Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải không ngừng mở rộng và phát triển thị trường. Marketing ra đời và nhanh chóng được ứng dụng trong mọi lĩnh vực kinh doanh, với chức năng gắn kết toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với thị trường- khâu then chốt của toàn bộ quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp.
Tuy nhiên trong lĩnh vực chứng khoán, đặc biệt là tại Việt Nam, marketing
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng thị trường và phát triển thị trường của Công ty chứng khoán Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chưa được đánh giá và vận dụng đúng với tầm và vị trí quan trọng của nó. Việt nam đang trong tiến trình hội nhập với thị trường thế giới và khu vực, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề mới mẻ mà bao trùm hơn cả là tình hình cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt trong khi nhu cầu khách hàng ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với các công ty chứng khoán. Trong bối cảnh đó vấn đề phát triển thị trường ngày càng trở nên cấp thiết. Hơn lúc nào hết, các công ty cần phải phát huy hiệu quả công cụ marketing nhằm gắn kết hài hoà hoạt động của mình với thị trường, củng cố và phát triển đội ngũ khách hàng, tăng trưởng lợi nhuận.
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động phát triển thị trường của công ty chứng khoán NHNo&PTNT Việt Nam.
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp marketing nhằm phát triển thị trường.
3. Đối tượng nghiên cứu
Chuyên đề sẽ nghiên cứu các giải pháp marketing nhằm mở rộng thị trường của công ty TNHH Chứng khoán NHNo&PTNT Việt Nam trên địa bàn các thành phố lớn.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Thống kê để rút ra kết luận.
Phân tích diễn giải và đưa ra kết luận.
5. Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được chia thành 3 chương:
Chương 1: Thị trường chứng khoán và hoạt động phát triển thị trường.
Chương 2: Thực trạng thị trường và phát triển thị trường của công ty chứng khoán NHNo&PTNT Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp marketing nhằm phát triển thị trường của công ty chứng khoán NHNo&PTNT Việt Nam.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do lần đầu đem lý thuyết vào thực tiễn và thời gian còn hạn chế nên đề tài của em không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài hoàn thiện hơn và em có thể vững vàng hơn nhờ vốn kiến thức học được.
Nhân đây, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Th.S Nguyễn Thu Hiền, Khoa Marketing- Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và các cô chú, anh chị tại công ty chứng khoán NHNo&PTNT VN vì sự hướng dẫn tận tình và những ý kiến quý báu dành cho em trong suốt thời gian thực tập và thực hiện chuyên đề này.
Hà Nội ngày 4/5/2005.
Sinh viên
Vũ Thị Kim Dung
CHƯƠNG 1
Thị trường chứng khoán và hoạt động phát triển thị trường
1.1. Vai trò của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế.
Bất kỳ một nền kinh tế thị trường phát triển thịnh vượng đều có sự đóng góp của thị trường chứng khoán. Vai trò của thị trường chứng khoán được thể hiện ở những điểm sau:
Thị trường chứng khoán cho phép thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp dài hạn qua việc thoả mãn các nhu cẩu đối ngược nhau của các nhà đầu tư bằng việc tạo khả năng thanh khoản cao.
Sự tồn tại của thị trường chứng khoán là yếu tố quyết định thu hút vốn đầu tư nước ngoài vì các nhà đầu tư nước ngoài coi hoạt động của thị trường chứng khoán nước đó như là một yếu tố quan trọng để đưa ra quyết định đầu tư.
Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc cổ phầnh hoá các doanh nghiệp Nhà nước bằng việc tạo ra cho Chính phủ và các nhà đầu tư mức giá chuẩn của các cổ phiếu được bán ra công chúng.Thị trường chứng khoán hỗ trợ định giá cổ phần trong chương trình cổ phần hoá.
Là lĩnh vực mà tất cả các thông tin được tập hợp và phân tích đánh giá và giá cổ phiếu chỉ là phản ánh trung thực của các thông tin đó.
Là một phần quan trọng cuả thị trường tài chính, nó làm tăng tốc độ phát triển của ngành tài chính đất nước.
Sự phát triển của thị trường có sức hấp dẫn và thu hút mọi người tham gia vào thị trường.
Thị trường chứng khoán điều tiết việc phát hành cổ phiếu. Vai trò điều tiết của thị trường chứng khoán còn có thể hướng các đơn vị kinh tế đầu tư vào các ngành hay lĩnh vực được khuyến khích bằng cách phát hành cổ phiếu của những đơn vị đã được đánh giá tương đối chính xác.
Là nguồn thu hút ngoại tệ qua việc bán chứng khoán cho các nhà đầu tư gián tiếp của người nước ngoài có thể ở bất cứ số ngoại tệ nào mà họ có hay họ muốn bỏ ra để mua cổ phần không nhất thiết phải đòi hỏi một mức vốn nhất định như đầu tư trực tiếp vào một dự án.
1.2. Tính tất yếu và sự cần thiết khách quan của phát triển thị trường chứng khoán.
1.2.1. Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Sau hơn 15 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, từng bước xây dựng cơ sở vững chắc cho tăng trưởng dài hạn. Việc huy động vốn để phát triển sản xuất ngày càng trở nên cấp bách. Vì vậy cần có một kênh trung gian tài chính đủ mạnh để chuyển vốn từ những người tiết kiệm sang khu vực kinh doanh trong đó có thị trường chứng khoán.
Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đã cơ bản thoát khỏi khủng hoảng với mức tăng trưởng cao và liên tục.
Bảng 1: Tăng trưởng kinh tế 2001-2004 (%)
2001
2002
2003
2004
GDP cả nước
Nông nghiệp
Công nghiệp xây dựng
công nghiệp
Dịch vụ
6.89
2.98
10.39
9.75
2.52
7.08
4.16
9.48
9.12
2.68
7.26
3.25
10.35
10.27
2.68
7.7
3.5
10.2
10.5
7.5
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam 01/2005.
Mức tăng trưởng cao, một mặt kéo theo sự tăng lên nhu cầu về vốn đầu tư tức là làm tăng mức cung về cổ phiếu và trái phiếu trên thị trường. Mặt khác, tăng trưởng cao sẽ góp phần tăng mức tiết kiệm, đầu tư trên cơ sở đó tăng mức cầu về chứng khoán trên thị trường. Đây là yếu tố cơ bản đầu tiên quyết định sự thành công của thị trường chứng khoán.
Bên cạnh yếu tố tăng trưởng cao, việc khống chế được tỷ lệ lạm phát trong mức độ cho phép cũng như những thành công trong quá trình ổn định tỷ giá hối đoái là những yếu tố rất quan trọng đối với việc phát triển thị trường chứng khoán. Rõ ràng lạm phát tăng sẽ làm tăng giá cả tín dụng( do phải bù đắp sự mất giá của đồng tiền) và làm giảm giá chứng khoán, qua đó giảm nhu cầu về chứng khoán. Người đầu tư nếu có tiền nhàn rỗi có thể đầu tư vào nhiều kênh khác nhau như gửi tiền tiết kiệm, mua vàng, đô la, đầu tư vào bất động sản và chứng khoán. Nếu lạm phát tăng, tỷ giá biến động, người đầu tư sẽ bỏ tiền vào ngoại tệ, vàng hoặc bất động sản. Điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến thị trường chứng khoán. Mặt khác những mục tiêu đặt ra cho nền kinh tế đến năm 2010 cũng góp phần quan trọng thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển như : Đưa GDP bình quân đầu người năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000, nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 9-10%, nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, một phần đáng kể nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu.Tích luỹ nội bộ kinh tế đạt trên 30% GDP. Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp là 16-17%, công nghiệp 40-41%, dịch vụ 42-43%. Và sự phát triển của nền kinh tế gắn liền với sự phát triển của thị trường tài chính trong đó có thị trường chứng khoán và thị trường vốn.
1.2.2. Thực trạng thị trường vốn Việt Nam.
1.2.2.1. Tiết kiệm và đầu tư.
Đầu tư là việc sử dụng một khoản tiền nhất định vào một việc nhất định nhằm mục đích thu lại một khoản tiền lớn hơn.
Thu nhập
Lương
Phí cho thuê
- Lãi cho vay
Lợi nhuận chưa trừ lương và các khoản chi phí khác
GNP
Chi phí đầu ra
Tiêu dùng cho dân cư
Chi tiêu của Chính phủ
Tổng đầu tư
Xuất khẩu thuần tuý
Tiết kiệm là một phần thu nhập quốc dân chưa cần sử dụng cho nhu cầu hiện tại.
Như vậy đầu tư và tiết kiệm có mối quan hệ biện chứng với nhau. Cùng với sự phát triển cao của nền kinh tế, quá trình tái sản xuất mở rộng xã hội ngày càng tăng về tốc độ lẫn quy mô sẽ tạo ra thu nhập lớn hơn cho các tổng thể kinh tế, đồng thời sự phát triển kinh tế cũng đòi hỏi có nguồn đầu tư lớn hơn.
1.2.2.2. Luân chuyển và thực trạng thị trường vốn Việt Nam.
Thị trường tài chính có ý nghĩa quan trọng trong việc phân phối các nguồn tài chính. Thông qua hoạt động của các chủ thể trên thị trường tài chính, các nguồn tài chính được luân chuyển để cung và cầu về vốn gặp nhau. Quá trình luân chuyển vốn trên thị trường tài chính làm tăng quá trình chuyển các nguồn tiết kiệm thành đầu tư.
Quá trình luân chuyển vốn trên thị trường tài chính thể hiện ở sơ đồ sau:
Các thị trường tài chính trực tiếp
Thị trường tiền tệ
Thị trường vốn
Thị trường trực tiếp.
Cung về vốn
Chính quyền các cấp
Doanh nghiệp
Hộ gia đình
Cầu về vốn
1. Chính quyền
2. Doanh nghiệp
3. Hộ gia đình
Các tổ chức trung gian tài chính
Các tổ chức nhận tiền gửi
Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng
Các trung gian đầu tư
Công ty tài chính
Các tổ chức khác
Thị trường qua các tổ chức trung gian
Qua sơ đồ trên ta thấy mức độ phát triển của thị trường tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với việc khuyến khích tiết kiệm, khuyến khích đầu tư và quá trình vốn hoá trong nền kinh tế. Đặc biệt phải đến vai trò của các tổ chức trung gian tài chính, bộ phận đã chuyển tải một khối lượng đáng kể nguồn tiết kiệm đưa vào đầu tư và góp phần tích cực đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn.
Sự tăng lên mạnh mẽ của tiết kiệm và đầu tư đã dẫn đến yêu cầu chuyển giao các nguồn vốn trong nền kinh tế, từ đó hình thành thị trường vốn. Hiện nay, ở Việt Nam đang tồn tại các hình thức huy động vốn chủ yếu sau:
Vay và cho vay qua hệ thống ngân hàng.
Trong những năm vừa qua, hệ thống ngân hàng đã huy động được khối lượng vốn lớn đáng kể phục vụ cho nền kinh tế thông qua hàng loạt các hình thức tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu,… cùng với sự hình thành và phát triển của một thị trường tiền tệ hoạt động với các nghiệp vụ chủ yếu: thị trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại hối và thị trường tín phiếu kho bạc.
Thị trường trái phiếu, cổ phiếu.
Năm 1990 trên thị trường đã xuất hiện một số loại trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp Nhà nước. Hiện nay đang tồn tại các loại chứng khoán sau:
+ Trái phiếu chính phủ:bao gồm Tín phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu công trình.
Tín phiếu Kho bạc Nhà nước là một loại trái phiếu ngắn hạn( dưới 1 năm) phát hành lần đầu tiên vào năm 1991 với lãi suất được quy định cho từng đợt phát hành và bán trực tiếp từ các chi nhánh của Kho bạc Nhà nước. Tính đến 31/12/1994, nguồn tiết kiệm qua tín phiếu Kho bạc đạt 3.500 tỷ đồng. Từ năm 1995, tín phiếu Kho bạc đã được tổ chức bán đấu thầu tại ngân hàng Nhà nước và là một công cụ quan trọng của thị trường tiền tệ.
Trái phiếu Kho bạc Nhà nước là một loại trái phiếu trung hạn và dài hạn phát hành cho ngân hàng Nhà nước. Trong những năm gần đây, hàng năm Việt Nam phát hành bình quân trên dưới 1.500 tỷ đồng.
Trái phiếu công trình là một loại trái phiếu Chính phủ được phát hành để xây dựng các công trình, dự án do Chính phủ thực hiện.
+ Trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước là trái phiếu do các doanh nghiệp Nhà nước phát hành để huy động vốn mở rộng quy mô sản xuất hoặc đổi mới công nghệ.
+Trái phiếu ngân hàng là loại trái phiếu do các ngân hàng thương mại quốc doanh phát hành để huy động vốn. Thời hạn của trái phiếu ngân hàng từ 1-3-5 năm. Trong những năm gần các ngân hàng thương mại quốc doanh đều đã phát hành trái phiếu này, huy đông được hàng chục nghìn tỷ đồng.
+Trái phiếu và cổ phiếu công ty là trái phiếu và cổ phiếu do các công ty cổ phần phát hành hoặc do các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá phát hành. Đối với loại thứ nhất, hiện có khoảng 100 công ty cổ phần phát hành cổ phiếu song các công ty này còn nhỏ, số lượng cổ đông ít. Đối với loại thứ hai, cho tới nay đã có hàng trăm doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá bán cổ phiếu.
Hàng năm, thông qua các hình thức tiết kiêm, phát hành trái phiếu, cổ phiếu đã thu hút hàng chục ngàn tỷ đồng vốn phục vụ cho nền kinh tế. Tuy vậy, số lượng trên vẫn còn rất nhỏ bé, nếu tính tổng giá trị các khoản vay trong nước thông qua phát hành các loại trái phiếu chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn so với GDP, bình quân khoảng 5% của GDP, trong đó có giá trị cổ phiếu khoảng 1% GDP.
Như vậy việc đầu tư qua trái phiếu, cổ phiếu là một hiện tượng mới ở Việt Nam. Qua thực tế, thị trường trái phiếu, cổ phiếu ở Việt Nam bộc lộ những đặc thù sau:
Quy mô thị trường nhỏ bé, số lượng trái phiếu, cổ phiếu ít, chưa được tuyên truyền, phổ biến đầy đủ trong dân chúng. Trong cơ cấu chứng khoán phát hành, chủ yếu là trái phiếu và trong trái phiếu, chủ yếu là trái phiếu Chính phủ.
Thời hạn ngắn, mệnh giá thấp, có tới 90% loại dưới 1 năm còn lại từ 1-3 năm. Chủ yếu là cân đối tạm thời trước mắt, phát hành đợt sau trả đợt trước, thời gian chu chuyển của đồng tiền chỉ thích ứng với vốn lưu động, chưa đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn…
Chưa có các chuẩn mực về công khai hoá, về kế toán, kiểm toán đối với các công ty phát hành trái phiếu, cổ phiếu, các tiêu chuẩn pháp lý chưa bảo đảm, phương thức phát hành chưa theo tiêu chuẩn quốc tế, chủ yếu là phát hành trực tiếp không thông qua các ngân hàng bảo lãnh… làm cho nhà đầu tư lo ngại về sự rủi ro của các trái phiếu, cổ phiếu do các công ty phát hành gây ra.
Tuy còn nhiều nhược điểm song có thể nói thị trường trái phiếu, cổ phiếu Việt Nam đã khởi sắc đã thu hút được một khối lượng vốn nhất định nhằm phát triển nền kinh tế đất nước. Điều quan trọng là tạo cho dân chúng làm quen với thể thức đầu tư mới trong nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, thị trường trái phiếu, cổ phiếu Việt Nam đã tạo những hàng hoá ban đầu cho thị trường chứng khoán.
Từ thực trạng trên đòi hỏi phải có những biện pháp hữu hiệu đã tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Muốn có những trái phiếu, cổ phiếu đủ chuẩn mực quốc tế, nền kinh tế cần có những công ty phát hành có đủ điều kiện, đủ uy tín để niêm yết trên thị trường chứng khoán và phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra thị trường quốc tế. Đất nước đang thực hiện nhiều giải pháp, song trong đó có một giải pháp hữu hiệu nhất là tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
1.2.3 . Sự cần thiết khách quan phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc ngày càng khẳng định rõ hơn vai trò và vị thế của mình trên trường quốc tế. Cùng với sự phát triển kinh tế kéo theo nhu cầu về vốn ngày càng lớn nhằm mở rộng và phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy với chiến lược phát triển nền kinh tế thị trường việc tạo dựng và cơ chế huy động vốn và luân chuyển vốn thích hợp cho tất cả các chủ thể với các hình thức sở hữu khác nhau của nền kinh tế thị trường là yêu cầu hết sức cấp bách.
Với mục tiêu đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 là phát triển nhanh, hiệu quả cao, bền vững và mục tiêu đến năm 2020 là phấn đấu đưa đất nước ta về cơ bản thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng bình quân GDP năm ở mức 9-10%, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công. Để đạt được mục tiêu trên cần huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước, khuyến khích các thành phần kinh tế, cá nhân tiết kiệm nguồn vốn nhàn rỗi đó thành vốn đầu tư hoạt động sinh lời và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài bằng nhiều hình thức như phát hành trái phiếu, cổ phiếu, mở rộng các quỹ đầu tư….Do vậy thị trường chứng khoán cần được mở rộng và phát triển để đáp ứng các yêu cầu này.
Bên cạnh những điều kiện về mặt kinh tế, quan điểm và chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển thị trường chứng khoán cũng là một điều kiện thuận lợi nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán . Uỷ ban chứng khoán Nhà nước được thành lập theo Nghị đinh số 75 CP ngày 28/11/1996 của Chính phủ. Trong khoảng thời gian này Uỷ ban là cơ quan trực thuộc Chính phu thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán. Ngày 12/3/2004 Uỷ ban chuyển thành cơ quan thuộc Bộ Tài chính quản lý.
Định hướng và chính sách của Đảng và Nhà nước là rất phù hợp và khuyến khích phát triển thị trường chứng khoán trong đó phải kể đến các chủ trương:
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Chủ trương công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông thôn, nông nghiệp.
Chủ trương Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
Chủ trương phát triển thị trường chứng khoán.
Với các chính sách hợp lý của Đảng và Nhà nước đã mở ra cơ hội cho thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển ngày một đạt hiệu quả cao.
Việc phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong điều kiện hiện nay có những thuận lợi và khó khăn nhất định.
Những thuận lợi khi phát triển thị trường chứng khoán:
- Mức tăng trưởng cao, một mặt kéo theo sự tăng lên nhu cầu về vốn đầu tư, tức là làm tăng mức cung về cổ phiếu và trái phiếu trên thị trường. Mặt khác, tăng trưởng cao sẽ góp phần tăng mức tiết kiệm, đầu tư, trên cơ sở đó tăng mức cầu về chứng khoán.
Sự xuất hiện của các công cụ tài chính ngắn hạn( Tín phiếu Kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, tín phiếu ngân hàng) và các thị trường tài chính ngắn hạn hoạt động thường xuyên, hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng đối với thị trường vốn dài hạn. Sự hoạt động thông suốt của thị trường vốn ngắn hạn cũng như sự can thiệp có hiệu quả của ngân hàng Nhà nước thông qua các công cụ lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở trên thị trường ngắn hạn có ý nghĩa rất quyết định đến sự ổn định của thị trường chứng khoán.
Sự xuất hiện của các công cụ tài chính dài hạn( Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công trình, trái phiếu đô thị, trái phiếu ngân hàng và một số trái phiếu công ty và một số loại cổ phiếu nhất định) mặc dù khả năng chuyển đổi và phương thức phát hành còn có nhiều hạn chế nhưng đây là những công cụ ban đầu tạo hàng cho thị trường chứng khoán.
Trong những năm gần đây, hệ thống khung pháp lý điều chỉnh các hoạt động chứng khoán ngày càng hoàn thiện. Hai ngành Ngân hàng và Tài chính đã có sự nghiên cứu về cơ cấu tổ chức vận hành của thị trường chứng khoán, đồng thời đã tổ chức đào tạo nhiều cán bộ dưới nhiều hình thức khác nhau ở trong và ngoài nước.
Việc phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta tiến hành trong điều kiện nhiều nước đã phát triển thị trường chứng khoán ở mức độ rất cao. Đây là những đối tượng rất cần thiết cho phép ta rút ra những bài học kinh nghiệm, những mặt mạnh, mặt yếu của từng loại mô hình, trên cơ sở đó có thể tìm ra con đường đi thích hợp, nhanh chóng và tránh được những vấp váp có thể xảy ra.
Những khó khăn khi phát triển thị trường chứng khoán:
- Mức tiết kiệm trong nền kinh tế còn thấp, trong khi đó nguy cơ lạm phát vẫn còn tiềm ẩn.
Mặc dù hệ thống pháp lý đang ngày được hoàn thiện nhưng hiện tại vẫn còn thiếu và còn chưa đồng bộ.
Chương trình cổ phần hoá đang tiếp tục được thực hiện nhưng vẫn còn chậm, chưa thể đáp ứng nhu cầu hàng hoá cho thị trường .
Trình độ cán bộ thiếu và yếu cả về số lượng chất lượng.
1.3. Những nội dung cơ bản của phát triển thị trường chứng khoán.
1.3.1. Phát triển các yếu tố cầu và kích cầu sản phẩm.
Để phát triển thị trường việc tạo ra các nhu cầu về sản phẩm đóng vai trò quan trọng. Có thể tiến hành kích cầu bằng nhiều giải pháp khác nhau để vừa làm tăng trưởng dung lượng cầu thị trường, vừa tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Với sự phát triển hiện nay của nền kinh tế, đầu tư và tiết kiệm ngày càng tăng. Để huy động những nguồn vốn trong dân, sử dụng có hiệu quả những nguồn vốn đó là một yêu cầu cần thiết. Trước hết hoạt động marketing chứng khoán phải hướng tới nhóm khách hàng có vốn và kích thích họ tham gia đầu tư vào các hoạt động chứng khoán trên thị trường. Nghiên cứu những chính sách hợp lý, hấp dẫn theo hướng tích cực, tiến bộ để phát triển nhu cầu đầu tư vốn nhằm sinh lời trong dân, khuyến khích họ tham gia vào thị trường chứng khoán.
1.3.2. Phát triển các yếu tố dịch vụ và giới thiệu sản phẩm.
Xuất phát từ đặc điểm rủi ro cao trong kinh doanh nên các công ty chứng khoán đều lựa chọn hướng kinh doanh tổng hợp các loại hình dịch vụ, không chuyên sâu vào một loại dịch vụ nào.
So với các công ty chứng khoán trên thế giới, nhìn chung các dịch vụ chứng khoán tại Việt Nam còn khá đơn giản và sơ sài, chưa đủ sức hấp dẫn với khách hàng. Hiện nay, nhằm thu hút và giữ chân khách hàng, các công ty đã chú ý đến việc thiết kế và triển khai các dịch vụ mới, đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư.
Việc phát triển dịch vụ thị trường liên quan đến: phát triển các sản phẩm, dịch vụ cung ứng cho khách hàng và tổ chức dịch vụ, tư vấn, thông tin cho thị trường đến khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác.
1.3.3. Nâng cao sức cạnh tranh của các dịch vụ.
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp buộc phải chấp nhận luật chơi"cạnh tranh". Các doanh nghiệp đều hiểu rõ rằng nếu không hơn hẳn đối thủ cạnh tranh trên một phương diện nào đó thì không thể tồn tại trên thị trường. Việc nâng cao sức cạnh tranh là nhiệm vụ trọng yếu, mang ý nghĩa sống còn đối với các công ty chứng khoán. Để mang lại lợi thế cạnh tranh, công ty có thể tung ra nhiều dịch vụ mới( biến tấu từ những dịch vụ cũ hoặc tăng tiện ích của dịch vụ đã có), cải tiến quá trình cung ứng dịch vụ, máy móc thiết bị hiện đại.
1.3.4. Phát triển đồng bộ các thị trường.
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính. Việc gắn kết thị trường chứng khoán với thị trường tài chính, thị trường tiền tệ là điều kiện quan trọng thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển.
Để phát triển thị trường chứng khoán theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng ta khẳng định cần tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường" thúc đẩy sự hình thành phát triển và từng bứơc hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm đến các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản"
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng và tiêu chí đánh giá hiệu quả phát triển thị trường chứng khoán.
1.4.1. Thực trạng những bài học về phát triển thị trường.
Lịch sử phát triển các thị trường chứng khoán thế giới trải qua một sự phát triển thăng trầm lúc lên lúc xuống. Vào những năm 1875-1913, thị trường chứng khoán thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới lúc đó. Nhưng sau đó thị trường chứng khoán Tây, Bắc âu và Nhật Bản khủng hoảng vào"ngày thứ năm đen tối"(29/12/1929). Đến chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc các thị trường chứng khoán hồi phục dần và phát triển mạnh. Đến năm 1987, các thị trường chứng khoán thế giới lại điên đảo với"ngày thứ hai đen tối" do: hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được yêu cầu của giao dịch, sụt giá chứng khoán ghê ghớm, mất lòng tin và phản ứng dây chuyền. Theo quy luật của nó, sau gần hai năm mất lòng tin, thị trường chứng khoán lại đi vào giai đoạn ổn định và phát triển. Cứ mỗi lần khủng hoảng như vậy, giá chứng khoán của tất cả các thị trường chứng khoán trên thế giới sụt giá kinh khủng tuy ở mỗi khu vực và mỗi nước ở những mức độ khác nhau gây ra sự ngừng trệ cho thị trường chứng khoán toàn cầu và cũng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế mỗi nước.
Hiện nay trên thế giới có gần 200 Sở giao dịch chứng khoán phân tán khắp các châu lục. Sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên thế giới cho thấy phần lớn các thị trường chứng khoán sau khi thiết lập đều hoạt động có hiệu quả, ổn định và nhanh chóng phát triển vững chắc nhờ sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt hàng hoá, luật pháp, con người, bộ máy quản lý và đặc biệt sự giám sát và quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước. Song, cũng có một số thị trường chứng khoán có sự trục trặc ngày từ ban đầu như thị trường chứng khoán Thái Lan, Inđônêxia, hoạt động trì trệ một thời gian dài do thiếu hàng hoá và do không được quan tâm đúng mức. Thị trường chứng khoán Philippine kém hiệu quả do thiếu sự chỉ đạo và quản lý thống nhất hiệu quả hoạt động của hai Sở giao dịch chứng khoán. Thị trường chứng khoán Ba Lan, Hungari gặp trục trặc do việc chỉ đạo giá cả quá cao hoặc quá thấp…Xét về toàn cầu thì thị trường chứng khoán thế giới vẫn luôn tăng trưởng.
Như vậy thị trường chứng khoán phát sinh, phát triển do những yêu cầu thiết yếu lịch sử và những đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế. Phát triển thị trường là cần thiết nhưng cần có những kinh nghiệm rút ra từ bài học của các nước phát triển đi trước để có những bước đi vững chắc và ổn định.
1.4.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường chứng khoán.
1.4.2.1. Nhân tố môi trường vĩ mô.
Yếu tố kinh tế.
Đây là yếu tố nền tảng, đảm bảo cho khả năng có chứng khoán lưu thông trên thị trường. Nền kinh tế phát triển sẽ có nhiều khả năng tạo thêm việc làm mới, giảm tình trạng thất nghiệp và tăng thu nhập cho dân cư. Do thu nhập dân cư tăng nên cơ hội để họ trở thành nhà đầu tư có khả năng chuyển tiết kiệm thành đầu tư trên thị trường chứng khoán là rất lớn. Kinh tế phát triển thì nhu cầu về vốn để xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước và nhu cầu huy động vốn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng tăng. Khi thu nhập của các tầng lớp dân cư được cải thiện thì nhu cầu đầu tư trong dân chúng cũng tăng lên. Với vai trò là trung gian tài chính, công ty chứng khoán là cầu nối giữa những người có vốn nhàn rỗi và những người cần vốn trên thị trường chứng khoán. Khi những tổ chức có nhu cầu huy động vốn và những người có nhu cầu đầu tư ngày càng nhiều, hàng hoá trên thị trường chứng khoán càng phong phú và đa dạng, công ty chứng khoán càng có cơ hội thể hiện vài trò của mình thông qua việc thực hiện tốt các nghiệp vụ và mở rộng thị trường. Mặt khác sự ổn định và tăng trưởng kinh tế làm giảm rủi ro và tăng hiệu quả hoạt động đầu tư. Điều này làm tăng tính hấp dẫn của thị trường trong nước và thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời nhu cầu đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước cũng tăng theo. Đây là tiền đề cho sự phát triển của công ty chứng khoán.
b. Chính trị- luật pháp.
Nếu như yếu tố kinh tế là nền tảng của thị trường chứng khoán thì yếu tố pháp lý sẽ là công cụ duy trì cho thị trường chứng khoán hoạt động đều đặn, lành mạnh, có hiệu quả và ngày càng phát triển. Không phải bất cứ doanh nghiệp nào khi có nhu cầu về vốn đầu tư cũng có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu, và đưa ra các loại chứng khoán đó vào giao dịch tại một sở giao dịch chứng khoán. Do đó thị trường chứng khoán đòi hỏi phải có hệ thống luật pháp đầy đủ. Muốn thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, có hiệu quả và phát triển trước hết đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán; đồng thời hệ thống luật pháp và kinh tế cũng phải hoàn chỉnh hơn. Một hệ thống pháp lý mang tính chất khuyến khích về tổ chức, hoạt động của công ty sẽ góp phần tạo lập, ổn định hoạt động của nó đồng thời sẽ làm tăng lòng tin của công chúng đầu tư. Các định chế tài chính đã hình thành và ngày càng phát triển thuận lợi cho hoạt động của thị trường chứng khoán. Đó là các doanh nghiệp quốc doanh, thuộc khu vực kinh tế Nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hợp doanh và công ty cổ phần thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Hoạt động trên các lĩnh vực công nghệ, thương mại, dịch vụ tài chính tín dụng và ngân hàng.Nhiều doanh nghiệp cũng cho biết dự kiến về khả năng tham gia thị trường và tiếp cận với các dịch vụ trong thời gian tới(156/289 doanh nghiệp - chiếm 53,97%). Trong đó, 123 doanh nghiệp dự kiến phát hành cổ phiếu và 33 doanh nghiệp dự kiến phát hành trái phiếu. Trong số đó, có tới 85 doanh nghiệp có ý định phát hành chứng khoán rộng rãi ra công chúng với khối lượng huy đông vốn hơn 10 tỷ đồng. Cụ thế, trong giai đoạn 2001-2005 có 82 doanh nghiệp, năm 2005-2010 có 51 doanh nghiệp tham gia.
c. Yếu tố kỹ thuật.
Ngày nay, không ai có thể phủ nhận vai trò của khoa học kỹ thuật trong mọi lĩnh vực của đời sống. Vốn kỹ thuật công nghệ đã trở thành yếu tố cạnh tranh và thúc đẩy cạnh tranh. Phát triển thị trường phải gắn liền với phát triển kỹ thuật nhằm đạt được kết quả cao. Hiện nay công ty đã có sự đầu tư và đổi mới về kỹ thuật công nghệ như trang thiết bị hiện đại, bảng điện tử theo dõi giao dịch,…Bên cạnh sự hiện đại về máy móc thiết bị thì kiến thức về thị trường chứng khoán cũng là vấn đề cốt lõi. Sự hiểu biết về chứng khoán, thị trường chứng khoán và kinh doanh chứng khoán trong nhận thức của người dân Việt Nam hiện nay còn ở mức rất thấp. Nhận thức về những khái niệm căn bản của thị trường chứng khoán ở mức tối thiểu cần thiết. Trong thực tế việc ứng dụng hoàn toàn tuỳ thuộc vào nhận thức chủ quan của từng người. Để giải quyết yếu tố kỹ thuật không có giải pháp nào khác là phải đào tạo đội ngũ chuyên viên cho bộ máy quản lý, điều hành về môi giới, kinh doanh chứng khoán. Đồng thời phải tuyên truyền, giải thích, phổ cập kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho dân chúng và các nhà quản trị doanh nghiệp.
1.4.2.2. Nhân tố môi trường vi mô.
Tâm lý khách hàng.
Tổ chức thị trường chứng khoán trước hết là để động viên mọi nguồn vốn tiết kiệm và để dành trong dân chúng, và để thu hút những nguồn vốn lớn từ nước ngoài vào công cuộc đầu tư. Yếu tố tâm lý đòi hỏi thị trường chứng khoán phải có tính động viên và khả năng thu hút. Sự phân chia ra nhiều loại cổ phiếu và nhiều loại trái phiếu khác nhau đã thể hiện được yếu tố tâm lý của thị trường chứng khoán. Hành vi mua chứng khoán là hoạt động đầu tư đòi hỏi phải có suy tính, có tính rủi ro cao dù đầu tư vào những hình thức chứng khoán đơn giản nhất. Vấn đề này rất khó kiểm soát đối với các công ty chứng khoán.
Khách hàng của thị trường chứng khoán là các nhà đầu tư bao gồm các cá nhân và tổ chức và cả các công ty phát hành chứng khoán. Đây là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Bởi vì khách hàng tạo nên thị trường, quy mô khách hàng tạo nên quy mô thị trường. Khách hàng sẽ bao hàm nhu cầu. Nhu cầu và sự biến đổi nhu cầu lại chịu chi phối của nhiều yếu tố, đến lượt mình nhu cầu và sự biến đổi của nó lại ảnh hưởng đến toàn bộ các quyết định về marketing của doanh nghiệp.Vì vậy doanh nghiệp cần phải thường xuyên theo dõi khách hàng và tiên liệu những biến đổi về nhu cầu của họ, từ đó có những ứng xử phù hợp. Để công chúng tham gia rộng rãi thì họ phải thấy được bản chất của chứng khoán, họ phải nhận thức được rằng chứng khoán có giá trị, song nó cũng chứa đựng những rủi ro, nghĩa là nhà đầu tư có thể tăng tài sản của họ nhờ kinh doanh chứng khoán, nhưng họ cũng có thể bị thua lỗ, thậm chí mất toàn bộ tài sản. Khách hàng mua chứng khoán hiện nay là những người có vốn và am hiểu về thị trường chứng khoán do đây là một lĩnh vực mới và có nhiều rủi ro. Kh._.i nhận thức của khách hàng tăng lên thì nhu cầu của thị trường tăng lên làm cho việc mở rộng và phát triển thị trường trở nên cần thiết và đóng vai trò quan trọng.
Đối thủ cạnh tranh.
Trên thị trường chứng khoán hiện nay có 13 công ty kinh doanh chứng khoán tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng. Đối thủ cạnh tranh đáng kể nhất của công ty chứng khoán NHNo&PTNT VN phải kể đến hai công ty chứng khoán của Ngân hàng đầu tư và phát triển, và Ngân hàng ngoại thương. Đây là những công ty chứng khoán hiện đang kinh doanh rất có hiệu quả, chiếm thị phần cao trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Sự cạnh tranh quyết liệt giữa các công ty chứng khoán sẽ tạo ra một thị trường chứng khoán sôi động và hấp dẫn hơn. So với các đối thủ cạnh tranh công ty chứng khoán NHNo&PTNT VN có những lợi thế đáng kể: là công ty có vốn điều lệ lớn nhất tạo điều kiện thuận lợi để tiến hành các nghiệp vụ kinh doanh, mặt khác được sự hỗ trợ nhiệt tình của NHNo&PTNT VN cả về vốn, công nghệ, con người.
Các yếu tố bên trong doanh nghiệp.
Định hướng kinh doanh của công ty là yếu tố quan trọng thuộc môi trường bên trong vì marketing mà trước hết là chiến lược marketing không thể tách rời nội dung định hướng kinh doanh.
Định hướng kinh doanh thường được thể hiện trong các báo cáo tổng kết kinh doanh của năm trước liền kề. ở đây chiến lược kinh doanh được đề cập khá chung chung song không xác định rõ lộ trình thực hiện. Công việc này được triển khai bởi các phòng ban khác do phòng marketing chưa được đánh giá đúng mức hoặc chưa được thành lập.
Tổ chức kinh doanh của công ty: Mô hình tổ chức của các công ty chứng khoán hiện nay khá giống nhau và đều là mô hình tổ chức trực tuyến. Các quyết định kinh doanh được ban hành từ trên xuống dưới, các phòng ban được phân chia theo mảng quản lý hoặc theo chiều dài từng công đoạn của dịch vụ. Do đó các thông tin về từng khách hàng, nhóm khách hàng không được thu thập vì do nhiều đầu mối theo dõi ảnh hưởng không tốt đến hoạt động marketing.
Các yếu tố liên quan đến nguồn lực:
Nguồn lực của các công ty bao gồm trang thiết bị, máy móc, nhân lực, vốn… các yếu tố này mang ý nghĩa quyết định thành công đến các hoạt động kinh doanh nói chung. Có thể nói vốn của các công ty chứng khoán hiện nay ở tình trạng rất yếu nên khó có điều kiện phát triển công nghệ, dịch vụ và mở rộng mạng lưới cung ứng dịch vụ. Đây là lĩnh vực kinh doanh dịch vụ nên vai trò của cán bộ nhân viên rất quan trọng. Chất lượng nhân lực tại công ty chứng khoán đã được chú ý nâng lên một bước. Số cán bộ mới vào làm đều phải trải qua các kỳ tuyển chọn với kiến thức tối thiểu là đại học kinh tế và sử dụng tiếng Anh và vi tính thành thaọ. Số lượng cán bộ cũ được chú ý đào tạo lại, thực tập khảo sát ở nước ngoài và cử đi học các lớp sau đại học với tỷ lệ khá cao. Bên cạnh đó công ty đã chú trọng hơn đến công tác khách hàng vì vậy thái độ tác phong tiếp khách của nhân viên đã nâng lên một bước, nhã nhặn và lịch sự hơn.
1.4.3. Những tiêu chí đánh giá hiệu quả phát triển thị trường chứng khoán.
Một thị trường hoạt động hiệu quả trước hết nó phải phát huy được những ưu điểm vốn có, cộng thêm sự đáp ứng được những yêu cầu mà những nhà quản lý thị trường và những người tham gia vào thị trường mong đợi. Đối với công ty, nó phải thể hiện được qua kết quả của quá trình kinh doanh và lợi nhuận thu được.
Hiệu quả hoạt động phát triển thị trường thể hiện ở những tiêu chí sau:
Số lượng nhà đầu tư mở tài khoản tại công ty.
Dịch vụ cung cấp cả về số lượng và chất lượng.
Nhu cầu sử dụng các dịch vụ tư vấn và quản lý danh mục đầu tư.
Doanh thu từ các nghiệp vụ kinh doanh.
Tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường.
Chương 2
Thực trạng thị trường và phát triển thị trường của công ty TNHH Chứng khoán NHNo&PTNT VN
2.1. Tổng quan về công ty TNHH Chứng khoán NHNo&PTNT VN.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển.
2.1.1.1. Sự hình thành
Các công ty chứng khoán được thành lập theo quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998 dưới hình thức là công ty cổ phần hoặc là công ty TNHH. Đóng góp vào sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, NHNo & PTNT tham gia vào thị trường chứng khoán thông qua việc hành lập một công ty con độc lập với hình thức là công ty TNHH một thành viên do NHNo & PTNT cấp 100 vốn điều lệ theo mô hình Chủ tịch và Giám đốc quy định tại luật doanh nghiệp.
Ngày 16/1/1998, tổng Giám đốc NHNo & PTNT Việt nam ra quyết định số 969/QĐ - NHNo – 02 thành lập ban trù bị thành lập công ty chứng khoán NHNo & PTNT
Công ty chứng khoán được thành lập theo:
Quyết định 269/QĐ/HĐQT của HĐQT NHNo & PTNT Việt Nam
Quyết định số 270/QĐ - HĐQT ban hành điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty TNHH chứng khoán NHNo & PTNT
Giấy phép hoạt động số 08/GPHĐKD của Uỷ ban chứng khoán cấp ngày 04/05/2001
Giấy đăng ký kinh doanh số 0104000024 do sở kế hoạch đầu tư Hà Nội cấp ngày 04/05/2001
Tên đầy đủ : Công ty TNHH chứng khoán NHNo & PTNT.
Tên tiếng Anh : Agribank securities company Ltd.
Tên viết tắt : Agriseco.
Trụ sở chính : Tầng 4 nhà C3 – Phương Liệt – Q. Thanh Xuân – Hà Nội
Điện thoại : 04.8687217 Fax: 04.8687219
Email: chungkhoanno-ho@yahoo.com
Vốn điều lệ: 100 tỷ VNĐ
Chủ tịch công ty: Ông Lê Văn Sở.
Giám đốc công ty: Ông Hà Huy Toàn.
- Phòng giao dịch Ngọc Khánh: số 172 Ngọc Khánh – Ba Đình - Hà Nội
Số điện thoại 04.771465 Fax: 04.7714164
- Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh:
Lầu 2 số 2A Phó Đức Chính, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Điện thoại: 08.8216361 Fax: 08.8216362
Công ty ra đời là kết quả của một trong những chiến lược hàng đầu của NHNo & PTNT Việt Nam: chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng các dịch vụ, nghiệp vụ ngoài tín dụng trong đó kinh doanh chứng khoán vừa tập dượt đáp ứng yêu cầu hiện đại, vừa chuẩn bị nguồn lực cho hoạt động lớn hơn và hướng tới xây dựng thành tập đoàn tài chính vào những năm tiếp theo.
2.1.1.2 . Quá trình phát triển của công ty.
- Năm 1999 chuẩn bị thành lập công ty.
- 20/12/2000 công ty được thành lập nhưng đến ngày 05/11/2001 công ty mới chính thức đi vào hoạt động.
- 30/11/2001 thành lập chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh.
- 30/10/2003 quyết định mở phòng giao dịch Ngọc Khánh.
* Kể từ khi đi vào hoạt động, công ty đã có những thay đổi đáng kể:
- Năm 2001: vốn điều lệ là 60 tỷ VNĐ
Đội ngũ cán bộ có sự lựa chọn và chuyển từ NHNo & PTNT sang song với số lượng rất ít. Mặt khác công ty được đưa vào hoạt động vào những tháng cuối năm do đó thời gian hoạt động của năm là không nhiều vì vậy doanh thu đạt được chưa thể bù đắp chi phí hoạt động kinh doanh nên cuối năm lên công ty hoạch toán bị lỗ 703.486.986 VNĐ
Năm 2002:
Đây là năm đầy thử thách của thị trường chứng khoán Việt Nam, chỉ số VN index trong năm đã giảm hơn 22( từ trên 500 diểm xuống 130 điểm), tổng giá trị toàn thị trường đạt khoảng 1080 tỷ đồng tăng khoảng 4,5 so với năm 2001, nhưng giao dịch cổ phiếu chỉ đạt 960 tỷ đồng giảm 0,5 so với năm 2001. Thời kỳ cao nhất của Vn index năm 2001 là 470,04 điểm thì đến thời điểm kết thúc năm 2002 VN index đã mất tới 67 giá trị. Số lượng các nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán quá khiêm tốn. Các tổ chức đầu tư có thể đếm trên đầu ngón tay do thị trường thực sự chưa sôi động: Các cổ phiếu giao dịch cầm chừng, giao dịch trái phiếu ảm đạm. Tình hình cạnh tranh, lãi suất dao động, và giá vàng tăng mạnh vào cuối năm 2002 đã ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình hoạt động kinh doanh của công ty TNHH chứng khoán NHNo & PTNT. Trong thời gian này việc giành thị phần đáng kể trên thị trường không phải dễ nhưng công ty đã tận dụng được những lợi thế từ nguồn lực của công ty và nguồn lực của công ty mẹ. Đó là:
+ Dựa vào thế lực của ngân hàng mẹ lên công ty có số vốn lớn từ đó có thể kinh doanh tất cả các nghiệp vụ, thực hiện bảo lãnh phát hành lớn.
+ Vị thế của NHNo & PTNT với đội ngũ khách hàng truyền thống, đông đảo ngày càng gia tăng sẽ là thuận lợi không nhỏ với công ty chứng khoán trong hoạt động kinh doanh và lắm giữ thị phần.
+ Công ty đựơc quyền vay vốn từ ngân hàng mẹ từ đó có thể buôn bán lớn và bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ với quy mô lớn.
+ Công ty đã xây dựng đề án tăng vốn điều lệ.
+ Công ty đã phát hành kỳ phiếu NHNo.
+ Đội ngũ cán bộ được bổ sung. Hướng đào tạo của công ty là cử cán bộ sang học tập ở các nước như Thái Lan,...
+ Đặc biệt trong năm 2002 công ty tiếp nhận thêm 3 phần mềm tin học và đã tổ chức thành công hội nghị khách hàng.
Do có những thay đổi trên nên năm 2002 công ty làm ăn có hiệu quả và có lãi 2.837697281 đồng, doanh thu chủ yếu từ hoạt động môi giới và tự doanh.
Năm 2003:
Do thị trường chứng khoán Việt Nam có nhhiều thay đổi giá cổ phiếu sụt giảm đỉnh điểm là ngày 01/04/2003 với VN-index là 139,64 điểm và ngày 24/10/2003 với VN index là 130,9 điểm, tổng giá trị giao dịch cổ phiếu bình quân có thời kỳ xuống dưới một tỷ đồng. Mặt khác cả năm chỉ có một công ty niêm yết nhưng lại có thêm bốn công ty chứng khoán ra đời do đó việc kinh doanh của các công ty chứng khoán gặp nhiều khó khăn. bên cạnh những khó khăn về giao dịch cổ phiếu thì giao dịch về trái phiếu lại tăng mạnh, có khoảng 101 trái phiếu trong đó có khoảng 99 loại trái phiếu của chính phủ với tổng giá trị niêm yết gần 11000 tỷ đồng, tổng giá trị giao dịch trái phiếu lên đến 2500 tỷ trong số 3000 tỷ toàn thị trường.
Công ty đã tận dụng hầu hết mọi nguồn lực: vốn tự có lớn, nguồn nhân lực… của công ty và thế mạnh, uy thế của Ngân hàng mẹ NHNo & PTNT Việt Nam. Bên cạnh đó tháng 03/2003 công ty đưa thêm nghiệp vụ tự doanh cổ phiếu và có bước nhảy vọt trong kinh doanh trái phiếu là kinh doanh trái phiếu chính phủ. Công ty còn đưa thêm nghiệp vụ bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ cho Kho bạc Nhà nước và quỹ hỗ trợ phát triển và tham gia vào đấu thầu trái phiếu qua thị trường giao dịch chứng khoán, làm đại lý phát hành cho NHNo & PTNT Việt Nam.
Hoạt động môi giới đã phát triển, thành phần môi giới tăng khoảng 4% so với năm 2002. công ty cũng đã thực hiện quản lý lưu ký, tái lưu ký tại Trung tâm Giao dịch thành phố Hồ Chí Minh và tổng số lưu ký của khách hàng tại công ty là 3,3 triệu chứng khoán. Trong năm công ty cũng thực hiện tư vấn miễn phí cho khách hàng để thu hút khách hàng ngày một đông hơn. Đặt biệt vào tháng 6/2003 công ty phát triển sản phẩm mua bán lại (REPO, REREPO). Trong năm 2003 công ty cải thiện và phát triển thêm các nguồn lực bổ sung vào vốn tự có lên 100 tỷ đồng, bổ sung thêm cán bộ ( hiện nay là 40 người ).
Tuy nhiên một số nghiệp vụ như: Quản lý danh mục đầu tư, tư vấn niêm yết, tư vấn cổ phần hoá, phân tích hoạt động tài chính của các doanh nghiệp chưa được thực hiện. Song năm 2003 công ty cũng đạt được lợi nhuận trước thuế là 4.112.279.437 VNĐ. Năm 2002, 2003 công ty được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp và năm 2004, 2005 chỉ phải nộp 50% thuế thu nhập doanh nghiệp.
2.1.1.3 . Lĩnh vực kinh doanh
Công ty TNHH chứng khoán NHNo & PTNT được phép của UBCK Nhà nước thực hiện tất cả các nghiệp vụ chứng khoán hiện có trên thị trường.
a. Môi giới chứng khoán: Quy mô vốn pháp định 3 tỷ VNĐ.
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian, đại diện đại lý cho khách hàng, thực hiện các lệnh hợp pháp của khách hàng trong giao dịch chứng khoán để thu phí dịch vụ.
- Công ty đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch.
- Để mua bán chứng khoán, niêm yết trên TTGD, các tổ chức cá nhân phải thông qua công ty chứng khoán là thành viên TTGD.
Công ty TNHH chứng khoán NHNo & PTNT sẽ giúp khách hàng mở tài khoản chứng khoán, tiến hành mua bán các chứng khoán và theo dõi các TKCK cho khách hàng, khách hàng có thể giao dịch qua điện thoại ( sau này có thể giao dịch trực tuyến ).
b. Nghiệp vụ tự doanh:
Công ty thực hiện tự doanh nhằm thu lợi nhuận của công ty, mặt khác góp bình ổn giá cả thị trường. Tự doanh là nghiệp vụ công ty tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh được tiến hành theo phương thức giao dịch trực tiếp hay gián tiếp qua sự thoả thuận của công ty chứng khoán với các đối tác hoặc giao dịch qua sở giao dịch chứng khoán.
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện nhằm:
- Thu lợi nhuận cho công ty qua lợi tức và phần chênh lệch thị giá. Do có được lợi thế về thông tin và các hoạt động nghiệp vụ, hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán thường là các hoạt động đầu cơ chênh lệch giá nhằm thực hiện các giao dịch ARBII có chênh lệch giá tại các thị trường khu vực.
- Dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán: cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác các công ty chứng khoán cần phải đảm bảo khả năng thanh toán. Các loại chứng khoán cũng là một công cụ có tính thanh toán cao và có khả năng tạo lợi nhuận lớn.
- Kinh doanh hùn vốn và kinh doanh đầu tư
- Can thiệp bảo vệ chứng khoán khi giá chứng khoán bị biến động bất lợi cho tình hình hoạt động chung của thị trường, công ty chứng khoán tham gia vào thị trường để bình ổn giá của thị trường theo yêu cầu của cơ quan quản lý và để tự bảo vệ cho chính công ty và nhà đầu tư của mình.
c. Quản lý danh mục đầu tư: vốn pháp định là 3 tỷ VNĐ
Quản lý vốn và các giấy tờ có giá của khách hàng, mua bán hoặc chuyển nhượng chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa cho khách hàng.
* Quy trình của nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư gồm các bước:
- Xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý.
- Ký hợp đồng quản lý.
- Thực hiện hợp đòng quản lý.
- Kết thúc hợp đồng quản lý.
d. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư: vốn pháp định: 3 tỷ VNĐ.
Tư vấn cho khách hàng về những vấn đề liên quan tới quyết định đầu tư chứng khoán, công bố các thông tin, phát hành những báo cáo, phân tích tài chính…Qua đó khách hàng phải nộp chi phí cho công ty chứng khoán.
e.Đại lý phát hành: vốn pháp định: 22 tỷ đồng VNĐ.
Với hoạt động này công ty sẽ giúp các doanh nghiệp, các tổ chức thực hiện các thủ tục để phát hành chứng khoán, tổ chức thực hiện việc phát hành chào bán chứng khoán ra công chúng, hoặc nhận mua hoặc làm đại lý phát hành cho các tổ chức đó.
f. Lưu ký chứng khoán.
Khi mua chứng khoán nhà đầu tư được phát hành các chứng chỉ chứng khoán do vậy họ phải giữ đến khi thanh toán hoặc khi bán lại. Tuy nhiên việc lắm giữ như vậy gặp rất nhiều rủi ro như chứng khoán bị rách, hỏng, mất hoặc gây rất nhiều khó khăn trong việc thanh toán giao dịch. Để hạn chế những rủi ro như vậy công ty chứng khoán NHNo & PTNTsẽ đứng ra lưu giữ bảo quản các chứng khoán cho khách hàng, giúp khách hàng thực hiện quyền của mình đối với các chứng khoán nắm giữ.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ của công ty.
2.1.2.1. Chức năng nhiệm vụ của công ty.
Công ty chứng khoán NHNo & PTNT ra đời và trở thành một định chế tài chính trung gian căn bản của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán đã có tổ chức hoạt động, không phải trực tiếp do những người muốn mua hay muốn bán chứng khoán thực hiện mà là do những người môi giới trung gian thực hiện. Trong hoạt động của hệ thống giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển thị trườngchứng khoán.
Công ty TNHH chứng khoán là công ty TNHH được UBCK Nhà nước cấp phép hoạt động một số loại hình kinh doanh chứng khoán.
Chức năng của công ty được thể hiện bằng những loại hình kinh doanh mà công ty cung cấp bao gồm: môi giới, tự doanh, quản lý doanh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và lưu ký chứng khoán. Những chức năng này cũng đặt cho công ty những nhiệm vụ đó là việc công ty phải đưa ra các dịch vụ tiện ích phục vụ khách hàng, nhà đầu tư để góp phần tạo lập sự cân bằng và ổn định cho thị trường.
Với các hoạt động hiện có, công ty TNHH chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển của NHNo & PTNT với định hướng trong 8 đến 10 năm tới tiếp tục giữ vị thế ngân hàng thương mại hàng đầu ở Việt Nam và trở thành ngân hàng tiên tiến trong khu vực, có uy tín cao trong thị trường quốc tế. Đối với thị trường chứng khoán, công ty đã đang và sẽ góp phần vào việc phát triển chung của thị trường, vai trò đó thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Góp phần tạo ra một kênh huy động vốn trong và dài hạn cho thị trường tài chính.
- Tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hoá, góp phần vào việc đổi mới và cơ cấu lại các doanh nghiệp Nhà nước theo chủ trương của chính phủ.
- Góp phần vào việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán.
Để thực hiện đầy đủ các vai trò, chức năng của mình công ty đã đề ra các nguyên tắc hoạt động:
Theo tinh thần của thông tư 04/1999/TT- NHNN ngày 02/11/1999 của NHNo VN, điều lệ về tổ chức hoạt động của công ty đã ghi ở điều một “ công ty có tư cách pháp nhân và hạch toán độc lập được NHNo & PTNT cấp 100% vốn điều lệ ban đầu’’ và tại điều 2 điều lệ về tổ chức, hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn quy định rõ các nghĩa vụ và quyền lợi của công ty trên góc độ “một thành viên hạch toán độc lập”.
Như vậy với hai văn bản chỉ đạo trên, có thể rút ra các nguyên tắc chủ đạo cho việc kinh doanh của công ty đó là:
- Công ty có nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn, tự chịu trách nhiệm trên kết quả kinh doanh trước pháp luật và các quyết định kinh doanh chứng khoán của UBCK Nhà nước.
- Kinh doanh phù hợp với chiến lược, kế hoạch hoạt động và lợi ích của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn .
- Từng bước phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
- Phát huy nội lực sử dụng sức mạnh tối đa của toàn bộ hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, đồng thời từng bước phát triển các mối quan hệ hợp tác với các công ty trong và ngoài nước.
- Tổ chức và thực hiện công tác thanh tra kiểm soát nội bộ để đảm bảo hoạt động của công ty và nhân viên của công ty, phù hợp với các quy định của pháp luật.
Trên thực tế các nguyên tắc trên được thực hiện một cách rất nghiêm túc. Đó cũng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần tạo lập uy tín ban đầu của công ty trên thị trường chứng khoán
2.1.2.2. Cơ cấu tổ chức của công ty.
Thị trường chứng khoán đã hoạt động được năm năm song nhìn chung kinh doanh chứng khoán vẫn còn là một lĩnh vực khá mới mẻ ở Việt Nam, lượng hàng hoá còn rất đơn điệu, quy mô thị trường còn nhỏ bé. Những yếu tố đó đã tác động đến việc xác định quy trình nghiệp vụ cụ thể trong hoạt động kinh doanh và tác động đến việc tổ chức bộ máy của các công ty chứng khoán. AGRISECO cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Trong thời gian đổi mới đi vào hoạt động, việc tổ chức bộ máy của công ty còn đơn giản, với phương châm tinh gọn, hiệu quả, phù hợp với tình hình kinh doanh của thị trường.
Hiện nay công ty có 40 nhân viên trong đó các nhân viên nghiệp vụ đều đã được cấp giấy phép hành nghề trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức
Chủ tịch công ty
Ban giám đốc
Trụ sở chính
Các chi nhánh
Các phòng chuyên sâu nghiệp vụ tại trụ sở chính
Phòng giao dịch
Phòng kinh doanh
Phòng thiết kế lưu ký
Phòng HC- TH
Tổ kiểm tra kiểm soát nội bộ
Ban giám đốc chi nhánh
Các phòng giao dịch
Các phòng tác nghiệp ở chi nhánh
- Đặc điểm kinh doanh: Cũng như các công ty chứng khoán khác công ty luôn hoạt động theo triết lý kinh doanh, tối đa hoá lợi nhuận và sự hài lòng của khách hàng thông qua kinh doanh trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty và thực hiện tất cả các nghiệp vụ của công ty chứng khoán.
- Mục tiêu kinh doanh dài hạn của công ty trong thời gian tới: mở rộng thị phần, tăng sức cạnh tranh của công ty thông qua chất lượng các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách hàng nhằm trở thành một trong những công ty chứng khoán hàng đầu Việt Nam.
* Trụ sở chính của công ty tại Hà Nội: có 25 nhân viên, trong đó các bộ phận chia thành.
- Phòng kinh doanh gồm các bộ phận: bộ phận kinh doanh trái phiếu, bộ phận kinh doanh cổ phiếu, bộ phận môi giới, bộ phận tư vấn. Hoạt động kinh doanh liên quan đến lĩnh vực nào thì bộ phận đó phụ trách. Chức năng chủ yếu của phòng kinh doanh là thực hiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán.
- Phòng kế toán lưu ký: thực hiện thanh toán tiền và chứng khoán cho khách hàng, hạch toán kế toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Phòng hành chính tổng hợp: thực hiện các nghiệp vụ văn thư, hành chính, tổ chức nhân sự và quản lý tài sản.
* Chi nhánh công ty tại TPHCM gồm 15 nhân viên:
Phòng kinh doanh: có chức năng giống chức năng của phòng kinh doanh ở Hà Nội. Tuy nhiên do trung tâm giao dịch chứng khoán đặt tại TP. HCM nên phòng kinh doanh của chi nhánh còn có thêm hai đại diện giao dịch. Họ có nhiệm vụ chuyển lệnh của công ty lên hệ thống ghép lệnh của trung tâm giao dịch chứng khoán.
- Phòng kế toán lưu ký: thực hiện chức năng thanh toán tiền cho khách hàng, thanh toán kế toán các chứng từ do phòng kinh doanh chuyển tới.
Chi nhánh của công ty tại Hà Nội thực hiện nhận lệnh và chuyển lệnh tới trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM.
Trong các hoạt động, hội sở chính và chi nhánh TPHCM tương đối độc lập đối với nhau. Tuy nhiên giữa hội sở chính và chi nhánh thường xuyên liên hệ trong việc cung cấp thông tin các giao dịch và diễn biến của thị trường. Tóm lại, trong thời gian đầu đi vào các hoạt động, công ty đã gặp thuận lợi và có lợi thế so với các công ty chứng khoán khác- đó là sự trợ giúp về tài chính và kinh nghiệm, tổ chức hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam- một ngân hàng lớn có mạng lưới hoạt động rộng và có tiềm lực kinh tế mạnh.
2.1.3. Năng lực kinh doanh của công ty.
Năng lực kinh doanh của một công ty đựơc phản ánh qua sự tổng hợp các điều kiện kinh doanh của công ty đó. Sự thành bại của công ty trong hoạt động kinh doanh bắt đầu từ việc làm phù hợp với các điều kiện chủ quan bên trong với các điều kiện khách quan bên ngoài công ty. Để đạt được hiệu quả trong kinh doanh phải tranh thủ hoặc khống chế các điều kiện bên ngoài và phát huy hoặc cố gắng vượt qua những trở ngại từ điều kiện bên trong để thích nghi và tồn tại.
2.1.3.1. Năng lực về tài chính
Để hoạt động kinh doanh thì cần phải có vốn. Vốn của công ty bao gồm
- Vốn ban đầu: khi mới thành lập, công ty có vốn điều lệ ban đầu là 60 tỷ VNĐ
- Vốn được đầu tư bổ sung: hiện nay công ty đã tăng vốn lên trên 100 tỷ VNĐ và được đánh giá là công ty có vốn điều lệ lớn nhất.
- Phần lợi nhuận sau thuế: trong năm hoạt động đầu tiên (2001) công ty chưa có lãi thậm chí bị lỗ. Tuy nhiên đến năm 2002, 2003, 2004 công ty hoạt động ngày càng hiệu quả vào thu lợi nhuận ngày càng lớn.
2.1.3.2. Năng lực về yếu tố con người.
Nhân tố con người là một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của thị trường chứng khoán nói chung hay công ty chứng khoán nói riêng.
* Nguồn nhân lực công ty:
Tổng số cán bộ công nhân viên công ty là 40 người
Trong đó: + Nam: 20 người, nữ: 20 người
+ 1 tiến sỹ, 6 thạc sỹ, 32 cử nhân.
Như vậy, hầu hết cán bộ công nhân viên của công ty được đào tạo khá bài bản qua các trường đại học hoặc các khoá học của UBCK nhà nước. Tuy nhiên số lượng nhân viên còn ít nên nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường.
* Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: hiện nay rất được chú trọng trên nhiều phương diện như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ văn hoá, ngoại ngữ… các công việc cụ thể công ty đã làm được để bồi dưỡng nguồn nhân lực của mình là:
- Bố trí sắp xếp và tạo mọi điều kiện cho cán bộ công nhân viên theo học các lớp đào tạo đại học và sau đại học (hiện nay đang có 6 nhân viên đang học bằng thạc sỹ).
- Cử cán bộ đi dự các cuộc hội thảo, các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn ngày:
+ 32 lượt cán bộ được tham gia 4 khoá học trong 2 năm (từ quý 4/2003 đến quý 1/2005) tại Thái Lan.
+ Thái Lan cử các chuyên gia tư vấn sang Việt Nam để tư vấn cho Việt Nam 4 lần (2004), 1 tuần một lần.
- Cử người đi học lớp đào tạo cán bộ, bổ nhiệm người có năng lực vào bộ máy quản lý công ty
- Hàng năm tổ chức khen thưởng gương người tốt việc tốt, giao lưu học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ công nhân viên.
2.1.3.3. Năng lực công nghệ
Công nghệ hiện đại là một trong những điều kiện tiên quyết giúp đảm bảo được các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán để tạo ra một thị trường công bằng, công khai, hiệu quả cần phải có hệ thống thu thập, phân tích xử lý, công bố thông tin đầy đủ hiện đại. Nghiệp vụ môi giới được triển khai một cách có hiệu quả cần phải có sự giúp đỡ của công nghệ hiện đại trong việc xử lý lệnh nhanh chóng, chính xác, giúp truyền thông trên diện rộng, kết nối được nhiều văn phòng chi nhánh thành mạng thống nhất, giúp công tác kiểm tra, kiểm soát, phát hiện các vấn đề liên quan đến lợi ích của khách hàng. Phần mềm máy tính của công ty do công ty tin học cung cấp có ưu điểm là chi phí rẻ song hoạt động kinh doanh lại phát sinh thường xuyên đòi hỏi phải có những sửa đổi chương trình. Do vậy chưa thể thiết kế chương trình ổn định.
2.1.3.4. Năng lực quản lý
Tham gia điều hành và quản lý công ty gồm có: Giám đốc, Phó giám đốc và các trưởng, phó phòng nghiệp vụ chức năng. Công ty duy trì nề nếp làm việc có kỷ luật nghiêm ngặt trong bầu không khí đoàn kết- dân chủ. Nghiêm cấm mọi trường hợp lợidụng chức quyền, địa vị công tác trong công ty để mưu lợi cá nhân. Tạo mối quan hệ giao lưu giữa ban lãnh đạo công ty và các nhân viên, Giám đốc biết lắng nghe ý kiến từ phía nhân viên, khuyến khích họ phát biểu, tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên đối thoại trực tiếp với giám đốc để có sự thống nhất cao độ trong giải quyết công việc…Từ đó tạo nên bầu không khí dân chủ, tin cậy, đoàn kết và hợp tác. Công ty rất quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần cho mọi cán bộ công nhân viên trong công ty, có chính sách trả lương, trả thưởng và đãi ngộ hợp lý. Vì thế cán bộ nhân viên trong công ty rất yên tâm công tác, học tập và phát huy khả năng của mình, cho thấy công ty có năng lực quản lý tốt. Đây cũng là một điểm mạnh của công ty.
2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty.
2.2.1. Đánh giá hoạt động kinh doanh của công ty trong những năm qua.
Bảng 2: Doanh thu từ hoạt động kinh doanh của công ty qua các năm.
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Doanh thu Môi giới.
1,21
1,19
1,32
Doanh thu Tự doanh.
22,68
28,32
31,03
Doanh thu Quản lý danh mục đầu tư.
0
0,015
0,018
Doanh thu Bảo lãnh phát hành.
11,5
10,5
5,85
Doanh thu Tư vấn đầu tư.
0,15
22
185,11
Doanh thu Lưu ký chứng khoán.
5,1
10,4
7,16
Tổng doanh thu
12,502
31,864
230,50
Tổng chi phí.
9,644
27,752
219,03
Lợi nhuận.
2,858
4,112
11,47
Nhìn vào bảng trên ta thấy, qua từng năm doanh thu và lợi nhuận của công ty tăng lên rõ rệt. Trong năm thứ 2 hoạt động(2002) doanh thu của công ty đã tăng đáng kể so với năm đầu đi vào hoạt động. Nguồn doanh thu của năm này chủ yếu là lãi đầu tư và có sự đóng góp đáng kể của việc làm đại lý phát hành kỳ phiếu cho NHNo&PTNT VN, ngoài ra doanh thu từ nghiệp vụ môi giới và tự doanh cũng có những cải thiện đáng kể. Công ty đã thực hiện vượt mức chỉ tiêu đặt ra, cụ thể chênh lệch thu chi( đã có lương) đạt 2.837.697.281 đồng vượt 12,5% chỉ tiêu được giao. Trong 2 năm đầu công ty chưa phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp mang lại lợi nhuận 2.837.697.281 đồng.
Đến năm 2003 doanh thu của công ty đã tăng hơn gấp đôi so với năm trước. Trong năm này doanh thu đa dạng hơn rất nhiều do hầu hết các nghiệp vụ được triển khai thêm vào đó công ty đã kết hợp với NHNo&PTNT VN đưa ra các sản phẩm dịch vụ cung cấp tiện ích cho khách hàng, qua đó cũng tạo thêm nguồn thu. Về lợi nhuận, năm 2003 công ty đã đạt 4,112 tỷ đồng tăng gấp đôi so với lợi nhuận năm 2002 và vượt 19,6% kế hoạch năm. Như vậy với những kết quả đã đạt được trong năm 2003 ta thấy công ty đã có những thay đổi vượt bậc cả về mặt lượng và mặt chất( lợi nhuận tăng gấp đôi so với năm trước, phát triển thêm một số sản phẩm và thu hút thêm khách hàng…). Đây cũng là nền tảng cho sự phát triển trong những năm tiếp theo.
Kết quả đạt được của năm 2004 đã báo hiệu cho sự thành công của công ty trong những năm đầu tham gia vào thị trường chứng khoán. Công ty đã triển khai tất cả các nghiệp vụ chứng khoán, đặc biệt chú trọng các nghiệp vụ tư vấn như: Tư vấn bán đấu giá cổ phiếu đầu ra công chúng cho doanh nghiệp cổ phần hoá. Tư vấn niêm yết cổ phiếu, quản lý danh mục đầu tư, Uỷ thác đầu tư. Công ty là đơn vị duy nhất được ngân hàng Nhà nước chọn thực hiện nghiệp vụ bán đấu giá cổ phiếu lần đầu ra công chúng cho các doanh nghiệp cổ phần hoá của ngân hàng Nhà nước. Doanh thu của công ty đã tăng đột biến, gấp 7 lần so với năm 2003 và mang lại lợi nhuận gấp 3 lần so với năm trước. Đây là dấu hiệu đáng mừng từ phía công ty, nó chứng tỏ công ty đã có hướng phát triển trong tương lai và khẳng định tham vọng của mình là sẽ trở thành công ty chứng khoán hàng đầu trong thời gian tới.
Có được những kết quả như trên là do công ty đã tận dụng được những lợi thế vĩ mô và vi mô để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình. Nguyên nhân thành công đó là:
a. Bối cảnh quốc tế.
Nền kinh tế thế giới đang dần khôi phục. Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã tăng nhẹ lãi suất đồng đô la, song gần đây lại thực hiện chính sách “đồng đô la yếu” Kinh tế khu vực ổn định, tuy quan hệ Việt Trung có diễn biến song ASEAN đang mở rộng hợp tác bên trong cũng như ngoài khu vực.
b. Nền kinh tế Việt Nam.
Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với tốc độ 7,7 % duy trì ở mức độ cao về nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế. Lạm phát có dấu hiệu ở mức cao (chỉ số giá tiêu dùng-CPI- trong cả năm là 9,5%).
Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh chính sách cổ phần hoá, kể cả các doanh nghiệp lớn (Vinamilk, Bảo minh… và tương lai sẽ là Vietcombank, Ngân hàng nhà đồng bằng sông Cửu Long, Vinaconex…), hình thành nên nguồn hàng tiềm năng cho thị trường chứng khoán.
c. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tiếp tục phát triển, đạt được nhiều thành tựu trong kinh doanh, thương hiệu ngày càng được cũng cố trở thành chổ dựa vững chắc cho công ty mở rộng và triển khai các hoạt động của mình.
Quý IV năm 2004 do Ngân hàng mẹ có khó khăn về nguồn vốn, hạn mức tín dụng của công ty được duyệt đã không được thực hiện, hơn thế công ty còn phải thu xếp bán trái phiếu để trả nợ trước hạn 500 tỷ, do vậy việc triển khai kế hoạch kinh doanh cũng như nguồn lợi nhuận trong tương lai của công._.gặp nhiều khó khăn như: rét đậm kéo dài ở các tỉnh phía Bắc, hạn hán nặng nề tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, sau đó mưa lũ lớn ở các tỉnh miền Trung, dịch cúm gia cầm xảy ra trên diện rộng ngay từ đầu năm, sau đấy lại tái phát kéo dài… và tác động của mặt bằng giá thế giới nên giá cả nhiều mặt hàng trong nước liên tục tăng cao, đặc biệt là các mặt hàng trọng yếu như: lương thực, thực phẩm, xăng dầu, sắt thiép, phân bón, nhựa… đã tác động mạnh đến việc hình thành mặt bằng giá mới ở trong nước.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2004 đạt 26 tỷ USD, tăng 28,9% so với năm 2003 và là mức cao nhất trong những năm gần đây. Trong các nhóm hàng xuất khẩu, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản xuất khẩu chiếm tỷ trọng 32,7% tổng giá trị xuất khẩu, tăng 35,9%, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 40,8%, tăng 32,1%.
Nhìn chung kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao. Quá trình hội nhập đến gần thúc ép Chính phủ phải áp dụng một số chính sách mạnh, trong đó có quá trình cổ phần hoá, tạo tiềm năng phát triển lâu dài cũng như công ăn việc làm trước mắt cho ngành chứng khoán.
3.2.2. Tiến trình" tạo hàng" cho thị trường chứng khoán Việt Nam đang được đẩy nhanh.
Tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta đang ở vào giai đoạn của cùng( AFTA-2006, Hiệp định thương mại Việt Mỹ- 2006, ƯTO- đến 2010..), mọi công việc chuẩn bị đang được Chính phủ, các Bộ, ngành và doanh nghiệp trong cả nước khẩn trương thực hiện. Để các doanh nghiệp Việt Nam( đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước) có thể hoà nhập với môi trường kinh doanh" sau Hội nhập", nhiều biện pháp đang được thực thi. Trong đó, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp được coi là hàng đầu. Vì vậy, Chính phủ đang đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá( CPH) các DNNN, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của những doanh nghiệp này khi có các thành phần kinh tế khác tham gia sở hữu.
Thực tế cho thấy, từ đầu năm 2004 đến nay, tiến trình CPH đã được đẩy nhanh ở nhiều Bộ, ngành, địa phương và các Tổng công ty 90, 91. Nhưng quan trọng hơn cả, Chính phủ đã và đang có kế hoạch CPH trong năm 2004 và 2005 một số DNNN lớn( Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long, VIVACONEX, Tổng công ty lương thực Miền Nam…). Tháng 7 vừa qua, Nhà nước đã hoàn thành công việc CPH một DNNN lớn trong ngành Bảo hiểm trở thành Tổng công ty cổ phần Bảo Minh( với phần vốn Nhà nước lên đến 650 tỷ Đồng, tổng giá trị doanh nghiệp hơn 1300 tỷ Đồng). Đây là một động thái tích cực của Chính phủ với tiến trình CPH nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng, vì các DNNN lớn hơn CPH sẽ tạo nguồn"hàng" nhiều và tốt cho thị trường chứng khoán Việt Nam hấp dẫn được các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, trong năm 2004 nổi lên một số nét cơ bản sau:
UBCKNN được chuyển giao về Bộ Tài chính, thống nhất đầu mối quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán: năm 2004 đánh dấu một bước chuyển mình mới của thị trường chứng khoán, trước tiên là việc ban hành các thông tư hướng dấn Nghị định 144/2003/NĐ- CP-khung pháp lý cao nhất và quan trọng nhất về chứng khoán và thị trường chứng khoán, kế đến là việc ban hành Nghị định 187/2004/NĐ -CP về CPH DNNN.
Chỉ có bốn công ty mới tham gia thị trường là công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết, công ty cổ phần Hoá An, công ty nhiên liệu Sài Gòn và công ty cổ phần Kinh Đô miền Bắc với giá trị niêm yết không lớn. Đặc biệt, lần đầu tiên có một chứngchỉ quỹ đầu tư được niêm yết đó là chứng chỉ quỹ Đầu tư chứng khoán Việt Nam.
Ra mắt hai HIệp hội quan trọng là Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam( VAFI) ngày 04/01/2004 và Hiệp hội kinh doanh chứng khoán Việt Nam( VABS) ngày 14/5/2004.
Khởi động trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và đi vào hoạt động từ tháng 3/2005.
Xuất hiện thêm nhiều quỹ đầu tư nước ngoài, bao gồm quỹ Đầu tư Phanxipăng(PXP) có quy mô vốn lên tới 5 triệu USD và quỹ Việt Nam Growth Fund(VGF) với quy mô dự kiến 75 triệu USD.
Các doanh nghiệp niêm yết đồng loạt tăng vốn, có tới 5 công ty niêm yết thực hiện phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Điều này cho thấy thị trường chứng khoán đang thực sự trở thành một kênh huy động cho các doanh nghiệp tham gia niêm yết.
Ngân hàng Nhà nước đã chính thức ban hành quy chế niêm yết và phát hành cổ phiếu ra công chúng đối với cổ phiếu của các Ngân hàng Thương mại cổ phần.
Nhìn chung thị trường chứng khoán Việt Nam còn yếu kém song đã có dấu hiệu phục hồi và đi vào ổn định. Trong tương lai gần kỳ vọng thị trường sẽ được" cất cánh" bởi" cú huých" từ sự phát triển của nền kinh tế đất nước và quá trình hội nhập.
Những nhận đinh trên đây cho thấy triển vọng của thị trường chứng khoán Việt Nam rất tốt đẹp, tương lai của các công ty chứng khoán cũng rất tốt đẹp, do đó cần phải chuẩn bị cho thời kỳ phát triển.
3.3. Những thuận lợi và khó khăn của công ty.
3.3.1. Thuận lợi.
Về cơ sở vật chất.
Tuy ra đời sau( thứ 8) song cùng với Công ty chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương(VCBS) là hai công ty chứng khoán có vốn điều lệ lớn nhất Việt Nam hiện nay( 60 tỷ đồng).
Trụ sở công ty đặt tại C3 Phương Liệt Hà nội và Chi nhánh tại số 2A Phó Đức Chính , TP . HCM có diện tích mặt bằng lần lượt là 1.030 m2 và 800m2 được thiết kế và xây dựng khang trang, rộng rãi đáp ứng yêu cầu kinh doanh chứng khoán, có khu vực Sàn giao dịch đủ chỗ cho hơn 100 nhà đầu tư đến giao dịch hàng ngày.
Về nguồn nhân lực.
HIện nay số cán bộ của công ty là 40 người, nhìn chung đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, cán bộ quản lý và nhân viên của công ty là được đào tạo cơ bản và năng động. Phần lớn cán bộ công ty được lựa chọn và bổ sung từ NHNo&PTNT Việt Nam, một nguồn cán bộ hết sức hùng hậu.
Về công tác điều hành.
Hoạt động có bài bản, chiếnlược kế hoạch và quy định nghiệp vụ thống nhất, rõ ràng. Hệ thống văn bản điều hành đảm bảo vận hành thông suốt mọi hoạt động của công ty.
Sách lược kinh doanh phù hợp:
Khi nghiệp vụ môi giới kém phát triển và hiệu quả kinh tế thấp, công ty tập trung vào tự doanh và đây là lĩnh vực mang lại nguồn thu chủ yếu(75,04% tổng thu) cho công ty.
Công ty đã tận dụng cơ hội kinh doanh: một tháng sau ngày được cấp giấy phép hoạt động, công ty đã ký được hợp đồng mua giấy nhận nợ mía đường của các tập đoàn Trung Quốc. Công ty chủ động xin làm đại lý phụ phát hành Kỳ phiếu cho NHNo&PTNT Việt Nam.
Sự hỗ trợ của NHNo&PTNT Việt Nam.
Đây là thế mạnh tiềm tàng của công ty. NHNo&PTNT VN với đội ngũ hùng hậu là nguồn cung cấp nhân lực chính cho công ty; mạng lưới rộng khắp của Ngân hàng là cơ sở cho sự phát triển lâu dài, đặc biệt là khu vực nông thôn; uy tín của Ngân hàng đảm bảo cho công ty một thương hiệu uy tín,… và trên hết với chính sách đa dạng hoá sản phẩm, NHNo&PTNT VN quan tâm thực sự đến phát triển kinh doanh chứng khoán.
3.3.2. Khó khăn.
Về cơ sở vật chất kỹ thuật.
Còn thiếu vốn kinh doanh để mở rộng hoạt động: Theo kế hoạch kinh doanh giai đoạn 2003-2005 đã được bảo vệ trước NHNo&PTNT Việt Nam, lượng vốn thiếu hụt cho từng năm của giai đoạn này lần lượt là 133,190 và 240 tỷ Đồng.
Trụ sở chính của công ty ở xa trung tâm, điều kiện giao dịch không thuận tiện( đường tàu chắn lối vào, thang máy…).
Công nghệ tin học: công ty chủ trương tự lực phần mềm, tuy chủ động được việc chỉnh sửa và nâng cấp song do hạn chế về trình độ và biên chế nên việc chỉnh sửa còn hay trục trặc và mất nhiều thời gian.
Về xuất phát điểm
Do ra đời sau, lại vào thời điểm thị trường suy giảm nên thị phần môi giới trên thị trường chứng khoán tập trung thấp, cơ sở khách hàng đầu tư cá nhân rất mỏng.
Về nguồn nhân lực
Số lượng ít( ít thứ 2 trong số các công ty chứng khoán), hầu hết mói chỉ được trang bị kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, chưa có kiến thức chuyên sâu, thiếu kinh nghiệm thực tế về kinh doanh và điều hành quản lý, làm ảnh hưởng đến khả năng canh tranh trên thương trường.
3.3.3. Cơ hội.
Định hướng và chính sách của Đảng và Nhà nước là rất phù hợp và khuyến khích phát triển thị trường chứng khoán trong đó phải kể đến:
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Chủ trương công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông thôn, nông nghiệp
Chủ trương CPH các doanh nghiệp quốc doanh.
Chủ trương phát triển thị trường chứng khoán.
Môi trường kinh tế và xã hội Việt Nam phát triển liên tục và ổn định.
Sau khủng hoảng tài chính trong khu vực 1997-1999, nền kinh tế Việt Nam lại tiép tục phát triển liên tục và ở mức độ cao tỷ lệ tăng GDP bình quân đạt 7%/ năm.
Tình hình chính trị xã hội ổn định là môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, luật pháp khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển.
Để duy trì mức độ tăng trưởng bình quân 7%/ năm, nền kinh tế Việt Nam có nhu cầu lớn về vốn( ước tính nhu cầu vốn cho giai đoạn 2001-2005 là 200 tỷ USD), hối thúc thị trường vốn phát triển.
Tiềm năng về khách hàng.
Sau hơn 10 năm đổi mới, đời sống dân cư k hông ngừng được cải thiện và một bộ phận không nhỏ đã có tích luỹ; ngoài ra lượng kiều hối lớn được chuyển về do tình hình làm ăn trong nước ngày càng ổn đỉnh dần dần hình thành nhu cầu đầu tư của thị trường vốn nội địa.
Nhà đầu tư nước ngoài: Điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam phát triển và ổn định cũng thu hút một lượng lớn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Xu hướng hội nhập quốc tế
Việt nam đang chuẩn bị gia nhập AFTA( khu vực mậu dịch tự do ASEAN) và WTO( Tổ chức Thương mại Thế giới). Đây là cơ hội để thu hút dòng đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện giao lưu học hỏi kiến thức và mở rộng cơ hội đầu tư chứng khoán ra nước ngoài.
3.3.4. Thách thức.
Thị trường chứng khoán Việt Nam sau gần 5 năm hoạt động còn nhiều hạn chế.
Lượng hàng hóa còn ít( hiện có 29 công ty niêm yết), hầu hết là các doanh nghiệp quy mô vừa, chưa đại diện cho nền kinh tế quốc gia( thị gía cổ phiếu niêm yết chiếm chưa đầy 1% GDP).
Do dân trí chưa cao, các nhà đầu tư Việt Nam chưa có kiến thức, kinh nghiệm hoạt động chứng khoán, mua bán chủ yếu hướng vào chênh lệch giá và kinh doanh theo kiểu" trào lưu", " bầy đàn".
Các chính sách và sự quản lý của Nhà nước còn bất cập.
Tiến trình CPH chậm. Đến thời điểm 31/3/2003 mới CPH được19 DNNN, bằng 6,33% kế họach năm.
Các quy định hành chính của Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn chưa đầy đủ, bất cập và luôn thay đổi làm ảnh hưởng đến tâm lý công chúng đầu tư.
Hệ thống chính sách chưa khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Đối thủ cạnh tranh.
Trong tình hình hiện nay, áp lực cạnh tranh với các doanh nghiệp ngày càng lớn, nó không chỉ dừng lại ở chuyện giá cả, chất lượng sản phẩm mà ở tất cả các khía cạnh của lĩnh vực kinh doanh. Đối với kinh doanh chứng khoán, trong những năm tới đây nền kinh tế ngày càng phát triển thì quy mô thị trường chứng khoán cũng sẽ mở rộng theo. Do đó không khí cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán ngày càng trở nên gay gắt. Đây cũng là một thách thức lớn đối với công ty do đó cần phải có những biện pháp để luôn giành thế chủ động trên thị trường và đạt ưu thế so với đối thủ cạnh tranh.
3.4. Đề xuất một số giải pháp marketing nhằm phát triển thị trường.
3.4.1. Cơ sở của đề xuất.
Trên cơ sở những nguyên lý chung của hệ thống marketing áp dụng trong kinh doanh dịch vụ nói chung và lĩnh vực chứng khoán nói riêng đề ra các giải pháp thích hợp, có khả năng thực thi phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán nước ta trong thời gian tới. Các giải pháp có tính đến điều kiện, quy mô, vị thế… của công ty bảo đảm tính hiện đại của công nghệ kinh doanh trong điều kiện mới, trong hoàn cảnh có sự cạnh tranh gay gắt.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng ở phần trên và các kết luận rút ra nhằm đề ra các giải pháp khắc phục những mặt còn hạn chế trong hoạt động marketing của công ty.
Các giải pháp về marketing đề ra phải được xem xét trong tổng thể chung các giải pháp về môi trường kinh doanh thuận lợi để công ty có thể thực thi được chính sách marketing của mình.
3.4.2. Một số giải pháp marketing nhằm phát triển thị trường của công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN
3.4.2.1. Hoàn thiện hệ thống thông tin marketing.
Hoàn thiện hệ thống marketing cần được coi là giải pháp đầu tiên cần thực hiện của công ty hiện nay vì chỉ khi có được các thông tin chính xác, đã qua sàng lọc và xử lý thì các nhà làm marketing mới có cơ sở để tiến hành các giải pháp tiếp theo.Xu thế ứng dụng mạnh mẽ sản phẩm tin học buộc doanh nghiệp phải chú ý hơn đến loại hình dịch vụ cũng như cách thức chuyển giao dịch vụ theo hướng phù hợp với công nghệ kinh doanh cao của khách hàng. Khách hàng hiện nay không những không muốn bước chân đến công ty để giao dịch mà còn muốn mọi việc chỉ thông qua chiếc máy tính cá nhân của họ.
Hệ thống thông tin marketing đòi hỏi tính chuyên nghiệp rất cao vì vậy cần được thành lập thành một ban riêng nằm trong phòng marketing.Cấu trúc tổ chức của hệ thống bao gồm: bộ phận thu thập thông tin hàng ngày từ các nguồn bên ngoài như báo chí, …, bộ phận thu thập thông tin nội bộ thông qua các báo cáo nội bộ thường kỳ, bộphận nghiên cứu marketing và cuối cùng là bộ phân phân tích hỗ trợ ra quyết định marketing.
Cần phải cân nhắc rằng hệ thống thông tin marketing đòi hỏi tính chuyên nghiệp rất cao, nhất là công việc nghiên cứu marketing vì vậy việc tuyển chọn nhân sự làm việc tại hệ thống đòi hỏi phải là những nhân viên được đào tạo chuyên ngành marketing, vừa phải am hiểu lĩnh vực chứng khoán. Hơn thế nữa họ phải có được một số kỹ năng nhất định như kỹ năng phân tích tổng hợp, kỹ năng phán đoán nhạy bén,…
Một hệ thống thông tin marketing hoàn hảo phải đảm bảo cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời các loại thông tin sau:
- Phân tích đánh giá môi trường marketing từ đó dự đoán được những cơ hội cũng như những nguy cơ đôí với hoạt động marketing của lĩnh vực chứng khoán.
Phân tích đánh giá đối thủ cạnh tranh: Dự đoán đòn tấn công, phản công của đối thủ cạnh tranh( đối thủ hiện tại và đối thủ tương lai).
Phân tích đánh giá thái độ hành vi khách hàng nói chung và thái độ hành vi khách hàng của công ty nói riêng.
Phân tích đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu của công ty từ đó dự đoán sức mạnh cạnh tranh của công ty so với các công ty khác.
3.4.2.2. Xây dựng hệ thống dịch vụ thích hợp.
Hiện nay các dịch vụ chứng khoán còn hạn hẹp và chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng, vì vậy công ty cần phải nghiên cứu và lựa chọn một danh mục các loại hình dịch vụ phù hợp nhất với nhu cầu biến đổi của thị trường trong tương lai.
Đa dạng hoá sản phẩm: là chính sách chào bán tất cả các loại dịch vụ chứng khoán.Ưu điểm của cách lựa chọn này là công ty có thể phát huy toàn diện mọi năng lực của mình, dịch vụ có tỷ lệ lợi nhuận cao sẽ bù đắp cho dịch vụ có tỷ lệ lợi nhuận thấp vì vậy độ an toàn trong kinh doanh cao hơn. Mặt khác, công ty đã có đủ các loại dịch vụ khác nhau vì vậy cần đáp ứng được mọi nhu cầu của khách hàng, khách hàng ít có khả năng chuyển sang các công ty khác hơn. Tuy nhiên, việc trải dàn những nguồn nhân lực nhất định ra tất cả các dịch vụ khác nhau không phải là dễ dàng vì chi phí ban đầu rất lớn. Do đó cần có sự cân nhắc, phối hợp đồng bộ giữa các bộ phận trong công ty.Việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ phải kết hợp với việc nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Ngoài các dịch vụ hiện nay, tuỳ theo nhu cầu thực tế phát sinh của khách hàng, công ty chứng khoán cần phải chủ động tìm kiếm các hình thức dịch vụ phù hợp cung ứng cho khách hàng nhưng phải được dựa trên nguyên tắc tuân thủ các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh chứng khoán. Đa dạng hoá sản phẩm bằng cách mở rộng các dịch vụ như: tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn quản lý, tư vấn cổ phần hoá, kinh doanh cổ phiếu chưa niêm yết,…
Tăng mảng dịch vụ đơn thuần: là chính sách tập trung chào bán các dịch vụ trừ dịch vụ huy động vốn và sử dụng vốn. Ưu điểm lớn nhất của chính sách này là rất an toàn. Các nghiệp vụ môi giới, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn đầu tư chứng khoán không phải đầu tư nhiều mà chỉ" lấy công làm lãi".
Tạo mới các dịch vụ điện tử: Trong tương lai mọi hoạt động kinh doanh sẽ gắn liền với việc ứng dụng tin học điện tử vì vậy công ty cần nhanh chóng thiết kế và triển khai các dịch vụ điện tử để có thể thoả mãn nhu cầu của khách hàng như online- trading, bảng điểm hiện đại, …Hoàn thiện hệ thống phương pháp toán trong công tác phân tích, vi tính hoá toàn bộ công tác dự báo, đánh giá thị trường và phân tích tư vấn, đưa website của công ty vào sử dụng cho các nghiệp vụ môi giới, tư vấn, quản lý danh mục đầu tư…
Phát triển dịch vụ mới: Do đặc điểm rủi ro cao trong kinh doanh nên các công ty đều lựa chọn hướng kinh doanh tổng hợp các loại hình dịch vụ. Nhìn chung các dịch vụ hiện nay đều thuộc loại dịch vụ truyền thống và khá giống nhau giữa các công ty. Nhằm thu hút và giữ chân khách hàng công ty cần phải chú ý đến việc thiết kế và triển khai dịch vụ mới, hấp dẫn hơn đối với khách hàng. Để thu được kết quả khả quan các dịch vụ mới phải ra đời theo nhu cầu đòi hỏi của thị trường chứ không phải do ý kiến chủ quan của công tynhư giao dịch trực tuyến, tư vấn đầu tư miễn phí, cho vay chứng khoán… Thị trường thâm nhập phải được đo lường trước, tiện ích dịch vụ mới phải phù hợp với nhu cầu khách hàng, chất lượng dịch vụ mới phải ổn định.
Do công việc thiết kế và triển khai một hệ thống dịch vụ chứng khoán phù hợp rất phức tạp và đòi hỏi linh hoạt thay đổi theo diễn biến thị trường, vì vậy cần phải thành lập một phòng ban chuyên trách công tác nghiên cứu thiết kế và phát triển danh mục dịch vụ chào bán nhằm kịp thời tung dịch vụ mới hoặc chỉnh sửa dịch vụ cũ sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường đồng thời loại bỏ những loại dịch vụ không có lợi cho công ty, liên tục củng cố chất lượng của các dịch vụ cũ đã có nhằm đảm bảo tính thích ứng với nhu cầu cuả khách hàng.
Phí dịch vụ: thực tế cho thấy các khách hàng chứng khoán Việt Nam rất nhạy cảm với giá, vì vậy cần phải xác định một khung giá dịch vụ hướng tới đích cạnh tranh với các công ty chứng khoán khác.
áp dụng giá cả linh hoạt, thích ứng từng thời điểm.
Chấp nhận không thu phí hoặc thu phí thấp các dịch vụ phụ trợ nhằm tập trung thu hút khách hàng có khả năng đưa lại lợi nhuận lớn cho công ty.
áp dụng khung giá riêng đối với từng đối tượng khách hàng: tăng phí môi giới ở khu vực thành thị lên mức trung bình, và tiếp tục áp dụng mức phí môi giới thấp nhất cho các khách hàng đặt lệnh qua đại lý nhận lệnh ở khu vực nông thôn.
Đây là một tiêu chí định tính, trên thực tế các nhà cung cấp dịch vụ thường dựa trên một số yếu tố sau:
Vị trí dịch vụ trên thị trường
Mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp
Chu kỳ sống của dịch vụ
Độ co dãn của nhu cầu
Yếu tố cầu thành chi phí
Hiện trạng của nền kinh tế
Khả năng cung ứng dịch vụ
Phát triển mạng lưới cung ứng dịch vụ:
Nhằm có thể cung ứng thêm nhiều số lượng dịch vụ chứng khoán đến khách hàng, công ty cần phát triển mạng lưới cung ứng dịch vụ bằng cả biện pháp mở rộng mạng lưới( thành lập chi nhánh mới, thành lập phòng giao dịch mới, các đại lý nhận lệnh) và đa dạng hoá phương thức cung ứng dịch vụ như đáp ứng nhu cầu đặt lệnh từ xa cho khách hàng thông qua điện thoại
Xúc tiến cung ứng dịch vụ:
Các biện pháp thường được sử dụng nhất trong hoạt động marketing của doanh nghiệp là quảng cáo, khuyến mại, tổ chức hội nghị khách hàng, thăm hỏi khách hàng,…
Biện pháp quảng cáo thường được tiến hành nhằm mục đích giới thiệu một dịch vụ mới, tăng cường, củng cố hình ảnh của công ty với công chúng trong các dịp lễ tết…Trong những năm gần đây, nội dung và hình thức giới thiệu của công ty tuy đã được chú ý cải thiện song nhìn chung khá đơn điệu, không gây ấn tượng mạnh và hình thức chưa đẹp. Các hoạt động này chủ yếu được triển khai theo yêu cầu củng cố mối quan hệ với báo chí là chính chứ không phải là với mục đích trên. Để hoạt động quảng cáo mang lại kết quả cao công ty cần có những thay đôi về nội dung, phương thức xúc tiến, có thể xây dựng các tờ rơi giới thiệu với khách hàng về các loại hình dịch vụ chào bán, thủ tục giao dịch, … Ngoài ra có thể thực hiện việc tặng các món quà độc đáo, chất lượng tốt, kiểu dáng đẹp trong các dịp lễ tết để gây ấn tượng cho khách hàng.
Cải tiến quá trình cung ứng dịch vụ:
Quá trình cung ứng dịch vụ thường kéo dài trong khi thời gian đối với khách hàng lại mang ý nghĩa tiền bạc. Do nhu cầu đơn giản, nhanh gọn, thuận tiện của khách hàng công ty cần áp dụng một số biện pháp nhằm rút ngắn thời gian cung ứng dịch vụ, tạo cảm giác thoải mái trong quá trình giao dịch đối với khách hàng, có thể :
Thực hiện cơ chế giao dịch" một cửa": tạo ra sự thuận tiện đối với khách hàng khi tiến hành giao dịch
Rút ngắn thời gian giao dịch của khách hàng: Quy trình cung ứng dịch vụ được chia ra thành hai giai đoạn: giai đoạn cần sự tham gia của khách hàng và giai đoạn không cần sự tham gia của khách hàng. Từ đó bố trí hai bộ phận xử lý nghiệp vụ bộ phận cung ứng trực tiếp( front office) và bộ phận hỗ trợ cung ứng( back office). Như vây khách hàng khi giao dịch chỉ cần chờ sự xử lý của bộ phận cung ứng trực tiếp mà thôi, thời gian giao dịch vì vậy sẽ được rút ngắn lại.
Tăng năng suất cung ứng dịch vụ: Trong lĩnh vực chứng khoán, thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với công ty và khách hàng. Để tăng năng suất cung ứng dịch vụ cần trang bị máy móc hiện đại, ứng dụng các phần mềm tin học chuyên ngành nhằm đảm bảo có được mọi thông tin cần thiết ngay tại cửa giao dịch đồng thời cũng xử lý gọn dịch vụ khách hàng yêu cầu, tuyển chọn đào tạo đội ngũ nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ có tay nghề cao, có khả năng xử lý nhanh trong mọi tình huống.
Nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng:
Để nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng cần áp dụng hàng loạt biện pháp như xây dựng các chính sách khách hàng, thành lập phòng chuyên trách công tác khách hàng, chủ động tiếp cận và xác lập mối quan hệ với khách hàng tiềm năng, chú ý cải tiến điều chỉnh dịch vụ sẵn có tại công ty phù hợp với nhu cầu thực tế của khách hàng( tiện lợi hơn, nhanh hơn…), tiếp tục củng cố mối quan hệ với khách hàng sau khi giao dịch, nắm bắt và sửa chữa kịp thời những phàn nàn của khách hàng.
Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ công nhân viên:
Trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, đội ngũ nhân viên có vai trò hết sức quan trọng quyết định chất lượng dịch vụ chứng khoán. Do đó cần phải đổi mới toàn diện công tác cán bộ( xây dựng hệ thống tiêu chí, lập quy trình đánh giá cán bộ, quy hoạch cán bộ, lên chương trình đào tạo 2005-2010. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ: nâng cao kiến thức cho đội ngũ nhân viên sẵn có, tổ chức các khoá huấn luyện nghiệp vụ cho nhân viên mới, tiếp tục các chương trình đào tạo tại nước ngoài nhằm nhanh chóng đưa các kết quả đào tạo vào thực tiễn. Bên cạnh đó cũng cần chú ý tới công tác tuyển dụng nhằm có được đội ngũ nhân viên tốt ngay từ đầu. Có như thế chất lượng nhân viên công ty mới nâng lên được một bước.
3.4.2.3. Một số kiến nghị.
Kiến nghị đối với Chính phủ, UBCK Nhà nước:
- Chính phủ và UBCK Nhà nước cần hoàn thiện khung pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của các tổ chức trung gian cung cấp dịch vụ cho thị trường chứng khoán, một mặt, phải vừa đảm bảo khắc phục những khiếm khuyết nảy sinh từ thực tế, vừa phải tạo ra những tiền đề, những điều kiện cần thiết để hướng các hành vi của chủ thể đi đúng hướng và trong khuôn khổ pháp luật quy định. Phương hướng hoàn thiện vừa phải đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn trước mắt, vừa phải thích hợp với sự phát triển lâu dài, mang tính chiến lược. Bên cạnh đó cần tăng cung chứng khoán cho thị trường về số lượng, chất lượng và chủng loại thông qua các biện pháp sau:
Cải tiến phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ, tăng cường phát hành theo phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ; đa dạng hoá các kỳ hạn trái phiếu Chính phủ để tạo đường cong lãi suất chuẩn bị cho thị trường vốn; xây dựng và thực hiện kế hoạch phát hành theo lịch biểu nhằm cung cấp đều đặn khối lượng trái phiếu cho thị trường chứng khoán.
Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ban đổi mới doanh nghiệp lựa chọn một số doanh nghiệp lớn vào niêm yết trên thị trường chứng khoán theo hướng gắn cổ phần hoá với phát hành chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Phát triển các loại chứng khoán như: quyền cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ đầu tư để đưa vào niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Tuyên truyền, phổ cập kiến thức về thị trường chứng khoán: các hình thức tuyên truyền có thể triển khai là:
+ Mở các lớp học miễn phí về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
+ Tuyên truyền thông qua việc chủ động cử cán bộ giảng viên tới giảng dạy và nói chuyện tại các tổ chức, cơ quan, trường học có nhu cầu…
+ In ấn các sách hướng dẫn, cẩm nang, …để cung cấp tới các đối tượng quan tâm với nội dung và hình ảnh sinh động, dễ hiểu.
Miễn giảm thuế: cần có chính sách thuê ưu đãi đối với các công ty chứng khoán. Thuế thu nhập đối với công ty chứng khoán nên ở mức thấp, nên dành cho công ty được hưởng chế độ miễn thúê thu nhập đối với các khoản lãi từ kinh doanh chứng khoán( lãi vốn) để công ty có điều kiện phát triển và có khả năng cạnh tranh với các tổ chức nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán.
Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam:
Để mở rộng và phát triển thị trường, công ty có những kiến nghị đối với Ngân hàng mẹ- NHNo&PTNT VN như sau:
Tăng định biên cho công ty: Do hoạt động của công ty ngày càng phát triển và trong tương lai tất cả các dịch vụ sẽ được triển khai nên số nhân viên như hiện nay không thể đáp ứng được yêu cầu phát triển đó. Hơn nữa việc chuyên môn hoá từng nghiệp vụ cũng đòi hỏi phòng kinh doanh của công ty cần phải mở rộng theo hướng phân thành các phòng nghiệp vụ kinh doanh chuyên trách khác nhau. Vì vậy công ty cần được phứp tuyển chọn thêm một số cán bộ có năng lực, trình độ phù hợp để tăng định biên nhằm phát triển nguồn nhân lực của công ty.
Tăng vốn điều lệ: Trong tương lai công ty sẽ cung cấp nhiều dịch vụ hoàn hảo để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư. Để thực hiện được các dịch vụ này đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng hiệu quả, chất lượng hoạt động.Theo lộ trình phát triển của công ty, đến năm 2010 công ty sẽ phải tăng vốn điều lệ để đủ khả năng cạnh tranh trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt nam có cả các công ty nước ngoài và liên doanh tham gia, quy mô thị trường mở rộng. Vốn điều lệ công ty cần có khoảng 500 tỷ đồng, nguồn tăng chủ yếu là từ Ngân hàng mẹ, một phần lợi nhuận tích luỹ qua các năm hoạt động và liên doanh liên kết với nước ngoài.
Cơ chế chính sách: Hiện tại quan hệ với NHNo&PTNT VN vẫn được cư xử như đối với chi nhánh cấp I, chưa đáp ứng hết tinh thần của điều lệ được ban hành cho công ty TNHH một thành viên. Đề nghị Tổng giám đốc cho các Ban chuyên môn phối hợp với công ty xây dựng các cơ chế, chính sách về vốn, kế hoạch, tài chính, nhân sự, thi đua, hạch toán, báo cáo kế toán… cho đúng với tinh thần của điều lệ và luật định đối với công ty TNHH một thành viên.
Kết luận
Chứng khoán là một thị trường quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước nên đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, đặt ra yêu cầu bức xúc phát triển thị trường chứng khoán. Mặt khác cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường các khách hàng đã nhận ra vai trò quan trọng của mình, do đó ngày càng có những đòi hỏi khắt khe hơn về chất lượng dịch vụ phục vụ. Trong bối cảnh đó, công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT VN phải có sự thay đổi sâu sắc cả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn kinh doanh theo quan điểm định hướng khách hàng. Trước những yêu cầu đó, đề tài " Thực trạng và giải pháp marketing nhằm phát triển thị trường của công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNT Việt Nam" đã được lựa chọn nghiên cứu và tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
Nghiên cứu về thị trường chứng khoán và tính tất yếu phải phát triển thị trường chứng khoán.
Phân tích kết quả sản xuất kinh doanh và các hoạt động marketing hiện nay ở công ty để tìm ra những nhược điểm cần khắc phục. Một số tồn tại cơ bản trong kinh doanh phát triển chứng khoán là: Thủ tục còn rườm rà, bị động, còn có những sai sót do nhầm lệnh, chưa thực hiện tiếp thị đến các khách hàng tiềm năng…Một số nhược điểm cơ bản của hoạt động marketing: chưa thực sự đúng tầm là một phòng ban trong hệ thống cơ cấu tổ chức của công ty, còn có nhiều nhược điểm trong chính sách sản phẩm, giá, quá trình dịch vụ, dịch vụ hỗ trợ khách hàng.
Phân tích môi trường kinh doanh, đánh giá thời cơ và thách thức từ những yếu tố vi mô, vĩ mô cũng như những thế mạnh, điểm yếu cơ bản trong nội bộ công ty. Trong đó nổi lên những thuận lợi nhờ kinh tế, xã hội ngày càng phát triển… và khả năng tài chính vững chắc, công ty có thể khắc phục được các điểm yếu của mình.
Định hướng về marketing nhằm phát triển thị trường, nêu ra một số kiến nghị để phát huy cao nhất hiệu quả các chính sách, nhằm mục tiêu cuối cùng là phát triển thị trường của công ty, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao hơn của khách hàng.
Nhìn chung qua bốn năm hoạt động, công ty đã chứng tỏ khả năng của mình trong lĩnh vực chứng khoán để tồn tại và phát triển. Sự ra đời và hoạt động có hiệu quả của công ty TNHH chứng khoán NHNo&PTNN đang và sẽ góp phần đáng kể vào sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay và trong tương lai.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo tổng kết kinh doanh của công ty chứng khoán NHNo&PTNT VN các năm 2002, 2003, 2004.
PGS. Thái Bá Cần- Trần Nguyên Nam, Phát triển dịch vụ tài chính Việt Nam trong tiến trình hội nhập, NXB Tài chính 2002.
Bùi Nguyên Hoàn, Việt Nam với thị trường chứng khoán, NXB Chính trị Quốc gia.
UBCKNN, Những kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, 2003.
TS. Lưu Văn Nghiêm, Marketing trong kinh doanh dịch vụ, NXB Thống kê 2001.
P.Koler, Quản trị Marketing, NXB Thống kê 2000.
PGS. Phạm Ngọc Phong, Marketing Ngân hàng, Viện Khoa học Ngân hàng, NXB Thống kê1996.
Tạp chí chứng khoán Việt Nam- UBCKNN.
Tạp chí Đầu tư chứng khoán- Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
Mục lục
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34161.doc