MỤC LỤC
BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT
NH : Ngân hàng.
NHNN : Ngân hàng nhà nước.
BIDV HT : Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Thành.
L/C : Tín dụng chứng từ.
NHPH : Ngân hàng phát hành.
NHXN : Ngân hàng xác nhận.
NHTB : Ngân hàng thông báo.
NHCĐ : Ngân hàng chỉ định.
TTQT : Thanh toán quốc tế.
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1:Quy trình tiến hành nghiệp vụ.
Bảng 2.1. Kim ngạch xuất khẩu qua BIDV HT từ 2006 đến 2008.
Bảng 2.2. Kim ngạch thanh toán nhập khẩu qua BIDV HT từ
2
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2002 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Hà Thành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
006 đến 2008.
Bảng 2.3. Cơ cấu phương thức thanh toán TDCT qua BIDV HT
năm 2006-2008 .
Bảng 2.4. Báo cáo 6 tháng đầu năm 2008 về tình hình TTQT tại BIDV Hà Thành.
Bảng 2.5. Kết quả hoạt động TTQT 06 tháng đầu năm 2008 với cùng kì 2007 tại BIDV HT.
Bảng 2.6. Chi phí do không thu hồi được vốn đúng hay và các chi phí phát sinh khác có liên quan tại BIDV HT.
Bảng 2.7. Tỉ lệ nợ quá hạn trong thanh toán L/C tại BIDV HT .
Bảng 2.8. Tổn thất trong thanh toán L/C tại BIDV HT.
Bảng 2.9/2.10. Thực trạng hạn chế rủi ro tại BIDV HT.
Bảng 2.11.Danh sách các khách hàng thường xuyên hoạt động tại BIDV Hà Thành.
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu hướng phát triển kinh tế hiện nay, các quan hệ kinh tế diễn ra hết sức sôi động, kéo theo đó là sự đa dạng, phức tạp của chu chuyển hàng hóa quốc tế. Đồng thời với nó là sự vận động của các dòng tiền trong thanh toán. Quá trình thanh toán có vai trò quan trọng đối với các hoạt động của các doanh nghiệp và cá nhân. Hoạt động thanh toán quốc tế diễn ra trên thị trường rộng, phức tạp bởi khoảng cách giữa người mua và người bán, bởi thông lệ của mỗi quốc gia và sự khác biệt trong đồng tiền thanh toán. Phần lớn, các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân đều không thể độc lập thực hiện được các hình thước thanh toán quốc tế. Do vậy, đã xuất hiện nhu cầu thanh toán đc thực hiện qua các ngân hàng. NHTM là một thành viên thực hiện việc thanh toán góp phần thúc đẩy cho sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế. Ngân hàng tài trợ cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cung cấp dịch vụ thanh toán và dịch vụ mua bán ngoại tệ, đảm bảo cho hoạt động xuất nhập khẩu được thông suốt, an toàn, hiệu quả.
Mặt khác, nghiệp vụ thanh toán quốc tế đối với các NHTM Việt Nam là nghiệp vụ quan trọng nhất trong các nghiệp vụ ngoại bảng và có tốc độ tặng trưởng mạnh mang lại cho ngân hàng khoản thu phí ngày một lớn. Thanh toán quốc tế quyết định sự phát triển của hoạt động ngoại thương, là cầu nối cho hoạt động xuất nhập khẩu được diễn ra suôn sẻ và thuận lợi.
Tuy nhiên, thanh toán quốc tế là hoạt động phức tạp, bởi các chủ thể tham gia có sự cách biệt về biên giới cũng như chế độ chính trị, kinh tế, xã hội. Do đó, các bên tham gia luôn quan tâm tới việc tìm ra phương thức thanh toán quốc tế có hiệu quả nhất đồng thời thực hiện các biện phát hạn chế rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế.
CHƯƠNG 1: RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ.
1.1. Tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán quốc tế tại NHTM.
1.1.1. Các phương thức thanh toán quốc tế:
1.1.1.1. Khái quát về NHTM:
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, NHTM luôn được là một trung gian tài chính quan trọng trong hệ thống tài chính và chiếm vị trí quan trọng nhất về qui mô tài sản và về thành phần các nghiệp vụ. Hoạt động chủ yếu của NHTM là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Thông qua NHTM, vốn nhàn rỗi từ người không có khả năng đầu tư tới tay người có nhu cầu, có khả năng đầu tư nhưng thiếu hay không có vốn. Với chức năng là một kênh dẫn vốn gián tiếp từ người tiết kiệm tới người đầu tư, NHTM đã khắc phục được những trở ngại về thiếu hụt thông tin, giảm chi phí giao dịch và đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển vốn. NHTM trở thành một trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia.
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Trên phương diện cung cấp các loại hình dịch vụ thì Ngân hàng là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục cái dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.
Đặc biệt trong dịch vụ thanh toán quốc tế, Với vai trò trung gian thanh toán, các ngân hàng tiến hành thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng trong giao dịch thanh toán, tư vấn, hướng dẫn khách hàng những biện pháp kĩ thuật nghiệp vụ thanh toán quốc tế nhằm hạn chế rủi ro, tạo sự tin tưởng cho khách hàng trong quan hệ giao dịch mua bán với nước ngoài. Mặt khác, trong qua trình thực hiện thanh toán quốc tế, khách hàng không đủ năng lực về vốn sẽ cần đến sự tài trợ của ngân hàng, ngân hàng sẽ thực hiện tài trợ xuất nhập khẩu cho khách hàng một cách chủ động và tích cực. Nhìn chung, ngân hàng là người cung cấp hoàn hảo các loại hình dịch vụ kĩ thuật và tài chính nhằm hỗ trợ cho các khách hàng thực hiện hoạt động thương mại quốc tế. Nếu không có hệ thống ngân hàng thương mại hiện đại như ngày nay thì hoạt động thương mại quốc tế không những không phát triển mà còn rất khó tồn tại theo đúng nghĩa của nó. Như vậy ngày nay hoạt động thương mại quốc tế luôn cần đến sự tham gia hỗ trợ về kĩ thuật nghiệp vụ và tài chính của ngân hàng. Ngân hàng cung cấp các phương án lựa chọn các phương thức thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khâủ, đảm bảo an toàn và quyền lợi cho cả 2 bên mua bán, thông qua đó thúc đẩy ngoại thương phát triển và mở rộng quan hệ với các quốc gia trên thế giớ
1.1.1.2. Các phương thức thanh toán quốc tế
Khái niệm: Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức ,cá nhân nước này với tổ chức,cá nhân nước khác,hay giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế ,thông qua quan hệ giữa ngân hàng của các nước liên quan.
Các phương thức thanh toán hiện nay bao gồm :
1- Phương thức ứng trước (Advanced payment ): là phương thức thanh toán trong đó khách hàng (Người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền.
2- Phương thức ghi sổ ( Open account): là phương thức mà nhà xuất khẩu mở một tài khoản để ghi nợ nhà nhập khẩu sau khi nhà xuất khẩu đã hoàn thành giao hàng hay dịch vụ, đến từng định kì nhà nhập khẩu trả tiền cho nhà xuất khẩu.
3- Phương thức chuyển tiền ( Remittance): là phương thức trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
4- Phương thức nhờ thu ( Collection of payment ): là phương thức thanh toán trong đó người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khác hàng ủy thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của người bán lập ra.
5- Phương thức tín dụng chứng từ ( Documentary credit).
1.1.2. Tín dụng chứng từ- một phương thức thanh toán quốc tế của NHTM:
Là phương thức thanh toán thông dụng nhất hiện nay, khối lương thanh toán ngày càng lớn. Trong phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng không chỉ là người trung gian thu hộ- chi hộ mà còn là người đại diên bên nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho bên xuất khẩu đảm bản cho bên xuất khẩu nhận được khoản tiền tương ứng với hàng hóa mà họ cung ứng, đồng thoài đảm bảo cho nhà nhập khẩu nhận được số lượng, chất lượng hàng hóa tương ứng số tiền mình phải thanh toán.
1.1.2.1. Nội dung cơ bản của tín dụng chứng từ (L/C):
Khái niệm: Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó một Ngân hàng (Ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (Người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (Người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho Ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định của thư tín dụng.
Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có:
- Người yêu cầu mở thư tín dụng là người nhập khẩu hoặc là người nhập khẩu uỷ thác cho một người khác.
- Ngân hàng phát hành thư tín dụng là Ngân hàng của người nhập khẩu, nó cấp tín dụng cho người nhập khẩu.
- Người hưởng lợi thư tín dụng là người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định.
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng là Ngân hàng đại lý của Ngân hàng phát hành ở nước người hưởng lợi.
Sơ đồ 1:Quy trình tiến hành nghiệp vụ
Ngân hàng phát hành (Issuing bank)
Ngân hàng thông báo (Advising bank)
8
5
2
Chi nhánh NHPH (Applicant bank)
Người yêu cầu (Applicant)
Người hưởng lợi (Beneficiary)
1 6 7
8 5 3
1 6 7
4
(1). Gửi đơn yêu cầu phát hành thư tín dụng và tiến hành ký quỹ
(2). Phát hành LC qua Ngân hàng đại lý cho người xuất khẩu, hưởng lợi
(3). Ngân hàng thông báo tiến hành thông báo LC và chuyển bản gốc LC cho người hưởng lợi
(4). Giao hàng
(5). Xuất trình chứng từ đòi tiền Ngân hàng phát hành LC
(6). Ngân hàng phát hành thông báo kết quả kiểm tra chứng từ cho người yêu cầu
(7). Người yêu cầu chấp nhận hay từ chối thanh toán
(8). Ngân hàng phát hành thông báo chấp nhận hay từ chối nhận chứng từ.
Những nội dung chủ yếu của một thư tín dụng thương mại:
- Số hiệu chứng từ: Tất cả các L/C đều phải có số hiệu riêng của nó, nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc trao đổi thư từ, điện tín, hoặc để ghi vào các chứng từ liên quan trong bộ chứng từ thanh toán L/C.
- Địa điểm phát hành L/C: Là nơi NH mở L/C cam kết thanh toán tiền cho nhà XK. Địa điểm này có ý nghĩa quan trọng vì liên quan đến việc tham chiếu luật áp dụng giải quyết những tranh chấp về L/C.
- Ngày phát hành L/C là ngày:
NHPH chính thức thừa nhận đơn xin mở L/C của nhà nhập khẩu.
Ngày phát sinh sự cam kết của NHPH với nhà XK.
Bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C
Là mốc để nhà xuất khẩu kiểm tra xem người NK có mở L/C đúng hạn như quy định trong hợp đồng ngoại thương hay không.
Thông thường L/C được nhà nhập khẩu mở trước ngày giao hàng một thời gian nhất định, để nhà xuất khẩu có đủ thời gian cần thiết chuẩn bị hàng hóa gửi đi.
- Tên,địa chỉ của người liên quan đến L/C:
Các thương nhân: Người yêu cầu mở L/C, người thụ hưởng ( hoặc người thụ hưởng thứ nhất và người thụ hưởng thứ hai nếu là L/C chuyển nhượng).
Các ngân hàng: NHPH, NHXN, NHTB,…
Các cơ quan, tổ chức: là người cung cấp các chứng từ lien quan như: Bộ thương mại, Phòng thương mại và công nghiệp, cơ quan hải quan, tổ chức kiểm định hàng hóa, công ty bảo hiểm…
- Số tiền của L/C:
số tiền của L/C vừa được ghi bằng số vừa được ghi bằng chữ và phải thống nhất với nhau.
Nếu số tiền bằng số khác với số tiền bằng chữ thì người thụ hưởng phải làm thủ tục sửa đổi L/C.
Gắn liền với số tiền là đơn vị tiền tệ rõ ràng ( nên tham chiếu tiêu chuẩn ISO về ký hiệu tiền tệ).
- Thời hạn hiệu lực của L/C:
Là thời hạn mà NHPH cam kết trả tiền cho nhà XK nếu nhà XK xuất trình bộ chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với nhũng điều quy định trong L/C.
Thời hạn L/C được tính từ ngày mở L/C (Date of Issue) đến ngày hết hiệu lực của L/C (Expiry Date).
Việc xác định thời hạn hiệu lực của L/C phải đảm bảo các nguyên tắc sau :
Ngày giao hàng phải nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C và không được trùng với ngày hết hạn của L/C.
Ngày mở L/C phải trước ngày giao hàng một thời gian hợp lý và không được trùng với ngày giao hàng. Thời gian hợp lý này được tính tối đa thiểu bằng tổng số ngày cần thiết để thông báo mở L/C, số ngày lưu L/C ở NHTB, số ngày chuẩn bị hàng để giao cho người nhập.
Ngày hết hạn hiệu lực của L/C phải sau ngày giao hàng một thời gian hợp lý. Thời gian này bao gồm số ngày chuyển chứng từ từ nơi giao hàng đến cơ quan của nhà XK, số ngày lập bộ chứng từ, số ngày lưu giữ chứng từ tại NHTB, số ngày vận chuyển chứng từ đến NHPH (hay NH trả tiền).
- Thời hạn trả tiền của L/C:
Liên quan đến việc trả tiền ngay hay trả chậm, điều này hoàn toàn phụ thuộc vào ngày quy định trong hợp đồng ngoại thương.
Nếu trả tiền ngay (L/C at sight) thì điều khoản về ký phát hối phiếu của L/C sẽ là “ available against presentation of your draft at sight on…” thời hạn trả tiền ngay phải nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C.
Nếu trả tiền có kỳ hạn, tức L/C trả chậm (Usance / Deferred L/C) thì thời hạn trả tiền có thể nằm ngoài thời hạn hiệu lực của L/C, nhưng điều quan trọng là những hối có kỳ hạn phải được xuất trình để chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của L/C.
- Ngày giao hàng: Căn cứ vào hợp đồng ngoại thương mà ngày giao hàng cũng được quy định trong L/C. Thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C.
Có nhiều cách quy định thời hạn giao hàng, như:
Ngày giao hàng chậm nhất.
Không được giao hàng trước một ngày nhất định.
Trong một khoảng thời gian nhất định…
- Những nội dung liên quan tới hàng hóa: Như tên hàng, số lượng, trong lượng, giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu.v.v. cũng được ghi vào L/C
- Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hóa
- Những chứng từ nhà xuất khẩu phải xuất trình: đây là nội dung then chố trong L/C vì là bằng chứng của nhà xuất khẩu chứng minh nghĩa vụ mình đã hoàn thành và làm đúng theo những điều qui định trong L/C.
Bản gốc thư tín dụng
Hóa đơn thương mại
Giấy tờ bảo hiểm
Vận đơn
Giấy chứng nhận kiểm định, giấy chứng nhận xuất xứ
Bản kê khai hàng hóa
Một số giấy tờ khác theo yêu cầu của nhà nhập khẩu.
Đặc điểm của phương thức tín dụng thương mại:
- Thư tín dụng thương mại là một công cụ quan trọng của phương thức tín dụng chứng từ.
Thư tín dụng L/C là một chứng thư (điện hay ấn chỉ), trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu họ xuất trình được một bộ chứng từ phù hợp với nội dung L/C.
- L/C là hợp đồng kinh tế độc lập chỉ của hai bên là NHPH và người thụ hưởng. Mọi yêu cầu và chỉ thị của người xin mở L/C là do NHPH đại diện.
- NH và các bên liên quan chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ, không dựa trên hàng hóa, dịch vụ. Về bản chất, L/C là một giao dịch hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Khi chứng từ xuất trình là phù hợp thì NHPH phải thanh toán vô điều kiện cho nhà xuất khẩu, mặc dù thực tế hàng hóa có thể không được giao hoặc được giao không hoàn toàn đúng như ghi trên chứng từ.
- Chứng từ được coi như không phù hợp với L/C nếu chứng từ mâu thuẫn với các điều khoản qui định của L/C hay các chứng từ mâu thuẫn với nhau.
- Sau khi nhận được chứng từ NHPH có một khoảng thời gian hợp lí không quá 5 ngày làm việc để kiểm tra và xác định tính phù hợp của chứng từ, nếu quá thời gian, NHPH không có quyền thông báo sai sót.
- NH không chịu trách nhiệm kiểm tra các chứng từ không qui định trong L/C.
- Nếu NH từ chối chứng từ thì phải thông báo trước lúc đóng cửa của ngày làm việc thứ 7.
- NH không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ do truyền tin, về lỗi chính tả phát sinh trong quá trình chuyển giao chứng từ.
Ưu điểm của L/C :
* Đối với người xuất khẩu
- Hoàn toàn được đảm bảo thanh toán khi bộ chứng từ xuất trình hoàn hảo
- Tránh được rủi ro không thanh toán do sự quản chế ngoại hối của nước người nhập khẩu, vì khi mở thư tín dụng, người nhập khẩu buộc phải có giấy phép chuyển ngoại tệ của cơ quan quản lý ngoại hối ở nước mình. Như vậy, người xuất khẩu sẽ được đảm bảo có nguồn thu nhập hợp pháp và rõ ràng
* Đối với người nhập khẩu
- Chất lượng của hàng hoá được đảm bảo hơn vì bị ràng buộc bởi điều kiện bộ chứng từ do người xuất khẩu lập phải phù hợp với thư tín dụng. Để có được bộ chứng từ hoàn hảo như vậy thì phải dựa trên cơ sở chất lượng hàng hoá thực tế phải tốt, pahỉ đúng như hai bên đã thoả thuận.
- Nhờ có sự tham gia của các ngân hàng mà người nhập khẩu có thể giảm bớt được rủi ro khi tham gia quan hệ với đối tác nước ngoài
* Đối với ngân hàng
Tham gia phương thức tín dụng chứng từ, các ngân hàng có điều kiện tạo lập và củng cố mối quan hệ của mình với các ngân hàng nước ngoài, từ đó có sơ hội phát triển, mở rộng mạng lưới chi nhánh của mình trên toàn thế giới. Điều này sẽ giúp ngân hàng đa dang hóa các loại sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng thông qua học hỏi, trao đổi kinh nghiệm hoạt động với các nước, từ đó thu hút ngày càng nhiều khách hàng. Nói một cách khái quát, qua phương thức này, ngân hàng còn thu được một lợi ích vô hình to lớn, đó là: uy tín và địa vị của ngân hàng trên thị trường tài chính tín dụng quốc tế.
Nhược điểm của L/C:
* Đối với nhà nhập khẩu:
- Việc thanh toán của NH cho người thụ hưởng chỉ căn cứ vào bộ chứng từ xuất trình mà không căn cứ vào việc kiểm tra hàng hóa, NH chỉ kiểm tra tính chân thật “bề ngoài ” của chứng từ mà không chịu trách nhiệm về tính chất “bên trong” của chứng từ cũng như chất lượng và số lượng hàng hóa, như vậy sẽ không có sự bảo đảm nào cho nhà nhập khẩu rằng hàng hóa sẽ được đảm bảo đúng như đơn đặt hàng, trong khi nhà nhập khẩu vẫn phải hoàn trả đầy đủ số tiền đã thanh toán cho NHPH.
- Những thay đổi trong hợp đồng ngoại thương giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu phải tiến hành thủ tục sửa đổi, bổ sung L/C làm kéo dài thời gian giao dịch, tăng chi phí.
- NHXN hay một NHCĐ mà do người nhập khẩu chỉ định mắc sai lầm trong thanh toán bộ chứng từ sai sót và đã ghi nợ NHPH thì NHPH có quyền truy đòi số tiền đã bị ghi nợ, trong một số trường hơp, NH mắc sai lầm do NHPH chỉ định thì nhà nhập khẩu vẫn phải chấp nhận điều khoản hoàn trả cho NHPH.
- Nhà NK chưa nhận được bộ chứng từ trong khi hàng đã cập cảng nên chưa thể nhận hàng, nếu nhà nhập khẩu cần hàng gấp thì phải trả một khoản phí cho NH để được bảo lãnh nhận hàng. Nếu để hàng quá lâu thì có thể gây hư hại cho hàng hóa hoặc nếu nhận hàng chậm thì có thể phải bồi thường cho việc giữ tàu quá hạn.
- Nếu không quy định “bộ vận đơn đầy đủ ” thì một người khác có thể lấy được hàng hóa khi chỉ cần xuất trình một phần của bộ vận đơn, trong khi người trả tiền lại là nhà nhập khẩu .
* Đối với nhà xuất khẩu :
- Những thay đổi trong hợp đồng ngoại thương giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu phải tiến hành thủ tục sửa đổi, bổ sung L/C.
- Nếu nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ không phù hợp với L/C thì mọi khoản thanh toán/chấp nhận có thể đều bị từ chối, và nhà xuất khẩu phải tự xử lý hàng hóa (dỡ hàng, lưu kho, tìm người mua mới,…) hoặc chịu các chi phí như lưu tàu quá hạn, phí lưu kho, mua bảo hiểm cho hàng hóa… trong khi chờ đợi động thái từ phía nhà nhập khẩu .
- Trường hợp L/C không có xác nhận, nếu NHPH mất khả năng thanh toán thì dù bộ chứng từ xuất trình là hoàn hảo thì nhà xuất khẩu cũng không được thanh toán, hoặc NH chấp nhận hối phiếu kỳ hạn bị phá sản trước khi hối phiếu đến hạn thì hối phiếu cũng không được trả tiền.
- Nếu nhà xuất khẩu nhận được một L/C trực tiếp từ NHPH (không gửi qua NHTB) thì đó có thể là một L/C giả.
* Đối với NHPH:
- NHPH phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo quy định của L/C ngay cả trong trường hợp nhà nhập khẩu chủ tâm không hoàn trả hoặc không cá khả năng hoàn trả.
- NHPH cần xem xét xem liệu NH có thu lại được một phần hay toàn bộ số tiền đã thanh toán từ việc bán hàng nếu nhà nhập khẩu bị phá sản.
- L/C không có xác nhận thi NHCĐ có thể yêu cầu NHPH chấp nhận thanh toán cho người thụ hưởng mà chưa nhìn thấy bộ chứng từ, nên NHPH sẽ gặp rủi ro nếu bộ chứng từ có sai sót mà vẫn thanh toán khi chưa có sự nhất trí của nhà nhập khẩu .
- NHPH chấp nhận thanh toán hối phiếu mà không có sự kiểm tra một cách thích đáng bộ chứng từ, để bộ chứng từ có lỗi, nhà nhập khẩu không chấp nhận thanh toán thì không thể đòi tiền nhà nhập khẩu.
- Nếu L/C yêu cầu chứng từ bảo hiểm thì trong hợp đồng mua bán phải quy định điều kiện cơ sở giao hàng là CIF, CIP,…thì mọi rủi ro được bảo hiểm, nếu L/C không yêu cầu chứng từ bảo hiểm thì NH phải chắc chắn rằng người mở L/C đã mua bảo hiểm cho hàng hóa.
- L/C phải yêu cầu xuất trình Giấy kiểm định của bên thứ ba. Khi L/C quy định như vậy và giấy kiểm định được xuất trình phù hợp, hàm ý hàng hóa đạt được tiêu chuẩn yêu cầu, nếu giấy kiểm định không được xuất trình, thì NHPH được miễn trách và được từ chối trả tiền bởi vì chứng từ có sai sót.
- Nếu L/C quy định vận đơn hàng không, thì NHPH phải quyết định xem có muốn ghi tên mình là người nhận hàng hay không, nếu NH muốn kiểm soát hàng hóa thì L/C phải quy định người nhận hàng là NH phát hành.
- NH xem xét chứng từ chứ không phải xem xét hàng hóa, nhưng vì hàng hóa có giá trị như là vật bảo đảm và mức độ rủi ro tùy thuộc vào ai là người kiểm soát hàng hóa, việc sở hữu hàng hóa được chuyển nhượng bằng cách chuyển giao chứng từ sở hữu hàng hóa. Nếu hàng hóa được chuyên chở bằng đường biển và NHPH muốn duy trì việc kiểm soát hàng hóa thi NHPH phải yêu cầu trọn bộ chứng từ vận đơn sạch, đã bốc hàng kên tàu, ký phát theo lệnh, và ký hậu để trống.
* Đối với NH thông báo/chỉ định/xác nhận:
- Đối với NHTB: NHTB chịu trách nhiệm phải có sự “quan tâm hợp lý ” để đảm bảo rằng L/C là chân thật, bao gồm cả việc xác minh chữ ký, khóa mã, mẫu điện trước khi gửi thông báo cho nhà XK, do đó, nếu kiểm tra không chính xác và đưa ra những quyết định sai lầm thì NHTB phải chịu trách nhiệm về sai phạm của mình.
- Đối với NHCĐ: Trừ khi là NHXN, NHCĐ không có một trách nhiệm nào phải thanh toán cho người XK trước khi nhận được tiền từ NHPH, tuy nhiên trong thực tế, trên cơ sở bộ chứng từ xuất trình, các NHCĐ thường ứng trước cho nhà XK với điều kiện truy đòi (with recourse) để trợ giúp cho nhà XK, do đó NH này phải chịu rủi ro tín dụng đối với NHPH hoặc nhà XK.
- Đối với NHXN:
+ Nếu bộ chứng từ là hoàn hảo thi NHXN phải trả tiền cho người XK bất luận là có truy hoàn được tiền từ NHPH hay không, như vậy NHXN chịu rủi ro tín dụng đối với NHPH cũng như rủi ro cơ chế của nước NHPH.
+ Nếu NHXN trả tiền hay chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn mà không có sự kiểm tra một cách thích đáng bộ chứng từ, để bộ chứng từ có lỗi, NHPH không chấp nhận thì không thể đòi tiền NHPH.
1.1.2.2. Các loại L/C:
- Thư tín dụng không thể huỷ bỏ (Irrevocable LC): là loại thư tín dụng sau khi đã được phát hành thì ngân hàng phát hành LC không được sửa đổi, bổ sùn hay huỷ bỏ toàn bộ hay từng phần nội dung trong thời hạn hiệu lực của nó. LC không thể huỷ bỏ là một sự cam kết trả tiền chắc chắn của Ngân hàng phát hành đối với người hưởng lợi LC. Vì vậy, LC này được áp dụng rất phổ biến trong thanh toán quốc tế.
- LC có thể huỷ bỏ (Revocable LC): là loại LC mà sau khi được phát hành thì Ngân hàng phát hành có quyền sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ nó mà không cần có sự đồng ý của người hưởng lợi LC. LC loại này là một lời hứa trả tiền không chắc chắn cho người hưởng lợi. Do đó, nó ít được giới thương gia sử dụng.
- Thư tín dụng xác nhận (Confirmed LC): là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ được một Ngân hàng khác xác nhận trả tiền theo yêu cầu của Ngân hàng phát hành LC. LC loại này đã được 2 Ngân hàng cùng cam kết trả tiền cho người hưởng lợi, do vậy, độ an toàn trong thanh toán của nó rất cao.
Trong đa số trường hợp, trách nhiệm của Ngân hàng xác nhận giống như Ngân hàng phát hành LC, do đó Ngân hàng phát hành LC phải trả thủ tục phí xác nhận, có khi còn phải đặt cọc tiền với 100% trị giá LC tại Ngân hàng xác nhận (full cash cover).
Ngân hàng xác nhận là một Ngân hàng khác, Ngân hàng này có thể ở nước thứ 3, cũng có thể là Ngân hàng khác ở nước người hưởng lợi LC, trong nhiều trường hợp có thể ngay là Ngân hàng thông báo LC.
Muốn tu chỉnh LC xác nhận đều phải có sự đồng thuận của Ngân hàng xác nhận thì sự tu chỉnh mới có giá trị thực hiện.
- Thư tín dụng miễn truy đòi (Irrevocable without recourse LC): là loại LC mà sau khi người hưởng lợi đã được trả tiền thì Ngân hàng phát hành LC không còn quyền đòi lại tiền người hưởng lợi LC trong bất cứ trường hợp nào.
Khi dùng loại LC này, người hưởng lợi phải ghi lên hối phiếu câu “Miễn truy đòi lại người ký phát” (Without recourse to drawer) và trong LC cũng phải ghi như vậy. LC miễn truy đòi cũng được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế.
- Thư tín dụng chuyển nhượng (Transferable LC): là thư tín dụng trong đó qui định quyền của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu Ngân hàng phát hành LC, hoặc là Ngân hàng chỉ định chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện LC cho một hay nhiều người khác.LC chuyển nhượng chỉ được chuyển nhượng một lần. Chi phí chuyển nhượng là do người hưởng lợi đầu tiên chịu.
- Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving LC): là loại LC không thể huỷ bỏ sau khi sử dụng xong thì nó lại tự động có giá trị như cũ và cứ như vậy nó cứ tuần hoàn cho đến khi nào tổng giá trị hợp đồng được thực hiện.
- Thư tín dụng giáp lưng (Back to back LC): Người hưởng lợi một LC dùng LC này như một tài sản thế chấp để yêu cầu phát hành một LC khác cho người hưởng lợi khác hưởng, LC phát hành sau gọi là LC giáp lưng.
- Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal LC): là loại thư tín dụng chỉ bắt đầu có hiệu lực khi thư tín dụng kia đối ứng với nó đã mở ra. Trong LC ban đầu thường phải ghi: “LC này chỉ có giá trị khi người hưởng lợi đã mở một LC khác đối ứng với nó để cho người mở LC này hưởng” và trong LC đối ứng phải ghi câu “ LC này đối ứng với LC số…mở ngày…qua Ngân hàng…”. Thư tín dụng đối ứng thường được sủ dụng trong phương thức mau bán hàng đổi hàng (barter), ngoài ra không ngoại trừ khả năng dùng trong phương thức gia công xuất khẩu. Tuy nhiên, việc sử dụng trong gia công có nhiều phức tạp.
- Thư tín dụng thanh toán trả chậm (Deferred payment LC): là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó Ngân hàng phát hành LC hay là Ngân hàng xác nhận LC cam kết với người hưởng lợi sẽ thanh toán dần dần toàn bộ số tiền của LC trong những thời hạn qui định rõ trong LC đó. Đây là một loại LC trả chậm từng phần.
- LC điều khoản đỏ (Red clause LC): là loại LC ứng trước một phần tiền cho người hưởng lợi LC trước khi giao hàng. Ngân hàng phát hành LC điều khoản đỏ quy định, người hưởng lợi LC trước ngày giao hàng x ngày được quyền ký phát một hối phiếu đòi tiền Ngân hàngphát hành kèm với một LG của Ngân hàng cam kết hoàn trả tiền ứng trước nếu không thực hiện LC điều khoản đỏ, hoặc một LC dự phòng hoặc một kỳ phiếu có ký bảo lãnh của Ngân hàng.
Tên của LC điều khoản đỏ có thể khác nhau, nhưng cùng một nội dung như trên. VD: Advance LC, Anticipatory LC….Gọi là “Red clause LC” bởi vì trong nội dung LC có một điều khoản ứng trước tiền in bằng mực đỏ. Ngày nay, người ta thay điều khoản in bằng mực đỏ bằng dòng chữ in nghiêng và đậm.
1.2. Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ :
Khái niệm:
Theo nghĩa chung, rủi ro là khả năng một sự kiện không mong muốn, không thuận lợi có thể xảy ra dẫn tới sự mất mát hoặc hư hỏng.
Trong thanh toán L/C, rủi ro xảy ra khi quyền lợi của một hoặc các bên tham gia bị vi phạm, rủi ro không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là việc chứng từ không được thanh toán mà còn phải được hiểu theo nghĩa rộng của nó là bất kì một sự khúc mắc, chậm trễ nào trong các khâu của quá trình thanh toán.
Rủi ro trong thanh toán bằng L/C có thể xảy ra đối với các bên: xuất khẩu, nhập khẩu, các ngân hàng liên quan.
1.2.1. Rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là những rủi ro về mất khả năng thanh toán của một trong các bên tham gia phương thức L/C.
Có thể có các khả năng dẫn tới rủi ro tín dụng:
1.2.1.1. Rủi ro tín dụng từ phía nhà nhập khẩu
L/C là một cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành L/C đối với người bán,thực chất là ngân hàng đã dùng uy tín của mình để thay mặt nhà nhập khẩu cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu khi họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trong L/C . Nếu L/C được kí quĩ 100% thì sẽ không xảy ra rủi ro cho các bên liên quan, song phần lớn các ngân hàng phát hành L/C đều thực hiện tài trợ cho nhà nhập khẩu dưới hai hình thức hoặc cho mượn uy tín (tức là chỉ yêu cầu khách hàng kí quĩ một phần giá trị của L/C , đến hạn thanh toán mới phải nộp đủ tiền vào ngân hàng) và cho vay để nhập khẩu. Nếu nhà nhập khẩu bị mất khả năng thanh toán thì sẽ gây rủi ro cho ngân hàng phát hành, đây chính là những rủi ro tín dụng của nhà nhập khẩu.
1.2.1.2. Rủi ro tín dụng từ phía nhà xuất khẩu
Rủi ro này thường xảy ra đối với ngân hàng chiết khấu.
Có hai loại chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu là chiết khấu miễn truy đòi và chiết khấu có bảo lưu quyền truy đòi. Khi ngân hàng phát hành từ chối thanh toán hoặc mất khả năng thanh toán thì ngân hàng chiết khấu có quyền truy đòi lại nhà xuất khẩu số tiền họ đã thanh toán. Tuy nhiên, nếu nhà xuất khẩu không còn khả năng hoàn lại số tiền đó thì ngân hàng chiết khấu đã gặp rủi ro, đó chính là rủi ro tín dụng của nhà nhập khẩu.
1.2.1.3. Rủi ro tín dụng từ phía ngân hàng phát hành
Nếu ngân hàng phát hành mất khả năng thanh toán hay đóng cửa hay vỡ nợ… thì cũng dẫn đến rủi ro cho nhà xuất khẩu và ngân hàng chiết khấu. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào mức độ tín nhiện của ngân hàng phát hành, vì vậy nhà xuất khẩu nên yêu cầu nhà nhập khẩu chọn những ngân hàng thương mại lớn, có uy tín để phát hành L/C.
1.2.2. Rủi ro đạo đức:
Rủi ro đạo đức là những rủi ro xảy ra khi một bên tham gia cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, gây thiệt hại tới quyền lợi của người khác. Đạo đức hay còn được hiểu là tín nhiệm trong kinh doanh. Đây là vấn đề quan trọng trong buôn bán quốc tế, bởi vì các bên đối tác thường ở cách xa nhau, thậm chí không hề gặp nhau trong quá trình mua bán.
1.2.2.1. Rủi ro đạo đức của nhà xuất khẩu:
Khi nhà xuất khẩu cố ý giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, nhưng lại xuất trình được một bộ chứng từ hoàn hảo, phù hợp với các điều khoản và điều kiện của L/C hoặc nhà xuất khẩu lập chứng từ giả mạo (mà không giao hàng) thì ngân hàng buộc phải thanh toán cho người hưởng lợi, khi đó nhà nhập khẩu phải gánh chịu mọi rủi ro. Song, nếu ngân hàng phát hành là người tài trợ vốn (cho vay vốn) cho nhà nhập khẩu thì rủi ro của nhà nhập khẩu cũng là rủi ro của ngân hàng phát hành. Vì vậy, người mua phải có những biện pháp kiểm tra thông tin qua các hãng vận tải xem hàng hóa có thực sự đã được giao lên phương tiện vận tải hay không? Nếu phát hiện được những dấu hiệu của lừa đảo thì cần phải kết hợp với ngân hàng để có được những biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Ngoài ra,có thể do giá cả hàng hóa trên thị trường quốc tế tăng lên, người bán không muốn giao hàng cho người mua nữa nên mặc dù L/C đã được mở nhưng không có giá trị thanh toán. Điều này sẽ gây thiệt hại cho người mua vì đã phá vỡ kế hoạch sản xuất kinh doanh của họ.
Tất cả những vi phạm trên của nhà._. xuất khẩu đều được coi là những rủi ro đạo đức.
1.2.2.2. Rủi ro về đạo đức của nhà nhập khẩu
Rủi ro về đạo đức của nhà nhập khẩu có thể xảy ra nếu khách hàng nhập khẩu không phải là bạn hàng lâu năm, có tin nhiệm thì rất dễ có những hành vi lừa người bán xếp hàng lên tàu rồi trì hoãn hoặc từ chối thanh toán bằng những thủ đoạn nghiệp vụ bắt lỗi sai sót chứng từ, ép giá người bán để thu lợi cho mình. Trong nhiều trường hợp nhà nhập khẩu đành chịu bán lỗi còn hơn thuê tàu chở hàng quay về. Cũng có khi do giá cả hàng hóa nhập khẩu giảm, nhà nhập khẩu sợ thua lỗ không muốn nhận bộ chứng từ để đi lấy hàng hoặc trì hoãn thanh toán nên đã đẩy ngân hàng vào tình thế khó khăn. Đặc biệt trong nghiệp vụ L/C trả chậm, khách hàng nhập khẩu đã lợi dụng uy tín của ngân hàng để bảo lãnh cho họ nhập hàng trả chậm của nước ngoài, song tiền hàng bán được họ đã dùng vào việc khác chứ không nộp vào ngân hàng. Chính vì thế, người bán phải cùng với ngân hàng của mình kiểm tra tính chân thực của các L/C cũng như các bản sửa đổi để tránh gặp phải tình trạng những thư tín dụng giả mạo được phát hành bởi một ngân hàng "ma" không có thực.
1.2.2.3. Rủi ro đạo đức của nhà chuyên chở:
Rủi ro đạo đức của nhà chuyên chở là trường hợp người giao hàng cho nhà chuyên chở, nhưng bị họ lừa đảo, nhận hàng, lấy tiền cước rồi biến mất, hoặc có tìm thấy tàu nhưng hàng thì không còn. Khi đó ngân hàng vẫn phải có trách nhiệm thanh toán cho nhà xuất khẩu, còn việc kiện hãng tàu, chủ tàu hoặc đòi bồi thường của bảo hiểm là việc làm hoàn toàn tách rồi với L/C. Do các bên tham gia thường ở những nước khác nhau nên việc kiện tụng thường bị kéo dài, rất khó khăn và tốn kém.
1.2.2.4. Rủi ro đạo đức của ngân hàng:
Rủi ro đạo đức của ngân hàng là trường hợp ngân hàng phát hành cũng vi phạm những cam kết của mình như trì hoãn, hoặc từ chối thanh toán bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu. Đối với L/C được phép đòi tiền bằng điện, nếu ngân hàng chiết khấu không trung thực, bộ chứng từ có sai sót mà vẫn gửi điện cam kết rằng bộ chứng từ là hoàn hảo và đòi tiền ngân hàng phát hành, ngân hàng phát hành tin tưởng và thanh toán, như vậy sẽ rặp rủi ro.
Nhìn chung nguyên nhân sâu xa dẫn tới những rủi ro đạo đức là vấn đề thông tin không đầy đủ và thiếu chính xác. Chẳng hạn một bên không có những thông tin về khả năng tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh cũng như về uy tín và tính trung thực của phía bên kia, đồng thời lại bị họ cố tình che dấu hoặc lừa gạt,nên đã đưa ra những quyết định sai lầm gây ra rủi ro trong thanh toán.
Ngoài ra, do bản thân L/C chưa phải là một phương thức thanh toán quốc tế hoàn hảo, theo quy định của UCP, việc thanh toán quốc tế L/C chỉ căn cứ trên chứng từ mà không căn cứ vào thực trạng hàng hóa, sự tách biệt giữa hàng hóa và chứng từ trong thanh toán quốc tế tạo ra khe hở cho một số tổ chức, cá nhân tiến hành lừa đảo, vì thế rủi ro đạo đức vẫn tồn tại.
1.2.3. Rủi ro hàng hóa:
Rủi ro hàng hóa là những rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa trong quá trình vận chuyển.
Việc vận chuyển hàng hóa thường phải trả qua những quãng đường dài, hàng hóa có thể phải chuyển giao qua nhiều nước, nhiều hãng tàu hay bảo quản trong kho lâu ngày. Vì vậy hàng hóa có thể gặp phải những rủi ro như bị hỏng, mất mát hoặc không tới được nước người mua do gặp phải những bất trắc trên đường vận chuyển như đắm tàu, cướp biển, thiên tai hỏa hoạn… Khi đó người bán và người mua phải hiểu rõ quyền hợp pháp của mình để đòi hỏi những đền bù xứng đáng cho những thiệt hại trên đối với hãng tàu hay hãng bảo hiểm. Ngoài ra, ngân hàng phát hành L/C còn là người tài trợ cho nhà nhập khẩu và chịu trách nhiệm thanh toán nên họ phải quan tâm tới mặt an toàn của hàng hóa. Để giảm bớt những rủi ro mất mát và hư hỏng hàng hóa trong quá trình vận chuyển, ngân hàng phát hành L/C phải chắc chắn rằng hàng hóa đã được bảo hiểm một cách tốt nhất (tức là mua theo giá CIF/CIP).
1.2.4. Rủi ro quốc gia:
Rủi ro quốc gia là những rủi ro về chính trị, kinh tế, chính sách của một quốc gia khiến cho nhà xuất khẩu không nhận được tiền hàng và nhà nhập khẩu không nhận được hàng hóa. Chính vì vậy việc phân tích rủi ro quốc gia trở thành một bộ phận vô cùng quan trọng trong thương mại quốc tế. Nguyên nhân chính gây nên rủi ro quốc gia là những biến động về hệ thống chính trị- kinh tế của quốc gia đó.
Những biến động này như: chiến tranh, nổi loạn, đảo chính và các biến cố chính trị xã hội khác. Do thay đổi về thể chế chính trị, chính phủ mới ở các nước nhập khẩu có thể từ chối các cam kết thanh toán quốc tế, hoặc do chiến tranh, cách mạng bạo động, đình công nổ ra đã gây cản trở cho việc giao nhận hàng và thanh toán qua ngân hàng của các doanh nghiệp.
Bên cạnh những biến động về chính trị, chúng ta cũng cần phải quan tâm tới những nhân tố ảnh hưởng tới tình hình kinh tế của một quốc gia, ví dụ như:
- Nợ nước ngoài: nếu nước nhập khẩu bị rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất, không có khả năng trả nợ và chính phủ tuyên bố vỡ nợ hoặc hoãn thanh toán các khoản nợ nước ngoài thì sẽ đẩy các ngân hàng vào tình thế không thanh toán được các khoản ngoại tệ cho nước ngoài.
- Dự trữ ngoại hối và cán cân thanh toán của một quốc gia: nếu dự trữ ngoại hối quá ít hoặc cán cân thanh toán bị thâm hụt, chính phủ nước nhập khẩu có thể dùng các biện pháp cấp bách để dừng thanh toán với nước ngoài.
- Sự cấm vận kinh tế: khi một nước bị cấm vận kinh tế thì mọi hoạt động thương mại quốc tế và các khoản NOSTRO của nước đó ở nước ngoài sẽ bị kiểm soát gắt gao, thậm chí bị phong tỏa nên ngân hàng không thể thanh toán tiền hàng cho nước ngoài.
- Chính sách quản lí ngoại hối của nước nhập khẩu: đó là các chính sách kiểm soát ngoại hối, việc cấp giấy phép sử dụng và chuyển ngoại tệ ra nước ngoài… Nếu chính phủ của nước nhập khẩu đột ngột áp dụng chính sách ngoại hối thắt chặt hoặc cấm vận trong thanh toán quốc tế thì gây ra rủi ro cho nhà xuất khẩu và ngân hàng của họ.
- Chính sách thương mại và các quy định về xuất nhập khẩu của các quốc gia: đôi khi việc thay đổi các chính sách, những quy định này sẽ tạo nên những biến cố gây thiệt hại cho các bên tham gia.
1.2.5. Rủi ro pháp lý:
Rủi ro pháp lý xảy ra khi có sự vận dụng không đồng nhất giữa các nguồn luật điều chỉnh L/C ngoài UCP 600. Như chúng ta biết thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức L/C được các ngân hàng trên thế giới thực hiện trên cơ sở UCP 600. Nhưng ở từng quốc gia, giao dịch này còn bị điều chỉnh và chi phối bởi hệ thống pháp luật quốc gia. UCP và luật pháp quốc gia tạo thành hành lang pháp lý cho giao dịch L/C của các ngân hàng thương mại thế giới. Tuy nhiên mức độ vận dụng UCP vào thực tiễn của từng nước lại có nhiều sự khác biệt, phụ thuộc vào hệ thống pháp luật của quốc gia đó. Mặc dù luật quốc gia thường tôn trọng và ít có mâu thuẫn với thông lệ quốc tế, tuy nhiên không thể tránh hoàn toàn được việc không xảy ra sự khác biệt, đối đầu với UCP.
1.2.6. Rủi ro ngoại hối:
Rủi ro ngoại hối là những rủi ro xảy ra khi việc thanh toán quốc tế được ấn định bằng đồng tiền nước ngoài. Khi tỉ giá ngoại tệ biến động sẽ gây nên sự có lợi cho phía bên này và thiệt hại cho phía còn lại. Cụ thể hơn, khi ngoại tệ lên giá sẽ có lợi cho nhà xuất khẩu và ngược lại, nếu ngoại tệ giảm giá thì sẽ có lợi nhà nhập khẩu.
Sự biến động tỉ giá này phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như: tốc độ lạm phát, lãi suất, cán cân thanh toán, nợ nước ngoài, cung cầu ngoại tệ, chính sách điều hành tỉ giá… của mỗi quốc gia.
Trong giao dịch thanh toán L/C các ngân hàng cũng có những rủi ro về ngoại hối, những rủi ro này xuất hiện khi các ngân hàng có trạng thái ngoại hối về loại ngoại tệ đó khác 0. Nếu trạng thái ngoại hối âm thì ngân hàng phải đối mặt với rủi ro hối đoái khi đồng tiền đó lên giá, ngược lại nếu trạng thái ngoại hối dương thì ngân hàng phải đối mặt với rủi ro hối đoái khi đồng tiền đó giảm giá so với đồng bản tệ.
1.3. Nguyên nhân dẫn tới rủi ro trong thanh toán quốc tế theo L/C
1.3.1. Do sự biến động của nền kinh tế thị trường
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, các ngân hàng thương mại luôn chịu sự chi phối khắt khe của quy luật cung cầu, giá cả thị trường… nên cũng phải thường xuyên đối mặt với các rủi ro từ mọi phía. Ngoài ra,những yếu tố như giá cả thay đổi, công nghệ lạc hậu, khả năng quản lí,điều hành kém, khủng hoảng tài chính… cũng là tác nhân gây ra khó khăn đối với các doanh nghiệp, thua lỗ, thậm chí là phá sản, vỡ nợ…
Ngoài ra,sự biến động trong thị trường tài chính, sự thay đổi tỉ giá, các chỉ tiêu về nợ nước ngoài, dự trữ ngoại hối và cán cân thanh toán của một quốc gia cũng gây nên sức ép và rủi ro đối với việc thanh toán quốc tế.
1.3.2. Do thông tin không đầy đủ
Thông tin đối nghịch chính là nguyên nhân chính dẫn tới rủi ro tín dụng và rủi ro đạo đức trong thanh toán quốc tế.
Thông tin là một vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi bên tham gia thanh toán quốc tế. Nếu một bên không nắm vững tình hình tài chính cũng như uy tín hay khả năng thanh toán của bên đối tác, không am hiểu và kiểm tra được các thông số kĩ thuật và hiệu quả kinh tế của dự án mình tài trợ thì rủi ro tín dụng xảy ra là điều khó tránh khỏi.
Việc thiếu thông tin hay sự thiếu trung thực của đối tác, đồng thời lại bị họ cố tình che dấu hay lừa gạt nên đưa ra những quyết định sai lầm đã gây ra rủi ro đạo đức.
1.3.3. Các nhân tố vĩ mô và các nhân tố bất khả kháng:
Những biến động về chính trị như chiến tranh, nổi loạn, đảo chính…hay sự thay đổi về bộ máy,thể chế chính trị, chính phủ ở nước nhập khẩu hay sự bất thống nhất giữa luật điều chỉnh L/C ngoài UCP 600, luật quốc gia của từng nước dẫn tới rủi ro chính trị hay rủi ro pháp lí trong thanh toán quốc tế.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ được sử dụng chủ yếu trong thanh toán xuất nhập khẩu, mà quan hệ này lại phụ thuộc nhiều vào môi trường vĩ mô của hai nươc xuất nhập khẩu như: chính trị, xã hội, môi trường kinh tế, tình hình an ninh…Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế cũng như những chính sách quản lý của từng quốc gia đều tác động ảnh hưởng mạnh mẻ, chăng hạn như việc ban bố chính sách hạn chế nhập khẩu hay chính sách kiểm toán ngoại hối thắt chặt sẽ có tác động làm ảnh hưởng lớn đến quá trình thanh toán. Giá trị thanh toán xuất nhập khẩu được tính bằng ngoại tệ nên tỉ giá hối đoái thường xuyên biến động sẽ gây thiệt hại cho cả hai bên. Vì vậy, trong điều kiện các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội…ổn định thì chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ sẽ được đảm bảo và ngược lại
Ngoài ra, phương thức tín dụng chứng từ còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bất khả kháng như bất kỳ một quan hệ kinh tế nào. Các hiện tượng như: chiến tranh, đình công, khủng bố, thiên tai, hoả hoạn, các vụ tấn công nhà băng…được coi là các trường hợp mà ngân hàng có thể thoát khỏi trách nhiệm thanh toán cho người hưởng, chấm dứt ngay lập tức quy trình thanh toán nhưng với thiệt hại thuộc về hầu như tất cả các bên.
Nhìn một cách tổng quát, quy trình thanh toán tín dụng chứng từ bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố. Để nâng cao hiệu quả phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, chung ta phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng để từ đó có thể điều chỉnh với khả năng tốt nhất của mình
1.3.4.Năng lực và đạo đức kinh doanh của các nhà nhập khẩu:
Đây là yếu tố quan trọng quyết định sự suôn sẻ hay không của cuộc thanh toán quốc tế. Thanh toán quốc tế được coi là quyền lợi của bên xuất khẩu và đồng thời là trách nhiệm của người nhập khẩu. Thanh toán diễn ra tốt đẹp khi mà các bên tham gia tôn trọng hợp đồng đã ký và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong cả chu trình đó.
Người nhập khẩu là người có trách nhiệm trả tiền cho người xuất khẩu. Họ có nghĩa vụ phải thông qua ngân hàng để mở thư tín dụng hợp lệ chủ động trong việc thanh toán, nhận hàng, mua bảo hiểm… Nếu người nhập khẩu do năng lực hạn chế không thực hiện tốt các nghĩa vụ trên thì quá trình thanh toán diễn ra không thuận lợi. Tương tự nếu người nhập khẩu không có thiện ý tốt, anh ta sẽ tìm mọi cách gây khó khăn cho ngân hàng cũng như cho người xuất khẩu như bắt bẻ mọi sơ suất dù là nhỏ nhất để từ chối thanh toán, hoặc kéo dài thời gian thanh toán…trong các trường hợp trên thì quy trình thanh toán sẽ bị gián đoạn ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên.
Đối với người xuất khẩu năng lực và hành vi của họ cũng ảnh hưởng nhiều đến quy trình thanh toán. Nghĩa vụ của người xuất khuẩu là kiểm tra thư tín dụng do người nhập khẩu mở, giao hàng đúng hợp đồng, lập bộ chứng từ phù hợp với các điều khoản của L/C…Trong đó, lập bộ chứng từ phù hợp là khâu gặp nhiều trở ngại nhất vì người xuất khẩu phải qua nhiều công đoạn, thủ tục. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến trường hợp người xuất khẩu lập bộ chứng từ giả mạo, trốn tránh việc kiểm tra chất lượng hàng hoá của cơ quan có thẩm quyền để lừa gạt người nhập khẩu. Hoặc, người xuất khẩu không nghiêm túc khu thực hiện hợp đồng, lập được bộ chứng từ phù hợp nhưng trong thực tế giao hàng lại không đúng với quy định trong hợp đồng. Từ đó, dẫn đến quá trình thanh toán chậm lại, thậm chí có khi phải huỷ bỏ hợp đồng đã ký.
Như vậy, năng lực và đạo đức kinh doanh của các bên có ảnh hưởng nhiều đến chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ. Nếu người mua và người bán có kiến thức và có kinh nghiệm trong thương mại quốc tế thì quy trình thanh toán trở nên nhanh chóng và thuận lợi hơn. Vì vậy, sự hiểu biết rộng, có kinh nghiệm và tính làm việc nghiêm túc của cả hai bên người xuất và người nhập là những yêu cầu cần thiết để thúc đẩy quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ.
1.3.5. Các nguyên nhân khác:
- Trình độ của cán bộ NH: Tham gia vào quy trình thanh toán, các ngân hàng là những trung gian không thể thiếu được. Nếu là ngân hàng phục vụ người mua thì ngân hàng có trách nhiệm mở thư tín dụng, cam kết sẽ trả tiền cho người bán. Việc ngân hàng đứng ra cam kết trả tiền cho người bán đồng nghĩa với việc ngân hàng cấp cho người mua một khoản tín dụng. Vì vậy, trước khi phát hành L/C, ngân hàng phải phân tích, đánh giá tình hình tài chính của người mua, xem hiệu quả hoạt động của họ như thế nào, có uy tín hay không, từ đó, quyết định xem người mua có cần phải thực hiện điều kiện đảm bảo cho khoản vay hay không. Thực hiện các khâu trên đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải là những người có kinh nghiệm, có năng lực chuyên môn vững vàng, có khả năng phân tích và tổng hợp tốt…để đảm bảo đánh giá đúng khách hàng trong thời gian ngắn nhất, trên cơ sở đó, thu hút thêm khách hàng mới ngoài ngoài những khách hàng có uy tín và làm ăn lâu dài với ngân hàng. Tương tự, nếu là ngân hàng phục vụ người bán thì ngân hàng có trách nhiệm thông báo thư tín dụng cho người xuất khẩu và tiếp nhận bộ chứng từ từ người này. Với trách nhiệm là ngân hàng được uỷ thác thanh toán, ngân hàng này phải đặc biệt lưu ý trong khâu kiểm tra tích hợp lý của bộ chứng từ. Vì đây là khâu quyết định xem người bán có được thanh toán hay không nên các cán bộ phụ trách khâu này phải hết sức cẩn thận, làm việc tập trung và có trách nhiệm.
Trên thực tế, có nhiều trường hợp do trình độ của cán bộ ngân hàng hạn chế làm cho quy trình thanh toán bị chậm lại. Chẳng hạn như, các điều khoản trong L/C thường được thể hiện bằng ngôn ngữ nước ngoài nên nếu trình độ cán bộ ngân hàng hạn chế thì sự hiểu lầm là điều không thể tránh khỏi. Hay như trong khâu kiểm tra bộ chứng từ do người bán gửi đến, cán bộ ngân hàng kiểm tra quá lâu vừa gây chậm trể thanh toán cho người xuất khẩu vừa kéo dài thời gian để có thể nhận được hàng của người nhập khẩu, làm ảnh hưởng đến chất lượng hàng hoá và kế hoạch sử dụng vốn của người xuất khẩu…
Có thể nói, bản thân các ngân hàng tham gia có ảnh hưởng lớn đến sự nhanh chậm của quá trình thanh toán, trong đó, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như phong cách phục vụ khách hàng của cán bộ ngân hàng là yếu tố quyết định. Đây là yếu tố phản ánh rõ nét nhất và ảnh hưởng sâu sắc nhất đến chất lượng của dịnh vụ thanh toán quốc tế của ngân hàng.
- Công nghệ trong thanh toán : Đây là yếu tố phản ánh tính chất hiện đại và sự tiện lợi của hệ thống thiết bị, công nghệ kỹ thuật được sử dụng trong quy trình thanh toán quốc tế, Hệ thống công nghệ càng hiện đại thì quy trình thanh toán diễn ra càng nhanh, chất lượng càng được đảm bảo. Theo xu hướng hiện nay, các ngân hàng chủ yếu thanh toán qua mạng thanh toán viễn thông liên ngân hàng quốc tế SWIFT (Society For Worldwide Interbank Financial Telecommunications) nhiều hơn hình thức thư từ (mail). Việc mở và thông báo L/C bằng SWIFT có tác dụng rút ngắn tối đa khoảng thời gian, tránh thất lạc tài liệu và đảm bảo thông tin được truyền đi một cánh đầy đủ, chính xác. Trong khi đó, việc mở và thông báo L/C bằng thư tuy có ưu điểm chi phí thấp nhưng lại kéo dài thời gian của quy trình thanh toán, hơn nữa, khả năng thất lạc thư từ là điều có thể xảy ra.
1.4. Các biện pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế theo L/C của ngân hàng thương mại:
- Khắc phục tình trạng thông tin không cân xứng trong các bên tham gia thanh toán quốc tế. Để hạn chế rủi ro, các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp phải thường xuyên điều tra thu nhập các thông tin về khách hàng nước ngoài, có thể thông qua hệ thống các đại lý của mình hoặc mua thông tin từ các hãng thông tin và phòng ngừa rủi ro quốc tế. Vì vậy, vấn đề quan trọng trong thương mại quốc tế vẫn là uy tín của khách hàng.
- Các doanh nghiệp xuất khẩu cũng như các ngân hàng thương mại cần có những trợ lí pháp luật giỏi hoặc cộng tác với các công ty tư vấn luật,…để có được ý kiến tư vấn pháp lí nhằm ngăn ngừa rủi ro ngay từ khâu đầu tiên giao dịch và soạn thảo hợp đồng tới khâu cuối cùng trong buôn bán quốc tế là thanh toán.
- Các ngân hàng cần sử dụng các công cụ tài chính cũng như quản lý và bảo hiểm rủi ro hối đoái như: hợp đồng mua bán ngoại tệ có kì hạn, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ…để phòng tránh các rủi ro ngoại hối.
Thanh toán quốc tế trong hoạt động ngân hàng nói riêng và trong hoạt động kinh tế quốc dân nói chung có một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là một mắt xích không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động kinh tế, kể từ khi chuẩn bị các bước cần thiết để sản xuất ra hàng hóa tới khi bán hàng thu tiền về cho nhà xuất khẩu hay chi tiền ra để nhập hàng về phục vụ sản xuất, đời sống con người sao cho đủ số lượng.
Chiếm tỉ trọng lớn trong thanh toán quốc tế, vai trò và tính hữu dụng của phương thức tín dụng chứng từ là không thể phủ nhận. Nghiên cứu nội dung nghiệp vụ thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ, lựa chọn và xử lí yếu tố nội dung của nó, hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ kỹ thuật sao cho phù hợp với những đặc điểm tính chất nền kinh tế của mỗi quốc gia là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Hạn chế rủi ro luôn là vấn đề mà các chủ thể quan tâm trong mọi hoạt động, đặc biệt là hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh. Rủi ro không chỉ làm tổn hại tới chủ thể tham gia trực tiếp, mà rộng hơn, thông qua các giao dịch thanh toán, sẽ cần thiết phải có sự tham gia của các chủ thể gián tiếp như ngân hàng xuất khẩu, ngân hàng nhập khẩu, bảo hiểm…Và do vậy, rủi ro trong thanh toán L/C bao trùm lên tất cả các chủ thể trực tiếp tham gia vào giao dịch ngoại thương. Rủi ro gây ra những mất mát, tổn thất ở mức độ khác nhau.
Chương 1 của chuyên đề làm sáng tỏ những vấn đề lí luận cơ bản về thanh toán L/C và các loại rủi ro trong quá trình thực hiện. Từ đó, phân tích các nguyên nhân gây ra rủi ro thanh toán L/C để tạo cơ sở khoa học cho việc phân tích, đánh giá ở chương sau.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI BIDV HÀ THÀNH.
2.1 Hoạt động thanh toán quốc tế theo L/C tại BIDV Hà Thành:
2.1.1. Khái quát về tình hình hoạt động của BIDV Hà Thành:
Tháng 9/2003 Phòng giao dịch Tràng Tiền trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, theo đề án cơ cấu lại hoạt động của BIDV trong giai đoạn 2001- 2005 và tầm nhìn 2010 đã được nâng cấp lên thành chi nhánh cấp 1 với tên gọi là BIDV- Chi nhánh Hà Thành- là đơn vị thành viên thứ 76. Từ khi chính thức đi vào hoạt động đến nay, ngân hàng luôn luôn được hướng hoạt động theo hướng hiện đại hoá và phục vụ chủ yếu cho khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do sự phát triển không ngừng của mình mà BIDV- Chi nhánh Hà Thành được coi là mô hình bán lẻ kiểu mẫu trong hệ thống của BIDV. Tuy mới thành lập nhưng chi nhánh đã tạo được uy tín với khách hàng trong và ngoài nước về chất lượng dịch vụ.
Kể từ ngày thành lập, số lượng cán bộ của chi nhánh không ngừng tăng. Từ 50 nhân viên nay chi nhánh đã có trên 190 nhân viên, và có khoảng 10,3% cán bộ có trình độ trên đại học, 76% có trình độ đại học.
Ban giám đốc chi nhánh bao gồm 1 giám đốc và 3 phó giám đốc, hiện nay chi nhánh có 10 phòng nghiệp vụ là: Phòng tín dụng 1, Phòng tín dụng 2, phòng thanh toán quốc tế, phòng quản lý tín dụng, Phòng thẩm định, phòng kế hoạch nguồn vốn, Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp, Phòng dịch vụ khách hàng cá nhân, Phòng tài chính kế toán,phòng tổ chức hành chính. Các phòng chức năng là: Phòng tiền tệ kho quỹ, Phòng điện toán, Phòng giao dịch địa ốc, Phòng kiểm tra- kiểm toán nội bộ. Và 6 phòng giao dịch: Phòng giao dịch Bách Khoa, Phòng giao dịch Lê Đại Hành, Phòng giao dịch 19/8, Phòng giao dịch Tôn Thất Tùng, Phòng giao dịch Tràng Tiền, Phòng giao dịch Nguyễn Công Chứ.
Trong các hoạt động của BIDV Hà Thành, thanh toán quốc tế luôn chiếm tỉ trọng lớn và đạt hiệu quả cao. Với ưu thế của mình đến nay đã có hơn 100 ngân hàng mở tài khoản thanh toán, thực hiện hàng triệu giao dịch với độ chính xác an toàn cao.
Được định hướng là mô hình Ngân hàng chuyên bán lẻ điển hình đầu tiên của hệ thống BIDV trên địa bàn Thủ đô, nhiệm vụ chủ yếu của Chi nhánh là cung cấp các dịch vụ tài chính cho đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp liên doanh, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các hộ kinh doanh cá thể. Với phương châm lấy hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của mình, trong những năm qua, Chi nhánh đã không ngừng đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao chất lượng dịch vụ của mình để cùng các doanh nghiệp đi lên trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Sau một thời gian đi vào hoạt động, Chi nhánh đã bước đầu hình thành một mô hình mẫu về một ngân hàng hiện đại hoạt động trong cơ chế thị trường: vững chắc về năng lực và uy tín; sản phẩm, dịch vụ đa dạng, chất lượng cao; phong cách giao dịch chuyên nghiệp, tận tình. Là một trong những đơn vị luôn đi đầu toàn hệ thống trong việc triển khai các dịch vụ ngân hàng bán lẻ, Chi nhánh đã nhanh chóng làm chủ công nghệ ngân hàng hiện đại, triển khai tốt việc áp dụng các sản phẩm, dịch vụ mới của hệ thống như dịch vụ Home Banking, chuyển tiền Western Union, thu mua séc du lịch, thanh toán thẻ Visa, Master, đầu mối chi trả kiều hối Đài Loan, dịch vụ trả lương cho các cơ quan v.v....Nhờ áp dụng triệt để mô hình giao dịch một cửa, Chi nhánh đã rút ngắn được thời gian phục vụ giao dịch với khách hàng, giản tiện các thủ tục nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác, an toàn, đem lại sự tiện ích, hài lòng và niềm tin tới đông đảo các khách hàng. Đặc biệt, với đặc điểm giao dịch cả thứ 7, Chủ nhật, ngày lễ tết, thời gian giao dịch kéo dài đến 18h hàng ngày, Chi nhánh Hà Thành đã trở thành sự lựa chọn số một của đông đảo khách hàng trên địa bàn. Đến nay, sau 3 năm hoạt động, Chi nhánh đã mở mới thêm được 17.000 tài khoản cá nhân, 550 tài khoản doanh nghiệp, phát hành mới thêm được 17.000 thẻ ATM, thu dịch vụ chiếm xấp xỉ 40% tổng lợi nhuận của Chi nhánh. Về hoạt động tín dụng, với định hướng hoạt động ngay từ lúc thành lập là phục vụ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, Chi nhánh đã nhanh chóng thay đổi nhận thức, đổi mới tác phong làm việc, xây dựng chính sách, cơ chế phù hợp để có thể tiếp cận và hỗ trợ khách hàng một cách tốt nhất. Những nỗ lực phấn đấu của Chi nhánh sau 3 năm hoạt động đã phần nào được đền đáp. Từ chỗ ban đầu chỉ có 12 khách hàng doanh nghiệp có quan hệ tín dụng, bảo lãnh với Chi nhánh với tổng dư nợ 65 tỷ VND đến nay Chi nhánh đã có 130 khách hàng doanh nghiệp, hơn 100 khách hàng cá nhân có quan hệ vay vốn thường xuyên với dư nợ tín dụng đạt gần 1.300 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm đến 90%. Hình ảnh Chi nhánh Hà Thành với tư cách là một NHTM quốc doanh chuyên phục vụ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã được rất nhiều các đơn vị biết tới và lựa chọn. Trong số các khách hàng đó, có rất nhiều các đơn vị đã có thương hiệu trên thị trường, tiêu biểu có thể kể đến như: Công ty CP FPT, Tập đoàn Việt Á, Tập đoàn Hoà Phát, Công ty TNHH Hoà Bình, Công ty CP VPP Hồng Hà, Công ty CP Cơ giới lắp máy và xây dựng Vimeco v.v...
2.1.2. Thanh toán quốc tế theo tín dụng chứng từ tại BIDV Hà Thành:
Hiện nay các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu mà các Ngân hàng thương mại Việt Nam thường thực hiện là chuyển tiền, nhờ thu và tín dụng chứng từ. Trong đó, tín dụng chứng từ vẫn là phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến và chiếm tỷ trọng cao trong doanh số thanh toán (trên 70%). Sở dĩ phương thức chứng từ được sử dụng rộng rãi trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu chính là vì những ưu điểm của nó như chúng ta đã biết. Hơn nữa, phương thức này cũng khá phù hợp với điều kiện và tình hình của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam nói riêng, nền kinh tế Việt Nam nói chung. Sau đây, chúng ta hãy cùng xem xét các số liệu dưới đây:
Bảng 2.1. Kim ngạch xuất khẩu qua BIDV HT từ 2006 đến 2008
Đơn vị: triệu USD
Năm
Doanh số
% so với năm trước
2006
88
114,3
2007
94
107,1
2008
109
114,8
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của BIDV Hà Thành
Đối với thanh toán xuất khẩu: qua bảng trên ta có thể thấy, mặc dù tình hình XNK còn gặp nhiều khó khăn- hoạt động XNK có những thách thức mới do môi trường cạnh tranh ngày càng chặt chẽ- nhưng doanh số thanh toán xuất khẩu tại BIDV Hà Thành trong các năm vẫn liên tục tăng.
Năm 2006 hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn Hà Nội có nhiều khó khăn, môi trường cạnh tranh gay gắt, các quy định về rào cản đối với hang xuất khẩu của Việt Nam ngày càng chặt chẽ, giá một số vật tư, dịch vụ đầu vào tăng làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế, tuy nhiên với nhiều cơ chế chính sách tạo điều kiện của Chính phủ, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng. Đặc biệt là những nỗ lực chủ quan của ngân hàng khiến hoạt động thanh toán quốc tế tại cũng tăng trưởng. tại BIDV HT, kim ngạch thanh toán xuất khẩu qua chi nhánh đạt 88 triệu USD, tăng 14,3% so với năm 2005.
Năm 2007, 2008, công tác thanh toán quốc tế vẫn duy trì chất lượng tốt với tổng doanh số xuất khẩu đạt cao- năm 2007 đạt 94 triệu USD, tăng 7,1% so với năm 2006; năm 2008 đạt 109 triệu USD, tăng 14,8% so với năm 2007.
Chỉ số giá tiêu dùng trong năm 2008 tăng cao, NHNN đã phải sử dụng hàng loạt các biện pháp ‘sốc’ nhằm thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát, trong đó có thắt chặt tín dụng. Chính sách này đã gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu do chi phí đầu vào tăng và lãi xuất vay tăng lên.
Bảng 2.2: Kim ngạch thanh toán nhập khẩu qua BIDV HT từ2006 đến 2008
Đơn vị: triệu USD
Năm
Doanh số
So với năm trước (%)
2006
360
102,5
2007
369
102
2008
440
119,5
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của BIDV Hà Thành
Đối với thanh toán nhập khẩu: doanh số thanh toán nhập khẩu tại BIDV HT trong các năm cũng liên tục tăng, năm 2007, doanh số nhập khẩu qua ngân hàng đạt 369 triệu USD, tăng 2% so với 2006, năm 2008 doanh số đạt 440 triệu USD, tăng 19,5% so với năm 2007. Nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam luôn là rất lớn do điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật lạc hậu, sản xuất chưa đủ phục vụ cho tiêu dùng cũng như có nhiều loại hàng hóa mà Việt Nam chưa sản xuất được, hay sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường đòi hỏi phải có những hàng hóa có chất lượng cao. Vì vậy, cơ hội cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế của ngân hàng là rất lớn. Hiện nay, hoạt động thanh toán hàng nhập chủ yếu của BIDV HT là trong phạm vi Châu Á với các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan, Trung Quốc với các mặt hàng chủ yếu là nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, xe máy…
Có thể thấy được, trong những năm gần đây, mức độ gia tăng kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu năm nay so với năm trước qua ngân hàng được bảo đảm. Có được sự tăng trưởng đều đặn như vậy là so uy tín, chất lượng thanh toán quốc tế luôn được đặt lên hàng đầu trong công tác thanh toán xuất nhập khẩu của ngân hàng. Ngoài ra đó còn do làm tốt công tác phục vụ khác hàng, công tác phát triển mạng lưới và sự phối hợp, hỗ trợ của các bộ phận nghiệp vụ có liên quan của ngân hàng như tín dụng, kinh doanh ngoại tệ, kế toán tài chính…tạo sự tín nhiệm của khách hàng với ngân hàng. Đây là kết quả nỗ lực thị phần trong hoạt động thanh toán quốc tế của BIDV HT.
Tại BIDV HT, kim ngạch thanh toán bằng phương thức này thường chiếm trên 80% tổng kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu qua ngân hàng, trong đó thanh toán L/C nhập chiếm tỉ trọng 70% và xuất chiếm 30%. Trong những năm gần đây: năm 2006 là L/C xuất chiếm 34,54%, L/C nhập chiếm 82,63%, năm 2007 L/C xuất chiếm 15,35%, L/C nhập chiếm 73,42%, năm 2008 L/C xuất chiếm 25,35% và L/C nhập chiếm 79,9%.
Nguyên nhân của việc sử dụng phương thức thanh toán L/C với tỉ lệ cao nhưng mất cân đối giữa L/C nhập và xuất là do: trường hợp nhập khẩu hàng hóa, một mặt do phía doanh nghiệp Việt Nam thường dễ dãi chấp nhận yêu cầu của phía đối tác, một mặt do thị trường nước ta không ổn định vì vậy để ràng buộc trách nhiệm thanh toán của ngân hàng cũng như đảm bảo khả năng an toàn nên họ thường xuyên yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam mở L/C, hoặc cũng có thể do bản thân các doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế nên họ lựa chọn phương thức L/C để nhận được sự tư vấn và tài trợ từ phía ngân hàng. Ngược lại, trong trường hợp xuất khẩu hàng hóa, thì một doanh nghiệp Việt Nam tin tưởng phía nước ngoài nên sẵn sàng chấp nhận thanh toán theo phương thức D/A hay thanh toán TTR sau khi giao hàng.
Ngoài ra, có những doanh nghiệp không muốn sử dụng phương thức L/C vì phí dịch vụ phát sinh nhiều hơn so với phương thức khác. Thực trạng này xảy ra phổ biế._.hĩa là ngân hàng mở không được bổ xung thêm bất hợp lệ khác mực dù sau đó nó mới phát hiện ra.
Trong UCP600 qui định, người bán không chấp nhận bản sửa đổi L/C của người mua mà không cần phải thông báo. Vì vậy để tránh tình trạng bị động vì không biết người bán có chấp nhận bản sửa đổi L/C hay không, BIDV HT khi phát hành bản sửa đổi nên bổ xung thêm một câu :"Nếu trong vòng…ngày kể từ ngày sửa đổi L/C, ngân hàng phát hành không nhận được thông tin gì từ ngân hàng thông báo thì bản sửa đổi này tự động có hiệu lực."
- Cần liên hệ chặt chẽ với khách hàng nhập khẩu để hạn chế những rủi ro về lừa đảo thương mại. Khi nhận được bộ chứng từ thanh toán, ngân hàng cần liên hệ với khách hàng nhập khẩu để nắm vững thông tin về hàng hóa như: hàng hóa có được giao hay không? Chất lượng như thế nào? Nếu có vấn đề thì cán bộ thanh toán quốc tế của ngân hàng phải kiểm tra chứng từ một các cẩn thận, tìm ra những sai sót của bộ chứng từ để thông báo từ chối thanh toán nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng mà vẫn không vi phạm UCP600. Tuy nhiên những sai sót trên phải là những sai sót hợp lí để tránh những tranh chấp xảy ra. Để làm được việc này, cán bộ ngân hàng phải nắm vững UCP600, các tài liệu hướng dẫn thực hành UCP600 và các tài liệu liên quan khác hướng dẫn chi tiết việc kiểm tra từng loại chứng từ và các sai sót có thể có.
3.2.1.2. Đối với L/C nhập khẩu trả chậm:
Khi đó BIDV HT đóng vai trò là ngân hàng phát hành và ngân nhàng chấp nhận hối phiếu trả chậm.
- Cần bổ xung, hoàn thiện qui chế bảo lãnh L/C trả chậm cho phù hợp với thực tiễn. Khắc phục tình trạng tâm lí sợ trách nhiệm dẫn tới từ chối mọi yêu cầu của khách hàng về mở L/C trả chậm hoặc thực hiện qui trình cứng nhắc, không linh hoạt… Song cũng chỉ nên thực hiện bảo lãnh L/C trả chậm cho những dự án nhập hàng hóa là máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất mới, hiện đại đem lại hiệu quả kinh tế cao.
- Nâng cao chât lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. Đối với qui trình mở L/C trả chậm thì việc thẩm định dự án đầu tư có vai trò rất quan trọng trong việc ra quyết định bảo lãnh doanh nghiệp mở L/C trả chậm hay không. Vì vậy công tác này cần phải tiến hành thật sự nghiêm túc, ngân hàng cần phải mở khóa huấn luyện thường xuyên cho cán bộ tín dụng về chuyên đề thẩm định dự án đầu tư, để trang bị cho họ những kiến thức cơ bản có thể kiểm tra và đánh giá được hiệu quả kinh tế các dự án đầu tư của doanh nghiệp.
- Thực hiện nghiêm túc các biện pháp bảo đảm tiền vay, đặc biệt là hình thức bảo đảm bằng tài sản thế chấp để hạn chế rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát L/C trả chậm, quản lí tiền hàng thu được từ dự án để bảo đảm nguồn thanh toán cho nước ngoài. Việc thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám soát trên đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thanh toán với nước ngoài khi đến hạn, đánh giá đúng mức tiến độ dự án. Đối với các món nợ vay bắt buộc đã phát sinh cần rà soát lại tìm nguyên nhân để có biện pháp xử lí kịp thời như đôn đốc đơn vị tiêu thụ hàng hóa để trả nợ ngân hàng, hoặc kết hợp với cơ quan pháp luật để giải quyết các món nợ khó đòi, xử lí tài sản thế chấp… Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra là góp phần hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
3.2.1.3. Đối với L/C xuất khẩu:
- Khi BIDV HT tham gia vào phương thức L/C với tư cách là ngân hàng thông báo thì chỉ là ngân hàng cung ứng dịch vụ thu phí và không bị ràng buộc bởi trách nhiệm phải thanh toán. Tuy nhiên quyền lợi đi đôi với nghĩa vụ, BIDV HT phải có trách nhiệm xác thực tính trung thực của các L/C đến bằng cách phải kiểm tra mã khóa. Nếu mã khóa sai, hoặc không có mã khóa thì yêu cầu ngân hàng phát hành gửi lại L/C đó hoặc cung cấp lại mã khóa để BIDV HT kiểm tra nhằm phòng ngừa gặp phải những L/C giả. BIDV HT phải chịu trách nhiệm về tính xác thực của các L/C do mình thông báo. Vì vậy, cần phải quỉ lí nghiêm ngặt quá trình thanh toán L/C xuất khẩu, ngoài ra, khi nhận được L/C cán bộ ngân hàng nên tư vấn cho khách hàng về những điều khoản bất lợi hoặc không thể thực hiện được trong L/C để yêu cầu khách hàng nước ngoài sửa đổi L/C, nếu không sửa đổi thì nên từ chối L/C đó để tránh rủi ro phát sinh sau này.
- Khi BIDV HT được ngân hàng phát hành yêu cầu xác nhận L/C thì hội sở BIDV chỉ xác nhận L/C khi có đủ các điều kiện sau:
Ngân hàng phát hành là ngân hàng có hoạt động tốt, tình hình tài chính lành mạnh, có uy tín trên trường quốc tế, có mối quan hệ lâu dài và có thiện chí với BIDV HT.
L/C trả ngay.
Các điều kiện của L/C phải rõ ràng, phù hợp với thông lệ quốc tế, có tính khả tinh và không mang lại rủi ro cho ngân hàng xác nhận.
L/C có giá trị chiết khấu tại BIDV HT .
L/C chỉ ra ngân hàng hoàn tiền và cho phép đòi tiền bằng điện.
Mặt hàng xuất khẩu là mặt hàng có chất lượng cao, tiêu thụ dễ dàng trên thị trường quốc tế, giá cả ổn định.
- Khi BIDV HT là ngân hàng chiết khấu bộ chứng từ: Cần mở rộng hơn nữa hình thức cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất khẩu, đối với những L/C được thông báo và cam kết thanh toán qua BIDV HT sẽ được áp dụng lãi suất vay vốn và biểu phí dịch vụ ưu đãi, để tạo nguồn vốn ngoại tệ ổn định và chủ động thanh toán L/C nhập khẩu.Để thực hiện cho vay ứng trước bộ chứng từ, BIDV HT cần phải tôn trọng các vấn đề sau:
Nghiên cứu tình hình kinh tế chính trị của nước nhập khẩu để quyết định cho vay ứng trước bộ chứng từ của nhà xuất khẩu , để tránh có những rủi ro quốc gia xảy ra.
Xem xét đầy đủ các yếu tố trước khi quyết định cho vay ứng trước bộ chứng từ về khả năng trả nợ của nhà xuất khẩu nếu bộ chứng không được thanh toán, về uy tín trong thanh toán quốc tế của ngân hàng sẽ phát hành, về các điều khoản bất lợi hoặc mập mờ trong L/C dễ phát sinh tranh chấp, về mức độ rủi ro của loại hàng hóa đó.
3.2.2. Giải pháp về nguồn ngoại tệ để thanh toán L/C:
Thực tế trong những năm gần đây,tại những thời điểm căng thẳng về nguồn ngoại tệ hay do tỉ giá tăng đột ngột, nhiều chi nhánh của BIDV đã không mua được ngoại tệ cho khách hàng để thanh toán L/C. Để giữ uy tín thanh toán quốc tế, hội sở chính BIDV đã phải tạm ứng nguồn ngoại tệ để thanh toán thay cho các chi nhánh và vì vậy đã phải gánh chịu những rủi ro lớn về tỉ giá hối đoái. Vì vậy,để chủ động được nguồn ngoại tệ thanh toán và giảm bớt rủi ro tỉ giá, BIDV HT cần thực hiện những giải pháp sau:
- Chủ động hơn nữa trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, mua bán với các ngân hàng ngoài hệ thống kể cả mua bán giao ngay và mua bán kì hạn. Không nên áp dụng trạng thái ngoại hối trong ngày cứng nhắc.
- Phải nhanh chóng thu hút các khách hàng có nguồn thu ngoại tệ lớn từ xuất khẩu, đồng thời tăng cường thu hút kiều hối, thu đổi ngoại tệ, thanh toán séc du lịch.
Như chúng ta biết, nguồn ngoại tệ của Việt Nam chủ yếu từ xuất khẩu hàng hóa dịch vụ, đầu tư trực tiếp, vay nợ nước ngoài, nhận viện trợ, kiều hối… Trong đó, lượng ngoại tệ từ xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn nhất. Qua đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ của BIDV HT thì nguồn ngoại tệ mua từ khách hàng xuất khẩu Việt Nam vẫn còn hạn chế, do đó nguồn ngoại tệ mua được này đã không đáp ứng đủ nhu cầu về ngoại tệ để thanh toán L/C và trả nợ của khách hàng. Vì vậy, giải pháp thu hút khách hàng xuất khẩu với BIDV HT là một giải pháp mang tính chiến lược. Để thực hiện được giải pháp này, BIDV HT cần có chính sách ưu đãi đối với khách hàng xuất khẩu, ví dụ như chính sách ưu đãi về lãi suất vay vốn, tỉ lệ chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu cao hơn, cung cấp các dịch vụ ngân hàng thuận tiện cho khách hàng ( tư vấn miễn phí cho khách hàng từ khâu kí hợp đồng ngoại thương cho tới lúc lập bộ chứng từ hàng hóa, kiểm tra chứng từ hàng xuất ngay tại doanh nghiệp để khách hàng tin tưởng và đến giao dịch với BIDV HT).
- Tiếp tục phát triển công tác bảo lãnh quốc tế (bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng) cho các nhà thầu tham gia xây dựng các công trình có vốn vay nước ngoài hay có đối tác nước ngoài tham gia. Trong thời gian qua, BIDV HT đã bảo lãnh cho nhiều tổng công ty lớn tham gia các dự án đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở như tổng công ty xây dựng cầu Thăng Long,Tập đoàn Hòa Phát… Khối lượng ngoại tệ mà các chủ đầu tư hay ngân hàng nước ngoài thanh toán cho các tổng công ty này qua BIDV HT cũng khá lớn, đã giúp cho chi nhánh tự cân đối được nguồn ngoại tệ trong những thời kì căng thẳng.
3.2.3. Giải pháp trong công tác tổ chức, đào tạo cán bộ:
Con người luôn là nhân tố quyết định sự thành công trong mọi lĩnh vực đặc biệt là trong quá trình đổi mới đầy khó khăn của ngân hàng. Yêu cầu của giao dịch thương mại quốc tế đòi hỏi cán bộ lãnh đạo cũng như cán bộ trực tiếp làm công tác thanh toán L/C không chỉ có trình độ ngoại ngữ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải có phẩm chất đạo đức, có tinh thần trách nhiệm cao, có kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế, họ phải có kĩ năng phân tích, am hiểu tưởng tận các điều khoản của UCP600. Đồng thời họ phải am hiểu luật pháp, tập quán và thực tiễn hoạt động ngân hàng của từng nước, từng khu vực để có khả năng tư vấn cho khách hàng, đồng thời tránh đuwocj rủi ro cho ngân hàng. Để đạt được điều này, các ngân hàng thương mại cần xây dựng cho mình một chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao, am hiểu nghề nghiệp và tư cách đạo đức tốt.
Việc xây dựng khối đại đoàn kêt toàn ngành từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo đến các nhân viên, từ hội sở tới các chi nhánh và công ty trực thuộc. Đối với những cán bộ còn hạn chế về mặt này mặt khác sẽ nhận được sự giúp đỡ từ đồng nghiệp của mình để tiến bộ hơn, và điều quan trọng là cùng nhau tiến bộ. Mọi người cùng làm việc và tin tưởng nhau, khách hàng tin tưởng vào họ, niềm tin ấy tạo nên một sức mạnh lớn lao, góp phần hạn chết rủi ro có thể xảy ra.
Nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, ngoại nữa, áp dụng công nghệ thông tin của thanh toán viên để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của phát triển kinh tế và hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu qua ngân hàng. Để có đội ngũ cán bộ vững mạnh, ngân hàng cần có chiến lược đào tạo phù hợp. Nội dung đào tạo cần được chú trọng cả về kiến thức kinh tế, nghiệp vụ chuyên môn, đồng thời đặc biệt coi trọng công tác quản lí giáo dục lí tưởng đạo đức nghề nghiệp, BIDV HT đã thực hiện nhiều biện pháp như: tổ chức các lớp học nghiệp vụ ngắn hạn và dài hạn, ,cử cán bộ đi học ở nước ngoài, mời chuyên gia giỏi về đào tạo nghiệp vụ mới cho thanh toán viên…
Cần có qui chế tuyển chọn cán bộ mới để có thể lựa chọn được những cán bộ thực sự có trình độ. Mạnh dạn sử dụng và đề bạt cán bộ trẻ, có năng lực, sắp xếp đúng người, đúng việc theo năng lực và tinh thần trách nhiệm đối với công việc.
Cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng về lương, thưởng đối với cán bộ có nhiều thành tích trong công tác. Có thưởng phạt nghiêm minh.
3.2.4. Giải pháp về công tác kiểm tra, kiểm soát: thành lập bộ phận quản lí và phòng ngừa rủi ro
Ngân hàng nên thành lập một bộ phận quản lí rủi ro thanh toán chuyên trách lưu giữ, khai thác, cung cấp thông tin về những vụ lừa đảo, tranh chấp trên thế giới cũng như ở Việt Nam liên quan tới lĩnh vực thanh toán quốc tế nhằm trước hết là phục vụ cho hoạt động nội bộ ngân hàng, sau đó là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu muốn sử dụng dịch vụ này.
Khi cung cấp dịch vụ này cho các doanh nghiệp, ngân hàng đã giúp doanh nghiệp trong việc lựa chọn bạn hàng, tránh được những rủi ro do bạn hàng làm ăn không uy tín, là những công ty ma hay đối tượng lừa đảo… Để có lượng thông tin đầy đủ, chính xác, bộ phận này cần có sự phối hợp chặt chẽ với với mạng lưới các ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các ngân hàng thương mại Việt Nam, Bộ Thương mại và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu… bằng con đường giao dịch xin hoặc mua thông tin trực tiếp, hoặc thông qua trung tâm phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng nhà nước (CIC)…
Khi có thông tin phong phú, chính xác, bộ phận này có thể thực hiện nghiệp vụ hướng dẫn, tư vấn trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Việc cung cấp thông tin, tư vấn trong nội bộ cũng như cho doanh nghiệp, cho các ngân hàng với nhau ngoài việc giúp hạn chế rủi ro trong thanh toán còn đem lại cho các ngân hàng thương mại một nguồn thu dịch vụ mới, góp phần đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng, thu hút khách hàng.
3.2.5. Đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng:
Trước thực trạng kinh tế như hiện ngay, thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng thương mại nói chung, BIDV HT nói riêng với vai trò là trung gian giữa nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu và là một chủ thể tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh doanh cần tư vấn cho khách hàng một cách có hiệt quả nhất, cụ thể là:
Ngân hàng thông qua việc hướng dẫn các qui định, qui chế, thủ tục, hồ sơ cho khách hàng sẽ giúp khách hàng nắm bắt nhanh và cụ thể hơn những yêu cầu về mặt thủ tục và pháp lí trong thanh toán L/C, tiết kiệm được cả thời gian, công sức và chi phí.
Ngân hàng với nguồn thông tin đa dạng và chuyên môn nghiệp vụ của mình có thể tư vấn cho khách hàng trong việc xem xét tính hiệu quả của dự án so sánh với các chỉ tiêu kinh tế của các dự án cùng loại, có tính đến các yếu tố thị trường trong và ngoài nước. Lợi ích của ngân hàng gắn liều với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì mới đảm bảo khả năng thanh toán cho người bán khi đến hạn.
Với vốn kiến thức và kinh nghiệm về các lĩnh vực có liên quan như phương thức thanh toán, điều kiện ràng buộc, thời hạn trả nợ, lãi suất…ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng, thậm chí nếu cần có thể tham gia đàm phán để có những điều khoản hợp đồng chặt chẽ hơn giảm thiểu sự bất lợi cho khách hàng Việt Nam. Đây có thể coi là một trong những biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro, vừa giải quyết được nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa cho các doanh nghiệp, vừa phát triển được nghiệp vụ cho bản thân ngân hàng.
Chúng ta cũng thấy một thực thế là hiện nay các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế về nghiệp vụ ngoại thương, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán. Do đó, đồng tời với việc tư vấn cho khách hàng thì ngân hàng cũng có thể mở các lớp tập huấn nghiệp vụ nhằm nâng cao trình độ ngoại thương cho khách hàng. Thông qua hoạt động này trình độ nghiệp vụ ngoại thương của khách hàng được nâng cao và ngân hàng cũng tạo được mối quan hệ tốt với khách hàng. Có thể nói đây là biện pháp phòng ngừa rủi ro khá hữu hiệu, đồng thời còn nâng cao được uy tín của ngân hàng.
3.2.6. Nâng cao chất lượng hiệu quả sử dụng công nghệ:
Hiện đại hóa công nghệ thanh toán của hệ thống BIDV có vai trò quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế đang trên đà hội nhập với toàn thế giới. Các ngân hàng đã áp dụng phần mền SWIFT tiên tiến phù hợp với công nghệ của các ngân hàng đại lí ở nước ngoài.
Với phương châm đổi mới và áp dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng để nâng cao chất lượng phục vụ, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lí qua đó tăng sức cạnh tranh, từ nhiều năm nay, BIDV HT đã đầu tư một số vốn đáng kể cho việc nâng cấp trang thiết bị máy móc, cải tiến và nâng cấp chương trình tin học chuẩn hóa đáp ứng yêu cầu hoạt động của ngân hàng thương mại điện tử. Những kĩ thuật tiên tiến đã giúp cho hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc đầu tư cho công nghệ như vậy vẫn mới ở mức ban đầu so với quốc tế. Do vậy, trong những năm tới, BIDV HT cần tiếp tục đầu tư vào việc đổi mới công nghệ nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển không ngừng của hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng.
3.3 Một số kiến nghị:
3.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ và các ngành liên quan:
3.3.1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lí cho giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức L/C.
Về bản chất, thư tín dụng là những giao dịch riêng biệt với hợp đồng thương mại và các loại hợp đồng khác. Các hợp đồng này có thể làm cơ sở cho thư tín dụng nhưng các ngân hàng khônglieen quan đến hoặc không bị ràng buộc bởi hợp đồng. Hiện nay, việc thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức L/C được các ngân hàng trên thế giới thực hiện trên cơ sở UCP600, nhưng ở từng quốc gia, giao dịch này còn bị điều chỉnh và chi phối bởi hệ thống luật pháp nước họ, các nước còn lại trên thế giới đều nhìn nhận UCP600 là văn bản nằm trong hệ thống thông lệ và tập quán quốc tế mà khách hàng các nước muốn trao đổi với nhau đều phải tuân thủ. Luật quốc gia thường tôn trọng và ít khi có mâu thuẫn với UCP600, tuy nhiên nếu có sự khác nhau, thậm chí đối nghịch thì luật quốc gia sẽ vượt lên tất cả và được tuân thủ. Chính vì thế, một trong những kiến nghị quan trọng đối với Chính phủ và các ngành ban liên quan đó là cần hoàn chỉnh một môi trường pháp lí cho giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu. Cụ thể đó là những vấn đề sau:
Khẩn trương ban hành những văn bản pháp lí cho giao dịch thanh toán nhà xuất khẩu, có thể là nghị định về thanh toán quốc tế đề cập tới mối quan hệ pháp lí giữa giao dịch chứng từ giữa các ngân hàng. Mối quan hệ về nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu và các ngân hàng khi tham gia sử dụng thư tín dụng, mối quan hệ này cũng cần được pháp lí hóa trên cơ sở luật pháp quốc gia. Để tạo lập hành lang pháp lí của giao dịch này giữa ngân hàng và khách hàng, cần kí kết thỏa thuận chung mang tính nguyên tắc trong giao dịch bằng văn bản. Những văn bản này rất cần thiết không chỉ đối với ngân hàng mà còn là cơ sở để tòa án, trọng tài áp dụng khi xét xử các vụ tranh chấp giữa các đối tác trong giao dịch L/C. Các cơ quan pháp luật không thể chỉ dựa vào thông lệ quốc tế mà xét xử những vụ kiện phát triên tại Việt Nam, vì UCP không thể thay thế luật pháp của một quốc gia, hơn nữa nó có những hạn chế nhất định do không bao giờ bao quát tất cả các giao dịch vô cùng phong phú của thực tiễn.
Quyền được miễn thanh toán của ngân hàng khi mở quan hệ giao nhận bị trọng tài tuyên án hủy bỏ.
Quyền được nhận hàng của ngân hàng mở khi người thế chấp lô hàng bị mất khả năng thanh toán.
Quyền được bảo lưu số tiền chiết khấu của ngân hàng trong quan hệ mua bán đứt đoạn. Cần phải có qui chế chiết khách hàngấu hối phiếu lập theo thư tín dụng cụ thể hoát luật quốc tế làm cơ sở giải quyết tranh chấp giữa các ngân hàng chiết khách hàngấu và doanh nghiệp xuất khẩu.
Cần tạo hành lang pháp lí cho giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng trong quan hệ tín dụng chứng từ. Cho tới nay, hầu hết các khách hàng đến ngân hàng xin mở L/C đều không có văn bản pháp lí có tính chất hợp đồng được thỏa thuận bằng văn bản. Ở BIDV HT hầu hết chỉ có các loại giấy tờ như: đơn yêu cầu mở L/C, giấy cam kết thanh toán, đơn xin bảo lãnh nhận hàng và kí hậu vận đơn, thông báo thư tín dụng, đơn xin chiết khấu chứng từ. Các chừng từ này chỉ đơn giản là giao dịch ngân hàng, không thể hiện được tính pháp lí và ràng buộc giữa hai bên nên gây ra khó khăn khi toàn ăn xét xử tranh chấp.
3.3.1.2. Hoàn thiện chính sách thương mại nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, quản lí chặt chẽ nhập khẩu để cải thiện cán cân thương mại quốc tế.
Sản phẩm xuất khẩu của nước ta còn nghèo nàn và sản phẩm chưa qua chế biến vẫn chiếm một tỉ trọng lớn, hoặc nếu có chế biến thì chủ yếu vẫn là những mặt hàng sơ chế. Vì vậy, để phục vụ cho chiến lược về xuất khẩu, nhằm mục tiêu tăng trưởng ổn định và bền vững cho nền kinh tế, chúng ta cần có giải pháp sau:
Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại,đặc biệt là hoạt động thương mại đối với những thị trường lớn như Nhật Bản,Mĩ, Eu…xây dựng và phát triển thị trường trọng điểm, mở rộng thị trường mới.
Khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên, sức lao động và đất đai, giảm giá thành hàng xuất khẩu Việt Nam để đủ sức cạnh tranh với hàng hóa trong khu vực. Cần đầu tư thích đáng vào các sản phẩm truyền thống và có ưu thế, đồng thời mở rộng các ngành sản xuất những mặt hàng có thị trường lớn.
Có chính sách đầu tư hợp lí cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu để đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và phấn đấu xuất khẩu chủ yếu các sản phẩm đã qua chế biến.
Chính sách tỉ giá hối đoái mềm dở linh hoạt nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu nhưng vẫn bảo đảm tính ổn định vĩ mô của nền kinh tế, không gây nên những cú sốc lớn làm thiệt hại tới các doanh nghiệp nhập khẩu.
Bên cạnh các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, cần có các biện pháp quản lí chặt chẽ nhập khẩu, nhưng không đi ngược lại những cam kết trong hiệp định thuế quan ưu đãi... Cụ thể:
Nhà nước cần xây dựng và công bố một lịch trình giảm thuế cụ thể nhằm giảm dần sự bảo hộ đối với một số ngành sản xuất trong nước.
Nhà nước cần giảm tối đa, thậm chí xóa bỏ việc dùng hạn ngạch nhập khẩu và một số biện pháp phi thuế quan khcas, đồng thời thay vào đó chế độ thuế nhập khẩu thích hợp.
Cải tiến công tác quản lí điều hành xuất nhập khẩu, cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính, tinh giảm thủ tục hải quan, chống buôn lậu, quản lí nhập khẩu tiểu ngạch…
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước:
3.3.2.1. Phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại hối Việt Nam:
Chính sách quản lí tỉ giá ngoại hối của Nhà nước cần có sự điều chỉnh để đưa tỉ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng sát với thị trường.
Giám sát trạng thái ngoại hối cuối ngày của ngân hàng, bắt buộc các ngân hàng thương mại phải xử lí trạng thái ngoại hối của mình bằng việc mua bán ngoại tệ.
Phát triển các nghiệp vụ vay mượn ngoại tệ, nghiệp vụ đầu cơ, nghiệp vụ tiền gửi qua đêm và các hình thức mua bán ngoại tệ như: mua bán kì hạn, hợp đồng tương lai, hoán đối ngoại tệ, quyền mua, quyền bán…
Tăng cường hơn nữa vai trò của ngân hàng nhà nước khi đóng vai trò là chủ thể cuối cùng trong giao dịch mua bán ngoại tệ, tham gia và tác động kịp thời giúp cho các ngân hàng thương mại duy trì được trạng tái ngoại tệ an toàn của mình. Ngân hàng nhà nước cần đóng vai trò thanh toán bù trừ quốc tế, tức là trung gian thanh toán quốc tế cho các ngân hàng, điều này sẽ đẩy mạnh tốc độ thanh toán quốc tế, hạn chế được chi phí trung gian.
3.3.2.2. Cần tăng cường chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng nhà nước (CIC).
Việc thu thập, phân tích, xử lý kịp thời và chính xác các thông tin về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng, khả năng thanh toán, tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài là vô cùng quan trọng. Để công tác thông tin phòng ngừa rủi ro đạt hiệu quả cao, cần áp dụng các biện pháp:
Tăng cường trang bị các phương tiện thông tin hiện đại cho trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng nhà nước để có điều kiện thu thập, cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời.
Có cơ chế khuyến khích và bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng về việc cung cấp thường xuyên các thông tin về tình hình dư nợ của các doanh nghiệp tại tổ chức tín dụng.
3.3.2.3. Công tác điều hành chính sách tỉ giá cần linh hoạt và phù hợp với thực tế.
Tỉ giá hối đoái là một yếu tố rất nhạy cảm, nó không những ảnh hưởng tới lĩnh vực xuất nhập khẩu mà còn tác động tới toàn bộ các mặt hoạt động của đời sống kinh tế xã hội. Việc lựa chọn chế độ tỉ giá thả nổi có sự điều tiết quản lí của nhà nước là hợp lí, xong cần đổi mới cơ chế điều hành tỉ giá theo hướng tự do hóa dần.
Ngân hàng nhà nước cần nâng cao dự trữ ngoại tệ của nhà nước tương xứng với nhịp độ phát triển kim ngạch xuất nhập khẩu.
Xác định một cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lí trên cơ sở đa dạng hóa rổ ngoại tệ mạnh, không nên neo giữ đồng Việt Nam vào đồng đôla Mĩ. Khuyến khích các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đa dạng hóa cơ cấu tiền tệ trong giao dịch thương mại.
Chuẩn xác hóa các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi suất, thực trạng cán cân thanh toán, nợ nước ngoài để giúp nhà nước lựa chọn phương án điều chỉnh tỉ giá có hiệu quả hơn.
3.3.3. Kiến nghị đối với khách hàng:
3.3.3.1.Nâng cao trình độ ngoại thương:
Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cần trau dồi và nâng cao kiến thức về nghiệp vụ ngoại thương và nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Với nghiệp vụ ngoại thương vững vàng, bản thân mỗi doanh nghiệp mới có thể chủ động và hoàn thành tốt việc thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế giỏi sẽ đảm bảo cho các giao dịch được thực hiện trọn vẹn, doanh nghiệp xuất khẩu thu được tiền theo đúng giá trị hàng hóa dịch vụ đã kí kết trong hợp đồng, doanh nghiệp nhập khẩu nhận được đúng lô hàng, đủ số lượng và chất lượng, đảm bảo hiệu quả của hợp đồng ngoại thương.
Muốn thực hiện được nghiệp vụ ngoại thương cũng như hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế , các doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên môn, sử dụng thành thạo các qui trình cần thiết trong hoạt động ngoại thương.
3.3.3.2. Tìm hiểu và lựa chọn đúng đối tác nước ngoài:
Bên cạnh việc cẩn trọng trong khi kí kết hợp đồng ngoại thương, nếu khách hàng Việt Nam không tìm hiểu kĩ đối tác nước ngoài thì dù hợp đồng có chặt chẽ tới đâu nhưng nếu phía nước ngoài cố tình lừa đảo thì quyền lợi của doanh nghiệp Việt Nam vẫn bị vi phạm. Đa số các vụ tranh chấp xảy ra là do doanh nghiệp chưa lựa chọn đúng đối tác trong kinh doanh. Việc tìm hiểu thực lực và uy tín của công ty nước ngoai là hết sức cần thiết. Hiện nay các ngân hàng thương mại bắt đầu triển khai dịch vụ này, đặc biệt đối với các hợp đồng giá trị lớn thì các doanh nghiệp có thể nhờ ngân hàng phục vụ mình tìm hiểu đối tác kinh doanh thông qua hệ thống các ngân hàng đại lí của họ tại nước ngoài, hoặc có thể thông qua phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam., trung tâm thông tín dụng của ngân hàng nhà nước Việt Nam để có những thông tin đáng tin cậy về bạn hàng làm ăn.
3.3.3.4. Kiến nghị đối với BIDV HT:
Để đảm bảo hệ thống thanh toán quốc tế của BIDV HT hoạt động thông suốt và an toàn trong thời gian tới, BIDV HT cần khẩn trương tập trung ý kiến và những phản hồi của khách hàng về những vướng mắc trong quá trình thực hiện qui trình thanh toán quốc tế hiện đại, kết hợp với kĩ thuật tin học của hệ thống INCAS để có kịp thời chỉnh sửa những bất cập còn tồn tại trong qui chế và qui trình thanh toán quốc tế.
Trung tâm đào tạo kết hợp với các phòng nghiệp vụ thường xuyên tổ chức các lớp học ngoại ngữ, tin học, nghiệp vụ thanh toán quốc tế cho các đối là cán bộ mới tuyển dụng hoặc những cán bộ mới làm thanh toán quốc tế và có kế hoạch đào tạo lại cán bộ thanh toán quốc tế đang làm việc.
Thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra sát hạch trình độ cán bộ từ đó có kể hoạch phân loại đào tạo hoặc chuyển sang vị trí phù hợp. Tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ ngắn hạn cho các cán bộ, thông qua đó tạo điều kiện trao đổi và cập nhập qui chế mới.
Thành lập bộ phận chuyên trách với đội ngũ cán bộ được đào tạo cẩn thận trong lĩnh vực thanh toán quốc tế để phân tích các thông tin trên thị trường tài chính tiền tệ trong và ngoài nước, từ đó có thể hỗ trợ, tư vấn cho BIDV HT để hoạt động hiệu quả hơn
KẾT LUẬN
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, phát triển kinh tế đối ngoại là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Với xu hướng phát triển kinh tế quốc tế, hầu hết các nước đầu tham gia thương mại quốc tế, nhằm tận dụng lợi thế so sánh của nước mình nhằm tăng phúc lợi cho xã hội. Một trong những nhân tố quan trọng để thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia đó là hoạt động thanh toán quốc tế.
Như trong chương I và chương II đã trình bày, hoạt động thanh toán quốc tế mang tính nhạy cảm cao, tiềm ẩn rủi ro lớn, hơn nữa là thực trạng thanh toán quốc tế nói chung, thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng tại BIDV HT còn một số hạn chế. Mong muốn có được sự đóng góp nhỏ vào phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của BIDV HT, trên góc độ nghiên cứu và rủi ro tín dụng chứng từ, chuyên đề sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp djdax nêu lên được những luận cứ khoa học và những giải pháp về hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ và thực tiễn ở BIDV HT. Chuyên đề đã đưa ra đuợc những nội dung sau:
1. Tổng hợp và hệ thống hóa logic các lí luận cơ bản về tín dụng chứng từ, rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ, đồng thời nêu lên các nhân tố tác động tới rủi ro thanh toán tín dụng chứng từ tại BIDV HT.
2. Dựa trên cơ sở lí luận của Chương I, tiếp tục nghiên cứu đi sâu phân tích và đánh giá thực trạng rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại BIDV HT, trên cơ sở đó rút ra những kết quả đạt được,tồn tại và nguyên nhân gây rủi ro.
3. Cuối cùng, chuyên đề đưa ra các quan điểm về phòng ngừa hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại BIDV HT và đưa ra hệ thống giải pháp toàn diện để thực thi có hiệu quả các giải pháp được đề ra.
Em hi vọng các giải pháp và kiến nghị đề xuất sẽ đóng góp phần nào để phát triển thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại BIDV Hà Thành. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Hữu Tài và anh chị phòng Thanh toán quốc tế BIDV Hà Thành!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.TS Nguyễn Văn Tiến: Giáo trình thanh toán quốc tế, NXB Thống Kê, 2007.
PGS.TS Nguyễn Văn Tiến: Cẩm nang thanh toán quốc tế bằng L/C, NXB Thống Kê, 2007.
PGS.TS Nguyễn Văn Tiến: Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở, NXB Thống Kê, 2005.
PGS.NGUT Đinh Xuân Trình: Giáo trình thanh toán quốc tế trogn ngoại thương, NXB Giáo dục, 1998.
PGS.TS Nguyễn Thị Quy: Thanh toán quốc tế bằng L/C- Các tranh chấp thường phát sinh và cách giải quyết, NXB Chính Trị Quốc Gia, 2003.
PGS.TS Lê Văn Tư: Tiền tệ- Tín dụng và Ngân hàng, NXB Thống Kê 1997.
TS Võ Thanh Thu: Hướng dẫn đọc để hiểu UCP-DC 600, NXB Thống Kê, 2007.
Nguyễn Trọng Thùy: Toàn tập UCP, NXB Thống Kê 2003.
Nguyễn Thanh Trúc: Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương, Học Viện Ngân hàng, Hà Nội 2007.
Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, dịch từ Tiếng Anh: GS Đinh Xuân Trình., NXB Thống Kê, 2007.
Bản phụ trương UCP 600 về xuất trình chứng từ điện tử, eUCP1.1
Luật các tổ chức tín dụng, NXB Chính trị Quốc gia, 2006.
Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Báo cáo thường niên của BIDV HT từ 2005-2008
Bộ thương mại: “Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam”, 2006
http:// www.thương mai.gov.vn
Các phán quyết của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
http:// www.viac.org.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22170.doc