LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là mục tiêu và ước vọng của tất cả các dân tộc và của mọi thời đại. Tuy vậy việc đạt được mục tiêu kép này là hết sức khó khăn và trong thực tế, thực tiễn đã có nhiều bằng chứng về sự đối lập giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Các chính sách của Nhà nước dựa trên mục tiêu công bằng có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng kinh tế. Ngược lại một chính sách chỉ nhằm vào tăng trưởng thì có thể sẽ làm cho bất bình đẳng tăng lên. Đó ch
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1963 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính là các mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Trong các tài liệu nghiên cứu hiện nay có không ít các công trình nghên cứu chủ đề này. Từ các tài liệu đó, có thể thấy được sự thống nhất, liên hệ tác động, và đấu tranh của mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội đang là vấn đề cấp thiết ở tất cả các quốc gia trên thế giới, từ các nước phát triển tới các nước đã phát triển. Và đây cũng là vấn đề làm đau đầu tất cả bộ máy lãnh đạo của các quốc gia trên thế giới. Đã có nhiều cuộc thử nghiệm, nhiều chính sách mới ban hành để tìm ra sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Hiện nay, công bằng xã hội đang đặt ra là một vấn đề rất lớn, tình trạng bất công bằng xã hội đang diễn ra ở rất nhiều nước trên thế giới.
Đề án phân tích mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và công bằng về phân phối thu nhập tại các nước đang phát. Bao gồm các nội dung sau:
Chương I: Cơ sở lý thuyết của vấn đề tăng trưởng kinh tế với công bằng trong phân phối thu nhập
Chương II: Thực trạng tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng ở Việt Nam
Chương III: Định hướng về giải pháp tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội ở Việt Nam
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Kim Dung trong quá trình thực hiện đề án môn học
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG TRONG PHÂN PHỐI THU NHẬP
I. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế về công bằng và phân phối thu nhập
1.1. Khái niệm và bản chất của tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kì nhất định (thường là một năm). Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra.
Phạm trù tăng trưởng kinh tế mang tính hai mặt: số lượng và chất lượng
Mặt số lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng trưởng và được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và tốc độ gia tăng về thu nhập. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, thu nhập thường được thể hiện dưới dạng giá trị: có thể là tổng giá trị thu nhập, hoặc có thể là thu nhập bình quân tính theo đầu người. Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế thể hiện ở quy mô và tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu này. Các chỉ tiêu giá trị phản ánh tăng trưởng theo hệ thống tài khoản quốc gia(SNA) bao gồm: Tổng giá trị sản xuất (GO), Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), Tổng thu nhập quốc dân (GNI), thu nhập quốc dân (NI). Trong đó, chỉ tiêu GDP thường được coi là quan trọng nhất, do vậy, để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta sử dụng: mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế (GDP)(tính toàn bộ hay tính bình quân theo đầu người của thời kỳ sau so với thời kỳ trước). Như vậy tăng trưởng kinh tế được xem xét trên 2 mặt biểu hiện:
Sự thay đổi về quy mô GDP:
ΔY = Yt - Yt-1
Trong đó Yt : tổng sản lượng năm nay
Yt-1 : tổng sản lượng năm trước
Tốc độ tăng trưởng GDP:
g = x 100%
Mặt chất lượng của tăng trưởng kinh tế là thuộc tính bên trong của quá trình tăng trưởng kinh tế, thể hiện ở hiệu quả của việc đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng và khả năng duy trì trong dài hạn. Chất lượng tăng trưởng thể hiện năng lực sử dụng các yếu tố đầu vào, tạo nên tính chất sự vận động của các chỉ tiêu tăng trưởng và ảnh hưởng lan tỏa của nó đến các lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội.
Số lượng và chất lượng tăng trưởng là hai mặt của một vấn đề, trong đó vai trò của chất lượng tăng trưởng ngày càng quan trọng. Xu hướng coi trọng vai trò của chất lượng tăng trưởng là hoàn toàn phù hợp với xu thế tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế.
1.2. Quan niệm về công bằng dưới góc độ kinh tế
Trong lĩnh vực kinh tế công bằng thường gắn với hình thức phân phối. Công bằng trong phân phối thu nhập là sự phân phối một cách hợp lý phản ánh đúng tương quan giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa trách nhiệm và lợi ích, giữa vị thế cá nhân và cộng đồng.
Xét dưới góc độ kinh tế, công bằng được gắn với vấn đề phân phối thu nhập và tập trung vào 2 nguyên tắc:
- Công bằng về cơ hội: Công bằng trước hết phải được hiểu là sự bình đẳng trong cơ hội, cơ hội làm việc, cơ hội đầu tư, nghĩa là bình đẳng trong việc tiếp cận với những cơ hội mà với cố gắng và năng lực con người có thể đạt đến một mức sống cao hơn hiện nay. Mặt khác, những cơ hội như vậy phải có nhiều mới đáp ứng được nhu cầu làm việc của mọi tầng lớp dân chúng. Nói khác đi, nếu mọi tầng lớp dân chúng đều có cơ hội tham gia trong quá trình phát triển và được hưởng thành quả tương ứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ thì đó là sự phát triển trong công bằng. Có thể nói, phát triển là sự tạo ra không ngừng những cơ hội làm việc và công bằng khi mọi người trong xã hội được tiếp cận bình đẳng với những cơ hội đó. Trong trường hợp này, thành quả của sự phát triển sẽ được phân phối một cách công bằng (và không nhất thiết phải đồng đều), nghĩa là sự cách biệt về lợi tức (mức thu nhập) giữa các giai tầng trong xã hội chỉ ở một khoảng cách thoả đáng, phản ánh sự cách biệt trong cố gắng, trong khả năng và trí tuệ của từng người.
- Tránh sự nghèo khổ tuyệt đối: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của các địa phương”. Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. Những người đang sống trong “nghèo khổ tuyệt đối” là những người mà 4/5 chi tiêu của họ là dành cho nhu cầu về ăn mà chủ yếu là lương thực và một chút ít thực phẩm; tất cả đều thiếu dinh dưỡng ; chỉ khoảng 1/3 số người lớn biết chữ; và tuổi thọ trung bình của họ vào khoảng 40 năm.
2. Các thước đo bất bình đẳng về phân phối thu nhập:
2.1. Đường cong Lorenz
Conrad Lorenz – nhà thống kê người Mỹ năm 1905 đã xây dựng biểu đồ biểu thị mối quan hệ giữa các nhóm dân số và tỷ lệ thu nhập tương ứng của họ
Hình 1: Đường Lorenz
Trục hoành trong hình 1 biểu thị phần trăm cộng dồn của dân số và được sắp xếp theo thứ tự thu nhập tăng dần. Trục tung là tỷ lệ trong tổng thu nhập mà mỗi phần trăm trong số dân nhận được. Đường kẻ chéo (đường 45o) trong hình cho thấy ở bất kỳ điểm nào trên đường này đều phản ánh tỷ lệ phần trăm thu nhập nhận được đúng bằng tỷ lệ phần trăm của số người có thu nhập. Nói cách khác, đường chéo là đại diện của sự phân phối thu nhập “ hoàn toàn công bằng”.
Đường màu xanh da trời được gọi là đường bất bình đẳng tuyệt đối. Mỗi điểm trên đường này thể hiện tỷ lệ phần trăm số hộ gia đình không có thu nhập hoặc tỷ lệ phần trăm số hộ gia đình chiếm toàn bộ tổng thu nhập.
Đường Lorenz cho thấy mối quan hệ định lượng thực sự giữa tỷ lệ phần trăm của dân số có thu nhập và tỷ lệ phần trăm trong tổng thu nhập nhận được trong một khoảng thời gian nhất định thường là một năm. Khoảng cách giữa đường chéo (đường 45o) và đường Lorenz là một dấu hiệu cho biết mức độ bất bình đẳng. Đường Lorenz càng cách xa đường 45o thì mức độ bất bình đẳng càng lớn. Điều đó cũng có nghĩa là phần trăm thu nhập người nghèo nhận được sẽ giảm đi.
2.2. Hệ số GINI
Hệ số GINI(G) là thước đo được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu thực nghiệm. Dựa vào đường Lorenz có thể tính toán hệ số GINI. Hệ số GINI chính là tỷ số giữa diện tích được giới hạn bởi đường Lorenz và đường 450 với diện tích tam giác nằm bên dưới đường 45o.
Theo ký hiệu ở hình 1 ta có công thức sau:
Hệ số GINI (G) =
Về lý thuyết hệ số GINI nhận giá trị biến thiên từ 0 đến 1. Song về thực tế, GINI nhận giá trị trong khoảng lớn hơn 0 và nhỏ hơn 1 (0 < G < 1)
Dựa vào những số liệu thu thập được. Ngân hàng thế giới (WB)cho rằng trong thức tế giá trị của hệ số GINI thay đổi trong phạm vi hẹp hơn: Từ 0,2 đến 0,6. Với những nước có thu nhập thấp, hệ số GINI biến động từ 0,3 đến 0,5; thu nhập cao từ 0,2 đến 0,4.
3. Thực chất của mối quan hệ giữa tăng trưởng với công bằng trong phân phối thu nhập
Trong một nền kinh tế thống nhất, tăng trưởng kinh tế và phân phối công bằng là những khâu có vị trí độc lập tương đối với nhau. Tăng trưởng kinh tế liên quan đến việc tạo ra của cải vật chất cụ thể là GDP. Còn phân phối công bằng là việc phân chia các sản phẩm làm ra đó sao cho hợp lý. Điều đó cũng có nghĩa tăng trưởng kinh tế tự nó không dẫn đến phân phối công bằng và phân phối công bằng tự nó không làm tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong sự phát triển kinh tế xã hội giữa tăng trưởng kinh tế và phân phối công bằng có mối quan hệ tương tác với nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo ra của cải cho xã hội chính là điều kiện thực hiện công bằng xã hội. Tăng trưởng càng cao, kinh tế càng phát triển càng có điều kiện để thực thi các chính sách công bằng xã hội. Ngược lại phân phối công bằng sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Nó kích thích tính tích cực sáng tạo của mọi người nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng. Nó còn tạo ra một xã hội hài hòa giữa lợi ích cá nhân và công cộng. Như vậy phân phối công bằng vừa là tiền đề để tạo ra ổn định xã hội, vừa là động lực lớn cho tăng trưởng kinh tế.
Từ những điều nêu trên có thể thấy, tăng trưởng và công bằng xã hội không loại trừ nhau. Do đó, không nhất thiết phải giàu có mới thực hiện công bằng xã hội. Ngay trong điều kiện kinh tế còn nghèo nàn, nếu có chính sách phân phối hợp lý vẫn có thể đảm bảo thực hiện tốt công bằng xã hội.
Thực chất và ý nghĩa của mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là tăng trưởng và mức độ phúc lợi cho các nhóm mà mỗi cá nhân nhận được.
3.1 Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc đáp ứng mức độ phúc lợi cho con người
Trong thực tế, không phải lúc nào tăng trưởng kinh tế cũng đi liền với sự tiến bộ xã hội, bởi còn tùy thuộc vào mục đích của tăng trưởng kinh tế. Nếu tăng trưởng kinh tế chỉ nhằm đạt được lợi nhuận sẽ đem lại thảm họa cho con người. Ngược lại, tăng trưởng kinh tế để tất cả cho con người và vì con người thì luôn luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế và thực hiện chính sách an sinh xã hội là hai phạm trù khác nhau, nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề và điều kiện vật chất để giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội thông qua chính sách phúc lợi xã hội và an sinh xã hội. Nhưng nếu chính sách tăng trưởng không hướng vào mục tiêu bền vững và hiệu quả kinh tế - xã hội thì sẽ dẫn đến những hậu quả xã hội khó lường, nhất là nạn thất nghiệp, bất công xã hội, phân hóa giàu nghèo tăng. Do đó, một chính sách kinh tế tốt là một chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong công bằng, không làm gia tăng quá đáng mức độ chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư, tăng trưởng phải gắn với xóa đói giảm nghèo; bảo đảm cho mọi người, nhất là người nghèo, nhóm xã hội yếu thế đều được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng kinh tế. Muốn vậy, phải có sự can thiệp, điều tiết của Nhà Nước vào kinh tế để bảo đảm tăng trưởng kinh tế trên diện rộng và có lợi cho người nghèo, vì người nghèo. Đặc biệt, Nhà Nước can thiệp vào quan hệ phân phối bảo đảm phân bổ nguồn lực, phân phối lần đầu và phân phối lại theo hướng gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
3.2 Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bất bình đẳng và tốc độ giảm nghèo
Về bản chất mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và nghèo đói là mối quan hệ hai chiều. Tăng trưởng kinh tế cao, bền vững làm tăng nhu cầu về lao động và tăng lương, giảm nghèo. Thu nhập cao hơn dẫn đến tăng năng suất lao động và tăng trưởng. Tăng trưởng cũng cải thiện được thu nhập của khu vực công và tạo điều kiện chi tiêu công nhiều hơn cho kết cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội. Giúp giảm nghèo cũng như nâng cao tiềm lực sản xuất của một nền kinh tế. Một chiến lược giảm nghèo hữu hiệu phải giúp đạt được sự tăng trưởng kinh tế bền vững.
Mối quan hệ phức tạp giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo được minh họa bằng những xu thế dài hạn ở Châu Á. Kể từ thập kỷ 60 cho đến giữa thập kỉ 90, các nền kinh tế “thần kỳ” của Đông Á đã tăng trưởng nhanh hơn bất kỳ nhóm nước đang phát triển nào trên thế giới. Đến thập kỷ 90, nghèo đói hầu như đã được loại bỏ hoàn toàn ở các nền kinh tế công nghiệp hóa mới ở Đông Á, trong khi Indonesia, Malaysia và Thái lan cũng đạt được những bước tiến ấn tượng. Các chỉ tiêu xã hội của nhiều trong số những nước này đang dần dần hội tụ theo hướng đạt được mức bình quân của các nước công nghiệp. Trái lại, Nam Á đã trải qua tình trạng tăng trưởng trì trệ trong ba thập kỉ kể từ trước khi bắt đầu thập kỷ 80 với tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người trung bình khoảng 1,5 đến 2% một năm. Tốc độ giảm nghèo do vậy cũng diễn ra chậm.
II. Quan điểm giải quyết vấn đề công bằng về thu nhập trong quá trình phát triển
1. Mô hình chữ U ngược của Simon Kuznets
Simon Kuznets, nhà kinh tế học Mỹ năm 1955 đã đưa ra một mô hình nghiên cứu mang tính thực nghiệm nhằm xem xét mối quan hệ giữa thu nhập và tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Kuznets đã dùng tỷ số giữa tỷ trọng thu nhập của nhóm 20% giầu nhất trong tổng dân số so với tỷ trọng thu nhập của nhóm 60% nghèo nhất làm thước đo sự bất bình đẳng ( gọi là tỷ số Kuznets). Kuznets đã đưa ra giả thiết rằng: bất bình đẳng sẽ tăng ở giai đoạn ban đầu và giảm ở giai đoạn sau khi lợi ích của sự phát triển được lan tỏa rộng rãi hơn. Nếu biểu diễn mối quan hệ trên đồ thị sẽ có dạng chữ U ngược. Vì vậy, còn được gọi là giả thiết chữ U ngược.
Hình 2: Mô hình chữ U ngược
Hạn chế trong mô hình của Kuznets là không giải thích được hai vấn đề quan trọng:
Thứ nhất, những nguyên nhân cơ bản nào tạo ra sự thay đổi bất bình đằng trong quá trình phát triển?
Thứ hai, phạm vi khác biệt giữa các nước về xu thế thay đổi này trong điều kiện họ sử dụng các chính sách khác nhau tác động đến tăng trưởng và bất bình đẳng? Từ hai vấn đề này dẫn đến điều mà các nước đang phát triển băn khoăn vẫn không được giải đáp cụ thể. Đó là, có phải các nước có thu nhập thấp tất yếu phải chấp nhận gia tăng về bất bình đẳng trong quá trình tăng trưởng kinh tế hay không và sau đó họ có thể mong chờ sự bất bình đẳng được giảm bớt khi họ đạt đến mức độ cao của sự phát triển hay không?
2. Mô hình tăng trưởng trước, bình đẳng sau của A.Lewis
Dưới dạng tổng quát, mô hình cũng nhất trí với Kuznets về nhận xét cho rằng sự bất bình đẳng sẽ tăng lên lúc đầu và sau đó giảm bớt khi đã đạt được tới mức độ phát triển nhất định. Nhưng tiến thêm một bước, mô hình đã giải thích được nguyên nhân của của xu thế này. Trước hết, sự bất bình đẳng tăng lên ở giai đoạn đầu bởi vì cùng với việc mở rộng quy mô sản xuất công nghiệp, số lượng lao động được thu hút vào làm việc ở khu vực này ngày càng tăng nhưng tiền công của công nhân nói chung vẫn ở mức tối thiểu. Như vậy trong khi mức tiền công của công nhân không thay đổi thì thu nhập của các nhà tư bản vừa tăng lên do quy mô mở rộng, vừa tăng lên do lao động của công nhân đưa lại. Ở giai đoạn sau, sự bất bình đẳng giảm bớt do khi lao động dư thừa được thu hút hết vào khu vực thành thị (sản xuất công nghiệp và dịch vụ) thì lao động trở thành yếu tố khan hiếm trong sản xuất. Nhu cầu lao động ngày càng tăng lên đòi hỏi phải tăng tiền lương như vậy sẽ dẫn đến giảm bớt sự bất bình đẳng.
Trong mô hình này thì sự bất bình đẳng không chỉ là kết quả của tăng trưởng kinh tế mà còn là điều kiện cần thiết của tăng trưởng. Sự bất bình đẳng ở đây cũng có nghĩa là các nhà tư bản và nhóm người có thu nhập cao sẽ nhận được nhiều hơn. Và họ là những người sử dụng phần tiết kiệm của mình tạo ra nguồn tích lũy mở rộng sản xuất. Theo quan điểm của Lewis, bất bình đẳng là điều kiện để người giàu tăng tích lũy, tăng đầu tư, do đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giả sử, khi thu nhập tăng, tỷ lệ tiết kiệm tăng, bất bình đẳng tăng sẽ dẫn đến tiết kiệm tăng. Ngược lại, bất bình đẳng giảm sẽ kìm hãm tiết kiệm. Hoặc khi thu nhập tăng, tỷ lệ tiết kiệm biên giảm dần, khi đó, nếu bất bình đẳng giảm sẽ làm tăng tiết kiệm trong nền kinh tế. Như vậy rõ ràng là với các nước đang phát triển, trong trường hợp này việc giảm bất bình đẳng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tiết kiệm và đầu tư. Hay nói cách khác, có thể kết hợp giữa công bằng với tăng trưởng kinh tế.
3. Mô hình tăng trưởng đi đôi với bình đẳng của H.Oshima
Ý tưởng cơ bản của sự tăng trưởng đi đôi với bình đẳng dựa vào cách đặt vấn đề: có thể hạn chế sự bất bình đẳng ngay từ giai đoạn đầu của tăng trưởng được không? Một trong những hướng giải quyết vấn đề này là dựa vào mô hình của nhà kinh tế Nhật Bản H.Oshima. Trong mô hình hai khu vực, Oshima đã xuất phát từ đặc điểm sản xuất nông nghiệp Châu Á, đó là sản xuất lúa nước có tính thời vụ cao và cho rằng quá trình tăng trưởng cần được bắt đầu từ khu vực nông nghiệp. Chính quá trình này sẽ dẫn đến hạn chế sự bất bình đẳng trong quá trình tăng trưởng. Theo Oshima, trước hết khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị sẽ được cải thiện ngay từ giai đoạn đầu, do việc tập trung phát triển khu vực nông thôn dựa trên chính sách cải cách ruộng đất, dựa trên sự trợ giúp của Nhà nước về giống, kĩ thuật, đồng thời việc mở rộng và phát triển ngành nghề đã làm cho thu nhập ở khu vực nông thôn (vốn là khu vực có thu nhập thấp nhất trong xã hội) được tăng dần. Tiếp đó là quá trình cải thiện dần khoảng cách thu nhập giữa xí nghiệp có quy mô lớn và xí nghiệp quy mô nhỏ ở thành thị, cũng như giữa nông trại lớn và nông trại nhỏ ở nông thôn. Quá trình này có thể chia làm hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, khoảng cách thu nhập tăng lên do các cơ sở sản xuất lớn tận dụng được lợi thế về quy mô và có điều kiện áp dụng kỹ thuật mới. Sau đó, do lợi ích của cơ sở hạ tầng và khả năng áp dụng kĩ thuật mới tăng lên ở các cơ sở nhỏ, làm cho khoảng cách về thu nhập giảm dần. Vậy điều này có tác động như thế nào đến tăng trưởng? Theo Oshima, tiết kiệm sẽ tăng lên ở các nhóm dân cư, kể cả các nhóm có thu nhập thấp nhất, vì thu nhập ở họ dần dần thỏa mãn được các khoản chi và khi đó họ bắt đầu tiết kiệm để trả nợ các khoản vay đầu tư trước đó và tiếp tục đầu tư phát triển sản xuất và đầu tư giáo dục đào tạo cho con em họ.
4. Mô hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế (của ngân hàng thế giới WB)
Phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế là cách thức phân phối lại các thành quả của tăng trưởng kinh tế sao cho cùng với thời gian, phân phối thu nhập dần dần được cải thiện hoặc ít nhất là không xấu đi trong khi quá trình tăng trưởng vẫn tiếp tục. Điều này tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự lựa chọn các giải pháp chính sách phân phối lại tài sản (của cải) và chính sách phân phối lại từ tăng trưởng.
Cần phải có những chính sách phân phối lại tài sản là vì: theo phân tích của WB, nguyên nhân cơ bản của tình trạng bất công trong phân phối thu nhập của các cá nhân ở hầu hết các nước đang phát triển là do sự bất công trong vấn đề sở hữu tài sản. Lý do chính vì sao gần 20% dân số nhận được hơn 50% thu nhập là vì 20% này có thể đã sở hữu và kiểm soát trên 70% các nguồn lực sản xuất, đặc biệt là vốn vật chất, đất đai, thậm chí cả vốn nguồn lực (dưới hình thức học vấn cao). Chính sách đã được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển để phân phối lại tài sản là chính sách cải cách ruộng đất, chính sách nhằm tăng cường cơ hội giáo dục cho nhiều người. Tuy nhiên trong thực tế, các chính sách nói trên như chính sách cải cách ruộng đát chỉ thực sự là công cụ có tác động đối với phân phối lại thu nhập khi có sự kết hợp với các chính sách tín dụng nông nghiệp nông thôn, chính sách tiêu thụ nông sản, chính sách công nghệ.
III. Nguyên nhân của tình trạng bất bình đẳng trong quá trình phát triển
1. Nguyên nhân khách quan: sự điều tiết của thị trường
Trong một nền kinh tế thị trường thuần tuý, thu nhập được quyết định bởi những nguồn tài nguyên thanh toán mà các cá nhân và hộ gia đình nhận được trên thị trường các nguồn tài nguyên. Mức lương, lãi suất, tiền thuê và lợi nhuận nhận được được quyết định bởi giá các nguồn tài nguyên trên thị trường và số lượng các nguồn tài nguyên được sở hữu bởi các cá nhân và hộ gia đình. Những hộ gia đình này cùng với những loại hàng hoá có giá trị cao nhất nhận được thu nhập cao nhất. Số lượng đất đai, vốn và nhân lực (ở mức độ nào đó), một phần được quyết định bởi thu nhập nhận được do các thế hệ trong quá khứ của gia đình. Hệ thống quyết định thu nhập này có thể dẫn tới một sự phân phối thu nhập hoàn toàn bất bình đẳng.
Để đánh giá ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến việc cải thiện đời sống vất chất cho dân cư cần nghiên cứu phân phối thu nhập để biết được các cá nhân có được thu nhập là bao nhiêu và nguồn gốc để tạo ra thu nhập là từ đâu? Để phục vụ cho mục đích trên các nhà kinh tế thường quan tâm đến phân phối thu nhập theo chức năng và phân phối lại thu nhập.
Phân phối thu nhập (phân phối lần đầu) được xác định chủ yếu dựa vào quyền sở hữu các yếu tố sản xuất và vai trò của từng yếu tố trong quá trình sản xuất. Do vậy, phân phối theo chức năng có vai trò quan trọng vì nó được coi là nguyên nhân dẫn đến mức độ phúc lợi khác nhau giữa các nhóm dân. Điều này được thể hiện ở hình 3.
Hình 3: Phân phối thu nhập theo chức năng và thu nhập cá nhân
(hộ gia đình)
Sản xuấtt
Tiền lương
Tiền thuê
Lợi nhuận
Hộ gia đình 1
Hộ gia đình 2
Hộ gia đình 3
Hộ gia đình 4
Trong hình nêu trên, hộ gia đình chỉ có sức lao động (hộ gia đình 3) sẽ chỉ nhận được thu nhập bằng tiền lương; còn hộ gia đình có cổ phần trong doanh nghiệp, có đất đai cho thuê và có sức lao động (hộ gia đình 2) sẽ nhận được thu nhập từ tất cả các yếu tố.
Phương thức phân phối lại thu nhập là sự phân phối tiến hành sau phân phối ban đầu nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu về nhiều mặt của xã hội và điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Phân phối lại thu nhập được tiến hành chủ yếu thông qua các chính sách và biện pháp của Chính phủ như: ngân sách nhà nước, tín dụng, lãi suất, thuế, giá cả, tiền lương, dịch vụ có thu tiền...Phân phối lại thu nhập nhằm mục đích duy trì bộ máy nhà nước, điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư để bảo đảm công bằng xã hội, góp phần mở rộng và phát triển nền sản xuất, mở rộng phúc lợi xã hội, cũng như tăng mức thu nhập và tiêu dùng thực tế của nhân dân.
2. Nguyên nhân chủ quan: các chính sách, công cụ điều tiết của Nhà nước
Các chính sách về giáo dục, chính sách đầu tư cho giáo dục của Nhà nước. Sự phân bổ vốn cho giáo dục tạo ra sự khác nhau giữa các nhóm dân số. Người nghèo khó tiếp cận các nguồn vốn đầu tư hơn người giàu và mất đi cơ hội đầu tư lẽ ra có thể mang lại lợi suất cao hơn. Chi phí giao dịch làm nản lòng và không tạo kích thích cho người nghèo đầu tư kể cả đầu tư vào vốn con người. Hệ quả là bất bình đẳng về phân phối thu nhập không giảm, mà về dài hạn còn bất lợi cho tăng trưởng. Thực tế về mối quan hệ giữa nghèo đói, khía cạnh phân phối và tăng trưởng đã làm cho vai trò của chính sách xã hội đối với quá trình tăng trưởng ngày càng trở nên quan trọng hơn.
Trong một phân tích, 20 nước có thu nhập trung bình trong giai đoạn 1972 – 1992 cho thấy: để duy trì tốc độ tăng trưởng Brasil đã thực hiện chính sách ưu đãi trong một thời gian dài thông qua tài trợ trực tiếp từ ngân sách cho các đầu tư trong và ngoài nước, trợ giá, ưu đãi thuế, tín dụng. Đầu tư cho ngân sách giáo dục thì lại chỉ chú trọng giáo dục ĐH và CĐ, thiếu đầu tư cho giáo dục trung học và tiểu học. Ngân sách Nhà nước luôn trong tình trạng căng thẳng, nguồn lực dành cho giáo dục, y tế và khu vực xã hội thấp. Đó chính là nguyên nhân của bất bình đẳng về phân phối thu nhập và phân phối cơ hội ở Brasil rất cao. Tương đối trái ngược với Brasil, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện sự hỗ trợ có chọn lọc. Đồng thời, Chính phủ ưu tiên đầu tư nhiều hơn cho giáo dục và ngân sách công cho giáo dục được ưu tiên cho giáo dục cơ bản. Nhờ đó, Hàn Quốc khá thành công trong phát triển nguồn nhân lực và hệ số GINI về giáo dục hay sự bất bình đẳng trong giáo dục đã giảm nhanh chóng và tăng trưởng thực sự đi đôi với giảm nghèo.
IV. Tại sao cần phải quan tâm đến vấn đề bất bình đẳng trong quá trình phát triển
1. Bất bình đẳng gia tăng dẫn đến sự gia tăng về nghèo đói
Trong một thế giới của sự phát triển khoa học kỹ thuật ngày càng tăng, khi mà xã hội lẽ ra phải đang được hưởng những lợi ích từ sự đi lên của kinh tế, thì nhiều nước đang phải đối mặt với tình trạng mà trong đó sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo "đang gia tăng với tốc độ đáng báo động". Mục tiêu của sự tăng trưởng kinh tế là đem đến một cuộc sống no đủ cho mọi người dân. Giảm tỷ lệ nghèo đói, nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người trên toàn thế giới. Tuy nhiên, khi tăng trưởng kinh tế đi cùng với bất bình đẳng sẽ khiến cho nghèo đói giảm chậm, và khi bất bình đẳng tăng lên sự gắn kết xã hội giảm đi, người nghèo bị tụt hậu bị xa lánh.“Công bằng giúp chúng ta theo đuổi mục tiêu thịnh vượng lâu dài” Francois Bourguignon, chuyên gia kinh tế, đồng thời là Phó Chủ tịch Kinh tế học Phát triển của Ngân hàng Thế giới, đã phát biểu như vậy. “Sự công bằng tăng lên sẽ đem lại lợi ích kép cho xóa đói giảm nghèo. Công bằng giúp làm cho phát triển toàn diện bền vững, và nó đem lại nhiều cơ hội hơn cho những nhóm nghèo nhất trong xã hội.”
Công bằng khuyến khích đầu tư nhiều hơn và hiệu quả hơn dẫn đến tăng trưởng nhanh hơn. Hố sâu ngăn cách của sự bất bình đẳng trong giàu nghèo và trong cơ hội, kể cả trong nội bộ giữa các quốc gia đã góp phần dẫn đến sự nghèo khổ cùng cực kéo dài dai dẳng đối với một bộ phận lớn dân số. Điều này làm lãng phí tiềm năng con người và trong nhiều trường hợp có thể làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững.
2. Bất bình đẳng làm gia tăng sự bất công về cơ hội giữa các thế hệ về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội
Bất bình đẳng về cơ hội là sự khác biệt về cơ hội xuất phát từ các yếu tố về màu da giới tính, nhóm xã hội, nơi sinh, nghề nghiệp, học vấn của cha mẹ - các yếu tố được định trước và không thể thay đổi. Bất bình đẳng về cơ hội là nguy cơ dẫn đến sự lãng phí tiềm năng con người và có thể làm giảm mức phát triển. Đôi khi một số đứa trẻ có năng lực tốt không có điều kiện học hết tiểu học nhưng nhiều đứa trẻ khác năng lực kém hơn lại tốt nghiệp đại
học. Bất bình đẳng về cơ hội cũng gây ảnh hưởng xấu đến các thể chế kinh tế, chính trị, xã hội đang có. Vậy tại sao bất bình đẳng về cơ hội vẫn tồn tại dai dẳng? Tại sao những bất bình đẳng đó cứ tái diễn mãi? Câu trả lời ngắn gọn là hệ thống chính trị không phải lúc nào cũng coi trọng các cá nhân như nhau. Chính sách và thể chế không sinh ra từ một nhà lập kế hoạch xã hội tốt bụng, người mong muốn tối đa hóa giá trị hiện tại của phúc lợi xã hội. Chúng là kết quả của quá trình kinh tế chính trị trong đó các nhóm khác nhau tìm cách bảo vệ lợi ích của chính mình. Do đó, bất bình đẳng về cơ hội tiếp tục truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Con cái nhà nghèo và địa vị thấp kém được hưởng ít hơn cơ hội về giáo dục, y tế, thu nhập và địa vị.
3. Bất bình đẳng dẫn đến sự bất ổn định về mặt chính trị của quốc gia
Ngày nay, thế giới đang phải gánh chịu sự bất bình đẳng về kinh tế gay gắt. Hai cực giàu nghèo càng ngày càng doãng rộng ra thêm, đồng thời càng thúc đẩy sự chống đối. Sự phân hóa giàu nghèo và sự bất công xã hội gia tăng đã gây nên nỗi bất bình chính đáng ở các nước và các tầng lớp nhân dân nghèo khổ. Sự chống đối ngày càng quyết liệt không chỉ ở các nước đang phát triển, mà còn xảy ra ngay cả trong các nước phát triển phương Tây. Ở Mỹ, vấn đề bất công xã hội ngày càng chiếm phần lớn thời gian của các cuộc tranh luận chính trị. Do Mỹ có khả năng to lớn trong việc truyền bá những tình thế tiến thoái lưỡng nan của mình ra cả thế giới, nỗi lo về sự bất bình đẳng của Mỹ đã lan toả sang những quốc gia nơi mà sự bất công không có sự thay đổi nhiều.
Bất bình đẳng sẽ mang đến những rủi ro về mặt chính trị. Nếu có bất công và đối xử không công bằng trong quá trình tăng trưởng, thì xã hội sẽ mất ổn định và sự ổn định về chính trị sẽ bị đe dọa. Chỉ cần bật tivi hoặc xem một tờ báo là có thể ý thức được vị trí của mình trong trật tự thứ bậc kinh tế toàn cầu. Sự lo lắng về bất bình đẳng càng tăng thêm do nỗi sợ hãi khủng bố hoặc bùng nổ nhập cư trái phép; trong cả hai trường hợp, sự không công bằng có thể cuối cùng sẽ dẫn tới mối đe doạ trực tiếp đối với sự sống còn. Nguy hiểm hơn nó có thể dẫn tới sự bất ổn định về mặt xã hội trên toàn thế giới. Khi đó tất cả mọi người trong chúng ta đều phải trả giá.
4. Bất bình đẳng dẫn đến cản trở sự đầu tư cho giáo dục
Các chính sách về giáo dục, chính sách đầu tư cho giáo dục của Nhà nước. Sự phân bổ vốn cho giáo dục tạo ra sự khác nhau giữa các nhóm dân số. Người nghèo khó tiếp cận các nguồn vốn đầu tư hơn người giàu và mất đi cơ hội đầu tư lẽ ra có thể mang lại lợi suất cao hơn. Chi phí giao dịch làm nản lòng và không tạo kích thích cho người nghèo đầu tư kể cả đầu tư vào vốn con người. Những người nghèo không có đủ chi phí để thỏa mãn tất cả các nhu cầu của cuộc sống, thu nhập của họ chỉ để dành cho chi trả những nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc, ở, đi lại. Thậm chí những nhu cầu đó cũng chỉ đáp ứng được một phần. Họ không còn có cơ hội đầu tư cho giáo dục, con đường ngắn nhất giúp họ thoát khỏi nghèo đói cùng cực. Bất bình đẳng trong giáo dục sẽ càng làm sâu thêm mối bất bình đẳng giàu nghèo, đồng thời ngăn cản những thế hệ sau có thể đạt đến một tương lai sang lạn, gây ra sự lãng phí về tiềm năng con người cho sự phát triển đối với chính bản thân người nghèo cũng như đối với toàn xã hội.
V. Kinh nghiệm thực tế của các quốc gia trong việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng
1. Tăng trưởng đi đôi với bất bình đẳng ở Brasil
Dù là một nước lớn với những nguồn tài nguyên phong phú và một nền kinh tế khá mạnh, Brasil hiện vẫn có hơn 22 triệu người sống dưới mức nghèo khổ. Gộp cả những người sống trong tình trạng khá nghèo (có thu nhập không đủ cho những nhu cầu cơ bản), con số này có thể lên tới hơn 53 triệu người (khoảng 30% dân số). Đây là vấn đề đáng báo động, và nó góp phần vào sự bất bình đẳng kinh tế của đất nước, nước này được coi là đứng hàng đầu thế giới theo hệ số Gini. (GINI = 0.6)
Nỗ lực gần đây nhất nhằm giảm nhẹ tình trạng này đang được._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5975.doc