển sang công ty cổ phần: - Doanh nghiệp đã góp đủ vốn pháp định theo quy định tại giấy phép đầu tư. - Đã chính thức hoạt động ít nhất 3 năm trong đó năm cuối trước khi chuyển đổi phải có lãi. - Có hồ sơ đề nghị chuyển đổi. Vậy sau 15 năm kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài, Chính phủ cho phép các nhà đầu tư nước ngoài có thể lập công ty cổ phần tại Việt Nam. Việc đa dạng hoá các hình thức đầu tư góp phần nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. + Các hình thức đầu tư đặc thù khác : Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT) Là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gain nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Các dự án BOT có tác dụng rất lớn: + Tạo ra loại hình công việc có chất lượng cao ở các nước chậm và đang phát triển khi Chính phủ các nước này không đủ năng lực để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế, vì thông thường những công trình này cần vốn đầu tư lớn, phục vụ cho cộng đồng dân chúng và thời gian thu hồi vốn kéo dài. + Những dự án BOT lớn có thể gây những tác động lớn đến sự phát triển kinh tế- xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy có tác dụng rất lớn nhưng ở Việt Nam hình thức này chưa thành công, chưa được mở rộng, một số dự án được cấp phép nhưng cũng khó triển khai. Luật đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987 nhưng đến lần sửa đổi thứ hai năm 1992 phương thức đầu tư BOT mới được đề cập trong Luật và được tái khẳng định cùng sự bổ sung thêm hai phương thức mới BTO và BT trong lần sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư nước ngoài năm 1996. Đến năm 2005, Việt Nam mới cấp giấy phép đầu tư cho 6 dự án BOT với tổng số vốn đầu tư đạt 1,37 tỷ USD, chiếm 2,8% tổng số vốn đăng ký có hiệu lực. Sự chưa thành công này là do các dự án BOT thường gặp rủi ro cao do vốn đầu tư ban đầu lớn và bằng ngoại tệ, thời gian thu hồi vốn diễn ra lâu và bằng nội tệ nên dễ gặp các rủi ro về tài chính cho các nhà đầu tư. Mặt khác, do đa số các dự án BOT có phạm vi áp dụng không rộng, điều kiện phức tạp nên thường mất thời gian để giải quyết những thủ tục ban đầu như hoàn chỉnh việc đàm phán, ký kết hợp đồng BOT, thu xếp phương án tài chính, các thoả thuận về việc chuyển đổi ngoại tệ, giải phóng mặt bằng. Trong khi, đây là phương thức đầu tư mới, kinh nghiệm đầu tư của ta chưa nhiều. Khó khăn lớn nhất là việc đàm phán thoả thuận về giá đầu vào và đầu ra của các dự án trong khi bên cung cấp và bên mua đều muốn duy trì giá độc quyền của mình. Vì vậy, trong nhiều trường hợp các dự án này không đáp ứng được yêu cầu về tiến độ, một số dự án do thời gian đàm phán kéo dài nên không còn ý nghĩa thời sự nữa. Hình thức xây dựng- chuyển giao- kinh doanh (BTO) : Là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. Hình thức xây dựng- chuyển giao (BT) : là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Các hình thức BOT, BTO, BT đều có những đặc điểm cơ bản sau: + Chỉ được ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền + Đầu tư vào cơ sở hạ tầng của Việt Nam : xây dựng đường, cầu, cảng, sân bay, các công trình điện nước… + Được hưởng nhiều ưu đãi của Chính phủ Việt Nam về tiền thuê đất, thuế các loại, thời gian đầu tư dài tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thu hồi vốn và có lời hợp lý. + Hết thời hạn hoạt động của giấy phép chủ đầu tư phải chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Chính phủ Việt Nam trong tình trạng hoạt động bình thường. Hình thức khu chế xuất Đây là một khu vực lãnh thổ được nhà nước quy hoạch riêng nhằm thu hút các nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào hoạt động chế biến ra hàng công nghiệp phục vụ xuất khẩu. Đặc điểm của khu chế xuất : + Đơn vị tổ chức khai thác khu chế xuất là doanh nghiệp bỏ vốn vào kinh doanh hạ tầng cơ sở và các dịch vụ phục vụ cho các nhà máy xí nghiệp hoạt động trong khu chế xuất. + Khu chế xuất được quy hoạch tách khỏi phần nội địa bởi môi trường rào bao bọc. + Hàng hoá nhập khẩu phục vụ cho sản xuất kinh doanh của khu chế xuất hoặc hàng hoá của khu chế xuất xuất khẩu ra nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu hoặc xuất khẩu. + Hàng hoá ra vào khu chế xuất, kể cả lưu thông với nội địa phải chịu sự kiểm soát của hải quan. + Trong khu chế xuất không có hoạt động sản xuất nông nghiệp và không có dân cư sinh sống. Khu chế xuất hoạt động với nhiều ưu đãi như trình bày ở trên như ưu đãi về thuế, về chế độ khuyến khích đầu tư nên hấp dẫn các chủ đầu tư bỏ vốn vào kinh doanh sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Vì vậy, Khu chế cuất mang một ý nghĩa to lớn và đóng vai trò quan trọng đối với các nước đang mở mang phát triển công nghiệp và xuất khẩu. Hình thức phát triển khu công nghiệp Theo Nghị định 92/CP của Chính phủ ban hành ngày 28/12/1994, khu công nghiệp tại Việt Nam được định nghĩa như sau: là khu do Chính phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống. Như vậy, Khu công nghiệp có diện tích lớn hơn khu chế xuất vì nó bao hàm cả các xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu và các nhà máy xí nghiệp sản xuất công nghiệp. Khu công nghiệp không cần có tường rào ngăn cách với địa phận nước sở tại, chỉ có ranh giới được xác định có thể có dân cư sống ở xung quanh và sản phẩm sản xuất vừa để xuất khẩu, đồng thời bán cả trong nội địa và không được miễn thuế xuất nhập khẩu. Các xí nghiệp ở khu công nghiệp có những ưu thế hơn khu chế xuất ở chỗ sản phẩm sản xuất ở khu công nghiệp được bán vào thị trường nội địa không cần qua thủ tục nhập khẩu. Mô hình khu công nghiệp tập trung thích hợp hơn với trào lưu phát triển kinh tế chung hiện nay trên thê giới hơn là khu chế xuất biệt lập. Đặc điểm khu công nghiệp : + Đây là khu vực được quy hoạch riêng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào hoạt động để sản xuất chế biến hàng công nghiệp + Hàng hoá của khu công nghiệp không những phục vụ cho xuất khẩu mà còn phục vụ cho các nhu cầu của nội địa. + Hàng hoá nhập khẩu vào khu công nghiệp và từ đây xuất khẩu ra nước ngoài phải nộp thuế xuất nhập khẩu theo luật hiện hành. 1.1.3.2 Đầu tư gián tiếp nước ngoài Là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ tư bản chuyển vốn vào một quốc gia khác để mua cổ phần hoặc chứng khoán trên thị trường tài chính nhằm thu lợi thông qua cổ tức hoặc thu nhập chứng khoán. - Đặc điểm của hình thức đầu tư gián tiếp : + Tuỳ theo quy định của từng nước mà mỗi chủ đầu tư nước ngoài bị khống chế mức độ góp vốn. Theo Luật đầu tư của Việt Nam mức vốn góp được giới hạn dưới 49% ngoại trừ một số ngành có quy định khác. + Các chủ đầu tư nước ngoài kiếm lời qua cổ tức. + Chủ đầu tư nước ngoài không được phép trực tiếp điều hành hoạt động của xí nghiệp mà họ mua cổ phiếu. + Nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh thông qua thị trường tài chính. - Các hình thức đầu tư gián tiếp Theo Luật đầu tư 2005, đầu tư gián tiếp được thực hiện dưới các hình thức: 1.Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác Cổ phần là các chứng nhận hợp lệ về quyền sở hữu một phần nhỏ nhất của doanh nghiệp nào đó. Quyền sở hữu này dù chỉ là một phần cũng cho phép người sở hữu cổ phần những đặc quyền nhất định, thường là: - Hưởng một phần tương ứng lợi nhuận của hoạt động kinh doanh, thông qua phân chia lãi sau thuế gọi là cổ tức. - Quyền được tiếp tục tham gia đóng góp vốn khi doanh nghiệp phát hành bổ sung các cổ phần mới hoặc phát triển các dự án mới cần gọi vốn. Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Khi mua cổ phiếu, những nhà đầu tư sẽ trở thành những người chủ sở hữu đối với công ty. Mức độ sở hữu đó tuỳ thuộc vào tỷ lệ cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Là chủ sở hữu, các cổ đông cùng nhau chia sẽ mọi thành quả cũng như tổn thất trong quá trình hoạt động của công ty. Cổ phiếu là công cụ không có thời hạn. Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành phải trả cho người nắm giữ chứng khoán một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. Khoản tiền xác định này gồm khối lượng vốn đã vay cộng với tiền lãi trong một thời hạn nhất định. 2.Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của người đi đầu tư để đầu tư vào các chứng khoán. Việc huy động vốn vào quỹ đầu tư được hình thành theo hai cách : Cách thứ nhất, một công ty được thành lập theo quy định của pháp luật hiện hành sẽ phát hành các cổ phần ra công chúng. Khi mua cổ phần, người đầu tư trở thành cổ đông của quỹ và có đầy đủ các quyền do pháp luật quy định. Bản thân quỹ là một công ty, có tư cách pháp nhân, có hội đồng quản trị quỹ là cơ quan điều hành cao nhất. Hội đồng quản trị sẽ thuê người quản lý quỹ, giám sát công việc quản lý sao cho đạt được các mục tiêu của quỹ. Quỹ này được gọi là quỹ đầu tư dạng công ty. Cách thứ hai, một công ty quản lý quỹ sẽ huy động vốn bằng cách lấy tổng lượng vốn dự kiến huy động chia nhỏ thành các phần bằng nhau, mỗi phần tương ứng với một chứng chỉ quỹ và công ty sẽ bán các chứng chỉ ra công chúng như là những đơn vị đầu tư. Trong mô hình này, người mua chứng chỉ không được tham gia vào quá trình ra quyết định của quỹ mà sẽ uỷ thác việc quản lý quỹ cho công ty, quỹ chỉ đơn thuần là một khoản tiền, không có tư cách pháp nhân. Công ty quản lý quỹ sẽ đảm nhận cả hai khâu huy động vốn và đầu tư vốn vào các chứng khoán. Hai mô hình trên có đặc điểm là : - Người đầu tư không trực tiếp đầu tư vào chứng khoán mà chỉ đầu tư vào quỹ bằng cách mua cổ phần hay chứng chỉ. Việc đầu tư vào chứng khoán do một tổ chức khác được thuê hay được uỷ thác tiến hành, vì thế, tính chuyên nghiệp của hoạt động đầu tư cao hơn nhiều so với việc một cá nhân trung bình tự ra quyết định đầu tư. - Người đầu tư sẽ được hưởng lợi từ kết quả đầu tư của quỹ, theo số lượng cổ phần hay chứng chỉ mà mình nắm giữ. Xét về lợi suất đầu tư, tất cả những người đầu tư trong cùng một quỹ đều đạt được kết quả như nhau, không phân biệt số lượng góp vốn của mỗi người nhiều hay ít. Kết quả đó là do thành quả hoạt động đầu tư chung của quỹ quy định. 3.Thông qua các định chế tài chính trung gian . Trên thế giới, đầu tư gián tiếp đã trở thành hình thức đầu tư rất phát triển và có vai trò to lớn. Năm 1995, người ta đã tính được lưu lượng vốn đầu tư mua trái phiếu trên thị trường tài chính thế giới đạt xấp xỉ 27 ngàn tỷ USD, bằng 3/5 GDP của thế giới. Tổng giá trị cổ phiếu trên thị trường cổ phiếu thế giới đạt gần 18 ngàn tỷ USD. Trong đó, 90% cổ phiếu và trái phiếu của các công ty là từ các nước phát triển. Ở Việt Nam, mặc dù vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được đầu tư chủ yếu qua các quỹ đầu tư và định chế tài chính. Nguồn vốn này bắt đầu tăng sau cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực1997, nhưng vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ so với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo thống kê, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam chỉ chiếm tỷ lệ 1,2% so với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2002, và tăng 3,7% năm 2004. Trong khi tỷ lệ này ở các nước khác trong khu vực như Thái lan, Malaysia và Trung Quốc chiếm từ 30-40%. Một trong những kênh dung nạp vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài là thị trường chứng khoán cũng chỉ mới đạt vốn hoá 350 triệu USD, quá nhỏ so với các thị trường khác trong khu vực. Tuy vậy, rất nhiều nhà đầu tư tỏ ra lạc quan về dòng chảy vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới. Một số quỹ đầu tư đang cạn vốn và chuẩn bị huy động vốn để tiếp tục đầu tư vào Việt Nam. Thành công của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian gần đây là bằng chứng về cơ hội đầu tư sinh lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Theo nhận định của các chuyên gia, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thường rót vào các doanh nghiệp do người Việt Nam nắm quyền chi phối về quản lý. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp, giúp các doanh nghiệp tiếp nhận vốn có thể hoàn toàn chủ động quản lý vốn kinh doanh theo ý mình một cách tập trung. Mở rộng khả năng thu hút vốn từ các chủ đầu tư có số vốn nhỏ từ mọi nguồn của thế giới. Do loại hình đầu tư này mọi người đều có thể tham gia thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu với trị giá nhỏ phù hợp với khả năng tài chính của các nhà đầu tư. Các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, trái phiếu phải minh bạch hoá hoạch động sản xuất kinh doanh của mình do đó giúp các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên bên cạnh những lợi thế đó, đầu tư gián tiếp đem lại không ít bất lợi cho các doanh nghiệp tiếp nhận vốn đầu tư như: Thứ nhất, làm tăng mức độ nhạy cảm và bất ổn về kinh tế có nhân tố nước ngoài. Khác với FDI là nguồn vốn đầu tư lâu dài chủ yếu dưới dạng vật chất (công đoàn nhà máy, mua sắm thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất), khó chuyển đối hoặc thanh khoản, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được thực hiện dưới dạng đầu tư tài chính thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản cao trên TTTC, nên các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài dễ dàng và nhanh chóng mở rộng hoặc thu hẹp, thậm chí đột ngột rút vốn đầu tư của mình về nước, hay chuyển sang đầu tư dưới dạng khác, ở địa phương khác tuỳ theo kế hoạch và mục tiêu kinh doanh của mình. Đặc trưng nổi bật này cũng chính là nguyên nhân hàng đầu gây nên nguy cơ tạo và khuếch đại độ nhạy cảm và chấn động kinh tế ngoại nhập của dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt khi việc chuyển đổi và rút vốn đầu tư gián tiếp nói trên diễn ra theo kiểu "tháo chạy" đồng loạt trên phạm vị rộng và số lượng... Cần nhấn mạnh rằng, sự nhạy cảm và bất ổn kinh tế có thể bắt nguồn từ các nguyên nhân bên trong, cũng có thể hoàn toàn do các nguyên nhân bên ngoài nước tiếp nhận đầu tư do phản ứng dây chuyền, làn sóng đô-mi-nô của các nhà đầu tư quốc tế như đã từng diễn ra trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Trong tình huống như vậy, một sự đổ vỡ, một cuộc khủng hoảng đầu tư - tài chính - tiền tệ, thậm chí là khủng hoảng kinh tế  hết sức tệ hại và bất khả kháng là hoàn toàn có thể xảy ra đối với nước tiếp nhận đầu tư, nếu không có và triển khai tốt các phương án phòng ngừa hiệu quả. Thứ hai, Làm gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn tài chính đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng khoán. Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ chứng khoán, nhất là các cổ phiếu, cổ phần sáng lập, được biểu quyết của các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đến một mức "vượt ngưỡng" nhất định nào đó sẽ cho phép họ tham dự trực tiếp vào chi phối và quyết định các hoạt động sản xuất - kinh doanh và các chủ quyền khác của doanh nghiệp, tổ chức phát hành chứng khoán, thậm chí lũng đoạn doanh nghiệp theo phương hướng, kế hoạch, mục tiêu riêng của mình, kể cả các hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là, tính chất gián tiếp của vốn đầu tư nước ngoài đã chuyển hoá thành tính trực tiếp. Nhà đầu tư gián tiếp sẽ chuyển hoá thành nhà đầu tư trực tiếp. Thậm chí, về lôgíc, quá trình "diễn biến hoà bình" này đạt tới quy mô và mức độ nào đó còn có thể làm chuyển đổi về chất quyền sở hữu và tính chất kinh tế ban đầu của doanh nghiệp và quốc gia. Thứ ba, làm tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng tội phạm kinh tế quốc tế. Đầu tư gián tiếp quốc tế không chỉ làm gia tăng các nguy cơ và tác hại của các hoạt động đầu cơ, lũng đoạn kinh tế vi phạm các quy định pháp lý của nước tiếp nhận đầu tư, mà còn là mảnh đất mầu mỡ sinh sôi và phát triển các loại tội phạm kinh tế có yếu tố nước ngoài, thậm chí xuyên quốc gia, như hoạt động lừa đảo, hoạt động rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các vụ kinh doanh phi pháp và hoạt động khủng bố, cùng các loại tội phạm và các đe doạ an ninh phi truyền thống khác. Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động mặt trái của dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài kể trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách "có tổ chức" của giới đầu cơ hay lực lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt và lâu dài gây tổn hại tới hoạt động kinh tế lành mạnh và làm tăng tính dễ tổn thương của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, thậm chí trong một số trường hợp, chúng còn làm mất uy tín Nhà nước và gây sụp đổ một nội các chính phủ... Ngoài ra, sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam còn đặt ra yêu cầu Chính phủ và các cơ quan Trung ương phải chủ động đổi mới và sử dụng hiệu quả các công cụ quản lý kinh tế  của mình theo nguyên tắc thị trường hơn, trong đó có việc sử dụng bảo lãnh nhà nước, quy định tỷ lệ và sử dụng các công cụ dự phòng, dư nợ cũng như các công cụ khác của các định chế tài chính - tiền tệ quốc gia và địa phương... những điều cần thiết để đảm bảo sự thu hút và khai thác có hiệu quả các tác động tích cực của dòng vốn đầu tư gián tiếp. 1.2 Tầm quan trọng của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đối với Tổng công ty Lắp máy Việt Nam . Tổng công ty Lắp máy Việt Nam là một doanh nghiệp lớn của nhà nước chuyên nhận thầu thiết kế, chế tạo thiết bị và xây lắp công nghiệp dân dụng trong và ngoài nước. Ngày 01/12/1960, Bộ trưởng Bộ kiến trúc (nay thuộc Bộ xây dựng) quyết định chuyển Cục cơ khí điện nước thành Công ty lắp máy Hà Nội, đơn vị tiền thân của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama). Công ty ra đời từ ba công trường lắp máy lớn nhất miền bắc : Công trường lắp máy Hải Phòng, Công trường lắp máy Việt Trì và Công trường lắp máy Hà Nội. Toàn bộ công ty có 591 cán bộ công nhân viên, 02 kỹ sư cơ khí và 08 kỹ thuật viên lắp máy. Công ty được thành lập với nhiệm vụ chính là khôi phục nền công nghiệp của đất nước sau chiến tranh. Trong những năm từ 1960 đến 1975, Lilama đã lắp đặt thành công nhiều nhà máy như : Thuỷ điện Thác Bà, Nhiệt điện Uông Bí, Ninh Bình, các nhà máy thuộc Khu công nghiệp Việt Trì, Thượng Đình góp phần quan trọng trong quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc. Với nền kinh tế quan liêu bao cấp sau chiến tranh đã đem lại nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, trong đó Lilama không phải là ngoại lệ. Do đó, tháng 10/1980 Công ty lắp máy chuyển sang hoạt động theo mô hình “Liên hiệp các xí nghiệp lắp máy”. Vượt lên muôn vàn khó khăn Liên hiệp các xí nghiệp lắp máy đã lắp đặt thành công và cho đưa vào sử dụng hàng nghìn công trình lớn nhỏ như Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, Sông Hinh, Yaly… Để khắc phục những yếu kém của nền kinh tế quan liêu bao cấp, năm 1986 Việt Nam đã tiến hành mở cửa nền kinh tế. Đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, ngày 1/12/1995 Tổng công ty Lắp máy Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 999/BXD- TCLĐ của Bộ trưởng Bộ xây dựng dựa trên cở sở sáp nhập các đơn vị thành viên của Liên hiệp xí nghiệp lắp máy theo mô hình Tổng công ty 90. Là một đơn vị chuyên ngành của Bộ xây dựng, tham gia vào các công trình xây dựng lớn của đất nước trong các lĩnh vực điện, xi măng, dầu khí, cơ khí, khai thác mỏ, hoá chất, lương thực thực phẩm, công nghiệp nhẹ, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, vật liệu xây dựng. Từ khi chuyển thành Tổng công ty việc phối hợp giữa các đơn vị thành viên được tăng cường, đã có những bước chuyển đổi từ một đơn vị chỉ nhận thầu xây lắp đơn thuần đến nay đã tăng cường và mở rộng khả năng chế tạo thiết bị, kết cấu thép, thiết bị phi tiêu chuẩn, tư vấn thiết kế và mở rộng hoạt động thương mại xuất nhập khẩu. Năm 2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO điều này đem lại cho Tổng công ty Lắp máy cũng như các doanh nghiệp thuộc mọi phần kinh tế những thời cơ và thách thức mới. Gia nhập WTO có nghĩa là gia nhập thị trường thương mại toàn cầu, với hành lang pháp lý là quy chế WTO với những Hiệp định thương mại song phương và đa phương được ký kết với các nước thành viên của WTO sẽ đem lại nhiều lợi ích cho sự phát triển kinh tế. Gia nhập WTO các doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại để đi tắt đón đầu trong một số lĩnh vực đào tạo, thuê chuyên gia, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực tư vấn thiết kế và quản lý sản xuất. Bên cạnh đó, WTO còn có những chính sách đặc biệt nhằm hỗ trợ các nước đang phát triển như : hỗ trợ về kỹ thuật và đào tạo, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với Tổng công ty Lắp máy khi Tổng công ty hoạt động tronh lĩnh vực chế tạo, lắp máy là ngành đòi hỏi trình độ công nghệ tiên tiến hiện đại. Nhưng tham gia WTO cũng có nghĩa là các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt. Ở nhiều doanh nghiệp nhất là đối với các doanh nghiệp nhà nước tính tự chủ không cao, khả năng vận hành và tính thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh còn nhiều hạn chế. Trong lĩnh vực lắp máy, Lilama đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình đấu thầu để tìm kiếm công trình. Chi phí nhân công, lắp đặt của các nhà thầu Trung Quốc chỉ chiếm 50% - 60% so với thiết kế của Lilama. Nếu không tăng năng suất lao động, thì sẽ khó cạnh tranh được khi đấu thầu quốc tế.  Gia nhập WTO Việt Nam phải thực hiện hàng loạt những cam kết, thoả thuận đã ký từ những Hiệp định thương mại song phương, đa phương, đồng thời tuân thủ triệt để quy chế WTO. Điều này gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Theo các cam kết đa phương của Việt Nam trong WTO về doanh nghiệp nhà nước: “Các doanh nghiệp do nhà nước sở hữu hoặc kiểm soát, hoặc được hưởng độc quyền hoặc đặc quyền. Các doanh nghiệp sẽ hoạt động hoàn toàn theo tiêu chí thương mại, Nhà nước không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và không coi mua sắm của doanh nghiệp nhà nước là mua sắm chính phủ. Nhà nước can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp với tư cách là một cổ đông bình đẳng với các cổ đông khác” Với những cam kết đó Nhà nước phải xoá bỏ dần những chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước. Tổng công ty Lắp máy một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nặng đòi hỏi vốn lớn trước đây được bảo hộ rất nhiều nay những bảo hộ này dần dần xoá bỏ đem lại không ít khó khăn cho Tổng công ty. Đứng trước những thay đổi trong môi trường kinh doanh mới đồng thời thực hiện mục tiêu của Đảng được trình bày trong Nghị quyết 8 đến năm 2020 chúng ta phấn đấu trở thành một nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Và một nước công nghiệp hoá không thể không có các tập đoàn công nghiệp nặng, Lilama đang xây dựng đề án thành lập tập đoàn công nghiệp nặng- xây dựng đầu tiên của nước ta hoạt động đa ngành nghề, đa lĩnh vực. Hiện nay, Lilama đang mở rộng lĩnh vực hoạt động sang các ngành như xi măng, đóng tàu…Đây là những ngành mà đối thủ cạnh tranh rất lớn mạnh như Tập đoàn đóng tàu Việt Nam (Vinashin), hay những nhà máy xi măng đã có thương hiêụ lớn trên thị trường như Xi măng Bỉm Sơn,…Do đó, để thực hiện được mục tiêu của mình buộc Lilama phải nâng cao sức cạnh tranh mới có thể đứng vững và phát triển những ngành mới xâm nhập. Trong điều kiện mới và những mục tiêu mới buộc Lilama phải nâng cao sức cạnh tranh để tận dụng tối đa những cơ hội và khắc phục khó khăn để có thể tồn tại và phát triển. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm hàng hoá dịch vụ hấp dẫn với người tiêu dùng để tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh. Trong điều kiện cả đất nước đang hội nhập, Lilama không thể đứng ngoài việc xu hướng đó, hợp tác với các đối tác nước ngoài là phương hướng phát triển của Lilama. Hợp tác với các đối tác nước ngoài giúp Lilama tận dụng nguồn vốn và kinh nghiệm quản lý từ đó có thể tiết kiệm chi phí, sử dụng tốt hơn các nguồn lực sẵn có. Trong hoạt động kinh doanh, liên kết, liên doanh vốn đã là một yêu cầu tự nhiên để tăng năng suất lao động của mỗi doanh nghiệp. Ngày nay, vào WTO thì việc liên kết, liên doanh để bổ sung năng lực, khắc phục yếu kém để tăng năng lực cạnh tranh lại càng cấp bách. Liên kết trong khâu sản xuất là rất quan trọng, như giúp nhau đổi mới công nghệ, trao đổi kỹ năng quản trị DN, giúp nhau tiền vốn ... Trong cuộc hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn hiện nay, mỗi DN đều cần liên kết, liên doanh, đó chính là cạnh tranh trong hợp tác, hợp tác để cạnh tranh tốt hơn, là để tăng thêm sức mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi DN cũng như của cả nền kinh tế. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, Tổng công ty cũng cần cơ cấu lại bản thân thông qua việc cổ phần hoá. Cố phần hoá nhằm tạo ra một doanh nghiệp đa sở hữu, xác lập một cơ chế quản lý minh bạch, năng động, hiệu quả. Thông qua cổ phần hoá Tổng công ty có thể thu hút các nhà đầu tư chiến lược có vốn, công nghệ đầu tư vào Tổng công ty qua đó đẩy mạnh năng lực cạnh tranh của ._./năm vào 2012. Đến lúc đó Lilama sẽ chiếm 15% sản lượng xi măng cả nước. Lilama cũng đang tính tới hướng hợp tác với Bộ Quốc phòng trong lĩnh vực chế tạo thiết bị cơ khí đồng thời "tấn công" sang lĩnh vực đóng tàu với mục tiêu: phải đuổi kịp Vinashin. Tranh thủ sự chuyển dịch kinh tế thế giới, Tổng công ty đẩy mạnh đầu tư cho đóng tàu vận tải biển. Ngoài các cơ sở đóng tàu đã có ở Hải Phòng, Hải Dương, Lilama sẽ đầu tư xây dựng nhà máy đóng tàu sức trở 60.000 tấn ở Long An. Không chỉ mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực công nghiệp khác, Lilama còn tham gia vào đầu tư bất động sản. Đầu tư bất động sản để đón bắt xu hướng phát triển. Lilama đang có 3 công ty bất động sản đó là Lilama Land, Lilama UDC và...3 công ty này trong tương lai sẽ làm ăn rất tốt vì thị trường rất lớn. Do đó, nguồn vốn cho đầu tư và phát triển của Lilama trong giai đoạn tới là rất lớn. Theo số liệu của Phòng kế hoạch và đầu tư Tổng công ty Lắp máy , giai đoạn 2007 – 2010 Tổng Công ty cần huy động khoảng 37.000 tỷ đồng. Để đáp ứng được nhu cầu vốn đó, Tổng công ty tiếp tục thực hiện các biện pháp để thu hút nguồn vốn đầu tư từ trong và ngoài nước thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu, trái phiếu quốc tế và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án. 3.2 Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư quốc tế của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam 3.2.1 Xây dựng thương hiệu Để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Tổng công ty cần xây dựng thương hiệu để khẳng định vị trí của mình trên thị trường.Thương hiệu chính là tiền. Chúng ta phải biết chuyển nó thành của cải vật chất. Của cải ở đây lại chính là tiền, là tài chính, là nguồn vốn. Các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào một công ty nào đó thì quan tâm đến thương hiệu của công ty đó. Hiện nay, thị trường chứng khoán đang phát triển mạnh mẽ ngày càng có nhiều công ty niêm yết trên sàn chứng khoán đem lại nhiều cơ hội lựa chọn cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, để cổ phiếu của công ty luôn hấp dẫn các nhà đầu tư không phải là điều dễ dàng. Với tỷ lệ 0,04% cổ phiếu của Lilama 10 mà các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ - một tỷ lệ thấp nhất mà các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ đối với các cổ phiếu niêm yết trên sàn đặt Lilama trước thách thức phải xây dựng một thương hiệu mạnh tạo lòng tin cho các nhà đầu tư. Đã đến lúc phải chấm dứt cái thời "bán lưng cho đất, bán mặt cho trời" trên các công trình, các dự án nhỏ hay mải mê vào việc tìm kiếm những hợp đồng và cạnh tranh với các nhà thầu thua kém về nhiều mặt. Đã đến lúc phải chuyển sang một hướng khác khi đã bỏ ra cả chục năm trời để xây dựng thương hiệu và biến nó thành những khả năng về tài chính, vốn... Đấy là cái tư duy tài chính mà bây giờ các tập đoàn kinh tế công nghiệp lớn đang làm. Lilama đã khẳng định được thương hiệu thông qua vai trò là tổng thầu EPC, các lô hàng xuất khẩu mang thương hiệu Lilama. Những năm gần đây, các công ty của Lilama lớn mạnh dần về tài chính bằng cổ phần hoá, bằng phát hành thêm trái phiếu, cổ phiếu. Thương hiệu công ty nào mạnh, có uy tín hơn thì việc huy động vốn trở nên dễ dàng hơn, và như vậy chúng ta đã biến thương hiệu thành tiền, thành khả năng tài chính, có điều chúng ta còn dè dặt quá, chúng ta chưa chú ý đền việc đánh bóng thương hiệu. Tuy nhiên, Lilama lại chưa thực sự chú trọng đến xây dựng thương hiệu một cách bài bản. Thương hiệu Lilama mới chỉ dừng ở mức độ phân biệt chứ chưa được thương mại hoá. Đây cũng là một thực trạng của quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Ở nền kinh tế tập trung , chúng ta không có sự cạnh tranh về thương hiệu nhưng trong nền kinh tế thị trường có sự hội nhập sâu của nền kinh tế toàn cầu, việc định vị thương hiệu là một việc làm cần thiết. Thương hiệu không có nghĩa một cái tên, một cái logo nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ thế là hoàn thành xong việc xây dựng thương hiệu…nhưng thực chất của việc xây dựng, phát triển và định vị thương hiệu phải là làm cho cái tên trở nên có ý nghĩa, có tác động tâm lý tới các nhà đầu tư và quan trọng là phải có giá trị thương mại. Việc này là một công việc lâu dài, mang tính chiến lược của doanh nghiệp, bao gồm việc định hướng chiến lược cho hệ thống thương hiệu, việc quảng bá và định vị thương hiệu và các hệ thống quản lý nhằm bảo vệ và phát triển thương hiệu. Cho nên, cần có ngay những biện pháp cụ thể, nghĩa là toàn Tổng Công ty phải có những cuộc hội thảo và các công ty phải có ngay một lực lượng đặc biệt về tài chính, kế toán, có những lớp đào tạo để có những tiêu chí đó rồi chuyển thành kiến thức thực thi. 3.2.2 Xếp hạng hệ số tín nhiệm Để có thể tiếp tục huy động vốn thông qua các đợt phát hành trái phiếu và đặc biệt Lilama đang có chiến lược phát hành trái phiếu quốc tế thì việc tiến hành xếp hạng hệ số tín nhiệm là việc làm cần thiết. Hệ số tín nhiệm tức là định mức tín dụng hay hệ số tín nhiệm - là hệ số đánh giá khả năng tài chính và khả năng thanh toán của một tổ chức đối với các khoản tiền nghĩa vụ - gốc và lãi - của các công cụ nợ mà nó phát hành. Công cụ nợ bao gồm cả công cụ ngắn hạn như hối phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, hoặc dài hạn như trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi. Tổ chức phát hành có thể là chính phủ cấp quốc gia, cấp tỉnh, thành phố, hay các công ty. Đối với các công ty, tổ chức: kết quả xếp hạng hệ số tín nhiệm có ảnh huởng rất lớn đến sự thành công của việc phát hành trái phiếu, nhất là khi phát hành trái phiếu ra nuớc ngoài, cũng như việc xác định lãi suất trái phiếu (hệ số tín nhiệm càng cao thì lãi trái phiếu càng thấp và ngược lại). Thiếu sự xác định hệ số tín nhiệm, thị trường trái phiếu dài hạn của các công ty chưa thể phát triển được. Đối với các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư tổ chức, chuyên nghiệp, ngoài việc căn cứ vào hệ số tín nhiệm để quyết định mua trái phiếu, họ còn dùng hệ số tín nhiệm của trái phiếu của công ty đó để làm căn cứ để quyết định có đưa cổ phiếu của công ty đó vào danh mục đầu tư. Hệ số tín nhiệm thể hiện mức độ rủi ro của các khoản nợ. Hệ số tín nhiệm càng cao, lãi suất trái phiếu, nói cách khác là lãi suất đi vay càng thấp và ngược lại. Các yếu tố quyết định đánh giá độ rủi ro gồm yếu tố chính trị, triển vọng tăng trưởng và cơ cấu nền kinh tế, tính linh hoạt tài chính. Lilama đang có kế hoạch phát hành trái phiếu quốc tế thì cần phải chuẩn bị các điều kiện để xếp hạng hệ số tín nhiệm. Các điều kiện để xếp hạng hệ số tín nhiệm : Điều kiện chung là trị giá phát hành trái phiếu quốc tế phải nằm trong tổng hạn mức vay thương mại của quốc gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hàng năm; các chương trình, dự án được xác định là trọng điểm quốc gia hoặc các dự án đầu tư có hiệu quả cao, đã hoàn chỉnh các thủ tục đầu tư, đơn vị phát hành phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường quốc tế về hệ số tín nhiệm để phát hành trái phiếu và có đề án phát hành chi tiết được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đối với trái phiếu doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh, DN phải có hệ số tín nhiệm bằng hoặc chỉ thấp hơn một bậc so với hệ số tín nhiệm quốc gia và có phương án sử dụng tiền trái phiếu được Bộ Tài chính thẩm định và chấp thuận để báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đối với trái phiếu do DNNN tự phát hành, không có bảo lãnh của Chính phủ thì đơn vị đó phải có hệ số tín nhiệm bằng hoặc cao hơn hệ số tín nhiệm quốc gia, đảm bảo chi phí vay hợp lý, bởi lẽ nợ của các DNNN vẫn thuộc về nợ của khu vực công. Trị giá tương đương của mỗi đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp không dưới 200 triệu USD. Ở Việt Nam, hiện tại có 3 tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tương tự nhưng vẫn chưa được quốc tế công nhận và  vẫn chưa thực hiện đúng chức năng của một tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm. Trong khi đó, định mức tín dụng xuất hiện từ trước thế kỷ trước tại Mỹ do nhu cầu đánh giá tín nhiệm của các doanh nghiệp ngành đường sắt. Đến năm 1914 thì công ty Moody’s - tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm đầu tiên trên thế giới được thành lập bởi ông John Moody dựa vào một công ty được ông thành lập trước đó vào năm 1909.  Năm 1941 tổ chức Standard and Poors được thành lập trên sự sát nhập của Poor’s Publishing va Standard Statistics.  Hiện tại trên thế giới có một số tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm được quốc tế công nhận, cũng như một số dành tổ chức được quốc gia của họ công nhận. Tuy vậy 3 tổ chức Moody’s, Standard and Poor’s và Pitch Ratings  là 3 tổ chức được công nhận, có uy tín và thị phần cao nhất trên thế giới. Tùy theo từng tổ chức, mà phương pháp đánh giá hệ số tín nhiệm có khác nhau đôi chút. Tuy vậy về cơ bản chúng khá giống nhau. Theo đó, công ty đối tương sẽ được đánh giá từ quốc gia, môi trường, đến ngành kinh doanh mà nó đang hoạt động. Sau đó, các thông số có tính cách định tính chẳng hạn chất lượng, kỹ năng của ban quản lý, chiến lược marketing, chính sách quản lý…cũng sẽ được xem xét. Kế đó, và cũng rất quan trọng là tất cả các chỉ số chính phản ánh tình hình tài chính sẽ được đưa ra phân tích, đánh giá. Tổng hợp lại những yếu tố trên, tổ chức đánh giá tín nhiệm sẽ xếp hạng các trái phiếu theo các mức khác nhau đã định sẵn và ký hiệu bằng các chữ cái đầu tiên; theo bảng sau : Bảng 3.1 Các hạng Mức của Hệ Số Tín Nhiệm đối với công cụ nợ dài hạn Chỉ số Tín Nhiệm theo S&P Chỉ số Tín Nhiệm theo Moody’s Diễn giải Phân loại AAA Aaa Chất luợng cao nhất, ổn định, độ rủi ro thấp nhất Trái phiếu có thể  đầu tư AA Aa Chất lượng cao, rủi ro thấp, Độ rủi ro chỉ cao hơn hạng AAA một bậc. A A Chất lượng khá, tuy vậy có thể bị ảnh huỡng bởi tình hình kinh tế. BBB Baa Chất lượng trung bình, an toàn trong thời gian hiện tại, tuy vậy có ẩn chứa một số yếu tố rủi ro. BB Ba Chất lượng trung bình thấp, có thế gặp khó khăn trong việc trả nợ, bị ảnh hưởng đối với sự thay đổi của tình hình kinh tế. Trái phiếu có độ rủi ro cao B B Chất lượng thấp, rủi ro cao, có nguy cơ không thanh toán đúng hạn Trái phiếu không nên đầu tư CCC Caa Rủi ro cao, chỉ có khả năng trả nợ nếu tình hình kinh tế khả quan. CC Ca Rủi ro rất cao, rất gần phá sản, C C Rủi ro rất cao, khó có khả năng thực hiện thanh toán các nghĩa vụ nợ D Xếp hạng thấp nhất, đã phá sản hay hầu như sẽ phá sản NR NR Không đánh giá (Nguồn: Bộ tài chính) Do đó, để được quốc tế công nhận Lilama cần mời các tổ chức quốc tế đánh giá định mức tín nhiệm cho công ty. 3.2.3 Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực Đào tạo nguồn nhân lực nhằm tăng khả năng hấp thụ khoa học công nghệ nước ngoài nâng cao hiệu quả của các công ty liên doanh, phù hợp với những đòi hỏi cạnh tranh trong nước và quốc tế. Lilama cần xây dựng và phát triển nguồn nhân lực con người Lilama mạnh về mọi mặt, đủ về số lượng, trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực quản lý, có năng lực sáng tạo và ứng dụng công nghệ mới, lao động với năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao hơn. Trong hoàn cảnh chúng ta đang hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, những yêu cầu đặt ra cho lực lượng lao động ngày càng cao. Lực lượng này tất cả phải qua đào tạo để có đủ những kỷ năng nghề nghiệp theo kịp với nhiệm vụ. Do đó phải tăng cường đào tạo từ các cán bộ quản lý, kỹ sư, đặc biệt là lực lượng kỹ sư trẻ đến công nhân có tay nghề và kỹ năng làm việc cao. Về trình độ quản lý nghiệp vụ: Công tác đào tạo tiếp tục đổi mới theo hướng gắn kết đào tạo, nghiên cứu, sản xuất, đào tạo, tái đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật chuyên ngành, cán bộ quản lý có phẩm chất và năng lực đáp ứng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu : - Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực quản lý điều hành của cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý của Tổng công ty và các Công ty thành viên, làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt và đáp ứng nhiệm vụ lâu dài của Tổng công ty. - Tổ chức các khóa đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, cán bộ công nhân viên cơ quan Tổng công ty và các Công ty thành viên, bồi dưỡng họ thành các chuyên gia giỏi về các lĩnh vực thiết kế, chế tạo, xây lắp. - Thường niên tổ chức các lớp nâng cao nghiệp vụ cho các kỹ sư mới tuyển dụng theo yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. - Tổng công ty cũng nên nên đầu tư để mua các phần mềm như: Phần mềm PDS thiết kế thông minh 3 chiều, DIRECTA - Phần mềm quản lý hồ sơ, PRIMAVERA &ndash Phần mềm quản lý tiến độ, nguồn lực và giá thành, MARIAN &ndash Quản lý mua sắm vật tư để trang bị cho các cán bộ, kỹ sư sử dụng giúp cho công tác thiết kế, quản lý các dự án của LILAMA tiến tới trình độ các nước khu vực và tiếp cận với trình độ tiên tiến thế giới. - Ngoài chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao năng lực quản lý, LILAMA cần chú trọng đào tạo trình độ chính trị, trình độ ngoại ngữ, tin học để phù hợp với sự phát triển của Tổng công ty trong giai đoạn mới. LILAMA đã mở nhiều lớp nâng cao tiếng Anh chuyên ngành kỹ thuật cho các cán bộ, công nhân viên trong Tổng công ty. - Kết hợp với các trường Đại học, các Viện nghiên cứu, các chuyên gia trong và ngoài nước tổ chức các khóa học chuyển giao công nghệ tiên tiến, các giải pháp IT cho thiết kế, quản lý các dự án EPC nhằm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về số lượng, chất lượng cán bộ, kỹ thuật thi công, tư vấn giám sát tại các công trình, dự án trọng điểm của Tổng công ty. - Khuyến khích tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên tự học tập để nâng cao trình độ tay nghề, đẩy mạnh phong trào kèm cặp kỹ sư, cử nhân và công nhân mới ra trường trong toàn Tổng công ty. - Là Công ty hoạt động tronh lĩnh vực lắp máy xây dựng nên cần kết hợp giữa đào tạo với thực hành, LILAMA còn cần đào tạo và xây dựng được đội ngũ quản lý dự án, kỹ sư thiết kế, thi công giám sát, vận hành có trình độ tiên tiến và kinh nghiệm thông qua các dự án tại công trường. Nhiều chuyên gia giỏi, nhiều nhà quản lý doanh nghiệp của LILAMA đã trưởng thành và có uy tín trên các công trường xây dựng. - Tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên đi tham quan tìm hiểu, học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm của các nước có nền công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật, Đức, Nga, Italia, Úc, Hàn quốc.... Hiện nay, với vai trò là tổng thầu EPC thực hiện các hợp đồng EPC với đối tác nước ngoài Lilama không chỉ quan tâm tới đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ mà còn nâng cao tay nghề của công nhân. Tổng công ty đã nâng cấp 02 trường kỹ thuật và công nghệ của ngành lên thành 02 trường cao đẳng nghề LILAMA 1 tại Ninh Bình và trường cao đẳng nghề LILAMA 2 tại Đồng Nai và tiến tới xây dựng trường đại học công nghệ LILAMA. Trong đó,Trường Kỹ thuật và công nghệ Lilama 2 là đơn vị được kết nạp làm thành viên Hội đồng Nghề Vương quốc Anh (City & Guild), hiện đang tiến hành đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế các nghề hàn, ống công nghệ, chế tạo cơ khí và điện công nghiệp. Để có thể đảm nhận được các công trình lớn Lilama cần tiếp tục đầu tư kinh phí xây dựng mới, nâng cấp các khu giảng đường, nhà làm việc, nhà xưởng thực tập, ký túc xá&hellip đầu tư các thiết bị hiện đại phục vụ giảng dạy và học tập. Đặc biệt chú trọng các trang thiết bị hàn, thiết bị điện, thiết bị điều khiển tự động, các loại máy chiếu, vi tính phục vụ giảng dạy và học tập, nâng cấp hệ thống phòng học chuyên môn dạy trên Projector và các thiết bị DEMO theo mô hình đào tạo của các nước công nghệp G7. Các trường cũng cần cập nhật nội dung và phương pháp đào tạo tiên tiến để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về công nghệ và chất lượng. Nội dung và phương pháp đào tạo luôn được bổ xung, cải tiến để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về công nghệ và chất lượng công trình. Ví dụ như chương trình đào tạo nghề hàn 6G được xây dựng theo chuẩn AWS (American Welding Standard), chế tạo ống công nghệ theo chuẩn API (American Petrolium Indutries), điện điều khiển theo chuẩn IEC (International Electric Control)... Cần tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế. Hiện nay, Nhà trường đã ký các văn bản hợp tác với các tổ chức quốc tế như Lloyd’s, Apave... cùng phối hợp để tổ chức thi và cấp chứng chỉ nghề quốc tế cho học viên của trường. Hệ thống trang thiết bị cũng được đầu tư tương ứng với các máy móc thực hành hiện đại: máy hàn ống TIG, máy hàn tự động SAW, bán tự động FCAW, máy cắt CNC. Đặc biệt, các thiết bị điện công nghiệp, PLC và điều khiển tự động Scada, DCS là thế hệ công nghệ mới nhất hiện nay. Đối với nghề hàn, chứng chỉ Lloyd’s (Lloyd’s: cơ quan đăng kiểm quốc tế Anh) có thể coi là một thứ “bảo chứng bằng vàng” của người công nhân. Những doanh nghiệp có lao động đạt chứng chỉ này sẽ nắm lợi thế lớn trong việc tham gia đấu thầu các công trình cơ khí, dầu khí. Đổi mới phương pháp dạy học để xây dựng các trường đào tạo nghề đạt các tiêu chuẩn quốc tế  để cung cấp nguồn nhân lực bậc cao phục vụ cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, cho sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa Đất nước. 3.2.4 Thực hiện các biện pháp xúc tiến đầu tư Để tiếp tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài Tổng công ty cần chủ động thực hiện các biện pháp xúc tiến đầu tư. Để kịp thời nắm bắt thông tin về thị trường Tổng công ty đã và đang xây dựng mạng lưới kinh doanh tại các thị trường tiềm năng thông qua việc thành lập các văn phòng đại diện của Lilama tại một số nước trong đó có CHLB Nga, hoặc các đại diện thương vụ đại sứ quán Việt Nam tại các nước. Hiện nay, Lilama có văn phòng đại diện tại thành phố Matxcova và đang còn gấp rút thành lập văn phòng đại diện ở những thị trường tiềm năng và tăng cường quảng bá sản phẩm tại một số thị trường mới ở khu vực Trung đông, Châu Phi, Châu Mỹ la Tinh. Lilama chủ động kêu gọi các nhà đầu tư thông qua việc xây dựng các dự án để trực tiếp kêu gọi đầu tư nước ngoài. Do các dự án của Lilama đầu tư vào các lĩnh vực như điện, xi măng ... nguồn vốn đầu tư là rất lớn nên Tổng công ty cần chủ động kêu gọi đầu tư thông qua các cuộc gặp gỡ tiếp xúc với các đối tác nước ngoài hay tham dự các cuộc hội chợ triến lãm quốc tế. Để thực hiện được thành công các chương trình này Lilama cần thực hiện tốt khâu chuẩn bị như có kế hoạch, quy hoạch đầu tư rõ ràng, xây dựng các dự án đầu tư hợp lý cùng những hoạt động khuếch trương, giới thiệu hình ảnh của Lilama. 3.3 Kiến nghị với Nhà nước 3.3.1 Hoàn thiện môi trường đầu tư Các nhà đầu tư khi đầu tư ra nước ngoài vấn đề họ quan tâm khi quyết định đầu tư đó là môi trường đầu tư của nước tiếp nhận. Do đó, để tạo điều kiện cho Lilama cũng như các doanh nghiệp khác thu hút được vốn đầu tư nước ngoài Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng. Hiện nay, các nhà đầu tư quốc tế tin tưởng vào tương lai sáng sủa của nền kinh tế Việt Nam sau khi chứng kiến hơn 10 năm đổi mới vừa qua. Đến nay, hầu như toàn thế giới biết đến công cuộc cải cách đổi mới ở Việt Nam. UNDP còn coi Việt Nam là một trong những ví dụ thành công nhất về chuyển đổi kinh tế trong lịch sử đương đại, đổi mới làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt của cuộc sống kinh tế. Theo Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam, ông Jordan Ryan, từ sau Đại hội Đảng CSVN lần thứ VI (12/1986), đã có nhiều thay đổi quan trọng trong sản xuất, tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, chính sách tiền tệ và ngoại thương. Chính sách đổi mới mở ra nhiều phương thức tổ chức và quản lý kinh tế mới mẻ, góp phần cải thiện đời sống; tạo ra nguồn động lực sáng tạo cho hàng triệu người Việt Nam có dịp sử dụng một cách hiệu quả tiềm năng của mình. Các nhà đầu tư tỏ ra lạc quan với việc Việt Nam được coi là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thứ hai Châu Á, chỉ sau Trung Quốc. Bên cạnh đó, phải kể đến việc sụt giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với trái phiếu cùng loại của Indonesia và Phillipines do tình hình kinh tế chính trị các nước này thời gian qua không ổn định lắm. Số tiền thu được sẽ được bơm thêm vào nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh với tốc độ trung bình từ 7 - 8% của Việt Nam, cùng với việc đầu tư nước ngoài đang tăng nhanh tại đây. Theo khảo sát mới nhất của Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), Việt Nam đứng thứ 4 trên thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan về sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Ông Christian Ludwig, Đại sứ CHLB Đức tại Việt Nam nhận định: "Hầu như không có nước thứ 2 nào ở châu Á tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Đức như ở Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu bắt nguồn từ ngành sản xuất công nghiệp, đây là lĩnh vực còn vô số khả năng hợp tác với Đức".Theo báo cáo mới nhất của Tổ chức Xúc tiến Đầu tư Hàn Quốc (KOTRA): có tới 76% doanh nghiệp của Hàn Quốc khẳng định họ sẽ mở rộng đầu tư tại Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO đồng nghĩa với việc Việt Nam phải thực hiện các cam kết, nguyên tắc của WTO về đầu tư như đã trình bày ở chương 1 do đó càng tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, với chiến lược phát triển đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Các nhà đầu tư hy vọng chiến lược đó giúp họ hưởng lợi lớn khi bỏ tiền vào Việt Nam để cùng Việt Nam bước vào công cuộc cải cách mới. Với nhữnh thành công đã đạt được, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp về đầu tư quốc tế Về đầu tư gián tiếp, mặc dù Luật chứng khoán đã có hiệu lực nhưng chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính, chất lượng quản trị công ty đại chúng vẫn còn nhiều bất cập. Do vẫn có sự khác biệt giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài còn e dè khi đọc các báo cáo tài chính do các công ty kiểm toán trong nước thực hiện. Việc phát triển và mở rộng quy mô của thị trường trái phiếu vẫn còn gặp nhiếu khó khăn. Dịch vụ định mức tín nhiệm và thống kê dữ liệu ngành hầu như không có. Hai là sự thiếu và không đồng bộ về mặt luật pháp, Luật chứng khoán có hiệu lực từ năm 2007 nhưng chưa thể đi vào vận hành vì thiếu hệ thống nghị định, thông tư hướng dẫn. Luật không quy định được vấn đề chi tiết nên phải chờ các văn bản hướng dẫn của các Bộ, ban ngành. Do đó, Nhà nước cần sớm ban hành đầy đủ và đồng bộ các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật đầu tư và Luật chứng khoán trên tinh thần tiến đến mực tiêu tư do hoá nguồn vốn đầu tư cả trực tiếp và gián tiếp bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Phát triển các công ty quản lý quỹ, khuyến khích thành lập các quỹ đầu tư nước ngoài để huy động vốn đầu tư vào thị trường Việt Nam. Đa dạng hoá các loại hình quỹ đầu tư như quỹ đóng, quỹ mở, quỹ dạng hợp đồng, quỹ đầu tư là pháp nhân…Thúc đẩy hoạt động của các quỹ đầu tư, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thông pháp lý, khuôn khổ quản lý thị trường, phát triển quy mô thị trường, xây dựng và triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế và quản trị điều hành doanh nghiệp, quản lý Nhà nước, tăng tính minh bạch của thị trường chứng khoán, thị trường OTC và tại các doanh nghiệp cổ phần tư nhân, ban hành các chính sách khuyến khích hoạt động lâu dài của các quỹ đầu tư nước ngoài… Tiếp tục thực hiện chính sách tự do hoá tài khoản vãng lai để tạo điều kiện thu hút nguồn vốn từ nước ngoài và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển các trong việc quản lý các dòng vốn nhằm đảm bảo sự an toàn, vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính. Về đầu tư trực tiếp, cần xây dựng Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đầu tư 2005, nhất là từ góc nhìn bảo hộ lợi ích của bên Việt Nam trong các liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư 2005, dự thảo Nghị định đưa ra một số quy định riêng khi thành lập liên doanh nguồn thu nhập hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài. Ở đây hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các giao dịch của tài khoãn vãng vốn. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần tăng cường an ninh của hệ thống tài chính, thực hiện kiểm soát các doangngfvốn khi cần thiết. Tăng cường phối hợp giữa các chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá và chính sách thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ngân hàng- tài chính- chứng khoán. Trong bối cảnh cả thế giới đang tìm cách giảm thiểu quy chế hành chính và tìm cách viết luật dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thi hành cho giới doanh nhân, có thể ban soạn thảo nghị định cần suy tính tập trung vào những điều trọng yếu nhất mà Luật đầu tư cần hướng tới. Trong khi đăng ký dự án đối với đầu tư của tư nhân trong nước có thể chưa là mục đích chính, thì việc bảo vệ lợi ích của nước nhận đầu tư, hạn chế lạm quyền bởi nhà đầu tư nước ngoài nên là một chủ đích rất đáng quan tâm. Điều này càng đặc biệt trong các dự án liên doanh với nước ngoài, bởi đa số đối tác Việt Nam trong các dự án này đều là doanh nghiệp quốc doanh. Sự không rỏ ràng về sở hữu toàn dân đã và đang là cơ hội để các nhà tư bản lão luyện nước ngoài khai thác nhằm khống chế các liên doanh hoạt động theo ý đồ kinh doanh của họ. Luật đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành không thể né tránh thực tiễn đó. Một trọng tâm không thể tránh được của Luật đầu tư 2005 là cân đối lợi ích của Việt Nam như một nước tiếp nhận đầu tư và lợi ích các nhà đầu tư nước ngoài. Bảo vệ quyền lợi của bên Việt Nam suy cho cùng cũng là bài toán bảo vệ cổ đông, bảo vệ đối xử bình đẳng giữa các cổ đông trong một công ty- một chủ đích mà cả hai đạo luật về doanh nghiệp và đầu tư cùng quan tâm. Tuy nhiên, có thể nhận thấy hai đạo luật này tiếp cận bài toán bằng các công cụ khác nhau. Trong khi Luật doanh nghiệp 2005 tìm cách hạn chế cấp phép, gia tăng hậu kiểm, buộc doanh nghiệp tuân thủ kỷ luật báo cáo và bị giám sát thường xuyên thì Luật đầu tư 2005 duy trì tư duy truyền thống, kiểm tra ngay từ khi tổ chức thực hiện dự án, duy trì kiểm soát khi đăng ký đầu tư, dự án nhỏ hơn 300 tỷ đồng phải đăng ký, lớn hơn 300 tỷ đồng phải thẩm tra để cấp phép đầu tư. Do đó, cần có sự thống nhất giữa Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư để đảm bảo lợi ích của bên Việt Nam trong liên doanh tránh hiện tượng công ty liên doanh dần trở thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. 3.3.2 Thực hiện các biện pháp hỗ trợ xúc tiến đầu tư Ngoài việc tạo lập một môi trường kinh tế chính trị xã hội ổn định, để thúc đẩy dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp nói chung và Lilama nói riêng. Nhà nước cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ gián tiếp. Nhà nước cần đẩy mạnh các biện pháp xúc tiến đầu tư thông qua các cuộc gặp gỡ ngoại giao với các nước. Các cuộc gặp gỡ ngoại giao cho phép sự tham gia của các doanh nhân để học hỏi kinh nghiệm và xúc tiến thương mại, đầu tư. Lilama đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nặng nên nhu cầu vốn lớn, chậm thu hồi vốn do đó gặp khó khăn trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Những nhà đầu tư khi đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp thường là những nhà đầu tư có tên tuổi, tầm cỡ lớn trên thế giới. Trong khi, những nhà đầu tư có tên tuổi thường lựa chọn rất kỹ trước khi quyết định đầu tư do những nhà đầu tư này có tầm nhìn chiến lược xa và rộng khác với những nhà đầu tư nhỏ lẻ thường hay thay đổi khi có sự thay đổi trong chính sách của nước sở tại. Chính vì lẽ đó, những nhà đầu tư này thường thông qua con đường chính phủ được xem là an toàn, như những cuộc thương lượng thượng đỉnh đảm bảo chiến lược đầu tư lâu dài của các nhà đầu tư. Do đó, để thu hút các nhà đầu tư tầm cỡ ngoài việc cải thiện môi trường đầu tư tốt nhất nên có sự khuyến khích từ phía nhà nước nhất là trong các chương trình xúc tiến đầu tư ở nước ngoài. Hiện nay, Lilama đang chuẩn bị thực hiện các dự án BOT điện – đây là các lại dự án phức tạp nhất. Các mối quan hệ hợp thành các dự án đều phải thực hiện trên cơ sở hợp đồng cực kỳ chặt chẽ liên quan đến nhiều bên, trong đó có sự tham gia của Chính phủ, các Bộ ngành, các ngân hàng cùng các nhà đầu tư. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần hỗ trợ tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, đầu tư của các doanh nghiệp cơ khí trong nước. Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia triển lãm, hội thảo, các cuộc khảo sát thị trường ở nước ngoài. Qua đó, tạo lập quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp cơ khí trong nước với các tập đoàn, doanh nghiệp nước ngoài để hợp tác, liên doanh, liên kết, chuyển giao công nghệ, công nghệ thiết kế, chế tạo sản phẩm thiết bị. Nhà nước khuyến khích thông qua việc hỗ trợ một phần chi phí như vé máy bay, chi phí tham gia hội thảo... KẾT LUẬN Tổng công ty Lắp máy Việt Nam với các công ty liên doanh đang hoạt động, làm ăn có hiệu quả cùng những công ty liên doanh chuẩn bị thành lập giữa Lilama và các đối tác nước ngoài sẽ hình thành nên một hệ thống các công ty liên doanh khắc phục khó khăn về nguồn nhân lực, khoa học công nghệ của Lilama trong quá trình hội nhập. Các dự án BOT trong các dự án điện, khoáng sản, những chương trình hợp tác nước ngoài đang đóng góp vào những thành công của Lilama trong tương lai. Những công ty thành viên của Lilama đã và đang cổ phần hoá sẽ góp phần đa dạng cho sự lựa chọn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong tương lai. Sự thành công của đợt phát hành trái phiếu năm 2007 sẽ mở đường cho trái phiếu Lilama phát triển không chỉ thị trường trong nước mà còn mở rộng sang cả thị trường quốc tế. Bên cạnh những thành công, còn rất nhiều mục tiêu chưa đạt được. Việc phát hành cổ phiếu của các công ty thành viên chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài… Tuy nhiên, với những giải pháp đưa ra cùng những kiến nghị với Nhà nước sẽ góp phần khắc phục những khó khăn, phát huy những thành công đã đạt được để thúc đẩy hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài của Lilama phát triển mạnh mẽ hơn. Góp phần vào việc thực hiện mục tiêu năm 2010 Lilama sẽ trở thành tập đoàn công nghiệp nặng- xây dựng đầu tiên của nước ta tiến tới một nước Việt Nam công nghiệp hoá hiện đại hoá vào năm 2020. NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH VẼ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH VẼ DANH MỤC SƠ ĐỒ Đồ thị 1.1 Vòng luẩn quẩn 5 Biểu đồ 2.1 khối lượng nắm giữ của các nhà đầu tư nước ngoài đối với cổ phiếu của Lilama10 46 DANH MỤC CÁC BÀNG Bảng 2.1 : Các công ty Liên doanh của Lilama 34 Bảng 2.2 : Tỷ lệ nhà nước nắm giữ cổ phiếu của một số công ty thành viên thuộc Lilama 40 Bảng 2.3: Tỷ lệ nắm giữ của các nhà đầu tư đối với cổ phiếu L10 45 Bảng 2.4 Một số chỉ số tài chính của Lilama 69-2 47 Bảng 2.5 Các đợt phát hành trái phiếu của Lilama trong năm 2007 51 Bảng 2.6 : Các đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam trong năm 2007 53 Bảng 2.7 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn của Lilama giai đoạn 2005-2007 62 Bảng 3.1 Các hạng Mức của Hệ Số Tín Nhiệm đối với công cụ nợ dài hạn 71 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33353.doc