LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính là một sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường-hay nói chính xác hơn,là nền kinh tế tiền tệ, ở đó,bên cạnh các thị trường khác,thị trường tài chính hoạt động như là một sự kết nối giữa người cho vay đầu tiên và người sử dụng cuối cùng, tạo ra vô số các giao dịch, và ở mỗi giao dịch, dù động cơ nào ,cũng tạo ra các dòng chảy về vốn trong một nền kinh tế - như là sự lưu thông máu trong một cơ thể - một nền kinh tế hoạt động lành mạnh và có hiệu quả chỉ khi nào
33 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1859 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng Thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường này cũng hoạt động có hiệu quả như thế, và ngược lại.
Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư. Người cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính toán sử dụng vốn vay đó hiệu
Thị trường tài chính là chiếc cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi chuyển nguồn vốn nhàn rỗi sang nơi thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Thông qua thị trường tài chính hình thành giá mua giá bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, giấy nợ ngắn hạn, dài hạn…hình thành nên tỷ lệ lãi suất đi vay, lãi suất cho vay, lãi suất ngắn, trung hạn và dài hạn.
Tuy nhiên có thể thấy ở việt nam thời gian gần đây thị trường này hoạt động không mấy hiệu qủa,biểu hiện ở hàng loạt bất cập ở thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán.Nhìn chung thị trường tiện tệ chưa thực sự phát triển và ngân hàng nhà nước cũng chưa thực sự đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này, thêm vào đó là sự sụt điểm liên tiếp các phiên giao dịch của thị trường chứng khoán,làm cho các nhà đầu tư gặp rất nhiều khó khăn,và chính sự yếu kém trong đầu tư công là một trong các nguyên nhân đưa đến lạm phát cao như hiện nay,kéo theo đó là hàng loạt các bất cập khác.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới,gia nhập WTO, lĩnh vực tài chính là lĩnh vực mang tính nhạy cảm luôn đòi hỏi sự đổi mới cả về mặt nhận thức và thực tiễn.
Sau một qúa trình học hỏi,tìm tòi và nghiên cứu .Dưới sự chỉ dẫn của ThS. Trương Hoài Linh, tôi đã thực hiện xong đề án “Thị trường tài chính và thực trạng thị trường tài chính ở VN hiện nay”. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của những bạn bè gần xa đã có những lời tư vấn và góp ý chân thành.
Chương I: Những vấn đề lý luận về tài chính và
thị trường tài chính
Tài chính và thị trường tài chính
1.1.1 Tài chính
1.1.1.1 Bản chất của tài chính:
Lịch sử xã hội cho thấy tài chính ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời của nhà nước và sản xuất hang hoá.
Tài chính là hệ thống quan hệ kinh tế biểu hiện trong quá trình hình thành,phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế.
Cần phân biệt quan hệ hàng hoá-tiền tệ và quan hệ tài chính. Trong quan hệ hàng hoá-tiền tệ,thì tiền biểu hiện như vật ngang giá, vật trung gian và giá trị thay đổi hình thức tồn tại từ hàng sang tiền đối với người bán và ngược lại đối với người mua.
Cần phân biệt quan hệ hàng hoá-tiền tệ và quan hệ tài chính. Trong quan hệ hàng hoá-tiền tệ,thì tiền biểu hiện như vật ngang giá, vật trung gian và giá trị thay đổi hình thức tồn tại từ hàng sang tiền đối với người bán và ngược lại đối với nguời mua.
Trong quan hệ tài chính thì khác,giá trị thực sự dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác. Chẳng hạn, khi một doanh nghiệp nộp thuế cho nhà nước, giá trị dịch chuyển từ quỹ tài chính doanh nghiệp sang ngân sách nhà nước,do đó quan hệ vè thuế là quan hệ tài chính.
Trong thơì kỳ quá độ,quan hệ tài chính biểu hiện qua các quan hệ dưới đây:
-Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức xã hội với nhà nước.
Đây là nhóm quan hệ giá trị có tính chất bắt buộc tập trung vào ngân sách nhà nước và sự phân phối giá trị đó phải bảo đảm cho các hoạt động của nhà nước diễn ra bình thường. Trong mối quan hệ này giá trị dịch chuyển theo hai chiều từ dân cư,doanh nghiệp và các tổ chức vào ngân sách nhà nước và ngược lại.
-Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, dân cư với hệ thống ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần,hệ thống các ngân hàng, các tổ chức tín dụng ngày càng giữ vị trí quan trọng trong việc tài trợ vốn cho các hoạt động xã hội nói chung, sản xuất kinh doanh nói riêng, tạo thuận lợi phát triển mạnh mối quan hệ tài chính-quan hệ tín dụng-giữa các doanh nghiệp, các tổ chức dân cư với ngân hàng.
-Quan hệ tài chính giữa các chủ thể kinh tế với thị trường .
Đây là mối quan hệ thể hiện sự mua bán các “quỹ tiền tệ” tồn tại dưới các hình thức khác nhau.Tham gia mua bán trên thị trường tài chính là hầu hết các chủ thể kinh tế trong xã hội.Nhà nước cũng tham gia vào nhóm quan hệ tài chính này với tư cách như người mua và bán các quỹ tiền tệ. Nhà nước bán quỹ tiền tệ của mình bằng việc phát hành công trái. Trong mối quan hệ tài chính nói trên, quan hệ mua bán “ vốn” giữa các doanh nghiệp và nhân dân đặc biệt quan trọng. Nhà nước cần tạo ra các điều kiện và biện pháp hữu hiệu để vừa hướng dẫn, điều tiết sự hình thành và phát triển của thị truờng tài chính theo phương hướng đã định.
-Quan hệ tài chính trong nội bộ mỗi chủ thể (doanh nghiệp, tổ chức xã hội, dân cư…) :
Quan hệ này biểu hiện ở sự dịch chuyển của giá trị trong quá trình hoạt động của mỗi tổ chức thông qua việc chi trả lương, thưởng cho viên chức, công nhân, nguời lao động; phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội bộ mỗi chủ thể.
Thông qua hướng dẫn, điều tiết, nhà nước vừa đảm bảo cho các quan hệ tài chính không phát triển tự phát như trong chủ nghĩa tư bản; vừa hướng dẫn mối quan hệ này phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.[1 ,trg204 - 206 ]
1.1.1.2 Chức năng của tài chính: tài chính có 2 chức năng
Thứ nhất, chức năng phân phối
Tài chính tham gia vào cả phân phối lần đầu và phân phối lại. Phân phối lần đầu diễn ra trong lĩnh vực sản xuất vật chất giữa các doanh nghiệp với người lao động và nhà nước. Cụ thể là sau khi các doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm, số doanh thu này sẽ được phân phối cho các quỹ: quỹ bù đắp tư liệu sản xuất, quỹ trả công cho người lao động, khoản nộp thuế cho ngân sách nhà nước, khoản trả lợi tức cổ phần,phần còn lại là lợi nhuận của các doanh nghiệp để mở rộng sản xuất và nâng cao phúc lợi của doanh nghiệp. Phân phối lại nhằm đáp ứng nhu cầu chung cho xã hội như: duy trì bộ máy nhà nước, phát triển văn hoá, xã hội, y tế, thể thao… Quá trình phân phối lại thông qua ngân sách nhà nước và các tổ chức tài chính trung gian(công ty tài chính, ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín dụng, công ty bảo hiểm…)
Thứ hai, chức năng giám đốc
Chức năng giám đốc của tài chính biểu hiện ở chỗ,tài chính có vai trò như người “giám sát”, “đôn đốc”, “kiểm tra”, “điều chỉnh” tình hình hoạt động của các doanh nghiệp. Cơ sở của chức năng giám đốc là sự thống nhất giữa sự vận động của các quỹ tiền tệ với quá trình hoạt động của nhà nước và của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Thông qua sự vận động của các quỹ tiền tệ, nguời ta có thể biết được tình hình thực hiện hoạt động của các doanh nghiệp để có giải pháp điều chỉnh.
1.1.1.3 Vai trò của tài chính
Một là, điều tiết kinh tế
Nhà nước thực hiện vai trò này thông qua sự kết hợp hai chức năng: phân phối và giám đốc. Trên cơ sở kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền, nhà nước nắm được thực tế hoạt động của nền kinh tế, từ đó phát hiện ra những vấn đề cần can thiệp, điều tiết. Bằng các chính sách phân phối, nhà nước điều tiết nền kinh tế theo kế hoạch đã định. Nhà nước có thể dung biện pháp đầu tư thêm vốn, bổ sung vốn để đẩy mạnh những ngành phát triển kém và các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước cũng có thể dung biện pháp giảm vốn đầu tư và hỗ trợ để hạn chế phát triển những ngành và những khâu chưa cần thiết… Đồn thời, nhà nước cũng có thể thông qua việc nâng cao hoặc hạ thấp thuế suất để điều tiết hoạt động đầu tư kinh doanh giữa các ngành nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển cân đối theo đinh hướng, muc tiêu.
Hai là, xác lập và tăng cường các quan hệ kinh tế-xã hội
Để làm lành mạnh hoá quan hệ tài chính, một mặt nhà nước cần có những biện pháp cấp bách điều chỉnh các quan hệ tài chính kể cả biện pháp cấp bách buộc các doanh nghiệp thanh toán nợ nần trong thời gian ngắn. Mặt khác, nhà nước còn phải chủ động tạo điều kiện thúc đẩy sự ra đời các thị trường vốn trung hạn,dai hạn, nhất là thị trường chứng khoán và hướng dẫn chúng phát triển đúng hướng.
Ba là, tích tụ và tập trung vốn, cung ứng vốn cho các nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong nền kinh tế luôn diễn ra quá trình di chuyển nguồn tài chính hai chiều từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực phi sản xuất, từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại, từ lĩnh vực phi sản xuất sang lĩnh vực sản xuất và từ nước ngoài vào trong nước. Nếu nhà nước có chính sách tốt điều chỉnh các quan hệ tài chính nảy sinh trong các quá trình di chuyển nói trên thì có thể thúc đẩy quá trình tập trung vốn cho đầu tư phát triển,giảm bớt các chi phí không cần thiết và thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài.
Bốn là, tăng cường tính hiệu quả của sản xuất, kinh doanh
Thông qua việc điều chỉnh các quan hệ thu-chi tài chính và phân phối thu nhập, theo nguyên tắc khuyến khích vật chất, xử lý chính xác mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, tài chính có thể nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; thông qua chức năng giám đốc, tài chính duy trì kỷ luật tài chính, góp phần đẩy lùi lãng phí, tham ô…
Năm là, hình thành quan hệ tích luỹ, tiêu dung hợp lý
Nhà nước cần thường xuyên thực hiện việc phân phối lại và điều chỉnh sự phân phối từng bước cho phù hợp, có thể điều tiết bằng cách đánh thuế thu nhập người có thu nhập cao, hỗ trợ người có thu nhập thấp hoặc cũng có thể thành lập các quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ hỗ trợ tạo việc làm cho người nghèo, nâng lương cho người lao động ở các ngành có thu nhập thấp…
Sáu là, củng cố liên minh công-nông, tăng cường vai trò của nhà nước và an ninh quốc phòng.
Lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy một nền kinh tế tài chính lành mạnh theo hướng tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội, sẽ tạo ra cơ sở kinh tế-xã hội vững chắc cho việc củng cố liên minh công-nông-trí thức, nền tảng cho việc tăng cường vai trò của nhà nước và an ninh quốc phòng. [ 1 ,trg 206 – 208 ] [5, trg 547]
1.1.2 Thị trường tài chính
1.1.2.1 Định nghĩa: “Thị trường tài chính là nơi diễn ra hoạt động giao dịch và mua bán quyền sử dụng những khoản vốn thông qua các phương thức giao dịch và những công cụ tài chính nhất định”
Đối tượng được mua bán trên thị trường tài chính là các khoản vốn
Để mua bán các khoản vốn này, người ta sử dụng các công cụ giao dịch nhất định. [14 , web ]
1.1.2.2 Phân loại thị trường tài chính
Có nhiều cách đến phân loại thị trường tài chính:
Nếu phân loại theo công cụ tài chính trên thị trường thì ta có:
- Thị trường nợ
- Thị trường chứng khoán
Nếu phân loại theo thời gian luân chuyển vốn, ta có:
- Thị trường tiền tệ: thị trường có thời gian luân chuyển vốn không quá 1 năm
- Thị trường vốn: thị trường có thời gian luân chuyển vốn trên 1 năm trở lên
Nếu phân loại theo hình thức phát hành, thì ta có:
- Thị trường sơ cấp: thị trường phát hànhc chứng khoán lần đầu tiên
- Thị trường thứ cấp: thị trường mua đi bán lại các chứng khoán
Tuy nhiên, trong thực tế việc sử dụng các hình thức phân loại nào thì sẽ tuỳ thuộc vào vấn đề mà người ta muốn nghiên cứu đến. Thông thường, khi nói đến thị trường tài chính người ta thường phân ra theo 2 cách dưới. [ 14, web ]
Cấu thành của thị trường tài chính
Trong một thị trường tài chính hiện đại, luôn có ba thành phần cơ bản sau đây tham gia: Người sử dụng cuối cùng,các định chế tài chính trung gian, và các nhà đầu tư.
Người sử dụng cuối cùng
Những doanh nghiệp, tư nhân khi cần đầu tư vốn cho kế hoạch kinh doanh của mình. Họ có thể huy động nguồn vốn này trên thị trường tài chính, bằng nhiều hình thức khác nhau thông qua các định chế tài chính trung gian. Họ là những người sử dụng nguồn vốn này để thực hiện các kế hoạch kinh doanh, tạo ra lợi nhuân. Đồng thời, họ cũng có những nghĩa vụ của người vay nợ đối với người cho vay.
Các định chế tài chính trung gian
Các tổ chức nhận ký gửi
Các tổ chức nhận ký gửi bao gồm các ngân hàng thương mại, các hợp tác xã tín dụng. Các tổ chức này có đặc điểm chung là nhận tiền gửi và sau đó đem cho vay trực tiếp tới các cá nhân, tổ chức cần vốn và một phần khác đem đầu tư vào chứng khoán. Như vậy, thu nhập của tổ chức này có được từ 2 nguồn: thu nhập từ tiền lãi cho vay và đầu tư chứng khoán; thu nhập từ các khoản phí dịch vụ.
Các tổ chức không nhận ký gửi
Loại tổ chức này bao gồm các tổ chức như: công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư [ 14 , web ]
Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những ngưòi sẵn sang bỏ vốn ra để đầu tư cho các dự án kế hoạch. Trong lĩnh vực tài chính,họ chính là thành phần đầu vào tạo ra nguồn vốn cho các doanh nghiêp. Họ là những người gửi tiết kiệm ngân hàng, mua cổ phiếu,trái phiếu. Mong muốn của các nhà đầu tư là số vốn của mình bỏ ra tạo ra được lợi nhuận.
Vai trò của thị trường tài chính
Thị trường tài chính có 3 chức năng kinh tế cơ bản sau:
Thứ nhất, hình thành giá các tài sản tài chính.
Thông qua tác động qua lại giữa những người mua và những người bán, giá của tài sản tài chính (chứng khoán) được xác định, hay nói cách khác, lợi tức cần phải có trên một tài sản tài chính được xác định. Yếu tố thúc đẩy các doanh nghiệp gọi vốn chính là mức lợi tức mà các nhà đầu tư yêu cầu; và với đặc điểm này của thị trường tài chính đã phát tín hiệu cho biết vốn trong nền kinh tế cần được phân bổ như thế nào giữa các tài sản tài chính. Quá trình đó được gọi là quá trình hình thành giá.
Thứ hai, cung cấp một cơ chế để cho các nhà đầu tư bán một tài sản tài chính.
Với đặc tính này, thị trường tài chính là thị trường tạo ra tính thanh khoản. Thiếu tính thanh khoản, các nhà đầu tư phải nắm giữ tài sản tài chính cho đến khi nào đáo hạn, hoặc đối với cổ phiếu cho khi nào công ty tự nguyện thu hồi hoặc nếu không tự nguyện thì phải chờ thanh lý tài sản. Mặc dù tất cả các thị trường tài chính đều có tính thanh khoản, nhưng mức độ thanh khoản sẽ là khác nhau giữa chúng.
Thứ ba, giảm bớt chi phí tìm kiến và chi phí thông tin.
Để các giao dịch có thể được diễn ra thì những người mua và người bán phải tìm được nhau. Họ phải mất rất nhiều tiền và thời gian cho việc tìm kiếm này, ảnh hưởng đến lợi nhuận kỳ vọng của họ. Chi phí đó là chi phí tìm kiếm. Bên cạnh đó, để tiến hành đầu tư họ cần có các thông tin về giá trị đầu tư như khối lượng và tính chắc chắn của dòng tiền kỳ vọng. Thị trường tài chính nhờ có tính trung lập này – là nơi để người mua, người bán đến đó tìm gặp nhau, là nơi cung cấp các thông tin một cách công khai và đầy đủ - nên có khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch lớn vì thế nó cho phép giảm đến mức thấp nhất những khoản chi phí trên.
Thị trường tài chính phát triển cùng với trình độ phát triển của nền kinh tế, đi từ đơn giản đến phức tạp. Ở trình độ phát triển ngày càng cao, thị trường tài chính ngày càng có nhiều loại trung gian tài chính tham gia. Các trung gian tài chính ngày càng tạo ra nhiều loại sản phẩm tài chính đa dạng, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của các bên tham gia thị trường. [ 2 , trg 23 ]
Chương II: Thực trạng hoạt động của thị trường tài chính
ở nước ta thời gian qua
2.1 Quá trình hình thành và phát triển của thị trường tài chính 1990 tới nay
Với sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam vào tháng 7 năm 2000. Ta có thể dựa vào cột mốc đó để chia ra làm hai giai đoạn hình thành và phát triển của thị trường tài chính
2.1.1 Giai đoạn từ 1990 đến 2000
Đây là giai đoạn đầu, phôi thai cho một thị trường tài chính hoạt động theo cơ chế thị trường. Do chịu ảnh hưởng của một thời kỳ chiến tranh lâu dài, và thời kỳ trước đổi mới, nền kinh tế ta hoạt động một cách quan liêu và bao cấp kém hiệu quả. Sau đổi mới năm 1986, một thị trường tài chính Việt Nam đã dần dần thành hình. Điển hình là qua những sự kiện như:
Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước đã thông qua và công bố hai pháp lệnh về Ngân hang: Pháp lệnh ngân hang nhà nước và Pháp lệnh ngân hang, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính. Hai pháp lệnh nói trên đã tạo cơ sở pháp lý để đổi mới cơ bản tổ chức và hoạt động của hệ thống ngân hang, được coi là mũi đột phá mở đầu cho sự nghiệp đổi mới hệ thống ngân hang, chính sách tiền tệ, tín dụng trong giai đoạn 1990- 2000.
Về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: nhằm thu hút thêm các nguồn vốn, tạo nên động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả. Văn kiện đại hội Đảng VII khẳng định “ cần thực hiện các hình thức cổ phần hoá có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất- kinh doanh “
Hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam ra đời và bước vào hoạt động từ 1/10/1995 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước
Các chính sách và quản lý thuế được đưa ra và sửa đổi liên tục nhằm đáp ứng kịp với nhu cầu phát triển của đất nước
Về tổ chức thị trường tiền tệ: trong những năm này, chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã rất chú trọng tạo dựng hệ thống thị trường tiền tệ (bao gồm thị trường tiền gửi, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường trái phiếu kho bạc, nghiệp vụ mở… ). Tuy chưa có điều kiện phát triển nhưng hệ thống thị trường tiền tệ đã góp phần tích cực trong việc khắc phục tình trạng ách tắc của lưu thông, thanh toán, phân phối và điều chỉnh các nguồn vốn ở một mức độ nhất định; đồng thời mở ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các chủ thể kinh tế.
Trong giai đoạn này, thị trường tài chính đã dần dần có những bước đột phá và thành công nhất đinh. Nhưng mức độ huy động vốn trong dân, và từ nước ngoài vẫn chiếm một tỷ lệ chưa cao.
2.1.2 Giai đoạn từ năm 2001 đến 2006
Cột mốc đánh dấu đáng chú ý nhất, có ảnh hưởng lớn nhất và đáng tự hào nhất của thị truờng tài chính Viêt Nam. Đó chính là sự ra đời của thị trường chứng khoán, một thị trường vốn- một kênh huy động vốn hiệu quả nhất cho nền kinh tê. Từ khi thị trường chứng khoán ra đời, đã tạo nên những bước chuyển đổi và nhảy vọt quan trọng. Thị trường tài chính lớn mạnh hơn, giúp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sau sở giao dich chứng khoán TP.Hồ Chí Minh, rồi đến lượt trung tâm giao dich chứng khoán Hà Nội ra đời. Thị truờng tài chính lại bùng nổ, với hàng loạt quỹ đầu tư trong nước và nước ngoài ra đời, các ngân hàng thương mại cổ phần nhiều hơn, mức độ huy động vốn lớn hơn, tạo ra một súc mạnh lớn cho nền kinh tế. Uớc tính mức vốn hoá của thị trường chứng khoán hiện nay đã là 40% GDP. Con số này sẽ ngày càng được tăng lên trong những thời gian tới. Có thể nói rằng, chưa bao giờ thị truờng tài chính Việt Nam lại phát triển manh mẽ như lúc này. [ 4 , trg 331 - trg 337 ] [10, web] [9, web ]
2.1.3 Giai đoan từ 2007 đến nay
Trong thị trường tài chính toàn cầu đầy “bong bóng” hiện nay,trường hợp của việt nam không có gì là nổi bật.Nhưng thị trường mới nhất của châu Á này đã cho thấy sự phát triển quá nóng đang đi kèm với những vấn đề của nó.
Thị trường chứng khoán(TTCK) của việt nam(VN) sau một thời gian thai nghén cuối cùng cũng đã phát triển nở rộ vào thời điểm có nhiều nguồn vốn toàn cầu đổ vào việt nam.Ngày càng có nhiều quỹ nước ngoài đổ xô đến VN để tìm hiểu về một TTCK đến nay đã tăng trưởng gấp đôi kể từ tháng 11 năm ngoái và gấp bốn lần kể từ đầu năm 2006.Cho dù những ngày gần đây thị trường có lắng dịu nhưng các cổ phiếu hàng đầu của thị trường này vẫn được giao dịch hơn rầt nhiều so với mệnh giá.
Nền kinh tế VN trong những năm qua đã có được sự tăng trưởng cao liên tục nhưng cũng có nhiều vấn đề tồn tại như đầu tư quá mức,ô nhiễm và tình trạng thu nhập mất cân đối nghiêm trọng.Với việc gia nhập WTO,VN đang thực hiện những cam kết cải cách hơn nữa về mặt kinh tế.
Những lợi thế của VN có thể kể đến như: có đội ngũ lãnh đạo chính trị mới,vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển thương mại,cơ cấu dân số tốt nhất ở khu vực Đông Á và một hệ thống tài chính phát triển hơn cả Trung Quốc so với thời điểm nước này ở giai đoạn tăng trưởng giống VN hiện nay.Trong 2007 hàng loạt công ty đã niêm yết trên thị trường còn non trẻ của VN và rất nhiều các công ty lớn khác đang chuẩn bị cho việc lên sàn.Rõ ràng thị trường tài chính của VN.
Tuy nhiên,dòng vốn đầu tư vào thị trường này có thể là một điều nguy hiểm,tương tự như trường hợp phát triển bùng nổ rồi sụp đổ ở Thái Lan và Malaysia vào những năm 1990.Nếu chỉ là việc giá các loại cổ phiếu giảm thì không phải quá nhiều,như trường hợp sụp đổ của thị trường chứng khoán Trung Quốc (năm 2001) chỉ làm ảnh hưởng đến các nhà đầu tư, chứ nền kinh tế thì không.Điều đáng lo ngại ở việt nam là cường độ của lán sóng vốn đầu tư đang cao hiện nay có thể làm thiệt hại nghiêm trọng đến toàn thể hệ thống tài chính khi lán sóng đó giảm.
Hiện có khoảng 2-3 tỉ USD của các nhà đầu tư nước ngoài đang chờ đổ vào TTCK VN.Số vốn đó nằm ngoài tổng FDI đăng ký của Việt Nam vào khoảng 10 tỉ USD và 2 tỉ USD đã được thực hiện trong năm 2006,ngoài ra còn nhiều nguồn vốn khác đang nhắm vào thị trường bất động sản của VN.Dòng tiền từ nước ngoài làm tăng lượng cung tiền trong nước với mức độ đáng lo ngại,thêm vào đó cơn sốt chứng khoán quá cao,cụ thể là ở TP.HCM,đã thu hút rất nhiều người dân tham gia thị trường này.
Tất cả những điều này đều không quá quan trọng nếu những lĩnh vực khác thuộc hệ thống tài chính cũng phát triển như TTCK.Hệ thống ngân hàng của việt nam còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết.Những ngân hàng quốc doanh chủ yếu có thể được bảo vệ bởi Chính phủ nhưng tỉ lệ nợ xấu của những ngân hàng này được xác định ở vào khoảng 20% so với mức chính thức là khoảng 5%.
Trong khoảng 35 ngân hàng còn nhiều ngân hàng được định giá thấp và có khuynh hướng sử dụng nguồn vốn để đầu cơ trên TTCK.Bản thân cổ phiếu của các ngân hàng cũng nằm trong số cổ phiếu được giao dịch mạnh nhất trên thị trường.Việc các ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại VN có thể giúp cho nghành này về mặt dài hạn nhưng trong ngắn hạn lại có thể tạo nhiều sự canh tranh về mặt cho vay và vì thế sẽ làm giảm các tiêu chuẩn đối với người đi vay.
Việt Nam cũng không có đủ nguồn dự trữ ngoại hối tương xứng với vị trí quốc tế mới của mình.Con số 13 tỉ USD chỉ vừa vặn bằng với giá trị của ba tháng nhập khẩu.Một điểm yếu tiềm ẩn khác là có khoảng 25% các khoản tiền gửi ngân hàng là bằng ngoại tệ.Điều nay có khả năng làm người vay ngoại tệ có thể gặp khó khăn nếu tỉ giá tăng mạnh.Tuy đây không phải là một nguy cơ hiện tại nhưng luôn là một khả năng xấu.
Với những kinh nghiệm từ việc quan sát Thái Lan cố gắng kiểm soát dòng vốn nước ngoài thời gian gần đây,VN đang miễn cưỡng áp dụng một số chính sách quản lý mới.Với may mắn,TTCK VN sẽ thoát khỏi điểm nóng và sẽ không có nguy cơ giảm giá thị trường 50-70%,có thể giết chết sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong nhiều năm sau.Sự thật là VN đang rất cần những nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển năng lượng và Chính phủ VN dự định sử dụng TTCK như là một kênh để huy động vốn,chẳng hạn như bằng việc niêm yết các công ty điện lực thành viên.
Bi quan quá mức về TTCK VN là không hợp lý.VN luôn tỏ ra cẩn trọng, thực hiện cải cách kinh tế từng bước một và khó có khả năng chạy vội theo tự do hóa quà nhanh.Thay vì muốn vượt mặt Trung Quốc về tăng trưởng, VN có vẻ hài lòng với tốc độ từ 7-8% như những năm gần đây. Tuy nhiên, ngay cả những nhà đầu tư cẩn thận nhất cũng có thể thấy được các dòng tiền đã cuốn trôi những khó khăn của thời kỳ trước đây. Vì thế, các nhà lãnh đạo VN sẽ cần nhận thức rõ một cách đặc biệt rằng đây không phải là thời điểm bình thường trong nền tài chính toàn cầu.
Chúng ta có thể thấy rõ hơn qua mười sự kiện tiêu biểu của thị trường tài chính VN 2007:
Một là, quy mô TTCK tăng mạnh. Năm 2007, tổng giá trị vốn hóa TTCK VN đạt gần 500.000 tỉ đồng,bằng khoảng 43,7% GDP của năm 2007. Đặc biệt TTCK 2007 đã thực sự trở thành một kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế khi quy mô vốn được các DN niêm yết huy động thành công lên tới trên 90.000 tỉ đồng. Tuy nhiên, hoạt động này cũng bộc lộ nhiều sai sót khi bùng nổ hiện tượng phát hành trái luật và nhiều DN bị phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực CK và TTCK.
Hai là, chỉ thị 03 của NHNN khống chế dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán. Với mức khống chế dưới 3%/tổng dư nợ, chỉ thị 03 cuả NHNN năm 2007 đã có tác động khá mạnh đến TTCK.Mặc dù khống chế tỉ lệ dư nợ cho vay chứng khoán có tác dụng hạn chế vốn đổ vào hoạt động đầu cơ và đảm bảo cho TTCK VN phát triển an toàn bền vững, nhưng việc quy định một tỉ lệ cho một thời điểm cố định (mức dưới 3%/tổng dư nợ vào thời điểm 31.12.2007) là khó khả thi đối với một số Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần và bị coi là nguyên nhân khiến TTCK suy giảm trong ngắn hạn.
Ba là, tăng trưởng tín dụng và lãi suất đều ở mức cao. Tốc độ tăng dư nợ cho vay của hệ thống NH đến cuối năm 2007 đạt khoảng 38% so với cuối năm 2006 (kế họach của năm tăng từ 18-22%). Tốc độ tăng dư nợ ở mức cao đã ảnh hưởng không thuận lợi đối với kiểm soát lạm phát. Lãi suất vay VND trên thị trường tiền tệ liên NH có lúc lên cao đến mức kỷ lục 17-18%/năm. Tuy chỉ xảy ra cục bộ, nhưng hiện tượng này là một cảnh báo tình trạng mất cân đối về kỳ hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn trong hệ thống NH ở VN.
Bốn là, vốn điều lệ của NHTMCP tăng mạnh. Năm 2007 lán sóng tăng vốn của các NHTMCP tăng mạnh. So với 2006, tốc độ tại địa bàn TPHCM tăng 94,6% và các NH ở HN tăng gần 75%. Việc quy mô vốn lưu động tăng nhanh và lớn trong thời gian ngắn đã đặt ra sức ép rất lớn về sử dụng vốn. Đã có dấu hiệu một phần vốn bị đổ vào các hoạt động đấu cơ chứng khoán và bất động sản.
Năm là, cho thành lập một số Ngân Hàng mới và mở rộng mạng lưới. Lần đầu tiên sau 11 năm (từ năm 1996), NHNN đã chấp thuận về nguyên tắc cho thành lập một số NHTMCP mới. Ngay trong tháng 12.2007, 9 NHTMCP được chấp thuận về nguyên tắc với tổng VĐL là 15.800 tỉ đồng. NHNN cũng đã chấp thuận về mặt nguyên tắc cho 3 Ngân Hàng nước ngoài mới. Việc thành lập các NHTM (nội địa và nước ngoài) mới sẽ khiến cho mức độ cạnh tranh trong hoạt động NH từ năm 2008 trở đi sẽ ngày càng trở nên gay gắt. Với quy định cứ 20 tỉ đồng vốn tăng thêm, NH được mở một sở giao dịch hoặc chi nhánh, từ năm 2006 đến nay, các NHTMCP đã phát triển mạng lưới rất nhanh. Tuy nhiên, trong khi nguồn nhân lực, công nghệ, khả năng quản trị của một số NH còn bất cập khiến hoạt động này tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Sáu là, một khối lượng tiền đồng được bơm vào lưu thông.Năm 2007, NHNN đã đưa ra một lượng khá lớn VND để tăng dự trữ ngoại hối với mục tiêu giảm áp lực lên giá của VND gây ảnh hưởng đến xuất khẩu, đồng thời chuẩn bị một lượng ngoại tệ cần thiết để bình ổn tỉ giá khi có hiện tượng đảo chiều của các luồng vốn. Đây là biện pháp phòng ngừa cần thiết, tuy nhiên một số ý kiến cho rằng tăng tiền cung ứng để mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối trong bối cảnh của VN năm 2007 đã gây áp lực lên lạm phát.
Bẩy là, thực hiện chính sách tiền tệ theo hướng kiềm chế tốc độ tăng giá. Mục tiêu của phương hướng điều hành chính sách này là để rút tiền từ lưu thông về, kiểm soát tốc độ tăng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán, không để tăng giá hoặc mẩt giá quà mức đồng tiền VN. Tuy nhiên, do những biện pháp chủ yếu được đưa ra từ cuối tháng 5 trở đi nên tác động còn có độ trễ.Năm 2007, lạm phát (đo bằng chỉ số giá tiêu dùng cuối năm) là 12,63%, cao nhất trong hơn 10 năm qua, mà một trong những nguyên nhân được cho là lượng cung tiền cao hơn mức mà nền kinh tế đòi hỏi.
Tám là, năm của các đợt IPO lớn. Năm 2007 là năm đầu tiên diễn ra các đợt Cổ Phần Hoá DNNN là các Tổng Công Ty, Tập Đoàn lớn. Tổng công ty Bảo Hiểm VN (Bảo Việt) và NH Ngoại Thương VN (VCB) là hai đợt IPO đáng chú ý nhất. Đặc biệt với việc IPO VCB, lần đầu tiên VN thực hiện cổ phần hóa một NHTM thuộc sở hữu Nhà Nước, đánh dấu một bước tự do hóa hệ thống NH. Đây cũng được coi là sự kiện IPO lớn nhất từ trước đến nay, có tác động lớn đến TTCK VN.
Chín là, lần đầu tiên đánh thuế đầu tư chứng khoán. Lần đầu tiên thu nhập từ đầu tư chứng khoán được đưa vào diện chịu thuế. Mặc dù mức thuế không quá cao và khá linh hoạt nhưng thị trường cũng đã có một thời gian dài phản ứng tiêu cực. Theo đó, cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán được lựa chọn và đăng ký với cơ quan thuế việc áp dụng một trong hai cách tính thuế: 0,1% mỗi lần chuyển nhượng hoặc thuế suất 20% vào cuối năm sau khi đã trừ các chi phí liên quan.
Mười là, bùng nổ truyền thông về TTCK. CK và TTCK đã trở thành chuyên mục thường xuyên và không thể thiếu không chỉ đối với nhiều tờ báo kinh tế,truyền hình mà còn cả những tờ báo chuyên về xã hội. Chưa bao giờ thông tin về Thị trường tài chính lại được cập nhật trên các phương tiện truyền thông đại chúng với cường độ dày đặc như vậy. Điều này cho thấy Thị trường tài chính VN đã bắt đầu phát triển và độc giả/công chúng của mảng thông tin này cũng ngày một đông đảo.
2.2 Vai trò thị trường tài chính trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta những năm qua
Thị trường tài chính đóng vai trò là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người kinh doanh. giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sinh lợi đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi. Hiện nay, nguồn vốn đầu tư đóng góp khoảng 50% - 55% tăng trưởng kinh tế hằng năm. Bởi vậy, huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội là một khâu cốt yếu của toàn bộ hệ thống các ngân hàng nước ta.
Trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước có hạn, vốn tự có của doanh nghiệp và người sản xuất còn ít ỏi, thì vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn tín dụng ngân hàng. Để có vốn cho vay, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã huy động vốn trong xã hội, vốn trong dân, vốn nước ngoài. Hệ thống ngân hàng huy động vốn cho đầu tư phát triển bằng đa dạng các phương thức, như: giải tỏa vốn đọng trong số nợ xấu, phát hành cổ phiếu và trái phiếu tăng vốn điều lệ, thu hút tiền gửi tiết kiệm và phát triển dịch vụ ngân hàng.
Tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng toàn quốc trong 5 năm qua đạt tốc độ tăng khoảng 20% - 25%/năm, gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Cụ thể năm 2000 vốn huy động của hệ thống ngân hàng tăng 26,5% so với năm trước, năm 2001 tăng 25,53%, năm 2002 tăng 17,7%, năm 2003 tăng 24,94%, năm 2004 tăng 30,39%, năm 2005 tăng 18% và 6 tháng đầu năm 2006 tăng hơn 12%.
Có thể khẳng định, hệ thống ngân hàng đóng vai trò chủ lực đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Đáng chú ý là các NHTM nhà nước chiếm trên 70% thị phần huy động vốn; thị phần của các NHTM cổ phần tuy còn khiêm tốn, nhưng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6182.doc