Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế nước ta

Mục lục Trang Phần I: Lời mở đầu Vai trò của quy luật giá trị trong thời kỳ phát triển kinh tế ở nước ta bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp giữa sản xuất và trao đổi hàng hoá là yếu tố quyết định sự phát triển của nền kinh tế, lực lượng sản xuất càng phát triển thì trình độ của sản xuất ngày càng cao thì phạm vi thực hiện vai trò này càng cần thiết và mức độ đòi hỏi của nó ngay càng chặt chẽ. Trong quá trình phát triển lịch sử xã hội nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1675 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhau và phát triển từ thấp đến cao. Để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh cần phả có những thay đổi lớn trong cơ cấu nền của kinh tế. Chính vì vậy, Đề án này được viết để khẳng định lại một lần nữa tính tất yếu khách quan của việc áp dụng quy luật giá trị và vai trò của nó trong quản lý và phát triển kinh tế. Đứng trước xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới thì nứơc a còn là một trong những nước có nền kinh tế chậm phát triển nghèo nàn và lạc hậu. Cơ sở hạ tầng thấp kém, trình độ quản lý lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển... Bên cạnh Dđó nạn thất nghiệp, tham ô lạm phát, ô nhiễm môi trường... vẫn luôn là một trong những vấn đề bức xúc chưa hạn chế được. Tuy vậy, không thể một sớm một chiều mà có thể khắc phục được ngay những yếu tố đó mà ta phải dần dần từng bước khắc phục. Trong kinh tế, việc áp dụng quy luật giá trị vào quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá là rất quan trọng. Bởi vậy, chúng ta sẽ đề cập đến vai trò của quy luật giá trị trong phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam trên khía cạnh ảnh hưởng của nó đến sản xuất hàng hoá. Là một sinh viên Trường KTQD tôi thấy cần thiết phải quan tâm tới vấn đền này. Tuy nhiên, do hiểu biết còn hạn chế nên bài viết chưa được sâu rất mong thầy giáo xem xét và chỉ bảo. Em xin chân thành cảm ơn TS. Trần Việt Tiến đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành Đề án này. Phần II: Nội dung Chương 1: Tổng quan chung về giá trị và quy luật giá trị 1.1. Quan điểm về giá trị. Có nhiều quan điểm về giá trị: Giá trị là một phạm trù lịch sử, nó gắn liền với nền kinh tế hàng hoá. Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì còn phạm trù giá trị. Trong kinh tế chính trị học: Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá, là quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá. 1.2. Quy luật giá trị. Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. ở đâu còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó còn có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị. 1.2.1. Nội dung của Quy luật giá trị. Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hoá không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hoá, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hoá, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được. Trong nền kinh tế thị trường, biểu hiện của quy luật giá trị là giá cả. Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố: Cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả của hàng hoá trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xung quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng. 1.2.2. Tác dụng của quy luật giá trị: Quy luật giá trị có 3 tác dụng: Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được dịch chuyển vào ngành ấy cao hơn. Ngược lại, khi cung ở ngành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hoá giảm xuống, hàng bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất lại chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao hơn. Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cẩ thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt. Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá. Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh. Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao; và ngược lại. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cành tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ. Cuối cùng, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành kẻ giầu người nghèo. Quá trình cành tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: Những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật có tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài giàu nên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó. Tác dụng của quy luật giá trị có ý nghĩa: một mặt quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội. 1.2.3. Sự cần thiết phải nghiên cứu quy luật giá trị trong nền kinh tế nước ta. Trong bất cứ hoạt động kinh tế đều có vai trò chủ đào của con người điều khiển quá trình kinh tế đó hoạt động theo một cơ chế quản lý kinh tế nhất định. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Chính vì không thể tách rời sự quản lý của nhà nước ra khỏi nền kinh tế, vì thế mà cũng không thể thoát khỏi được việc áp dụng các quy luật kinh tế vào nền kinh tế thị trường cả đất nước. Trong các quy luật kinh tế được áp dụng thì quy luật giá trị được coi là quy luật có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế. Nó có vai trò điều tiết sản xuất hàng hoá một cách hợp lý rồi từ đó gây ảnh hưởng tới nền kinh tế đất nước. Chính vì vậy mà nó có một vai trò không nhỏ, nó gây ảnh hưởng tới nền kinh tế quốc dân thông qua sự điều tiết của nó đối với nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Chương 2: Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế nước ta 2.1. Đặc điểm kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam. 2.1.1. Nền kinh tế hàng hoá còn ở trình độ kém phát triển. Đặc điểm này thể hiện ở các mặt chủ yếu sau: Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội còn ở trình độ thấp. Bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế đã được trang bị máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại, bộ phận lao động thủ công vẫn còn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Trong nhiều ngành kinh tế, máy móc cũ kĩ, công nghệ lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ bé. Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của ta còn rất thấp. Do cơ sở vật chất và trình độ công nghệ lạc hậu cho nên sức cành tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài còn rất yếu. Số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá làm ra còn nghèo và chưa ổn định. Đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp thành thạo còn quá ít, chưa đáp ững yêu cầu to lớn của thực tiễn. Thu nhập của người làm công ăn lương cũng như của nông dân lao động còn rất thấp, do sức mua hàng hoá chưa cao. Dung lượng thị trường trong nước còn hẹp. Do vậy, yêu cầu bức xúc đặt ra đối với nước ta là muốn phát triển mạnh mẽ nền kinh tế phải đẩy mạnh nền sản xuất hàng hoá. 2.1.2. Nền kinh tế hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế tiến hành sản xuất hàng hoá tuy có bản chất kinh tế khác nhau, nhưng chúng đều là những bộ phận của một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất với các quan hệ cung – cầu, tìên tệ, giá cả chung... Bởi vậy, chúng vừa hợp tác, vừa cành tranh với nhau. Mỗi đơn vị kinh tế là một chủ thể độc lập, tự chủ và tất cả đều bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ rằng, mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng. Chính sự tác động của các quy luật kinh tế khác nhau này mà bên cạnh tính thống nhất của các thành phần kinh tế còn có những khác nhau và mâu thuẫn khiến cho nền sản xuất hàng hoá ở nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. 2.1.3. Nền kinh tế hàng hóa vận hành theo định hướng XHCN. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của nền sản xuất hàng hoá ở nước ta.Nền sản xuất hàng hoá này khác với nền sản uất hàng hoá giản đơn và càng khác vói nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ ng 2.1.3.1. Cơ chế thị trường về phúc lợi của nhân dân. Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nên các cân đối của nền kinh tế theo yêu cầu của quy luật giá trị,quy luật cung- cầu, giá cả ,cạnh tranh, lưu thông tiền tệ .Nó là guồng máy vận hành của nền kinh tế hàng hoá phát triển ,là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các nguồn vốn,tài nguyên,công nghệ ,sức lao động.căn cứ vào thị trường, các doanh nghiệp sẽ quyết định :sản xuất cái gì?sản xuất như thế nào?sản xuất cho ai?. Dấu hiệu đặc trưng nhất của cơ chế thị trường là cơ chế hình thành giá cả tự do. Người bán và người mua thông qua thị trường để xác định giá cả. Do tồn tại trong nhiều chế độ kinh tế- xã hội khác nhau cho nên hoạt động của cơ chế thị trường không chỉ chịu sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường nói chung ma còn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế riêng của các phương thức sản xuất chủ đạo. Do vậy, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mang bản chất khác nhau, biểu hiện ở: Chế độ sở hữu khác nhau (công hữu hay tư hữu hay nhiều loại hình sở hữu khác nhau trong đó công hữu là chủ đạo). Mục đích khác nhau (vì phúc lợi của nhân dân hay vì lợi nhuận của nhà tư bản). Bản chất của nhà nước khác nhau (tư bản hay xã hội chủ nghĩa). 2.1.3.2. Kết hợp kế hoạch với thị trường. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, thị trường giữ vai trò quyết định. Nền sản xuất xã hội nói chung bị điều tiết bởi bàn tay vô hình là thị trường. Trong nền sản xuất hàng hoá phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kế hoạch và thị trường đều được xam là những công cụ điều tiết kinh tế khách quan mặc dù chúng là hai cơ chế hoạt động theo những nguyên tắc khác nhau. Trong mối quan hệ này, thị trường được coi vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch và phát triển theo sự điều tiết và định hướng của kế hoạch vĩ mô. Kế hoạch và thị trường cần kết hợp với nhau. Kế hoạch có ưu điểm là tập trung được tiềm năng cho những mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm cho cân bằng tổng thể, gắn được mục tiêu phát triển kinh tế với phát triển xã hội ngay từ đầu. Tuy nhiên trong điều kiện còn sản xuất hàng hoá thì việc kế hoạch hoá trên quy mô toàn xã hội khó bao quát được hết tất cả những yêu cầu rất đa dạng và luôn biến động của đời sống kinh tế; dễ tạo ra tính ì, kém năng động của các chủ thể kinh doanh. trong khi ấy thị trường, với cơ chế cạnh tranh lại có thể kích thích mạnh tính năng động, nhạy nhu cầu đa dạng, phong phú của đời sống xã hội. Song, khuyết tật cơ bản của cơ chế thị trường là tính tự phát, vô chính phủ gây thiệt hại cho nền sản xuất. Vì lẽ đó, cần phải có sự kết hợp khéo léo giữa kế hoạch với thị trường trong nền kinh tế hàng hoá quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thị trường được xem như là động cơ còn kế hoạch là bánh lái của con thuyền kinh tế. Thị trường là căn cứ để xây dựng và kiểm tra các kế hoạch phát triển kinh tế. Sự kết hợp kế hoạch với thị trường trong phạm vi vĩ mô và vi mô có những điểm khác biệt nhất định. Cần nhận thức rõ mối quan hệ này, nếu không sẽ phạm sai lầm hoặc “tả” khuynh- kế hoạch hoá tràn lan, dùng biện pháp kế hoạch hoá pháp lệnh là chính...; hoặc hữu khuynh- xem nhẹ kế hoạch, để thị trường quyết định tất cả, hoàn toàn tự phát, kể cả đối với các lĩnh vực như văn hoá, giáo dục... dể thả nổi tất cả cho thị trường, không có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa là chệch hướng, nền kinh tế không thể đi vào quỹ đạo chiến lược và kế hoạch phát triển lên chủ nghĩa xã hội. ở tầm vĩ mô , thị trường đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.Thông qua sự biến động của giá cả, cung – cầu trên thị trường ,các doanh nghiệp sẽ lựa chọn phương sản xuất cái gì ,sản xuất như thế nào ,sản xuất cho ai. Trên tầm vĩ mô, mặc dù thị trường không phải là căn cứ duy nhất có tính quyết định, song kế hoạch nhà nước cũng không thát ly khỏi tình hình thực tiễn của thị trường. Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường trong nền kinh tế của thời kì quá độ ở nước ta hiện nay ,cần phải đổi mới các hoạt động của công tác kế hoạch hoá chứ không phải là từ bỏ nó. Phương pháp cơ bản để đổi mới công tác kế hoạch hoá hiện nay là: Thực hiện kế hoạch hoá hai cấp vĩ mô và vi mô,trong đó ,kế hoạch vĩ mô láy hiệu quả kinh tế(lợi nhuận)làm mục tiêu chủ yếu và thị trường làm căn cứ,đối tượng trực tiếp.Kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp phải bao gồm cả sản phẩm lẫn giá trị ,kế hoạch kỹ thuật lẫn tài chính .còn kế hoạch hoá vĩ môphải lấy hiệu quả kinh tế –xã hội nói chung làm mục tiêu ,nên thị trường chỉ là mội trong nhiều căn cứ chứ không phải là căn cư duy nhất,trực tiếp .Kế hoạch hoá vĩ mô phải bao quát tất cả các thành phần kinh tế.trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ,việc nâng cao chất lượng kế hoạch hoá vĩ mô có tầm quan trọng đặc biệt. Đổi mới nội dung và chức năng của kế hoạch vĩ mô .Cần sớm xoá bỏ kế hoạch hoá kiểu tập chung,bao cấp,áp đặt,chuyển sang thực hiện kế hoạch hoá định hướng ,gián tiếp,coi trọng việc sử dụng rộng rãi các đòn bẩy kinh tế,công tác dự đoán,chương trình hoá ,các kế hoạch :dài hạn, trung hạn, ngắn hạn..... 2.2. Thực trạng sự vận dụng quy luật giá ở nước ta thời gian qua. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có khả năng nhận thức và vận dụng quy luật giá trị một cách có ý thức vào lĩnh vực sản xuất ,lưu thông.Trong các lĩnh vực kinh tế khác nhau, tác dụng và hình thái hoạt động của các quy luật giá trị cũng khác nhau. 2.2.1. Trong lĩnh vực sản xuất. Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa về cơ bản không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị mà chịu sự chi phối của quy luật kinh tế cơ bản chủ nghĩa xã hội và quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, quy luật giá trị không phải không có ảnh hưởng đến sản xuất. Trong những thành phần kinh tế khác nhau, tác động của quy luật giá trị có những điểm không giống nhau. Nhà nước xã hội chủ nghĩa chủ động vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực sản xuất, nhắm kích thích các cơ sở sản xuất cải tiến kĩ thuật, cải tiến quản lý để tăng năng suất lao động, hạ giá thành va nâng cao phẩm chất hàng hoá. Theo yêu cầu của quy luật giá trị trong sản xuất, hao phí lao động của từng xí nghiệp phải ngang bằng, hoặc thấp hơn giá trị xã hội. Do yêu cầu đó, quy luật giá trị dược dùng làm cơ sở cho việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong sản xuất, kinh doanh. Các cấp quản lý kinh tế cũng như các ngành sản xuất, các đơn vị sản xuất ở cơ sở, khi đặt kế hoạch và thực hện kế hoạch kinh tế đều phải tính đến giá thành, nghĩa là phải tính toán lao động xã hội, nhằm tiết kiệm triệt để lao động sống cũng như lao động quá khứ. Sta-lin nói: “... tác dụng của quy luật giá trị không phải chỉ có trong phạm vi lưu thông hàng hoá, mà có cả trong sản xuất nữa. Tất nhiên là quy luật giá trị không có tác dụng điều tiết trong nền sản xuất xã hội chủ nghĩa chúng ta. Nhưng nó vẫn tác động đến sản xuất, và trong khi lãnh đạo sản xuất, chúgn ta nhát định phải tính đến nó. Sự thật là, ở nước ta, những vật phẩm tiêu dùng cần thiết để bù vào sức lao động tiêu phí trong quá trình sản xuất, đều được sản xuất và tiêu thụ dưới hình thức những hàng hoá bị quy luật giá trị chi phối. Chính ở đây, quy luật giá trị tác động đến sản xuất. Do đấy, trong các xí nghiệp của chúng ta, hạch toán kinh tế và sự sinh lời , giá thành, giá cả,v.v. Hiện nay đều có một ý nghĩa hiện thực. Vì vậy các xí nghiệp của chúng ta không thể và không được bỏ qua quy luật giá trị. Như vậy có tốt không? Không phải là không tốt. Trong những điều kiện hiện nay của nước ta, như thế thật ra không phải là không tốt, vì điều đó làm cho những nhà lãnh đạo công nghiệp nước ta chỉ đạo sản xuất hợp lý và khiến họ có kỷ luật. Không phải không tốt, vì các nhà lãnh đạo công nghiệp nước ta nhờ đó mà biết tính toán sản lượng, tính toán sản lượng một cách chính xác, và chú ý một cách cũng chính xác đến những hiện thực của sản xuất, chứ không mất thời giờ bàn suông về những “ số liệu đại khái” tưởng tượng ra. Không phải không tốt, vì các nhà lãnh đạo công nghiệp nước ta nhờ đó mà biết tìm kiếm, phát hiện, lợi dụng những lực lượng dự trữ tiềm tàng, sâu kín trong sản xuất, chứ không coi thường những lực lượng đó. Không phải không tốt, vì các nhà lãnh đạo công nghịêp nước ta nhờ đó mà biết cải tiến triệt để phương pháp sản xuất, hạ giá thành, thực hiện hạch toán kinh tế và khiến các xí nghiệp hoạt động có lãi. Đấy là một trường học thực tiễn tốt, nó giúp các cán bộ công nghiệp nước ta lớn lên nhanh chóng thành những người lãnh đạo chân chính của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn phát triển hiện nay”. Trong khu vực kinh tế quốc doanh, tác động của quy luật giá trị hạn chế ở chỗ nó được vạn dụng chủ yếu vào công việc tính toán, nhằm đạt yêu cầu cao nhất của quản lý kinh tế là tiết kiệm lao động và giảm tiêu hao vật chất, tức là đạt hiệu quả kinh tế cao nhất trong kinh doanh. Trong khu vực kinh tế tập thể, quy luật giá trị còn có tác dụng điều tiết sản xuất môt cách có chừng mực nhất định; trong thành phần kinh tế cá thể, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sản xuất nhiều hơn. 2.2.2. Trong lĩnh vực lưu thông, phân phối. Phân phối và lưu thông trong xã hội xã hội chủ nghĩa, về cơ bản cũng không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị, vì đó là một sự phân phối và trao đổi có tổ chức, có kế hoach. Nhưng ở đây vẫn có sự tác động khách quan của quy luật giá trị. Hang tiêu dùng nói chung ( trừ một vài thứ cung cấp theo định lượng) và một số tư liệu sản xuất thứ yếu đều được đưa ra thị trường tiêu thụ. Thêm nữa trong những giai đoạn phát triển kinh tế nhất định và trên một mức độ nào đó, thị trường tự do còn tồn tại. Trên thị trường tự do, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết nhất định; người bán hàng trên thị trường tự do không thể theo quy luật cung cầu mà đặt giá; người tiêu dùng bao giờ cũng tìm hàng tốt và rẻ để mua. Vì thế, Nhà nước xã hội chủ nghĩa không những vận dụng quy luật giá trị để lãnh đạo toàn bộ quá trình lưu thông, phân phối, mà còn sử dụng nó để điều tiết lưu thông trên thị trường tự do và điều tiết tiêu dùng cá nhân. Việc vận dụng quy luật giá trị trong lĩnh vực lưu thông, phân phối biểu hiện ở những mặt sau đây: Hình thành giá cả Hình thức vận dụng quy luật giá trị tập trung nhất là khâu hình thanh giá cả. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, là sự biểu hiện của quy luật giá trị. Cho nên, khi xác định giá cả phải bảo đảm yêu cầu khách quan là lấy giá trị làm cơ sở, phản ánh đầy đủ những hao phí về vật tư và lao động để sản xuất hàng hoá. Giá cả phải đủ bù đắp những chi phí sản xuất hợp lý, tức là đủ bù đắp gia thành sản xuất, đồng thời phải bảo đảm mức lãi thích đáng để tái sản xuất mở rộng. Đó là nguyên tắc chung áp dụng phổ biến cho mọi quan hệ trao đổi, giữa các xí nghiệp quốc doanh với nhau , cũng như giữa nhà nước với nông dân và thợ thủ công. Vì vậy, trong công tác vật giá, tuyệt đối khồn được quy định giá cả một cách tuỳ tiện, không có căn cứ kinh tế. Nhưng, nói giá cả không thể thoát ly cơ sở của nó là giá trị, không có nghĩa là giá cả của mỗi hàng hoá bao giờ cũng nhất trí với giá trị. Sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị của mỗi hàng hoá nào đó và sự thống nhất giữa tổng số giá cả với tổn số giá trị của hàng hoá trong toàn xã hội là một tất yếu khách quan kể cả trong kinh tế xã hội chủ nghĩa. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa có khả năng vận dụng quy luật gía trị vào những mục đích nhất định. Song việc vận dụng sự chênh lệch đó phải có giới hạn, phải có căn cứ kinh tế. Giá cả hàng hoá góp phần vào giải quyết một số vẫn đề lớn: thúc đẩy sản xuất phát triển và cải thiện đời sống nhân dân theo yêu cầu của kế hoạch nhà nước trong từng thời kỳ; tăng cường xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, góp phần giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, phân phối lại thu nhập quốc dân một cách hợp lý nhất; thúc đẩy quan hệ hợp tác tương trợ giữa các ngành kinh tế, làm cho các ngành kinh tế phát triển cân đối; hỗ trợ cho công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; phục vụ tốt cách mạng tư tưởng và văn hoá, v.v... Như vậy, khi xây dựng chính sách giá cả, nhà nước xã hội chủ nghĩa không chỉ vận dụng quy luật giá trị mà phải xuất phát từ các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải căn cứ vào nhiệm vụ kinh tế, chính trị từng thời kỳ. Thu hẹp hay mở rộng nguồn hàng lưu thông. Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, việc cung cấp hàng hoá cho thị trường được tiến hành một cách có kế hoạch. Đối với những mặt hàng có quan hệ lớn đến đời sống nhân dân nếu cung và cầu không cân đối, thì nhà nước dùng biên pháp đẩy mạnh sản xuất, tăng cường thu mua hoặc cung cấp theo định lượng, theo tiêu chuẩn mà không dùng biện pháp thay đổi giá cả. Nhưng mặt khác, thông qua hệ thống giá cả, quyluật giá trị có ảnh hưởng nhất định đến việc mở rộng hay thu hẹp một loại hàng nào đó. Không phải giá cả chịu ảnh hưởng của quy luật cung cầu, mà tác động trở lại quan hệ đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, giá bán hạ sẽ đẩy mạnh việc tiêu thụ, và ngược lại. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa vận dụng quy luật giá trị không những trong việc định giá cả sát giá trị, xoay quanh giá trị để kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng cường quản lý kinh tế, mà còn nhiều khi còn chủ động tách giá cả khỏi giá trị đối với từng loại hàng, trong từng thời ký nhất định, lợi dụng sự chêch lệch giữa giá cả và giá trị để điều tiết một phần sản xuất và lưu thông, điều chỉnh cung cầu và phân phối. ở đây, giá cả được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để góp phần kế hoạch hoá sự tiêu dùng của xã hội. Thí dụ: có khi giá cả của sản phẩm công nghiệp nặng được đặt thấp hơn giá trị để khuyến khích việc áp dụng kỹ thuật mới và cải tiến kỹ thuật; có khi giá cả một số loại hàng tiêu dùng ( xa xỉ và cao cấp ) được định giá cao hơn giá trị để hạn chế tiêu dùng. Trên thị trường tự do, giá cả hàng hoá còn chịu ảnh hưởng nhiều của quan hệ cung cầu, nhưng vì có sự lãnh đạo, điều tieets của thương nghiệp xã hội chủ nghĩa nên ở đây tác dụng tự phát của quy luật giá trị cũng bị hạn chế. Về thị trường tự do, đáng chú ý nhất là vấn đề chợ nông thôn. Sự tồn tại lhách quan của chợ nông thôn là do còn có kinh tế gia đình xã viên, còn một bộ phận kinh tế cá thể, đồng thời nguyên tắc phân phối theo lao động trong hợp tác xã làm cho nông dân có phần sản phẩm thừa bán sau khi làm nghĩa vụ cho nhà nước. Chợ nông thôn có tác dụng bảo đảm cho nông dân trao đổi sản phẩm thừa với nhau, nhằm điều hoà cung cầu ở nông thôn một cách linh hoạt, góp phần giải quyết những nhu cầu sinh hoạt hằng ngày mà mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán không đáp ứng được. Do đó, chợ nông thôn được coi là một bộ phận của thị trường xã hội chủ nghĩa thống nhất. Nhưng chợ nông thôn lại là một loại hình thị trường tự do; ở đây quy luật cung cầu, quy luật giá trị hoạt động phần nào không có tổ chức, không có kế hoạch, làm cho giá cả không ổn định. Ngoài ra, đối với kinh tế tập thể, quy luật giá trị còn có tác động tự phát trên một chừng mực nào đó, nhất là khi như cầu tăng nhanh mà sản xuất có hạn, khiến cung cầu không cân đối, khi kinh tế gia đình còn chiếm một tỷ trọng lớn, khi thị trường tự co còn rộng. Vì vậy cần chú ý lãnh đạo, quản lý chặt chẽ. 2.2.3. Trong lĩnh vực kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân. Trong chủ nghĩa xã hội, quy luật phát triển có ké hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Kế hoạch hoá chính là việc nhà nước xã hội chủ nghĩa vận dụng quy luật phát triển có kế hoạch, cân đối và các quy luật kinh tế khác, kể cả quy luật giá trị, để xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh tế. ở đây, nhà nước xã hội chủ nghĩa vận dụng các phạm trù giá trị làm công cụ để đặt kế hoạch, tỏ chức, kiểm tra, theo dõi việc thực hiện kế hoạch. bản thân hệ thống chỉ tiêu kế hoạch là một bản tổng hạch toán lớn. Quá trình thực hiện và giám sát việc thực hiện kế hoạch càng phải tiến hành hạch toán; giá trị, tiền tệ là một thước đo, phương tiện hạch toán không thể thiếu trong giai đoạn lịch sử hiện nay. hạch toán kinh tế gắn liền với kế hoạch hoá và dựa trên kế hoạch hóa, hai quá trình đó lồng vào nhau một cách hữu cơ. Hạch toán kinh tế gắn liền với việc vận dụng các đòn bẩy kinh tế. Nhiều đòn bẩy kinh tế là biểu hiện sự vận dụng các quy luật kinh tế, nhưng trực tiếp nhất là quy luật giá trị. Việc vận dụng quy luật giá trị trong công tác kế hoạch hoá như sau: Trong khi xây dựng kế hoạch kinh tế phải tính toán cả các chỉ tiêu hiện vật và các chỉ tiêu giá trị, phải cân đối về mặt hiện vật cũng như về mặt giá trị. Phải thực hiện sự thống nhất giữa kế hoạch hiện vật và kế hoạch tài chính, hai kế hoạch này phải được xây dựng song song và quyết định đồng thời. Sự kểt hợp chặt chẽ giữa hai mặt hiện vật và giá trị đó làm cho mỗi kế hoạch phải thực hiện sự cân đối đó có lợi nhất, nghĩa là mỗi kế hoạch phải tính toán hiệu quả kinh tế đem lại so với hao phí lao động dã bỏ ra. Việc vận dụng các phạm trù giá trị làm đòn bẩy kinh tế còn được thể hiện ngay trong hệ thống chỉ tiêu kế hoạch. Thí dụ, trong việc cải tiến công tác kế hoạch hoá, số lượng chỉ tiêu pháp lệnh nhà nước giao cho các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở có thể giảm bớt và pham vi hoạt động của các côngcụ kinh tế từng bước được mở rộng; chỉ tiêu giá trị sản lượn được thay bằng chỉ tiêu giá trị sản phẩm đã được thực hiện. Khi tổ chức thực hiện kế hoạch, phải trên cơ sở lấy kế hoạch nhà nước làm công cụ quản lý chủ yếu mà vận dụng đúng đắn các phạm trù giá trị, dùng chúng làm đòn bẩy kích thích việc thực hiện kế hoạch một cách tốt nhất. Thông qua những chỉ tiêu giá trị, nhà nước giao nhiệm vụ kế hoạch cho các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở sản xuất; cũng thông qua những chỉ tiêu giá trị phản ánh vào tình hình tài chính, nhà nước kiểm tra, theo dõi, phát hiện những thiếu sót để bôe sung uốn nắn trong việc chấp hành kế hoạch. Như vậy là, trong tất cả các khâu của công tác kế hoạch hoá, các phạm trù giá trị đều giữ vai trò đòn bẩy quan trọng và tác động theo một hệ thống hoàn chỉnh. Nói chung, hệ thống đòn bẩy kinh tế có thể chia làm hai loại. Loại thứ nhất liên quan đến chế độ hạch toán kinh tế, đến sự hoạt động chung của xí nghiệp như: hợp đồng kinh tế, giá cả, tín dụng, tài chính ( bao gồm chính sách đàu tư, nguồn vốn đầu tưm các loại thuế, chính sách phân phối lợi nhuận ) có tác dụng tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành, tăng tích luỹ. Loại thứ hai có liên quan trực tiếp đến lợi ích tập thể cá nhân người lao động ( như tiền lương, tiền thưởng, các quỹ phúc lợi ...) có tác dụng kích thích nhiệt tình lao động, phat huy sáng kiến của người lao động. Trong hệ thống các đòn bẩy kinh tế đó lợi nhuận được coi là khâu trung tâm, giá cả là một đòn bẩy sắc bén và rất nhạy. Công tác tài chính, tín dụng về vốn lưu động và vốn cố định có tác dụng lớn trong việc tăng hiệu quả vốn đầu tư. Vấn đề trả lương theo sản phẩm là một đòn bẩy quan trọng kích thích người lao động tăng năng suất lao động. Chế độ hợp đồng kinh tế có ý nghĩa lớn trong việc chuẩn bị xây dựng kế hoạch, và khi kế hoạch được chính thức công bố thì hợp đồng kinh tế là một công cụ có hiệu lực để đôn đốc kiểm tra việc thực hiện kế hoạch. Trong khi sử dụng các đòn bẩy kinh tế, cần chú ý các loại đòn bẩy kinh tế chỉ có thể phát huy tác dụng tôt khi được vận dụng mộtcách đống bộ trong mối quan hệ thống nhất giữa các đòn bẩy với nhau và trên cơ sở lấy kế hoạch làm công cụ qunả lý chủ yếu. Vận cụng các đòn bẩy kinh tế phải theo hướng kết hợp lợi ích cá nhân người lao động với lợi ích tập thể xí nghiệp và lợi ích nhà nước; phải thực hiện nguyên tắc khuyến khích bằng lưọi ích vật chất kêt hợp với giáo dục tư tưởng, bằng cách gắn liền việc đãi ngộ người lao động với kết quả kinh doanh cuối cùng. Để đảm bảo vận dụng đúng đắn phạm trù giá trị thi các đòn bẩy kinh tế không những phải luôn luôn tác động theo kế hoạch của nhà nước, mà bản thân các đòn bẩy đó cũng phải được kế hoạch hoá, trở thành một bộ phận của kế hoạch nhà nước. Đồng thời, phải quán triệt nguyên tắc kết hợp việc quản lý tập trung của kế hoạch nhà nước với việc phát huy quyền làm chủ tập thể, tính sáng tạo của các ngành các cấp, các đơn vị sản xuất ở sơ sở. Tóm lại, sản xuât và lưu thông hàng hoá trong xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển theo kế hoạch. Trong công tác kế hoạch hoá đã có sự vận động chủ động, tích cực quy luật giá trị. Chừng nào phạm vi kế hoạch hoá trực tiếp chưa bao gồm được toàn bộ nền kinh tế quốc dân, còn nhiều mặt mất cân đối và có những mặt cân đối cần phải được kiểm tra, điều chỉ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35555.doc