Lời nói đầu
Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện nay, hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là xuất khẩu của mỗi quốc gia, có vị trí ngày càng quan trọng và ngày càng được mở rộng. Xu thế này ngoài những tác động tích cực cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nước đang phát triển, đòi hỏi mỗi nước phải có những định hướng phát triển kinh tế cho phù hợp với điều kiện, lợi thế riêng của mình. Với truyền thống là một nước có thế mạnh về hàng nông sản xuất khẩu, n
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & số giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gay từ những ngày đầu của công cuộc đổi mới, xuất khẩu nông sản đã được quan tâm chú trọng phát triển.
Là một nhóm hàng rất quan trọng trong hàng nông sản xuất khẩu với tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng năm chiếm tới gần một nửa tỷ trọng xuất khẩu của hàng nông sản và khoảng 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày tỏ rõ ưu thế của mình trên thị trường thế giới, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam. Với những thành tựu đạt được trong hơn 10 năm qua, nhóm hàng này đã góp phần không nhỏ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng khích lệ đó, vẫn còn nhiều điều tồn tại đối với nhóm hàng về mặt quản lý của Nhà nước cũng như việc thực hiện ở các cơ sở, cùng với những khó khăn đang đặt ra cho thời kỳ tới. Khoá luận mang tên: “Thực trạng và một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày” sẽ nghiên cứu, phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu của nhóm hàng trong suốt thời kỳ 1990-2000 với mong muốn có một cái nhìn toàn diện về nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày nói chung và chi tiết về 3 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đang có mặt trong những mặt hàng chủ lực của nước ta. Trên cơ sở đó, đưa ra những kiến nghị chung nhằm mục đích đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng, đạt hiệu quả sản xuất và xuất khẩu cao hơn.
Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích: đưa ra những định hướng lớn đối với nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày cũng như một số nhóm hàng chủ yếu, đồng thời tìm ra những giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả, ổn định và tăng trưởng xuất khẩu nhóm hàng này vào giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010.
Nhiệm vụ:
Thống nhất chung về lý luận cơ bản về xuất khẩu, liên quan đến xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày.
Khái quát và phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu 3 mặt hàng chủ yếu là cà phê, cao su và hạt điều.
Phân tích các yếu tố sản xuất và thị trường trên cơ sở đó đưa ra những định hướng lớn về sản xuất và xuất khẩu giai đoạn 2000-2010, cùng với giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu của nhóm hàng.
Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: đối tượng nghiên cứu là hiện trạng xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày.
Phạm vi nghiên cứu: Bài viết đề cập đến những vấn đề lý luận có liên quan đến vai trò, vị trí của nhóm hàng, đồng thời đưa ra bức tranh toàn cảnh về 3 mặt hàng chính là cà phê, cao su và hạt điều từ năm 1990 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích-so sánh, quy nạp, tổng hợp dựa trên những số liệu thống kê thực tế kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích kinh tế vĩ mô và vi mô từ tư duy trừu tượng đến thực tế khách quan được sử dụng kết hợp trong bài viết này.
Kết cấu của luận văn
Kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Vai trò nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày trong xuất khẩu của Việt Nam.
Chương II: Thực trạng sản xuất và xuất khẩu của nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày.
Chương III: Một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu của nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày
Do khuôn khổ của khoá luận và kiến thức của người viết, bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu sót. Kính mong các thầy cô giáo, các bạn sinh viên cũng như những người quan tâm đóng góp ý kiến xây dựng cho khoá luận được tốt hơn. Em xin được bảy tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới thầy giáo GS.TS.NGƯT. Bùi Xuân Lưu, chủ nhiệm khoa kinh tế Ngoại Thương, là người thầy đã trực tiếp hướng dẫn em rất tận tình với tất cả sự tận tâm và tinh thần trách nhiệm. Nhân đây em cũng xin cám ơn các anh Nguyễn Trung Khoa, Phạm Lưu Hưng, cô Nguyễn Thị Kim Phượng, các chuyên viên Vụ Xuất nhập khẩu-Bộ Thương Mại và các thầy cô giáo Trường Đại học Ngoại Thương đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực hiện và hoàn thành tốt khoá luận này.
Chương I:
Vị trí, vai trò của nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày trong xuất khẩu của Việt Nam
I. Vị trí, vai trò của xuất khẩu
1. Ngoại thương và lợi ích của Ngoại thương
Thương mại quốc tế ra đời từ hàng ngàn năm nay, là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế, trở thành một phần trong đời sống hàng ngày, và hiện nay vẫn giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ (hàng hoá hữu hình và vô hình) giữa các quốc gia thông qua mua bán. Cơ sở của thương mại quốc tế chính là trao đổi và chuyên môn hoá. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
Thương mại quốc tế bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, nhưng xét trên giác độ một quốc gia thì đó chính là hoạt động ngoại thương. “Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ mà vẫn đầy đủ được. Thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng có tình chất sống còn vì một lý do cơ bản là mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với danh giới của khả năng sản xuất, tiêu dùng trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không buôn bán.” (trích Giáo trình Thương mại quốc tế- Đại học kinh tế quốc dân).
Ngoại thương có vai trò to lớn trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước. Lịch sử phát triển kinh tế toàn cầu cho thấy một quốc gia không thể tồn tại riêng rẽ mà vẫn phát triển thuận lợi được. Ngoại thương mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi nước, nó cho phép một quốc gia tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với giới hạn của khả năng sản xuất trong nước nếu nó thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không buôn bán với bên ngoài.
Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu khái niệm về ngoại thương. Ngoại thương là gì? “Ngoại thương là sự trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia” (Trích Giáo trình Kinh tế Ngoại thương-1995). Trong đó, nhập khẩu là hoạt động mua hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài, xuất khẩu là bán hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở sử dụng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay cả hai quốc gia.
Lợi ích của ngoại thương đã được các học giả kinh tế đưa ra từ lâu, với khởi điểm để trở thành một học thuyết khoa học là của trường phái Trọng thương. Nội dung chủ yếu của học thuyết này là lý thuyết cán cân thương mại thặng dư, có nghĩa là một quốc gia chỉ có lợi do ngoại thương đem lại nếu cán cân thương mại thặng dư, hay xuất khẩu vượt quá nhập khẩu. Các quan niệm của các học giả này còn đơn giản, chưa cho phép giải thích bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế. Tuy nhiên, học thuyết Trọng thương là học học thuyết đầu tiên nghiên cứu hiện tượng và lợi ích của ngoại thương, khởi đầu cho những học thuyết kinh tế ngoại thương sau này.
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối được Adam Smith đưa ra dựa trên sự tìm hiểu những hạn chế của lý thuyết trọng thương và minh chứng rằng cả hai bên sẽ có lợi trong mậu dịch quốc tế nếu thực thi nguyên tắc phân công. Nguyên tắc này có nghĩa là mỗi quốc gia nên chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối cho phép họ sản xuất sản phẩm với chi phí thấp hơn các nước khác. Lý thuyết này lại tỏ ra thiếu sót khi xét đến việc liệu một nước không có lợi thế tuyệt đối về mặt hàng nào thì có lợi trong thương mại quốc tế hay không. Và lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo ra đời giải quyết hạn chế đó.
Theo David Ricardo- nhà kinh tế học người Anh thì cơ chế xuất hiện lợi ích của ngoại thương là:
Mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi nước do chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác.
Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối hơn so với nước khác trong việc sản xuất mọi sản phẩm thì vẫn có thể và vẫn có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh về một số mặt hàng khác.
Ông cho rằng lợi ích của thương mại quốc tế chính là bắt nguồn từ sự khác nhau về chi phí cơ hội ở các quốc gia. Khi các cơ hội ở tất cả các quốc gia đều giống nhau thì không có lợi thế so sánh và cũng không có khả năng nảy sinh các lợi ích do chuyên môn hoá sản xuất và thương mại quốc tế. Đó chính là nội dung cơ bản của quy luật lợi thế so sánh: các nước sẽ có lợi khi chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà họ làm ra với chi phí cơ hội nhỏ hơn các nước khác.
Phát triển lý thuyết của D. Ricardo, Eli Hecksher và Bertil Ohlin - hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển- đã đưa ra thuyết ưu đãi về các nguồn lực sản xuất vốn có, gọi là lý thuyết H-O và đề ra quy luật H-O về tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất: “một nước sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất nó cần nhiều nhân tố rẻ và tương đối sẵn có của nước đó và nhập khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất cần nhiếu yếu tố đắt và tương đối khan hiếm hơn ở nước đó”. Quy luật này chi phối động thái phát triển của thương mại quốc tế và có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn quan trọng đối với các nước đang phát triển và chưa phát triển. Nó chỉ ra rằng, với các nước đông dân và nhiều lao động nhưng lại thiếu vốn trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá cần tập trung sản xuất và xuất khẩu nhiều những hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều vốn.
Tóm lại, tầm quan trọng cũng như tính tất yếu của hoạt động xuất nhập khẩu đã được phát triển từ lý thuyết trọng thương và được chứng minh rất rõ thông qua lý thuyết về lợi thế so sánh của D. Ricardo. Nếu một nước có hiệu quả thấp hơn so với các nước khác trong viêc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm vẫn có thể có lợi khi tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Nói cách khác, trong những điểm bất lợi nhất của một quốc gia vẫn có thể tìm ra những điểm có lợi nhất để khai thác trong quan hệ thương mại quốc tế. Khi tiến hành xuất khẩu, quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá sẽ có thể chuyên môn hoá vào sản xuất loại hàng hoá ít bất lợi nhất để trao đổi với các quốc gia khác và nhập về những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó là bất lợi nhất để tiết kiệm được những nguồn lực của mình và thúc đẩy sự phát triển của sản xuất trong nước. Việc lựa chọn các sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt là việc xây dựng chiến lược về các mặt hàng xuất khẩu chủ lực phù hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất vốn có sẽ là điều kiện cần thiết để các nước này có thể nhanh chóng hội nhập vào phân công lao động và hợp tác quốc tế, trên cơ sở lợi ích thu được từ ngoại thương đó sẽ đẩy mạnh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Ngày nay, ngoại thương không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán với nước ngoài, mà thực chất là cùng với các quan hệ kinh tế khác tham gia vào phân công lao động quốc tế. Do vậy, không chỉ coi ngoại thương là một nhân bố quan trọng bổ xung cho nền kinh tế trong nước mà còn phải cọi sự phát triển kinh tế trong nước thích nghi với lựa chọn phân công lao động tối ưu. Bí quyết thành công của nhiều nước trong chiến lược phát triển kinh tế là nhận thức được mối quan hệ hữu cơ giữa kinh tế trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
2. Khái niệm về xuất khẩu
Trong nền kinh tế hiện đại, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế trong nước. Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, thì hoạt động xuất khẩu là một biện pháp hữu hiệu trong chiến lược “mở cửa nền kinh tế” để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho đất nước, góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước giàu.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động chủ yếu của ngoại thương, nó mang tính chất tất yếu của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế. Do những điều kiện khác nhau, mỗi quốc gia có lợi thế về những lĩnh vực này và bất lợi về những lĩnh vực khác trong việc sản xuất những hàng hoá khác nhau. Để có thể dung hoà được nguy cơ và lợi thế, tạo ra sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi với nhau, bán những gì mình có thể sản xuất nhiều hơn nhu cầu trong nước và phải mua những gì mình chưa có hoặc không có khả năng sản xuất từ những nước khác.
Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập khẩu không nhất thiết chỉ diễn ra những quốc gia có lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, các quốc gia không có lợi thế về các điều kiện như nhân lực, tài chính, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ, thông qua hoạt động trao đổi thương mại quốc tế cũng sẽ thu được những lợi ích, tạo điều kiện phát triển kinh tế trong nước.
“Xuất khẩu là một bộ phận cấu thành chủ yếu của nền thương mại quốc tế cũng như ngoại thương của một đất nước, đó là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài” (Trích: giáo trình Thương mại Quốc tế, trường Đại học Kinh tế quốc dân). Hoạt động xuất khẩu đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế mở cửa của các quốc gia. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá trong nước. Khi việc trao đổi này giữa các quốc gia đem lại lợi ích cho cả hai bên, các nước đều quan tâm mở rộng hoạt động này.
Trong Ngoại thương, xuất khẩu và nhập khẩu là hai hướng lưu thông của hàng hoá đi ra nước ngoài và từ nước ngoài đi vào thị trường trong nước. Trong quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia, nếu một nước xuất khẩu sang nước kia thì cũng có nghĩa là nước kia nhập khẩu từ nước này. Xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương, là phương tiện thúc đẩy cho phát triển kinh tế, đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển. Xuất khẩu được thực hiện trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến xuất khẩu hàng hoá sản xuất, từ máy móc thiết bị đến các công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu là đem lại lợi ích cho các quốc gia.
Xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về không gian lẫn thời gian. Xuất khẩu có thể chỉ diễn ra trong phạm vi lãnh thổ của các nước khác nhau, có thể được tiến hành trong một hai ngày hoặc kéo dài hàng năm. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển các hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại của một nước. Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
3. Vai trò của xuất khẩu
Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối ngoại, là nhân tố rất quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Xét trên toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động xuất khẩu có những vai trò chủ yếu sau:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của mỗi quốc gia. Để rút ngắn thời gian thực hiện của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn đó có thể được hình thành từ nhiều nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu lao động,.... Tuy nhiên, các nguồn vốn này thường kèm theo những điều kiện hoặc hạn chế khác nhau và chúng ta vẫn phải trả bằng cách này hay cách khác. Bởi vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu phục vụ cho công nghiệp hoá đất nước vẫn là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
ở những nước đang phát triển và chậm phát triển, một trong những nguyên nhân thiếu vốn trong quá trình phát triển là do ít có cơ hội xuất khẩu. Không xuất khẩu được một mặt không thu được ngoại tệ từ hoạt động này, mặt khác các nhà đầu tư cũng không ưa thích đầu tư vào quốc gia mà họ không thấy có khả năng phát triển xuất khẩu do đó lại càng thiếu vốn hơn nữa. Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợi nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và những người cho vay thấy được khả năng của xuất khẩu, nguồn vốn duy nhất để trả nợ.
Thứ 2, hoạt động xuất khẩu góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Một trong những thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đó là cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Do đó, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là một tất yếu đối với Việt Nam. Xem xét về vai trò của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hai cách nhìn nhận.
Cách nhìn nhận thứ nhất, sản xuất trong nước có thể vượt quá nhu cầu tiêu dùng trong nước, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa đó. Cách nhìn nhận này mới chỉ thấy được một phần nào của hoạt động xuất khẩu và còn mắc phải sai lầm. Nếu nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ đáp ứng tiêu dùng nội địa, chỉ thụ động chờ sản xuất “thừa ra”, thì xuất khẩu sẽ rất nhỏ bé, tăng trưởng với tốc độ thấp, đồng thời sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ diễn ra một cách rất chậm chạp và bị động.
Theo quan điểm thứ hai, thị trường thế giới được coi là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều này cũng có ý nghĩa là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Xuất khẩu có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Điều đó được thể hiện như sau:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ như ngành dệt may xuất khẩu phát triển sẽ mở cơ hội lớn cho các ngành sản xuất nguyên liệu như bông, thuốc nhuộm,....
Xuất khẩu mở rộng thị trường tiêu thụ, đảm bảo đầu ra cho sản phẩm, tạo tiền đề kinh tế-kỹ thuật nhằm mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước, góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. Xuất khẩu là một phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài, nhằm hiện đại hoá đất nước, tạo ra các tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất.
Thông qua xuất khẩu, hàng hoá trong nước sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất thích nghi được với thị trường. Bên cạnh đó cũng đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh.
Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo ra vốn, thu hút kỹ thuật công nghệ mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới.
Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh.
Nhìn chung, cách nhìn nhận này tương đối chính xác và phù hợp với thực tế khách quan và đã nhận thức được một cách đúng đắn vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Sản xuất hàng hoá xuất khẩu thu hút hàng triệu lao đông làm việc, giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội, đồng thời các lao động này có mức thu nhập ổn định và tương đối cao. Hiện nay, ở Việt Nam, hàng triệu lao động đang làm việc tại các công ty, dự án có liên quan đến hoạt động xuất khẩu với mức lương khá cao. Đây là một điều dễ hiểu vì xuất khẩu có một vai trò quan trọng là mở rộng quy mô sản xuất trên thị trường thế giới rộng lớn. Đồng thời, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập nhẩu các vật tư thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng phong phú hơn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân đang ngày một tăng lên theo sự phát triển của xã hội.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước.
Xuất khẩu bản thân là một hoạt động kinh tế đối ngoại, có thể ra đời và phát triển sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu tạo điều kiện thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác mở rộng và phát triển. Ví dụ như xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sẽ thúc đẩy quan hệ tín dụng quốc tế, đầu tư quốc tế, mở rộng vận tải quốc tế,.... Mặt khác, các quan hệ kinh tế quốc tế này lại tạo tiền đề cho sự mở rộng phát triển của hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu còn góp phần tăng cường hợp tác và chuyên môn hoá quốc tế, là một mắt xích quan trọng trong quá trình phân công lao động và nâng cao uy tín của mỗi một quốc gia trên trường quốc tế.
Cuối cùng, xuất khẩu không chỉ quan trọng cho nền kinh tế xét trên tầm vĩ mô mà còn là một nhu cầu kinh doanh tất yếu đối với các doanh nghiệp.
Dựa vào hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể sử dụng khả năng sản xuất tối ưu. Khả năng sản xuất của các doanh nghiệp vượt quá nhu cầu tiêu dùng nội địa là điều thường xảy ra, việc chuyển các nguồn lực tài nguyên sang quy trình sản xuất hàng hoá khác đang có nhu cầu trong nước là tương đối khó khăn, phức tạp và không có hiệu quả kinh tế. Trong khi đó, doanh nghiệp hoàn toàn có thể tận dụng những kỹ thuật sản xuất hiện có để thu được lợi nhuận từ thị trường nước ngoài. Vì vậy, doanh nghiệp thường có nhu cầu tham gia vào thị trường thế giới, vào hoạt động xuất khẩu để tận dụng khả năng sản xuất dư thừa của mình.
Doanh nghiệp có thể bán sản phẩm của mình ở cả thị trường trong nước và thị trường thế giới. Nhưng thông qua hoạt động xuất khẩu họ có thể thu được lợi nhiều hơn ở thị trường nước ngoài. Đó là vì môi trường cạnh tranh và chu kỳ sống của sản phẩm ở thị trường nước ngoài có thể khác so với thị trường trong nước. Một lý do khác nữa đó là do sự khác nhau về chính sách của Chính phủ trong nước và ngoài nước về thuế khoá hay sự điều chỉnh giá.
Bên cạnh đó, cũng nhờ chu kỳ sống của sản phẩm khác nhau ở mỗi quốc gia và chu kỳ kinh doanh thay đổi từ nước này sang nước khác nên nhờ vào hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể có cơ hội tối thiểu hoá các biến động về nhu cầu. Hoạt động xuất khẩu cũng giúp các doanh nghiệp mở rộng thị trường ra nước ngoài, có thêm nhiều khách hàng và có thể phân tán các rủi ro trong kinh doanh.
Như vậy, với vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, việc đẩy mạnh xuất khẩu đã trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nói chung cũng như của Việt Nam nói riêng.
II. Vị trí, vai trò quan trọng của nhóm hàng cây công nghiệp trong xuất khẩu của Việt Nam.
1. Vai trò của nhóm hàng trong xuất khẩu.
Nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày là một nhóm hàng rất quan trọng trong hàng nông sản, bao gồm những cây trồng lâu năm, cho thu hoạch trong nhiều năm. Nhóm hàng này thường được biết đến với những mặt hàng như cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, chè, bông,... Các sản phẩm của nhóm hàng thường được sử dụng trong các ngành công nghiệp như công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất và chế tạo, công nghiệp dệt,....
Cây công nghiệp ở nước ta đã có từ lâu. Trước những năm 1990, nhóm hàng chưa thực sự được chú trọng vì chúng ta chưa nhận thấy vai trò rất quan trọng của nó, mà thường chú trọng tới các cây lương thực mà đặc biệt là gạo. Tới nay, với 3 mặt hàng là cà phê, cao su, hạt điều và gần đây là hạt tiêu lần lượt trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực với kim ngạch lên tới trên 100 triệu USD (năm 1999) thì nhóm hàng này trở thành nhóm hàng chiến lược của nông sản, tầm quan trọng chỉ đứng sau gạo.
Nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày có những vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nói riêng cũng như trong xuất khẩu nói chung. Trước hết, đây là một nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn, góp phần không nhỏ trong việc tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Đối với những nước đang phát triển, con đường ngắn nhất để thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Việt Nam cũng lựa chọn con đường đó để phát triển. Để thực hiện thành công quá trình đó, chúng ta cần một lượng vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị và công nghệ tiên tiến.
Như đã đề cập, xuất khẩu có vai trò tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với tỷ trọng khá lớn của nhóm hàng trong kim ngạch xuất khẩu (có những năm lên tới gần 20% kim ngạch xuất khẩu của cả nước), nhóm hàng đã đóng góp một phần không nhỏ trong tiến trình này. Tỷ trọng đó cũng nói lên vị trí quan trọng của nhóm hàng. Đây là nhóm hàng xuất khẩu có tính chiến lược trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với giá trị xuất khẩu năm 1997 đạt 1.033 triệu USD, năm 1998 đạt 1.049 triệu USD và năm 1999 đạt 1.133 triệu USD, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày xuất khẩu của Việt Nam đã đem lại một lượng vốn không nhỏ, làm tăng dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, nhóm hàng này đã góp phần tăng vai trò của việc xây dựng và phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Bảng 1: Kim ngạch và tỷ trọng nhóm hàng trong xuất khẩu.
Năm
Tổng KN xuất khẩu (triệu USD)
KN nhóm hàng CCNDN (triệu USD)
Tỷ trọng nhóm hàng trong xuất khẩu (%)
1990
2.040
112
5,49
1991
2.087
176
8,43
1992
2.581
228
8,83
1993
2.985
271
9,08
1994
4.054
629
15,52
1995
5.449
1.044
19,16
1996
7.256
968
13,34
1997
9.185
1.033
11,25
1998
9.361
1.049
11,20
1999
11.523
1.133
9,83
2000(*).
13.000
1.100
8,46
Nguồn: Thời báo kinh tế tháng 12/1999,
Niên giám thống kê thương mại 2000, Niên giám thống kê 1993,1994.
(*): Số liệu dự đoán.
Thứ hai, có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Dân số Việt Nam hiện nay là hơn 80 triệu dân, 75% trong số đó là sống ở khu vực nông thôn, và khoảng 40% dân số đang trong độ tuổi lao động. Như vậy ta có thể thấy một lực lượng lao động dồi dào trong nông nghiệp. Việc sản xuất và xuất khẩu nhóm hàng này đã góp phần vào việc tạo công ăn việc làm cho họ. Hiện đã thu hút hàng triệu lao động làm các công việc liên quan đến nhóm hàng như sản xuất, chế biến, xuất khẩu,... kéo theo cuộc sống ổn định cho hàng triệu gia đình, góp phần cải thiện đời sống và ổn định xã hội. Đây cũng chính là những hiệu quả xã hội của nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày.
Hơn nữa, sự phát triển của nhóm hàng có thể đem lại cơ hội phát triển cho những ngành khác có liên quan. Việc đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng đã tạo động lực cho một số ngành khác có điều kiện phát triển. Không những thế, nhóm hàng còn có khả năng phát triển trên nhiều vùng kinh tế, đặc biệt ở các vùng miền núi, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ theo hướng hợp lý. Với đặc điểm là sử dụng nhiều lao động, đơn giản về kỹ thuật, quy mô đầu tư không lớn, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, sản xuất cây công nghiệp dài ngày là một trong những ngành quan trọng và được đánh giá là một ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu của nước ta hiện nay.
Bên cạnh đó, thông qua xuất khẩu, nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày của Việt Nam đã thâm nhập thị trường thế giới, từ đó mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại giữa Việt Nam và các nước khác. Thế giới đã biết đến Việt Nam thông qua các sản phẩm nông sản mà nhóm hàng này cũng là một phần quan trọng trong nông sản, nhóm hàng mà đã tạo vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhờ đó các mối quan hệ khác cũng phát triển theo như du lịch quốc tế, vận tải quốc tế, tín dụng quốc tế...Sự phát triển những ngành này cũng tác động ngược trở lại tới hoạt động xuất khẩu của nhóm hàng.
Ngoài ra, do yêu cầu của thị trường thế giới và cũng do sự cạnh tranh khốc liệt mà các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu luôn phải tìm tòi, cải tiến mẫu mã chất lượng sản phẩm, nâng cao hàm lượng công nghệ của sản phẩm thông qua công nghệ chế biến sâu nhằm đáp ứng một cách tốt nhất cho nhu cầu của thị trường. Từ đó góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước, góp phần làm tăng trưởng GDP của đất nước.
Như vậy, với ưu thế là nhóm hàng sản xuất phù hợp với điều kiện về kinh tế, xã hội, phù hợp với giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thu hút nhiều lao động, tạo ra khoản thu ngoại tệ lớn, nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
2. Các quan điểm phát triển nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày
Nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày Việt Nam ra đời và ngày càng lớn mạnh là phù hợp với yêu cầu phát triển hiện nay của đất nước. Căn cứ vào đường lối phát triển kinh tế-xã hội theo hướng công nghiệp hoá đất nước của Đảng và Chính phủ, hội nghị lần thứ IV của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã đưa ra nghị quyết: “Phải phát triển nhanh, mạnh, vững chắc các ngành công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến có khả năng cạnh tranh cao; chú ý phát triển các ngành công nghiệp tốn ít vốn, thu hút nhiều lao động, khuyến khích và tạo điều kiện cho xuất khẩu.... Phát triển toàn diện Nông-Lâm-Ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến Nông-Lâm-Thuỷ sản và đổi mới cơ cấu kinh tế đương thời theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Phù hợp với định hướng chung đó, nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày đã và đang được đầu tư phát triển mạnh. Đối với nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày, có những quan điểm phát triển như sau:
2.1 Quan điểm sản xuất hàng xuất khẩu:
Quan điểm này nhấn mạnh định hướng sản xuất nhóm hàng để xuất khẩu. Đây là quan điểm quan trọng nhất cần phải tính đến trong phát triển cây công nghiệp dài ngày vì trong nhóm hàng này xuất khẩu chiếm đến 85% tổng sản lượng, chỉ có khoảng 15% sản lượng được sử dụng và tiêu dùng trong nước. Từ quan điểm này phải có kế hoạch tính toán đến thị trường tiêu thụ, sản lượng và chất lượng của sản phẩm.
Xuất khẩu mở ra cho nhóm hàng một thị trường thế giới rộng lớn. Bởi vậy, ._.quan điểm này giúp phát huy tốt tính năng động của các thành phần kinh tế, huy động được vốn và lao động vào sản xuất các mặt hàng thuộc nhóm cây công nghiệp dài ngày.
2.2 Quan điểm về hiệu quả kinh tế:
Quan điểm này coi những lợi thế về đất đai, địa hình, khí hậu, lao động là những tiền đề bố trí sản xuất có lãi, coi trọng việc bố trí sản xuất nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày đi đôi với việc bảo vệ môi trường sinh thái và chiến lược phát triển tổng hợp các loại cây trồng theo quy hoạch phát triển nông nghiệp chung của Nhà nước để đạt được hiệu quả kinh tế tối ưu.
Hiệu quả kinh tế của cả nhóm hàng trên phương diện vĩ mô được thể hiện qua những thành tựu về sản lượng sản xuất, diện tích đất đai canh tác, năng suất sản phẩm trên một đơn vị đất canh tác, tổng sản lượng xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu cũng như vai trò của nhóm hàng trong hoạt động xuất khẩu của cả nước.
Đối với các doanh nghiệp, hiệu quả kinh tế được thể hiện ở những chỉ tiêu kinh tế như doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận,... Các doanh nghiệp thường hướng đến các chỉ tiêu hiệu quả này càng lớn càng tốt. Nhưng nếu quan tâm quá đến hiệu quả kinh tế mà bỏ qua các chỉ tiêu khác như hiệu quả xã hội thì chỉ phục vụ lợi ích của bản thân mà không chú ý tới sự phát triển của toàn nền kinh tế. Bởi vậy, hiệu quả kinh tế cần phải được xét đến cùng với các chỉ tiêu hiệu quả khác.
2.3 Quan điểm về hiệu quả xã hội:
Sản xuất các cây công nghiệp dài ngày thường tập trung ở các vùng đồi núi, tại đó dân cư còn nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở hạ tầng còn kém phát triển. Việc phát triển cây công nghiệp dài ngày có hiệu quả kinh tế cao sẽ thúc đẩy kinh tế văn hoá xã hội phát triển, tạo ra công ăn việc làm cho hàng triệu lao động. Xét về mặt hiệu quả xã hội có thể chấp nhận ưu tiên thị phần (kể cả ưu tiên vốn) cho vùng miền núi để phát triển cây công nghiệp nhằm xoá đói giảm nghèo, góp phần chấm dứt nạn du canh du cư, chặt phá rừng để kiếm sống.
Có thể khẳng định hiệu quả xã hội của nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày qua thành tựu đạt được trong những năm gần đây. Việc phát triển nhóm hàng này đã tạo ra hàng triệu công ăn việc làm cho người lao động chủ yếu ở khu vực nông thôn và vùng núi, ổn định về kinh tế cũng như xã hội cho nhiều vùng, phân phối lại thu nhập cho người lao động.
2.4 Quan điểm về bảo vệ môi trường sinh thái:
Tỷ lệ che phủ bằng cây rừng và cây công nghiệp lâu năm hiện nay tại hầu hết các vùng đều thấp hơn tỷ lệ che phủ an toàn để bảo vệ môi trường sinh thái. Việc trồng cây công nghiệp lâu năm trên các vùng đất trống, đồi núi trọc sẽ hình thành thảm thực vật mới, góp phần nâng cao tỷ lệ che phủ và bảo vệ môi trường sinh thái. Tuy nhiên, cần phải đẩy mạnh công tác quản lý đất đai nếu không thì diện tích trồng cây công nghiệp dài ngày tăng lên do việc chặt phá rừng để trồng cây thì sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho môi trường sinh thái và không phù hợp với quan điểm phát triển sản xuất của ngành.
Từ năm 1990 đến nay, chúng ta đã trồng được hàng ngàn ha cây công nghiệp dài ngày trên những vùng đất trống đồi núi trọc, vừa có hiệu quả kinh tế xã hội, vừa thực hiện theo đúng quan điểm phát triển sản xuất gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái.
2.5 Quan điểm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài:
Việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào sản xuất cây công nghiệp dài ngày là một quan điểm đầu tư tiến bộ, không những tìm được những nguồn vốn đầu tư lớn từ phía nước ngoài mà còn có thể học hỏi được thêm những kinh nghiệm quản lý mới, tiếp thu những công nghệ tiên tiến trong sản xuất và chế biến, mà còn mở rộng thị trường trên lĩnh vực hợp tác quốc tế để phát triển mạnh mẽ nhóm hàng.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ nhiều nguồn như:
Vay vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức với lãi suất thấp để phát triển sản xuất.
Mở rộng hình thức liên doanh, liên kết và nhiều dự án đầu tư nước ngoài.
Thu hút đầu tư vào công nghiệp chế biến để tăng chiều sâu của sản phẩm.
2.6 Quan điểm về mở rộng thị trường:
Cần thiết phải mở rộng thị trường, tìm kiếm các thị trường mới cho các sản phẩm. Để mở rộng thị trường và có được các thị trường ổn định cho cây công nghiệp dài ngày, chúng ta phải quan tâm đến các công việc sau:
Có khối lượng lớn các sản phẩm và cơ cấu sản phẩm hợp lý.
Chú trọng vào công tác chế biến, đặc biệt cần quan tâm áp dụng các công nghệ chế biến tiên tiến trên thế giới để theo kịp được thị trường thế giới nhưng cũng cần kết hợp với lao động thủ công để tận dụng các nguồn lực của đất nước.
Tiếp cận với các thị trường tiêu thụ sản phẩm này trên thế giới để tìm được các thị trường ổn định. Xuất khẩu trực tiếp hạn chế tối đa việc tiêu thụ qua trung gian vì như vậy ta không có quan hệ trực tuyến với khách hàng và hơn nữa còn bị chia sẻ một phần lợi nhuận. Cần tìm những bạn hàng lớn, có nhu cầu ổn định và có uy tín lớn trên thị trường thế giới.
Có kế hoạch mở rộng và tăng cường công tác thông tin, quảng cáo đi đôi với việc nghiên cứu thị trường, nghiên cứu khách hàng để tìm nhu cầu cho những sản phẩm mới để thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm.
2.7 Quan điểm sử dụng tổng hợp và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên và cơ sở hạ tầng kinh tế đã có:
Theo quan điểm này, cùng với việc tiếp thu thêm những công nghệ tiên tiến trên thế giới, chúng ta cần quan tâm đến những nguồn lực sẵn có để có thể tận dụng tối đa các nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội cho nhóm hàng.
Mặc dù trước đây, nhóm hàng này không được quan tâm đúng mức, nhưng từ những năm 90, Nhà nước đã có những quan điểm, chính sách thể hiện mối quan tâm đến nhóm hàng như nhóm hàng chiến lược trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Dựa trên những ưu thế về đất đai, khí hậu, con người và những nguồn lực đã có khác để phát triển nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày hướng về xuất khẩu.
2.8 Quan điểm phát triển sản xuất phải kết hợp với định canh, định cư, phân bố lại dân cư và lao động, xây dựng các vùng kinh tế mới:
Quan điểm này cũng giống như quan điểm về hiệu quả xã hội. Việc phát triển nhóm hàng cần kết hợp với việc định canh, định cư, phân bố lại dân cư và lao động, xây dựng các vùng kinh tế mới.
Chương II:
Thực trạng xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày
I. Tổng quan về tình hình xuất khẩu của nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày.
Giai đoạn 10 năm, từ năm 1990 đến nay, đánh dấu những bước phát triển vượt bậc của nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày. Trong sản xuất, đó là sự mở rộng sản xuất, mở rộng diện tích đất trồng, nâng cao năng suất, chất lượng và sản lượng thu hoạch. Trong xuất khẩu, sự phát triển được thể hiện qua mức tăng trưởng kim ngạch nhanh chóng cũng như tỷ trọng kim ngạch cao của nhóm hàng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng
Biểu đồ: Kim ngạch nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày giai đoạn 1990-2000.
Có thể nói, quy mô sản xuất và xuất khẩu của nhóm hàng đã không ngừng tăng lên, đạt được những bước tiến dài. Từ kim ngạch xuất khẩu ban đầu vào năm 1990 chỉ đạt 112 triệu USD, chiếm 5,49% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, đến nay nhóm hàng này đã tăng trưởng vượt bậc với kim ngạch tăng lên hơn 10 lần. Theo số liệu năm 1999, kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng đạt 1.133 triệu USD, gấp hơn 10 lần so với kim ngạch năm 1990.
Bảng 2: Tình hình xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày.
Năm
Kim ngạch (triệu USD)
Tỷ trọng trong tổng KN (%)
Tăng trưởng
Tăng giảm tỷ trọng (%)
Giá trị
Tỷ lệ
1990
112
5,49
1991
176
8,43
64
57,14
+ 2,94
1992
228
8,83
52
29,55
+ 0,40
1993
271
9,08
43
18,86
+ 0,25
1994
629
15,52
358
132,10
+ 6,44
1995
1.044
19,16
415
65,98
+ 3,64
1996
968
13,34
- 76
-7,28
- 5,82
1997
1.033
11,25
65
6,71
- 2,09
1998
1.049
11,20
16
1,55
- 0,05
1999
1.133
9,83
84
8,01
- 1,37
2000 (*)
1.100
8,46
- 33
- 2,91
- 1,37
Nguồn: Niên giám thống kê thương mại 2000, 1996, 1994.
(*): Số liệu dự đoán.
Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm từ năm 90-99 đạt 91,16%, đặc biệt có những năm kim ngạch xuất khẩu tăng đến 132,10%. Hầu hết mọi năm đều có sự gia tăng trong kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm là không đều nhau. Có những năm tỷ lệ tăng trưởng lên đến 132,10% (năm 1994) trong khi có những năm tỷ lệ này lại giảm.
Có một xu thế là càng ngày tỷ lệ tăng trưởng càng giảm. Điều đó không có nghĩa là quy mô sản xuất và xuất khẩu không được mở rộng nhiều mà thực tế là giá trị tuyệt đối của kim ngạch vẫn tăng nhưng trên một tỷ lệ cao hơn về quy mô thì dường như tỷ lệ tăng trưởng lại giảm đi so với trước.
Tỷ trọng của nhóm hàng trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng nhiều so với trước. Năm 1990, tổng kim ngạch nhóm hàng chỉ chiếm có 5,49% kim ngạch xuất khẩu thì nay đã tăng lên khoảng 10%. Điều này cho thấy vai trò ngày càng tăng của nhóm hàng trong xuất khẩu của nước ta. Cá biệt có những năm tỷ trọng của nhóm hàng chiếm tới gần 20% khi mà cùng với nhiều yếu tố thuận lợi đã đưa tổng kim ngạch của nhóm hàng lên rất cao. Năm 1995 đánh dấu bước phát triển rất lớn của nhóm hàng với tỷ trọng chiếm tới 19,16% kim ngạch xuất khẩu, tăng 415 triệu USD so với năm 1994. Nhìn chung, trong cả thời kỳ, nhóm hàng này chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Gần đây, có một biểu hiện đáng lo ngại là tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng quá thấp, có biểu hiện chững lại và tụt giảm so với trước. Điều đó là do một số nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan.
2. Cơ cấu mặt hàng
Cơ cấu mặt hàng cũng có những sự biến đổi mạnh mẽ. Trước hết, phải nói đến sự thay đổi cơ cấu theo hướng đa dạng hoá sản phẩm. Trước đây, hàng xuất khẩu của chúng ta chủ yếu chỉ ở dạng sản phẩm thô hoặc sơ chế thì nay các sản phẩm này đã được đa dạng hoá thành nhiều dạng sản phẩm, từ sơ chế cho đến chế biến sâu. Xuất hiện nhiều mặt hàng mới ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong nhóm hàng như hạt tiêu, cà phê xay rang,.... Cụ thể cơ cấu nhóm hàng theo những mặt hàng chính như sau:
Bảng 3: Cơ cấu mặt hàng của nhóm hàng
Đơn vị: triệu USD.
Mặt hàng
1994
1995
1996
1997
1999
2000 (*)
Tổng KN nhóm hàng
629
1.044
968
1.033
1.133
1.100
Cà phê
330,3
598,1
420,2
497,5
585,3
500,0
Tỷ trọng cà phê (%)
52,5
57,3
43,4
48,2
51,7
45,5
Cao su
135,4
187,9
254,5
190,5
120
125,4
Tỷ trọng cao su (%)
21,5
18,0
26,3
18,4
10.6
11,4
Hạt điều
70,5
88,8
75,6
133,3
108,5
120,0
Tỷ trọng điều (%)
11,2
8,5
7,8
12,9
9,6
10,9
Nguồn: Niên giám thống kê thương mại 2000, 1996, 1994.
(*): Số liệu dự đoán.
Ngoài sự phát triển mạnh của mặt hàng hạt tiêu, cơ cấu các mặt hàng khác chỉ dao động xung quanh một tỷ trọng nhất định. Mặt hàng cà phê tỏ ra chiếm ưu thế nhất trong cả nhóm hàng khi luôn chiếm khoảng50% tổng kim ngạch nhóm hàng. Hạt điều, chè, quế và các mặt hàng khác có sự thay đổi tỷ trọng nhỏ, năm tăng năm giảm. Đối với cao su có sự tăng trưởng vượt bậc vào năm 1996 khi kim ngạch tăng lên đến 254,4 triệu USD, chiếm tới 26,3% tổng kim ngạch nhóm hàng. Diễn biến cơ cấu trong thời gian tới có lẽ sẽ có sự chuyển biến lớn, tỷ trọng giữa các mặt hàng sẽ có sự thay đổi lớn vì lý do là ngành cà phê đang gặp phải khó khăn nặng nề về giá, nên trong vài năm tới sẽ bị sụt giảm kim ngạch rất nhiều. Đó là khó khăn không chỉ của riêng ngành cà phê mà còn là khó khăn của cả nhóm hàng và cả nền kinh tế.
3. Cơ cấu thị trường
Trong thời kỳ qua, do những sự thay đổi lớn trên thế giới về chính trị cũng như xã hội, cơ cấu thị trường đã có sự thay đổi rất lớn. Trước những năm 90, chúng ta chủ yếu quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa là Liên Xô và các nước Đông Âu, thì đến nay, khách hàng của chúng ta đã được mở rộng rất nhiều. Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 160 nước trên thế giới. Đối với nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày, cũng có sự thay đổi lớn về cơ cấu thị trường theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với các nước.
Trước năm 1990 và những năm đầu của thập kỷ này, nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày chủ yếu được xuất sang các thị trường truyền thống quen thuộc là Liên Xô, các nước Đông Âu và một vài nước Châu á như Trung Quốc, Singapore. Tỷ trọng của những nước này thường chiếm đến 90% tổng lượng hàng xuất. Từ năm 1996, sự bãi bỏ lệnh cấm vận của Mỹ, những hiệp định thương mại song phương và đa phương đã giúp nhóm hàng này tham gia vào thị trường thế giới theo đúng nghĩa của nó. Những thị trường trước đây với vai trò là trung gian đưa hàng của Việt Nam sang các nước khác đã dần dần giảm vai trò của mình. Giờ đây, hàng của chúng ta đã có thể xuất trực tiếp sang những bạn hàng lớn mà không phải qua nước trung gian nào cả.
Cơ cấu thị trường năm 1990 phân bổ như sau:
Khu vực Liên Xô và Đông Âu : 70%
Khu vực Châu á : 20%
Khu vực các nước Châu Âu khác : 5%
Khu vực khác : 5%
Tuy nhiên, đến năm 2000, cơ cấu thị trường đã có sự thay đổi lớn:
Khu vực Châu á : 35%
Khu vực Châu Âu : 30%
Khu vực Châu Mỹ : 30%
Khu vực khác : 5%
Từ năm 1996 đến nay, cơ cấu thị trường đã thay đổi nhiều theo hướng tăng dần tỷ trọng xuất khẩu sang những nước công nghiệp phát triển như thị trường Bắc Mỹ và Châu Âu. Ví dụ như, những khách hàng trước đây thường mua sản phẩm cao su của Việt Nam thông qua thị trường Singapore thì hiện nay đã có thể liên hệ mua trực tiếp từ phía Việt Nam. Điều này rất có lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam vì chúng ta không chỉ thu được kim ngạch xuất khẩu cao hơn khi không phải chia sẻ quyền lợi cho người trung gian mà chúng ta còn tiếp cận trực tiếp với khách hàng, tiến gần đến với thị trường thế giới về giá cả, nhu cầu, thị hiếu cũng như phương thức buôn bán.
Do có sự tiếp cận trực tiếp với thị trường thế giới nên giá xuất khẩu của nhóm hàng này cũng thay đổi theo hướng dần dần xích lại gần với giá cả thế giới. Giá bán cho khách hàng nước ngoài thường thấp hơn so với giá ở các sàn giao dịch nông sản lớn trên thế giới vì hàng của Việt Nam thường bị coi là có chất lượng không tốt, không đảm bảo như hàng của những nước khác. Tuy nhiên, có một phần lý do là hàng của chúng ta mới tham gia vào thị trường thế giới nên hay bị ép giá. Sau một thời gian khi đã quen thuộc với thị trường, với khách hàng và tập quán thương mại quốc tế, giá cả xuất khẩu dần dần tăng lên, tiến sát đến giá cả quốc tế.
Phải thừa nhận rằng chất lượng là một lý do chính dẫn đến giá xuất khẩu thấp hơn nhiều so với giá cả thế giới. Đó là lý do khách hàng chê hàng của Việt Nam và hàng thì không cạnh tranh mặc dù có giá cả thấp. Về lâu dài, phải có những cải tiến về chất lượng hàng hoá thì mới có thể cạnh tranh tốt trên thị trường thế giới với giá cao.
4. Về hình thức xuất khẩu
Trước đây, do mối quan hệ khăng khít với Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, và cũng do sự cấm vận của Mỹ mà nhóm hàng xuất khẩu rất hạn chế. Hàng hoá của Việt Nam thường được xuất sang các nước xã hội chủ nghĩa khác theo quy chế thương mại của những nước này. Từ năm 1990-1996, nhóm hàng được xuất sang các nước khác thông qua các nước trung gian như Singapore. Đến này, các doanh nghiệp Việt Nam đã có quan hệ thương mại trực tuyến với khách hàng nước ngoài.
ở Việt Nam, nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày thường được mua bán tại các nông trường và các hộ gia đình sau đó được xuất khẩu. Phương thức thông thường và phổ biến ở Việt Nam là khách hàng liên hệ với các công ty xuất khẩu trực tiếp bằng telex, fax và điện thoại, hoặc đến trực tiếp công ty xuất khẩu hỏi mua. Hiện đã có nhiều văn phòng đại diện của nước ngoài đóng ở Việt Nam và việc có nhiều người đứng ra làm trung gian, đại lý hoa hồng, làm cầu trung gian giữa người bán và người mua.
Các điều khoản và điều kiện thường dùng trong các hợp đồng mua bán nhóm hàng này của Việt Nam thường theo các điều kiện thông thường của thế giới, ví dụ như đối với cà phê thì có hợp đồng mẫu cà phê Châu Âu 1997, nhưng gọn nhẹ và linh hoạt hơn.
II. Thực trạng xuất khẩu của một số mặt hàng cây công nghiệp dài ngày chủ yếu.
1. Cây cà phê
1.1 Tổng quan tình hình cà phê thế giới
Tình hình sản xuất:
Cà phê là cây đứng đầu trong nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày do vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế cũng như về sản lượng và kim ngạch giao dịch. Trong vài thập kỷ qua, sản lượng sản xuất cà phê thế giới tăng giảm thất thường, nhưng nhìn chung có xu hướng tăng lên. Sự biến động ở tất cả các khía cạnh của sản xuất là sản lượng, diện tích, canh tác và năng xuất không giống nhau.
Diện tích trồng cà phê thế giới trong giai đoạn 1990-2000 có chiều hướng tăng nhưng diện tích trồng cà phê ở các khu vực khác nhau trên thế giới tăng giảm không đều: trong khi diện tích trồng cà phê ở khu vực Châu á Thái Bình Dương tăng trung bình là 2,8%/năm thì diện tích trồng cà phê ở khu vực khác lại giảm đi 0,3%/năm. Điều này là do sự phù hợp thời tiết ở từng vùng cũng như những chính sách phát triển của từng nhà nước. Đối với khu vực Châu á Thái Bình Dương, có nhiều nước có chính sách phát triển cà phê như là một trong những mặt hàng quan trọng nhất, chiếm kim ngạch xuất khẩu nhiều nhất nên ngày càng mở rộng sản xuất cho loại cây này.
Năng suất trồng cà phê trên thế giới thời gian qua có xu hướng giảm xuống, tốc độ giảm trung bình 0,2%/năm. Tuy nhiên, năng suất trồng tăng giảm không đều ở các quốc gia và các vùng, chẳng hạn như ở các nước Châu á Thái Bình Dương, năng xuất cà phê tăng trung bình 0,4%/năm.
Sản lượng cà phê thế giới tăng giảm thất thường nhưng nhìn chung có xu hướng tăng lên. Càng gần đây, xu hướng tăng sản lượng cà phê ngày càng thể hiện rõ. Vụ mùa năm 1998, 1999 và năm 2000, hầu hết các nước sản xuất cà phê đều được mùa, dẫn đến các vụ mùa bội thu và sản lượng tăng đáng kể.
Sản xuất cà phê tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển: chiếm hơn 90% sản lượng cà phê thế giới. Các nước phát triển sản xuất với khối lượng rất nhỏ và chủ yếu nhập khẩu để tiêu dùng. Châu Mỹ La tinh là khu vực trồng cà phê lớn nhất thế giới, trong đó Braxin có sản lượng đứng đầu thế giới. Trước chiến tranh thế giới lần thứ 2, Braxin chiếm 80% sản lượng cà phê thế giới. Những năm sau đó, do sự phát triển mạnh mẽ về sản xuất cà phê ở các nước Châu á, Châu Phi nên sản lượng của Braxin chỉ chiếm 30% sản lượng cà phê thế giới. Sản lượng cà phê của các nước Châu á, Châu Phi tăng đáng kể và đã nâng dần tỷ trọng so với sản lượng thế giới.
Trước đây, các nước sản xuất cà phê chủ yếu xuất khẩu cà phê thô hoặc chế biến chưa sâu cho các nước tiêu thụ để các nước này chế biến. Nhưng nhận thấy biện pháp đó có hiệu quả kinh tế không cao nên hiện nay, nhiều nước đã chú trọng đến sản xuất cà phê hoà tan để xuất khẩu.
1.1.2 Tình hình xuất khẩu:
Là một trong những mặt hàng có kim ngạch buôn bán lớn trên thế giới, hàng năm khoảng trên 10 tỷ USD), cà phê ngày càng có vị trí quan trọng trong buôn bán quốc tế. Được trồng chủ yếu ở những nước đang phát triển, nhưng cà phê lại được tiêu thụ mạnh ở những nước phát triển, với các thị trường lớn là Châu Âu và Bắc Mỹ.
Giá xuất khẩu cà phê từ năm 1990 trở lại đây tăng giảm thất thường, đặc biệt là đối với cà phê Robusta. Gần đây, do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là do cung vượt cầu, giá cà phê thế giới giảm mạnh. Mặc dù tháng 4/2000, Hiệp hội các nước sản xuất cà phê ACPC đã họp để tìm biện pháp nâng đỡ giá và thông qua chương trình tạm trữ cà phê với kế hoạch ban đầu là 7 triệu bao cà phê (420.000 tấn) của niên vụ 2000-2001. Nhưng thực sự cho đến nay, thị trường vẫn chưa có những biểu hiện tích cực vì kế hoạch này không giải quyết được nguyên nhân sâu sa của sự sụt giá là cùng lớn hơn cầu. Lượng cà phê tạm trữ này được đưa vào kho nhà nước để điều tiết nguồn cung, nhằm vực giá.
Do những đặc tính về sản xuất và tính hơn hẳn về chất lượng hương vị cà phê, giá cà phê Arabica thường cao hơn hẳn so với cà phê Robusta.
Về tập quán kinh doanh cà phê thế giới: Cà phê cũng được mua bán theo tập quán kinh doanh loại cây công nghiệp dài ngày như cao su, cây bông. Cà phê được giao bán kỳ hạn tại các sở giao dịch lớn trên thế giới như: Sở giao dịch tài chính quốc tế London (LIFFE) (đối với cà phê Robusta) và sở giao dịch cacao, đường và cà phê NewYork (CSCE) (đối với cà phê Arabica). Biến động giá kỳ hạn tại các sở giao dịch này thường ảnh hưởng trực tiếp tới giá xuất khẩu trên thị trường giao ngay.
1.2 Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam
1.2.1 Tình hình sản xuất:
Cây cà phê được đưa vào trồng ở nước ta lần đầu tiên vào năm 1887 tại các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và sau đó đã được trồng thử nghiệm tại nhiều tu viện nhằm thăm dò khả năng trồng cà phê ở Việt Nam. Đến năm 1945 diện tích cà phê của nước ta đã lên tới 10.7000 ha. Sau năm 1954, các tỉnh phía Bắc đã xây dựng nhiều nông trường trồng cà phê. Diện tích cà phê năm cao nhất (năm 1963) đạt 14.000 ha, sản lượng năm đó đạt 4.850 tấn.
Ngay sau ngày giải phóng, Đảng và Nhà nước đã xác định cây cà phê là một trong những cây công nghiệp lâu năm cần được phát triển mạnh hướng vào mục tiêu xuất khẩu. Vào thập kỷ 80, Chính phủ mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước và đã ký hàng loạt hiệp định hợp tác sản xuất cà phê với Liên Xô, C.H.D.C Đức, Bungari, Tiệp Khắc, Ba Lan, tạo cho ngành cà phê Việt Nam một bước phát triển mới. Ngành cà phê nước ta trong những năm qua đã có những bước tiến bộ vượt bậc có tính chất bùng nổ, đặc biệt là năng suất tăng lên rất cao so với thế giới. Ngày 26/3/1991, Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức cà phê Quốc tế (ICO).
Về diện tích: Cây cà phê được đánh giá là một trong những cây công nghiệp dài ngày chủ lực cần được chú trọng phát triển nên diện tích đã tăng lên nhanh chóng. Thời kỳ 1990-1994, diện tích trồng cà phê tăng không đáng kể, có năm còn bị giảm, nhưng sản lượng tăng rất nhanh do đa số các vườn trồng cà phê đến độ trưởng thành và cho năng suất cao. Thời kỳ 1994-1996, giá cà phê thế giới tăng đột biến nên diện tích trồng cà phê cũng tăng mạnh ở khắp các tỉnh Tây Nguyên. Đến hết năm 1998, theo ước tính của Hiệp hội Cà phê-Cacao Việt Nam, diện tích trồng cà phê ở Việt Nam đạt xấp xỉ 370.000 ha, trong đó riêng 3 tỉnh Tây Nguyên đã chiếm khoảng 60%. Tuyệt đại đa số diện tích được sử dụng trồng cà phê Robusta, chỉ có khoảng 20.000 ha là trồng Arabica. Diện tích trồng Arabica tập trung ở Bắc Bộ và Trung Bộ (cụ thể phân bố vùng trồng cà phê theo bảng)
Tây Nguyên là vùng trồng cà phê chủ yếu. Tuy có thuận lợi về thổ nhưỡng nhưng việc phát triển thái quá các vườn cà phê tại Tây Nguyên đã làm cân đối nước-vườn bị phá vỡ, và hậu quả là nguồn nước tưới ngày càng thiếu hụt và trở thành nguyên nhân chính gây sút giảm sản lượng trong các năm 1996 và 1998, khi khô hạn thất thường.
Năng suất cà phê Việt Nam đã tăng nhanh. Vào những năm 1980, năng suất bình quân thuộc diện thấp, thì hiện nay cây cà phê có năng suất cao trên thế giới, trung bình trong những năm gần đây đạt khoảng 1,5 tấn/ha; cao hơn nhiều so với năng suất bình quân của thế giới (0,6-0,7 tấn/ha). Đặc biệt ở một số tỉnh Tây Nguyên như Đắc Lắc, năng suất cà phê bình quân có thể đạt trên 2 tấn/ha. Trong khi đó, năng suất cà phê bình quân của Braxin cũng chỉ đạt khoảng 1 tấn/ha, ấn Độ là 0,9 tấn/ha.
Cùng với việc tăng diện tích và tăng năng suất, sản lượng cà phê đã tăng nhanh: vụ mùa 1995/1996: 235 nghìn tấn; 1996/1997: 330 nghìn tấn và niên vụ 1999/2000 đạt 450 nghìn tấn. Đặc biệt, niên vụ 2000/2001 sản lượng cà phê có thể đạt gần 700 nghìn tấn, tăng 250 nghìn tấn so với niên vụ trước, tương ứng với tốc độ tăng trên 55,6%.
Về chất lượng: Thực chất cà phê Việt Nam được liệt vào loại có hương vị đậm đà do được trồng ở điều kiện thích hợp cho cây cà phê. Tuy nhiên, do khâu thu hái chế biến còn nhiều thiếu sót nên đã làm giảm chất lượng vốn có. Đây là một tồn tại cần phải cải tiến để nâng cao hiệu quả kinh tế của cây cà phê.
Vấn đề chất lượng rất quan trọng trong mua bán quốc tế, đối với cà phê Việt Nam hiện vẫn có nhiều khách hàng phàn nàn về chất lượng. Có khách hàng còn cho rằng vào đầu những năm 1990 thì cà phê Việt Nam có chất lượng khá tốt nhưng đến nay thì chất lượng lại kém dần. Điều đó có thể là do trước đây mua cà phê chủ yếu của các nông trường quốc doanh thuộc Liên hiệp các xí nghiệp cà phê Việt Nam nên chất lượng được đảm bảo, còn hiện nay thì các công ty xuất khẩu cà phê của Việt Nam mua cà phê gom từ các hộ nông dân nên chất lượng không đồng đều và không đảm bảo. Hiện tượng khách hàng khiếu nại về chất lượng cà phê đã giao cũng có xu hướng tăng lên.
Rõ ràng chất lượng cà phê đã trở thành một vấn đề nổi bật trong ngành cà phê Việt Nam. Đó là một vấn đề đáng lo ngại vì trên thị trường thế giới, cà phê Việt Nam tăng nhanh về chất lượng nhưng do chất lượng không có sức cạnh tranh mạnh nên thường phải bán với giá thấp. Khách hàng thường lấy cớ này để ép giá cà phê Việt Nam thấp hơn cà phê các nước xuất khẩu khác.
Về công nghiệp chế biến cà phê: Trong kỹ thuật chế biến cà phê nhân có hai phương pháp chính là phương pháp chế biến ướt và chế biến khô. Phương pháp chế biến ướt hiện nay ở Việt Nam còn hạn chế, chỉ áp dụng ở một số nông trường quốc doanh mới có phương tiện chuyên dụng. Phương pháp này cần áp dụng đối với cà phê chè, vì cà phê chè có lớp vỏ dày, có hương vị; nếu thời gian phơi sấy lâu dễ bị phân huỷ, giảm giá trị.
Việc chế biến cà phê ở Việt Nam hiện nay diễn ra trên quy mô trung bình và quy mô lớn.
Chế biến quy mô trung bình: Công suất bình quân một máy từ 300-1000 tấn/năm, trong đó công nghệ xát tươi khoảng 15%, sản phẩm là cà phê nhân, nhưng chưa đánh bóng phân loại. Tổng công suất máy là 22.000 tấn/năm.
Chế biến quy mô lớn: Công suất trung bình trên 3000 tấn/năm/máy, đó là nhà máy chế biến của xí nghiệp 331 chuyển nhượng cho Vinacafe Kháng Hoà, hiện tại phát huy được 70% công suất.
Về hiệu quả kinh tế: ở khu vực tư nhân, theo số liệu thu được do điều tra nghiên cứu ở Đồng Nai bình quân 3 năm (1993-1995) cho thấy sản xuất cà phê có hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với các loại cây trồng khác. Trong khi tỷ suất lợi nhuận của cây ăn quả là 13%, đậu tương là 56% và mía là 83% thì cà phê lên tới 156%.
Từ những tình hình thực tế trên, ta thấy rõ ràng sản xuất cà phê có hiệu quả kinh tế cao hơn so với các loại cây trồng khác. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu trong cả thập kỷ 80 và 90, chúng ta có thể thấy một vấn đề là hiệu quả kinh tế của sản xuất cà phê có xu hướng giảm sút, nhất là những năm 1999-2000, khi mà giá cà phê thế giới giảm nghiêm trọng. Đặc biệt là những tháng gần đây, hiệu quả kinh tế của cây cà phê đã giảm đi đến mức ở nhiều nơi người dân trồng còn phải chặt phá bỏ cây cao su do bị lỗ.
1.2.2 Tình hình xuất khẩu:
Cây cà phê có mặt ở Việt Nam trên một thế kỷ, nhưng chỉ từ năm 1980 trở lại đây mới thực sự được chú trọng phát triển. Đến nay, cà phê trở thành một ngành sản xuất có giá trị kinh tế đáng kể. Trong nhóm hàng xuất khẩu, trị giá xuất khẩu cà phê chỉ đứng sau gạo và dầu khí.
Cùng với sự phát triển của sản xuất, lượng cà phê xuất khẩu hàng năm tăng lên khá nhanh. Từ chỗ là một ngành hàng xuất khẩu nhỏ bé với kim ngạch hàng năm không quá 10 triệu USD, đến nay, cà phê đã trở thành một trong 5 mặt hàng xuất khẩu chủ lực cùng với các ngành dầu khí, may mặc, lương thực và hải sản. Kim ngạch xuất khẩu cà phê đã đạt hơn 500 triệu USD và Việt Nam trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 3 thế giới.
Sản lượng cà phê xuất khẩu tăng nhanh và cà phê trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chiến lược của đất nước. Mặc dù giá cà phê biến động mạnh nhưng hàng năm sản lượng cà phê xuất khẩu vẫn tăng. Năm 1999, các doanh nghiệp cả nước đã xuất khẩu được 482.000 tấn, đạt kim ngạch 585 triệu USD, khẳng định sự vững chắc của ngành cà phê Việt Nam và vị trí chủ lực của ngành cà phê trong cơ cấu hàng xuất khẩu.
Tuy nhiên, do giá cả biến động lớn trên thị trường, cho nên sản lượng xuất khẩu tăng với tốc độ lớn nhưng kim ngạch xuất khẩu lại không tăng nhanh với cùng tốc độ. Năm 1999, sản lượng xuất khẩu tăng 26,4% nhưng kim ngạch xuất khẩu lại giảm đi 1%. Dự kiến năm 2000, mặc dù cả nước xuất khẩu gần 700 nghìn tấn, tăng 45% so với năm 1999, nhưng kim ngạch lại tụt giảm nhiều.
Giá xuất khẩu cà phê của Việt Nam phụ thuộc vào giá cà phê thế giới. Do sự biến động của giá cà phê thế giới trong thời gian qua, giá xuất khẩu cà phê của Việt Nam cũng biến động thất thường. Tuy nhiên giá xuất khẩu biến động theo sự biến động của giá cả thế giới nhưng biến động khác nhau, không cùng tỷ lệ.
Có thể nói, trong giai đoạn 1994-1998, giá cà phê thế giới khá cao. Mặc dù trong thời kỳ này giá tăng giảm thất thường nhưng đây thật sự là thời kỳ là thời kỳ thuận lợi của cà phê Việt Nam. Năm 1995, giá giao dịch kỳ hạn cà phê Robusta ở thị trường London đạt kỷ lục trong thời kỳ 1990-2000 với mức giá 2664 USD/tấn. Và đây cũng là năm giá cà phê Việt Nam cao nhất, giảm tối thiểu mức trừ lùi xuống còn 59 USD.
Bảng 8: Giá cà phê xuất khẩu trung bình qua các tháng năm 1999.
STt
Tháng
Lượng (tấn)
Giá trung bình (USD/tấn)
1
01/99
49.057
1.567
2
02/99
27.538
1.528
3
03/99
26.509
1.488
4
04/99
43.928
1.357
5
05/99
39.495
1.232
6
06/99
21.829
1.242
7
07/99
24.186
1.197
8
08/99
25.992
1.150
9
09/99
30.197
1.105
10
10/99
39.054
994
11
11/99
84.552
1.034
12
12/99
70.126
1.068
13
01/2000
97.967
948
* Nguồn: Báo cáo tình hình cà phê tháng 3/2000.
Hiệp hội Cà phê Cacao Việt Nam.
Phân tích giá cà phê trong năm 1999 ta có thể thấy giá xuất khẩu trung bình đã giảm liên tục từ mức 1.567 USD/tấn vào tháng 1/19999 xuống còn 994 USD/tấn trong tháng 10/1999 và chỉ phục hồi nhẹ trong 2 tháng 11 và 12. sau đó lại tiếp tục giảm xuống còn 948 USD/tấn trong tháng 1/2000. Nếu tính bình quân cả năm 1999 thì giá xuất khẩu chỉ đạt 1.213 USD/tấn, giảm 22% so với mức giá bình quân năm 1998 (1.514USD/tấn). Tình hình giá xuất khẩu trong năm 2000 còn trầm trọng hơn nhiều. Cho đến thời điểm tháng 11/2000, giá xuống thấp chỉ còn trên dưới 500 USD/tấn, thấp hơn nhiều so với giá thành khoảng 750 USD/tấn, làm cho người dân và các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu bị thiệt hại nặng nề. Chênh lệch giữa giá FOB Việt Nam so với giá thị trường kỳ hạn London hiện vẫn giao động trong khoảng 300-350 USD/tấn.
Thị trường tiêu thụ: Trước năm 1995, cà phê Việt Nam được đưa vào thị trường thế giới thông qua mạng lưới tiêu thụ của các doanh nhân Singapore (chiếm tỷ trọng gần 45% sản lượng xuất khẩu) và số còn lại được tiêu thụ chủ yếu ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Từ sau năm 1995, do g._. giúp các thành viên trong việc khôi phục và ổn định hoạt động kinh doanh khi giá cả thị trường biến động bất lợi.
Sử dụng các quỹ phòng ngừa rủi ro xuất khẩu cho nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày trong bối cảnh hiện nay khi giá cả trên thị trường thế giới biến động thất thường là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, ngoài sự hỗ trợ về giá của những quỹ này, cũng cần có sự hỗ trợ về vốn cho các nhà sản xuất và kinh doanh trong việc đầu tư nâng cấp công nghệ chế biến hoặc thu mua thông qua Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. mục tiêu chính của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu là phải trợ giúp các doanh nghiệp có tiềm năng phát triển xuất khẩu nhưng không có điều kiện tiếp cận với nguồn vốn của Ngân hàng, không có tài sản thế chấp,.... Quỹ hỗ trợ xuất khẩu sẽ đứng ra bảo lãnh cho các khoản vay, cung cấp các khoản tín dụng để doanh nghiệp có thể bán hàng trả chậm cho nước ngoài,.... Các quỹ này không nên thành lập theo kiểu cấp phát, vì sẽ gây tâm lý ỷ lại của các doanh nghiệp. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu phải hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn như các tổ chức tín dụng khác, cùng chia xẻ thành công với các doanh nghiệp và rủi ro với Ngân hàng.
Việc Nhà nước bảo đảm tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày cũng là một biện pháp cần quan tâm để thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng này. Để khuyến khích doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu bằng cách bán chịu, Quỹ Bảo hiểm xuất khẩu của Nhà nước đứng ra bảo hiểm, bù lỗ nếu bị mất vốn. Tỷ lệ đền bù càng cao càng tạo tâm lý an tâm cho người xuất khẩu. riêng đối với mặt hàng cây công nghiệp dài ngày, chúng tôi xin kiến nghị mức đền bù là 80% tổng số thiệt hại để các doanh nghiệp xuất khẩu có thể giảm tới mức thấp nhất rủi ro mà họ phải gánh chịu do tính thời vụ của nhóm hàng.
Bên cạnh đó, chính sách áp dụng tỷ giá hối đoái linh hoạt là một một những công cụ điều tiết và hỗ trợ tốt nhất của Nhà nước. Sự biến động của tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu. Khi tỷ giá giữa đồng VND/USD tăng, tức là giá đồng tiền Việt Nam giảm thì với cùng một giá trị xuất khẩu tính bằng tiền USD, doanh nghiệp thu được số tiền VND nhiều hơn so với trước, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Bởi vậy, Nhà nước sử dụng tỷ giá hối đoái linh hoạt nhiều khi có tác dụng rất lớn trong việc kích thích xuất khẩu.
Như vậy, các biện pháp hỗ trợ về tài chính, tín dụng của Chính phủ đối với nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày là rất quan trọng. Nó thực sự là một biện pháp không thể thiếu trong việc thúc đẩy hiệu quả xuất khẩu của nhóm hàng.
1.3 Nhóm biện pháp hỗ trợ về thị trường
Thị trường nông sản xuất khẩu nói chung và thị trường xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày nói riêng có nhiều biến động do các đặc tính riêng biệt của nhóm hàng đòi hỏi công tác nghiên cứu thị trường cần phải được đặc biệt chú trọng. Các doanh nghiệp Việt Nam thường nắm bắt thông tin thị trường quốc tế rất yếu, thông tin không đầy đủ, thiếu tính chính xác gây ra nhiều lúng túng, bị động trong hoạt động sản xuất kinh doanh và nhiều khi còn gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho cả ngành. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày có được những thông tin đầy đủ, cập nhật và chính xác, cần xây dựng một mạng lưới thông tin về thị trường cây công nghiệp dài ngày thế giới. Nhà nước nên xây dựng những thông tin về thị trường để cung cấp phục vụ kịp thời cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt những cơ hội kinh doanh, xúc tiến thương mại xuất khẩu và đưa hàng ra nước ngoài thuận lợi, ít tốn kém và hạn chế các rủi ro.
Trong quá trình thu thập thông tin cần lưu ý đến việc phát triển các mặt hàng vào các thị trường mới. Việc phát triển các mặt hàng mới có ý nghĩa rất quan trọng vì nó tác động đến tốc độ mở rộng thị trường. mặt hàng mới ở đây có nghĩa là những mặt hàng mà Việt Nam có tiềm năng sản xuất nhưng chưa xuất khẩu được vào thị trường đó hoặc đã xuất khẩu được nhưng sản lượng xuất khẩu còn nhỏ bé, manh mún và kim ngạch đạt được chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nó.
Nhà nước cũng cần quan tâm đến việc đào tạo một đội ngũ chuyên gia về nghiên cứu thị trường cây công nghiệp lâu năm, nghiên cứu về nhiều khía cạnh liên quan đến nhóm hàng như giá cả xuất khẩu ở những thị trường khác nhau, chất lượng các sản phẩm khác nhau, bao bì, mẫu mã, thị hiếu của người tiêu dùng,... để những doanh nghiệp xuất khẩu có thêm chi tiết trong việc hoạch định các kế hoạch sản xuất và xuất khẩu để đạt hiệu quả cao nhất. Thông qua hoạt động cung cấp thông tin, tư vấn của đội ngũ chuyên gia này, người sản xuất sẽ có được những thông tin cập nhật nhất để điều chỉnh hoạt động sản xuất của mình. Đây thực sự sẽ là một cầu nối thông tin giữa người sản xuất và đầu mối tiêu thụ, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu và đem lại lợi ích cho cả người sản xuất và người kinh doanh.
Bên cạnh đó, Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong việc là cầu nối giữa các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu trong nước với thị trường thế giới. Thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại của Nhà nước như các hội thảo thương mại quốc tế, những buổi gặp gỡ giữa các nhà kinh doanh mặt hàng này với những nhà kinh doanh quốc tế, vai trò tích cực của các cơ quan thương mại ở nước ngoài,... có thể góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy và nâng cao hiệu quả xuất khẩu của nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày. Ví dụ như, một thông tin về thị trường hoặc một cuộc hội thảo giữa các nhà sản xuất và kinh doanh cà phê trên thế giới với các doanh nghiệp Việt Nam có thể mở ra các cơ hội thâm nhập thị trường của ngành cà phê Việt Nam.
Hỗ trợ thị trường trong nước cho người sản xuất còn bao gồm cả việc thu mua sản phẩm. Hiện nay tình hình thu mua sản phẩm cây công nghiệp dài ngày rất phức tạp. Do có quá nhiều đầu mối thu mua và xuất khẩu nên việc quản lý sản phẩm, giá cả, chất lượng chưa được bảo đảm, làm giảm uy tín của ngành. Để phát huy hiệu quả xuất khẩu, gây uy tín với khách hàng thì việc thu mua cần có những cải thiện. Cần có một hệ thống công ty chuyên thu mua sản phẩm cây công nghiệp dài ngày đúng thời vụ, giá cả, trả tiền ngay để tạo điều kiện cho người sản xuất quay vòng vốn; quản lý chặt chẽ sản phẩm và nâng cao chất lượng nhóm hàng. Không nên có quá nhiều công ty tham gia thu mua để xuất khẩu để tránh hiện tượng tranh mua, tranh bán và cũng không nên có quá ít số công ty thu mua vì dễ gây ra hiện tượng độc quyền, ép giá người sản xuất. Nhà nước cần chỉ đạo cho Ngân hàng Nhà nước bảo đảm cho các doanh nghiệp vay đủ và kịp thời vón để mua hết sản phẩm cho dân trong mọi trường hợp, mọi thời gian, loại dạng sản phẩm để người dân an tâm sản xuất.
1.4 Nhóm biện pháp hoàn thiện cơ chế quản lý, ổn định môi trường pháp lý
Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Tiếp tục cải cách hoàn thiện hệ thống thuế để phát hiện và khắc phục kịp thời những vướng mắc trong thời gian đầu mới thực hiện thuế Giá trị gia tăng; đơn giản hệ thống thuế suất, mỗi mặt hàng chỉ có một mức thuế để tránh việc áp mã thuế tuỳ tiện; miễn giảm những phụ thu không đáng có trong quy trình xuất khẩu, bãi bỏ tối đa các công cụ hành chính trong điều tiết xuất khẩu như Giấy phép xuất khẩu; nghiên cứu về cơ chế quản lý xuất khẩu nhóm hàng để tìm ra những thiếu sót, những kẽ hở cho gian thương lợi dụng; ổn định môi trường pháp lý cho sản xuất và xuất khẩu.
Việc miễn giảm thuế cho các mặt hàng cây công nghiệp dài ngày cũng cần thực hiện có hiệu quả hơn. Xem xét, đánh giá lại và đi đến thống nhất các mức thuế áp dụng với hàng cây công nghiệp dài ngày, nếu có thể, thì miễn, giảm thuế đối với một số công đoạn nuôi trồng và chế biến xuất khẩu. Xử lý tình trạng sách nhiễu của các cơ quan quản lý Nhà nước trong hoạt động của các đơn vị kinh doanh xuất khẩu cây công nghiệp dài ngày. Ngoài chế độ thuế khoá ưu đãi, nên có chính sách thưởng xuất khẩu đối với những doanh nghiệp xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày với khối lượng lớn để khuyến khích động viên về lâu dài.
Đối với thuế nông nghiệp: Nhà nước nên quy định nộp thuế thu theo hạng đất và sự biến động của giá cả thị trường, với mục tiêu điều tiết để xây dựng giá bảo hiểm cho sản xuất khi giá cả thế giới xuống thấp. Trong chính sách thuế nông nghiệp đối với cây công nghiệp dài ngày cần phải nghiên cứu để hoàn thiện hơn: Đối với vùng đất trống đồi núi trọc thì nên có sự miễn giảm thuế hơn nữa để khuyến khích người sản xuất mở rộng diện tích này, cụ thể là sau 3-5 năm kể từ khi diện tích được đưa vào khai thác thì mới thu thuế.
Nhà nước cũng thể hiện vai trò tích cực của mình trong việc thông qua các tổ chức sứ quán, thương vụ hỗ trợ cung cấp cho doanh nghiệp thông tin chuyên ngành, tạo ra các hành lang pháp lý cho hoạt động xuất khẩu tới các thị trường mới thông qua chính sách và chủ trương tham gia vào cộng đồng Thương mại quốc tế. Việc Việt Nam ra nhập ICO cũng như tham gia vào những tổ chức quốc tế khác có liên quan để tăng cường hợp tác kinh tế thương mại khoa học, công nghệ và phát triển nguồn lực. Hay, chắc chắn rằng, hiệp định thương mại Việt-Mỹ sẽ là tiền đề cho các hàng hoá của Việt Nam thâm nhập sâu hơn nữa vào thị trường Hoa Kỳ. Một thị trường Hoa Kỳ rộng lớn đang mở ra trước mắt cho các nhà sản xuất và xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày ở nước ta.
2. Nhóm các biện pháp vi mô
2.1 Nhóm các biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm
Đối với các doanh nghiệp cũng như người sản xuất hộ gia đình, hiệu quả sản xuất kinh doanh phụ thuộc trước hết vào chất lượng sản phẩm.
Về giống: giống cây trồng là yếu tố quyết định năng suất và sản lượng cây trồng. Không chỉ những người trồng cây trực tiếp mới phải quan tâm đến giống cây trồng mà ngay cả những doanh nghiệp thu mua, chế biến cũng phải hết sức chú trọng. Để nâng cao chất lượng giống cây trồng, ngoài các viện nghiên cứu giống cây trồng của Nhà nước, các doanh nghiệp cũng phải có những bộ phận nghiên cứu về giống-đất, xem khả năng thích nghi và hiệu quả của giống trên từng vùng đất để đạt được năng suất cao nhất.
Người trồng cây trước hết phải có những hiểu biết nhất định về giống cây trồng. Việc tìm hiểu về những giống cây trồng trên thị trường, loại đất trồng mà mình đang có, cũng như những thông tin về thị trường để quyết định việc trồng giống nào thì tốt nhất. Nên có sự tham khảo, giúp đỡ từ những chuyên gia về lĩnh vực giống ở các trung tâm nghiên cứu giống.
Công tác thu hoạch, thu mua: Do nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày rất dễ bị ảnh hưởng tới chất lượng nên công tác thu hoạch, thu mua của các doanh nghiệp cũng phải được hết sức chú trọng. Nhiều khi chất lượng của sản phẩm khá tốt, nhưng do quá trình thu hoạch không đúng thời vụ làm giảm chất lượng. Hay khi thu mua với khối lượng lớn, tình hình kho bãi không đủ hoặc không đáp ứng tiêu chuẩn cũng làm giảm chất lượng. Việc đóng gói, bao bì, bảo quản và vận chuyển hàng có thể là nguyên nhân làm giảm chất lượng. Việc khách hàng nước ngoài từ chối nhận hàng không phải là chuyện hiếm, mặc dù chất lượng hàng giao tại kho là tốt nhưng trong quá trình vận chuyển, bảo quản không tốt hoặc bao bì không đúng chất lượng làm hàng bị nấm, mốc,... Do đó, doanh nghiệp phải hết sức quan tâm đến khâu thu hoạch, thu mua, kho bãi, cũng như việc đóng gói, bao bì, bảo quản và vận chuyển sản phẩm cây công nghiệp dài ngày.
Trước hết, công tác thu hoạch ở các nông trường, các hộ cây trồng phải được tiến hành vào đúng vụ thu hoạch. Phải đảm bảo thu hoạch một cách có tổ chức, đảm bảo phương tiện vận chuyển về nơi tập kết, và đảm bảo về kho bãi như độ ẩm, chuột bọ, mức độ vệ sinh, chống mưa gió có thể ảnh hưởng đến chất lượng. Phải chuẩn bị kho bãi trước khi thu hoạch một thời gian. Đối với việc thu mua của các doanh nghiệp xuất khẩu hay các đầu mối xuất khẩu thì cũng phải hết sức chú ý tới vấn đề kho bãi. Thường thì các doanh nghiệp xuất khẩu thu mua sản phẩm khi thời vụ đến, cùng một lúc thu mua với khối lượng lớn nên nếu không chuẩn bị kỹ càng thì dễ bị tình trạng thiếu kho bãi, kho bãi không đủ tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng.
Bao bì, bao gói, bảo quản, vận chuyển: Việc đóng gói, vận chuyển hàng hoá xuất khẩu cần được quan tâm đúng mức. Bao bì đủ tiêu chuẩn, đóng gói đảm bảo, và bảo quản hàng hoá cẩn thận khi vận chuyển ra cảng thì mới có thể giữ được chất lượng hàng như nó vốn có. Quá trình từ khẩu đóng gói đến khi giao cho khách hàng nước ngoài ở cảng xuất mất khá nhiều thời gian nên có thể chịu nhiều nhân tố ảnh hưởng chất lượng. Ví dụ như năm 1997, khi giao 7 tấn cà phê cho khách hàng nước ngoài ở cảng Hải Phòng thì khách hàng đã từ chối nhận hàng do hơn 1 tấn hàng bị mốc do ẩm ướt. Thực tế trước khi vận chuyển, cà phê có chất lượng tốt, nhưng do không được bảo quản tốt trong quá trình vận chuyển, bao bì đóng gói không đảm bảo đã ảnh hưởng đến cà phê, gây thiệt hại lớn cho người xuất khẩu.
Đầu tư và liên doanh liên kết: Nghiên cứu về giá thành sản xuất để giảm thiểu những chi phí cho sản suất. Tập trung thâm canh, tăng năng suất diện tích hiện có để hạ giá thành, tăng cường khả năng cạnh tranh của các sản phẩm đồng loại trên thị trường. Xây dựng mới và nâng cấp thiết bị, công nghệ chế biến để đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu hay tăng hàm lượng kỹ thuật trong các sản phẩm chế biến sâu, tạo điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu sản phẩm, cơ cấu thị trường.
Doanh nghiệp nên hướng sự chú ý của mình vào việc đầu tư vào công nghệ chế biến sau thu hoạch. Hiện nay, ở trong nước, công nghệ chế biến này chưa cao, chưa sâu nên đòi hỏi phải có sự đầu tư toàn diện về cả máy móc thiết bị cũng như con người. Đầu tư ban đầu này chiếm một lượng vốn lớn, nên bên cạnh việc tự huy động vốn từ ngân sách của công ty hoặc từ nguồn đầu tư của các cán bộ công nhân viên trong nhà máy, doanh nghiệp có thể yêu cầu đến sự trợ giúp của chính phủ, hoặc sử dụng các biện pháp như liên doanh, liên kết, tìm kiếm đối tác làm ăn với nước ngoài để tranh thủ vốn đầu tư.
2.2 Nhóm biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thực ra cũng là một biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm chú ý tới sức cạnh tranh của hàng hoá mà quên đi sức cạnh tranh của doanh nghiệp thì cũng không thể nào đạt được hiệu quả tốt nhất.
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện qua các yếu tố vật chất và các yếu tố phi vật chất. Các yếu tố vật chất gồm cơ sở hạ tầng sản xuất vốn có của doanh nghiệp, lượng vốn kinh doanh, yếu tố con người trong doanh nghiệp và các yếu tố khác. Các yếu tố phi vật chất có thể kể đến uy tín kinh doanh, quan hệ khách hàng, quan hệ xã hội của doanh nghiệp cùng các yếu tố khác.
Để nâng cao sức cạnh tranh của mình, doanh nghiệp cần phải có sự đầu tư thích ứng vào các yếu tố vật chất bằng việc đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng vốn có để có được một mặt bằng sản xuất tốt hơn, nâng cao vốn kinh doanh bằng nhiều phương thức như vay vốn, thế chấp tài sản doanh nghiệp, huy động vốn từ nhiều nguồn khác. Cần quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp để có trình độ quản lý và sản xuất cao. Song song với những biện pháp đó, doanh nghiệp cần phải nâng cao các yếu tố cạnh tranh phi vật chất của mình. Việc giữ uy tín trong kinh doanh, giao hàng đúng chất lượng, đúng thời hạn hay một số ưu đãi nhất định đối với khách hàng có thể là những biện pháp tốt nhất tạo niềm tin cho khách hàng, tạo uy tín trong giới kinh doanh. Các quan hệ với khách hàng cần được duy trì tốt, phát triển các dịch vụ sau bán, quan tâm đến những lời nhận xét, phàn nàn của khách hàng. Bên cạnh đó, củng cố và đẩy mạnh những mối quan hệ xã hội, quan hệ cộng đồng khác như quan hệ với cơ quan quản lý, quan chức địa phương nơi doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ,.... Các biện pháp đó sẽ giúp doanh nghiệp có được một chỗ đứng trên thị trường trong nước và thế giới.
2.3 Nhóm biện pháp về thị trường
2.3.1 Mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng cường hợp tác quốc tế
Trong những năm 30-40 của thế kỷ này, nhiều sản phẩm của Việt Nam đã được ưu chuộng trên thị trường châu Âu. Tuy nhiên, chỉ sau khi đấu tranh phá bỏ hàng rào cấm vận, các sản phẩm Việt Nam mới tìm đến được nhiều nơi trên thế giới. Nâng cao chất lượng, đảm bảo uy tín với khách hàng, tuân thủ tập quán buôn bán quốc tế, .... là những biện pháp quan trọng để các doanh nghiệp củng cố thị trường. Mặt khác, doanh nghiệp xuất khẩu cần có những giải pháp để khôi phục thị trường truyền thống cũ trước đây của các nước SNG và Đông Âu, mở mang thị trường mới như Trung Quốc và các nước Trung Cận Đông,.... Sản lượng xuất khẩu ngày càng lớn nên không thể thụ động ngồi chờ khách hàng đến mua thì bán, mà cần chủ động tạo ra thị trường, mở cơ quan đại diện và sử dụng phương thức xúc tiến thương mại khác hay các phương thức thương mại như hàng đổi hàng, trả nợ Nhà nước và các hiệp định của Chính phủ.
2.3.2 Xử lý thông tin về thị trường thế giới
Nắm bắt và xử lý thông tin về thị trường thế giới nhanh chóng, kịp thời nhằm tranh thủ thời cơ thuận lợi đạt được hiệu quả kinh doanh cao. Phải xây dựng một đội ngũ những người làm thông tin, nghiên cứu chiều hướng diễn biến của thị trường một cách thường xuyên, cập nhật. Ngoài ra các cơ quan kinh doanh cũng nên dành ra một phần ngân sách để đầu tư vào việc mua sách báo, thông tin thị trường trong và ngoài nước để phục vụ công tác sau này.
Trước hết, thành lập những bộ phận chuyên trách về thị trường. Bộ phận này có nhiệm vụ theo dõi sát sao tình hình thị trường hàng ngày một cách thường xuyên, cập nhật, sau đó sẽ phân tích tình hình thị trường, dự đoán thị trường trong thời gian tới để báo cáo cho lãnh đạo công ty. Khi đó lãnh đạo công ty sẽ có đầy đủ thông tin cần thiết vạch ra những kế hoạch sản xuất và xuất khẩu trong dài hạn và ngắn hạn. Cần phải đầu tư vào bộ phận này những thiết bị hiện đại như máy tính nối mạng Internet, dành một phần ngân sách vào việc mua sách báo thông tin về thị trường cũng như có quan hệ chặt chẽ với các cơ quan thông tin và các cơ quan lãnh đạo ngành có liên quan.
Ngoài ra, bản thân các công ty phải liên hệ với các tổ chức quốc tế có liên quan để tìm hiểu thị trường thế giới; với các cơ quan thương mại của Việt Nam cũng như của các nước khác ở nước ngoài để tìm hiểu thị trường ở từng nước một cách chi tiết. Cùng với các biện pháp khác, doanh nghiệp sản xuất cũng như doanh nghiệp xuất khẩu phải nắm vững được diễn biến thị trường để có kế hoạch sản xuất và xuất khẩu phù hợp.
2.3.3 Cải tiến phương thức bán hàng và đẩy mạnh công tác tiếp thị
Cần mở rộng các phương thức bán hàng theo yêu cầu của khách hàng kể cả các điều kiện vận chuyển khác để chiếm lĩnh khách hàng, chiếm lĩnh thị trường. Một vài điều kiện ưu đãi có thể giúp doanh nghiệp có được những khách hàng lâu dài. Do vậy, cần phải tìm hiểu thâm nhập và liên kết với các công ty vận tải biển để bán hàng được thuận tiện hơn, đạt hiệu quả xuất khẩu cao hơn, tiến tới việc mua bán dài hạn để có thể tham gia vào các sở giao dịch nông sản lớn trên thế giới. Về lâu dài, doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu để các doanh nghiệp có thể bằng cách nào đó tham gia vào các giao dịch kỳ hạn, sử dụng các nghiệp vụ bảo hiểm như hedging, option để tự bảo hiểm, bù đắp rủi ro và tránh được những biến động thất thường của giá cả.
Song song với việc gắn chặt sản xuất với xuất khẩu để tạo điều kiện cho các sản phẩm xuất khẩu đáp ứng được thị hiếu của người mua, các nhà xuất khẩu cần phải tích cực công tác tìm kiếm thị trường, đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo cả trong và ngoài nước bằng mọi phương tiện như việc tham gia vào các hội chợ quốc tế.
2.3.4 Tham gia vào các thị trường giao dịch lớn trên thế giới
Nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày cũng như một số nhóm hàng nông sản khác mặc dù được giao dịch với khối lượng lớn trên thị trường thế giới nhưng chủ yếu không có ảnh hưởng lớn đến các sở giao dịch quốc tế. Và nhiều khi hàng hoá của chúng ta lại bị ép giá do những nhà đầu cơ có lượng vốn lớn lũng đoạn thị trường. Bởi vậy, các doanh nghiệp cũng như Nhà nước phải đi sâu hơn nữa trong mối quan hệ với các sở giao dịch hàng nông sản lớn.
Có một vấn đề rất quan trọng mà về lâu dài Nhà nước cần phải thực hiện, đó là mở những sàn giao dịch nông sản ở Việt Nam và thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm cho hàng nông sản. trước mắt, có thể nghiên cứu về nghiệp vụ bảo hiểm ở các trung tâm giao dịch lớn trên thế giới và tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các nghiệp vụ như hedging, option để tự bảo hiểm tránh những biến động thất thường của giá cả.
2.3 Đào tạo cán bộ làm công tác xuất khẩu
Như chúng ta đã biết, nguồn nhân lực là một nguồn lực rất quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có triển vọng tốt trước hết là phải có một đội ngũ quản lý tốt, những công nhân kỹ thuật lành nghề. Đó cũng chính là những yếu tố dẫn đến thành công của các doanh nghiệp. Vậy làm thế nào để có thể phát triển được nguồn nhân lực?
Doanh nghiệp cần phải tổ chức những khoá huấn luyện công nhân trước khi chính thức làm việc. Trong quá trình sản xuất, nên có những giám đốc kỹ thuật giám sát và hướng dẫn công nhân làm việc cho chuẩn xác và khoa học. Cũng nên có những hình thức khuyến khích lao động đạt năng suất cao hơn thông qua các chính sách của công ty như thưởng, cùng với việc khuyến khích khả năng sáng tạo của người lao động. Cần có một đội ngũ quản lý có trình độ cao trong công tác quản lý công ty, quản lý sản xuất cũng như tiêu thụ. Đối với những doanh nghiệp xuất khẩu thì cần thường xuyên tổ chức những lớp học trong và ngoài nước cho những người làm công tác xuất khẩu chuyên ngành để họ có thể cập nhật với cách buôn bán mới nhất của thế giới cũng như tình hình thị trương hiện tại và có thể học hỏi được nhiều từ những nước xuất khẩu chủ yếu của thế giới.
Để đạt được hiệu quả cao nhất trong sản xuất và xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày, Nhà nước, doanh nghiệp cũng như những người nông dân phải cùng phối hợp các biện pháp. Nhà nước xây dựng những chính sách khuyến khích, định hướng thị trường, tạo môi trường thuận lợi và những cam kết quốc tế. Doanh nghiệp có trách nhiệm đảm bảo việc sản xuất, chế biến và giữ vững thị trường tiêu thụ ổn định, giữ chữ tín của mặt hàng trên thị trường thế giới, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, chế biến trong khi người nông dân phải đảm bảo chất lượng sản phẩm của mình. Tuy mỗi biện pháp có nội dung và cách thực hiện khác nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ khăng khít và đòi hỏi phải phối hợp nhiều biện pháp mới đạt được kết quả mong muốn.
Kết luận
Phát triển cây công nghiệp dài ngày xuất khẩu đang là vấn đề bức xúc không chỉ ở riêng Việt Nam mà còn là vấn đề quan tâm của toàn thế giới. Nhiều chính sách cũng như chiến lược phát triển của nhóm hàng thể hiện sự quan tâm đối với nhóm hàng của Nhà nước. Song phát triển cây công nghiệp dài ngày để chúng thực sự trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, thể hiện thế mạnh và vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế đòi hỏi phải có sự suy ngẫm, đánh giá của mỗi doanh nghiệp và các cơ quan quản lý. Phải biết thừa nhận những tồn tại, những điểm yếu và tìm ra những biện pháp khắc phục. Nếu chối bỏ, né tránh tức là đã thừa nhận thất bại.
Từ nghiên cứu thực tiễn hoạt động sản xuất và xuất khẩu của nhóm hàng, đặc biệt là việc đi sâu tìm hiểu về 3 mặt hàng chủ yếu của nhóm hàng trong những mặt hàng chủ lực, cho thấy một số kết quả đạt được của nhóm hàng như sau:
Các chỉ tiêu về sản xuất và xuất khẩu đều tăng (sản lượng, diện tích, năng suất, sản lượng và giá trị xuất khẩu).
Sản xuất đã có xu hướng đi sâu vào chuyên môn hoá, hình thành nhiều khu chuyên canh, đã có sự đầu tư thích hợp vào sản xuất.
Cơ chế xuất khẩu đã có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng tỷ trọng sản phẩm chế biến xuất khẩu ngày càng tăng.
Thị trường xuất khẩu ngày càng đa phương hơn, giá cả ngày càng xích lại gần với giá cả thị trường thế giới.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại:
Hệ thống pháp luật và chính sách quản lý của Nhà nước nhiều giai đoạn còn chậm ban hành, chiếu sự đồng bộ. Do vậy gây phiền hà cho sản xuất và xuất khẩu.
Quan hệ giữa các doanh nghiệp với thị trường chưa chặt chẽ, các biện pháp Marketing chưa được sử dụng triệt để, hữu hiệu. Do vậy, giá cả, quy cách phẩm chất chưa phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới.
Công tác hoạch định và đầu tư còn cầm chừng, chưa được coi trọng. Cung cách làm ăn của nhiều nơi chưa thoát khỏi cách làm ăn của một nền sản xuất nhỏ. Do vậy, lượng hàng xuất khẩu còn nhỏ, manh mún, còn xảy ra hiện tượng tranh mua tranh bán, hiệu quả xuất khẩu chưa cao.
Để nâng cao hơn hiệu quả sản xuất và xuất khẩu, cần kết hợp thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ, gồm:
Nhà nước cải tiến, bổ xung kịp thời những biện pháp kích thích làm đòn bẩy đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu ở tầm vĩ mô. Đồng thời tăng cường các biện pháp quản lý như quy hoạch vùng đất trồng, gắn lưu thông nội địa và xuất khẩu với sản xuất, chính sách chuyển dịch cơ cấu thị trường, tham gia vào cộng đồng thương mại Quốc tế và đổi mới hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu.
Doanh nghiệp và người lao động quan tâm đến những biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá như chất lượng giống, công tác thu hoạch, thu mua và bảo quản, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, cũng như các biện pháp về thị trường như tìm kiếm thị trường mới, ổn định thị trường truyền thống, cải tiến phương thức bán hàng.
Chắc chắn rằng, nếu các biện pháp trên được thực hiện một cách đồng bộ, kịp thời sẽ góp phần không nhỏ vào việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng của nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày nói riêng cũng như các mặt hàng xuất khẩu nói chung của Việt Nam.
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I: Vị trí, vai trò nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày trong xuất khẩu của Việt Nam. 4
Vị trí, vai trò của xuất khẩu 4
Ngoại thương và lợi ích của Ngoại thương 4
Khái niệm xuất khẩu 7
Vai trò của xuất khẩu 8
Vị trí, vai trò của nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày trong xuất khẩu của Việt Nam 12
Vai trò của nhóm hàng trong xuất khẩu 12
Các quan điểm phát triển nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày 14
2.1 Quan điểm sản xuất hàng xuất khẩu 15
2.2. Quan điểm về hiệu quả kinh tế 15
2.3. Quan điểm về hiệu quả xã hội 16
2.4. Quan điểm về bảo vệ môi trường sinh thái 16
2.5. Quan điểm về thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài 16
2.6. Quan điểm về mở rộng thị trường 17
2.7. Quan điểm sử dụng tổng hợp và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên và cơ sở hạn tầng kinh tế đã có 17
2.8. Quan điểm phát triển sản xuất phải kết hợp với định canh, định cư, phân bố lại dân cư và lao động, xây dựng các vùng kinh tế mới 18
Chương II: Thực trạng tình hình xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày 19
Tổng quan về tình hình xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày 19
Quy mô và tốc độ tăng trưởng 19
Cơ cấu mặt hàng 21
Cơ cấu thị trường 22
Hình thức xuất khẩu 23
Thực trạng xuất khẩu một số mặt hàng cây công nghiệp dài ngày chủ yếu 24
Cây cà phê 24
Tổng quan tình hình cà phê thế giới 24
Tình hình sản xuất 24
Tình hình xuất khẩu 25
Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam. 26
Tình hình sản xuất 26
Tình hình xuất khẩu 29
Cây cao su 32
2.1 Tổng quan tình hình cao su thế giới 32
2.1.1 Tình hình sản xuất 32
2.1.2 Tình hình xuất khẩu 34
2.2 Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam. 34
2.2.1 Tình hình sản xuất 35
2.2.2 Tình hình xuất khẩu 37
Cây điều 41
Tổng quan tình hình cà phê thế giới 41
Tình hình sản xuất 41
Tình hình xuất khẩu 42
Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam 43
Tình hình sản xuất 43
Tình hình xuất khẩu 47
Đánh giá về tình hình xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày giai đoạn 1990-2000. 50
Về cơ chế, chính sách của Nhà nước 50
Đối với sản xuất 50
Đối với công nghiệp chế biến 51
Đối với tiêu thụ 51
Chính sách của doanh nghiệp 52
Một số tồn tại, khó khăn và những vấn đề mới cần được giải quyết 53
3.1 Về sản xuất 53
Về chế biến 54
Về tiêu thụ 55
Cơ chế chính sách và tổ chức 56
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày 58
Triển vọng của nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày 58
Những căn cứ định hướng 58
Căn cứ vào tiềm năng sản xuất trong nước 58
Căn cứ vào thị trường thế giới 59
Căn cứ vào hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội 59
Định hướng sản xuất và xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày 60
2.1 Định hướng sản xuất và xuất khẩu của cả nhóm hàng 60
2.2 Định hướng sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu 62
Định hướng sản xuất và xuất khẩu cà phê 62
Định hướng sản xuất và xuất khẩu cao su 63
Định hướng sản xuất và xuất khẩu điều 64
Một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày 64
Nhóm các biện pháp vĩ mô 64
Nhóm biện pháp hỗ trợ về mặt hàng 64
Nhóm biện pháp hỗ trợ về tài chính-tín dụng 68
Nhóm biện pháp hỗ trợ về thị trường 71
Nhóm biện pháp hoàn thiện cơ chế quản lý, ổn định môi trường pháp lý 72
Nhóm các biện pháp vi mô 73
2.1. Nhóm biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm 73
2.2. Nhóm biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp 75
2.3. Nhóm biện pháp về thị trường 76
2.3.1 Mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng cường hợp tác quốc tế 76
2.3.2 Xử lý thông tin về thị trường thế giới 76
2.3.3 Cải tiến phương thức bán hàng và đẩy mạnh công tác tiếp thị 77
2.3.4 Tham gia vào các thị trường giao dịch lớn trên thế giới 77
2.4. Đào tạo cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu 78
Kết luận 79
Tài liệu tham khảo
Giáo trình “Kinh tế Ngoại thương”, GS.TS.NGƯT. Bùi Xuân Lưu, Trường Đại học Ngoại Thương Hà nội, 1995.
Báo cáo Hội nghị phát triển Điều đến năm 2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bình Thuận, tháng 3/2000.
Báo cáo của Hiệp hội cây điều Việt Nam về việc triển khai quyết định số 120 của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược phát triển cây điều đến năm 2010, tháng 3/2000.
Quyết định số 120/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược phát triển cây điều đến năm 2010, ngày 07 tháng 5 năm 1999
Báo cáo thường niên của Tổ chức nghiên cứu cao su thế giới
Thời báo kinh tế từ tháng 1/1999 đến tháng 7/2000.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0548.doc