LỜI MỞ ĐẦU
Trong thực tiễn hoạt động ngân hàng rủi ro tín dụng được đánh giá như là một mắt xích quan trọng trong quản trị ngân hàng vì hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng Thương mại. Do vậy đề tài hạn chế rủi ro tín dụng trong ngân hàng Thương mại không phải là một đề tài mới mẻ. Tuy nhiên, quản trị rủi ro tín dụng chỉ mang lại hiệu quả nếu cõ chế quản trị rủi ro được xây dựng trên nền tảng khoa học được kiểm chứng bằng thực tiễn.
Thực tế cho thấy mặc dù
42 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng rủi ro tín dụng ở Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh (Vpbank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không phải là vấn đề mới nhưng cũng vẫn là nan giải với nhiều ngân hàng Thương mại. Hiện nay nhiều ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu rất cao. Do vậy đây vẫn là vấn đề được lýu tâm hàng đầu.
Qua thời gian thực tập ở Ngân hàng Thương mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VP Bank) em thấy tình hình phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng ở đây đã thực hiện rất tốt. Do vậy em đã tiến hành tìm hiểu các công cụ chính sách mà VP Bank đã thực hiện để đạt được thành công đó và nghiên cứu các giải pháp để hoàn thiện hõn những phần còn thiếu sót.
Do thời gian nghiên cứu và trình độ còn hạn chế nên đề tài của em có thể còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng các bạn.
Em xin cảm ơn!
CHƯƠNG 1: RỦI RO TÍN DỤNG, Ý NGHĨA CỦA PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Rủi ro tín dụng của ngân hàng Thương mại
1.1.1 Hoạt động tín dụng của ngân hàng Thương mại
1.1.1.1 Khái quát về ngân hàng Thương mại
Khái niệm ngân hàng Thương mại
Ngân hàng đầu tiên ra đời ở Ý vào thời kỳ phục hưng. Các ngân hàng có nguồn gốc từ những người đổi tiền. Từ “ngân hàng-bank” có nguồn gốc từ từ “banca” trong tiếng Ý nghĩa là cái ghế băng- nơi những người đổi tiền thường ngồi để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Những người làm người đổi tiền là những nhà giầu nên thường có két sắt an toàn do đó họ nhận luôn việc giữ các đồ vật quý cho những người chủ sở hữu nó, tránh gây mất mát. Đổi lại, người chủ sở hữu phải trả cho người giữ một khoản tiền công. Khi công việc này mang lại lợi ích cho những người gửi, các đồ vật cần gửi ngày càng đa dạng hõn, các vật có giá trị như vậy là tiền, dần dần, ngân hàng là nơi giữ tiền cho những người có tiền. Khi xã hội phát triển, Thương mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn, tức là phát sinh nhu cầu vay tiền ngày càng lớn trong xã hội. Khi nắm trong tay một lượng tiền, những người giữ tiền nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền vào và có người rút tiền ra. Tuy nhiên những người gửi tiền không rút tiền cùng một lúcnên thường xuyên có số dý. Và những người giữ tiền nảy ra ý định cho vay số tiền đó. Từ đó phát sinh nghiệp vụ đầu tiên nhưng cõ bản nhất của ngân hàng nói chung, đó là huy động vốn và cho vay vốn.
Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.1.1.2 Hoạt động tín dụng của ngân hàng Thương mại
Khái niệm tín dụng
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định trả lại với một lượng lớn hõn.
Khái niệm trên thể hiện ở ba đặc điểm cõ bản, nếu thiếu một trong ba đặc điểm sau thì sẽ không còn là phạm trù tín dụng nữa:
-Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người khác.
-Sự chuyển giao này mang tính chất tạm thời.
-Khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm theo một lượng giá trị dôi thêm gọi là lợi tức.
Trong hoạt động ngân hàng tín dụng được hiểu là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng.
Hình thức tín dụng ngân hàng Thương mại: Căn cứ vào thời hạn tín dụng người ta chia ra:
Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và thường được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt vốn lýu động tạm thời của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, tín dụng dài hạn được sử dụng để cấp vốn cho các doanh nghiệp vào các vấn đề như: xây dựng cõ bản, đầu tý xây dựng các xí nghiệp mới,các công trình thuộc cõ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng ở giữa hai kỳ hạn trên, loại tín dụng này được cung cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
1.1.2 Rủi ro tín dụng của ngân hàng Thương mại
1.1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng của ngân hàng Thương mại
Rủi ro được hiểu là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến.
Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho ngân hàng.
Rủi ro tín dụng được gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của NHTM - hoạt động tín dụng.
1.1.2.2 Nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng trong ngân hàng Thương mại
Hoạt động ngân hàng chứa đựng nhiều tiềm ẩn rủi ro mà chúng ta khó có thể lýờng trýớc được. Nguyên nhân của những tiềm ẩn rủi ro này là do ngân hàng là một trung gian tài chính,huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với lãi suất thấp, sau đó cho các tổ chức kinh tế, cá nhân vay lại với lãi suất cao để thu lợi nhuận. Nếu ngân hàng không đáp ứng đủ vốn cho nền kinh tế hoặc huy động đủ vốn nhưng không có thị Trường để cho vay thì ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, sẽ dẫn đến rủi ro.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan như kinh tế, chính trị, xã hội….Từ đó cũng gây ra những thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng. Hõn nữa, ngân hàng kinh doanh không những chỉ huy động vốn và cho vay mà còn rất nhiều lĩnh vực khác như thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh, dịch vụ thẻ đại lý ....Vì vậy có thể nói rằng rủi ro ngân hàng rất đa dạng. Ngoài ra, các ngân hàng đang hoạt động trong cõ chế thị Trường có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng với nhau hoặc giữa các tổ chức tín dụng, dẫn đến việc cạnh tranh về lãi suất để huy động được vốn, làm cho lãi suất huy động vốn cao hõn lãi suất cho vay cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro cho ngân hàng.
Do đặc thù kinh doanh của ngân hàng nên có nhiều loại rủi ro: rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng…Trong số tất cả các loại rủi ro kể trên thì rủi ro trong hoạt động tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và phức tạp nhất, đang diễn ra ở mức đáng quan tâm.
Rủi ro tín dụng phát sinh trong Trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản cho vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ Thương mại, cho vay ở thị Trường liên ngân hàng, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ …..
Có nhiều nguyên nhân có thể gây ra rủi ro tín dụng nhưng chung quy lại là do các nguyên nhân sau:
Những nguyên nhân bất khả kháng: là những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay làm cho họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng như thiên tai, chiến tranh hoặc những thay đổi tầm vĩ mô như thanh đổi chính phủ, chính sách kinh tế …výợt quá tầm kiểm soát của người vay và người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vẫn có thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng tuy nhiên những nguyên nhân này cũng làm cho khả năng trả nợ của họ bị suy giảm.
Nguyên nhân thuộc về chủ quan người đi vay: Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa cán bộ tín dụng… Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với Ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc..
Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng: Đây là loại rủi ro phát sinh từ bên trong Ngân hàng do cán bộ tín dụng như làm trái qui trình tín dụng để mýu lợi cá nhân, định giá tài sản thế chấp không đúng giá trị thực tế do trình độ nghiệp vụ kém hay do có sự thông đồng với khách hàng, hoặc do tài sản thế chấp bị mất giá. Khi Ngân hàng thẩm định cho vay thì tài sản thế chấp đang giá cao, sau đó giá giảm mạnh, khách hàng không trả được nợ, Ngân hàng xiết nợ nhưng không bán được do giá quá thấp, hoặc là không có người mua, hoặc là tiền thu về thấp hõn so với số tiền cho vay; trực tiếp thu nợ gốc và lãi nhưng không nộp lại Ngân hàng mà dùng cho mục đích cá nhân; lập hồ sõ giả để vay tiền cá nhân, vay hộ, nhờ người vay hộ; tẩy xoá, sửa chữa chứng từ có giá để thế chấp vay tiền Ngân hàng.
1.2 Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại
1.2.1 Khái niệm và sự cần thiết phòng ngừa v à hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại
Phòng ngừa rủi ro tín dụng là những biện pháp của ngân hàng thương mại không để rủi ro xảy ra trong các nghiệp vụ tín dụng.
Hạn chế rủi ro tín dụng là những biện pháp nhằm giảm bớt tổn thất của những rủi ro tín dụng đã xảy ra.
Khi gặp rủi ro tín dụng, Ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng Ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho Ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm Ngân hàng kinh doanh không có hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng Ngân hàng thường rõi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hýởng đến uy tín của Ngân hàng. Đối với cấp dưới, do gặp phải rủi ro tín dụng nên không có tiền trả lýõng cho nhân viên vì thế những người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, gây khó khăn cho Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng của một Ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ nhất là Ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi Ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến Ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, Ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống Ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị Ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
1.2.2 Biểu hiện của rủi ro tín dụng
1.2.2.1 Rủi ro trong huy động vốn
Rủi ro lãi suất
Là những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu khi lãi suất trên thị Trường biến động. Khi ngân hàng huy động vốn với lãi suất cao, do cạnh tranh giữa các ngân hàng Thương mại, nhưng lãi suất cho vay không tăng hoặc tăng không týõng ứng sẽ dẫn đến ngân hàng bị ứ đọng vốn,hoặc làm cho lợi nhuận giảm đi. Như vậy khi lãi suất thị Trường biến động sẽ làm cho ngân hàng có khả năng gặp rủi ro.
Huy động vốn lớn hõn nhu cầu cho vay
Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của ngân hàng là nguồn vốn huy động. Nếu số vốn này bị ứ đọng, không thể cho vay hoặc đầu tý vào các loại tài sản có thể sinh lời trong khi ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số vốn đã huy động được, ngân hàng sẽ rõi vào trạng thái mất cân bằng, kéo dài tình trạng này sẽ dẫn tới tình trạng thua lỗ.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng cao
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của Ngân hàng Nhà nýớc về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các Ngân hàng Thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản.
Để góp phần kiềm chế lạm phát, trong những tháng đầu năm 2008 NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng tại NHNN là 11%. Mục đích điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lần này là hạn chế số nhân tiền, nhằm rút bớt khối lượng tiền trong lýu thông về NHNN. Chính việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm các ngân hàng Thương mại đồng loạt tăng lãi suất huy động vốn VNĐ và hạn chế cho vay để đảm bảo khả năng thanh toán.
Mất vốn do các nguyên nhân khác
Đây là loại rủi ro khách quan do thiên tai gây ra như lũ lụt, động đất, hoả hoạn hoặc do bị mất trộm, bị lừa đảo, tham nhũng… cũng như các nguyên nhân liên quan đến đội ngũ cán bộ nhân viên của ngân hàng, có thể do năng lực hạn chế hoặc do lợi ích cá nhân mà làm thiệt hại đến tài sản của ngân hàng. Mặc dù các rủi ro này xảy ra với tần suất không cao, mang tính thuần tuý nhưng nó cũng gây thiệt hại lớn đối với ngân hàng.
1.2.2.2 Rủi ro trong cho vay
Rủi ro tín dụng là yếu tố khách quan nên không thể đo lường chính xác để hạn chế tuyệt đối. Tuy nhiên người ta cũng đã lượng hoá thành những biểu hiện chính phát sinh trong hoạt động tín dụng để hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại. Và để đánh giá mức độ hạn chế rủi ro tín dụng, người ta nhìn vào sự thay đổi của các chỉ tiêu này. Cụ thể:
Nợ có vấn đề và tỷ lệ nợ có vấn đề trên tổng dư nợ
Các khoản nợ có vấn đề là các khoản nợ có khả năng thành nợ quá hạn. Các khoản nợ có vấn đề được phát hiện sớm và được áp dụng các biện pháp thích hợp sẽ ngăn ngừa các khoản nợ quá hạn phát sinh giảm khả năng tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu. Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một tiêu chuẩn về nợ có vấn đề, tuy nhiên bởi vì nợ có vấn đề dễ chuyển thành nợ quá hạn nên việc các khoản nợ có vấn đề giảm về giá trị cũng như tỷ lệ nợ có vấn đề trên tổng dư nợ giảm đi là một biểu hiện của rủi ro tín dụng.
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh mức độ tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên quan đến đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản: chi phí tăng để tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và chi vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một cảnh báo cho ngân hàng về khoản vay từ đó ngân hàng tìm biện pháp khắc phục để thu lại nợ.
Việc trích lập dự phòng rủi ro
Quỹ dự phòng rủi ro được thành lập nhằm mục đích bù đắp và chi phí của ngân hàng khi xảy ra rủi ro để không làm ảnh hưởng đột biến chi phí của ngân hàng. Quỹ dự phòng rủi ro được ngân hàng trích lập theo quy định của ngân hàng trung ương. Tỷ lệ trích lập dựa vào mức độ rủi ro của các khoản vay do vậy nhìn vào quỹ dự phòng rủi ro và quá trình sử dụng nó ta có thể đánh giá được mức độ hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng đó.
1.2.3 Các nhân tố dẫn đến rủi ro tín dụng
1.2.3.1 Nhân tố khách quan
Nhân tố thuộc về môi Trường
Cũng giống như cácdoanh nghiệp khác, ngân hàng hoạt động và chịu nhiều nhân tố thuộc về môi Trường kinh tế xã hội, chính trị, pháp luật nói chung. Hoạt động tín dụng của ngân hàng lại đặc biệt liên quan đến rất nhiều ngành nghề trong nền kinh tế, vì vậy việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng chịu sự ảnh hýởng của nhiều yếu tố khách quan. Đầu tiên là sự ổn định về tầm vĩ mô nói chung, nó bao gồm sự ổn định về chính trị, luật pháp và xã hội. Một khi có môi Trường ổn định thì không chỉ ngân hàng nói riêng mà các doanh nghiệp nói chung mới có thể yên tâm kinh doanh và kinh doanh một cách có hiệu quả, ngýợc lại, tình hình chính trị bất ổn, chính sách nhà nýớc đýa ra có sự thay đổi bất ngờ, hệ thống luật pháp không đầy đủ và chặt chẽ, tình hình thi hành pháp luật không nghiêm minh … thì ngân hàng dù cố gắng cũng khó có thể hạn chế được rủi ro tín dụng.
Ngành ngân hàng chịu sự tác động trực tiếp của môi Trường kinh tế. Không chỉ sự ổn định của môi Trường kinh tế mà sự phát triển nền kinh tế cũng đồng thời ảnh hýởng rất lớn tới hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Sự phát triển đa dạng các ngành kinh tế giúp ngân hàng phân tán được rủi ro trong hoạt động tín dụng, sự ra đời của nhiều ngành mới như các trung tâm thông tin, các công ty xếp hạng doanh nghiệp giúp ngân hàng nắm bắt được nhiều thông tin hõn về khách hàng. Từ đó có nhiều đánh giá về khách hàng chính xác hõn nhằm nâng cao hạn chế rủi ro tín dụng. Sự phát triển của kinh tế cũng tạo điều kiện cho các công cụ nhằm đo lýờng, lượng hoá hay các công cụ phái sinh nhằm hạn chế rủi ro ra đời và phát triển, giúp ngân hàng hạn chế rủi ro nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng.
Bên cạnh môi Trường kinh tế, môi Trường pháp luật cũng là một yếu tố rất quan trọng ảnh hýởng tới hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng Thương mại. Môi Trường pháp luật không chỉ cần phải ổn định riêng mà riêng đối với ngành ngân hàng-ngành nhậy cảm trong nền kinh tế, hệ thống pháp luật phải đảm bảo đầy đủ, chặt chẽ. Không chỉ khách hàng của ngân hàng phải được giám sát bằng pháp luật mà bản thân ngân hàng cũng được điều chỉnh theo pháp luật nhằm phát hiện sớm các dấu hiệu không an toàn, tuy nhiên hệ thống luật pháp phải đảm bảo nguyên tắc tự chủ của các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng nói riêng.
Nhân tố thuộc về khách hàng
Ngân hàng thực hiện hoạt động tín dụng nhằm phục vụ khách hàng, các khoản tín dụng nhằm phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh của khách hàng. Vì vậy muốn hạn chế rủi ro tín dụng, thì ngân hàng không thể làm một mình mà còn phải có sự hợp tác từ phía khách hàng. Các yếu tố phụ thuộc về bản thân người vay như trình độ, năng lực quản lý ảnh hýởng trực tiếp tới hiệu quả của phýõng án kinh doanh-nguồn trả nợ đầu tiên cho ngân hàng, từ đó ảnh hýởng tới việc trả nợ cho ngân hàng. Trong Trường hợp phýõng án kinh doanh không hiệu quả thì năng lực tài chính của người vay lại là yếu tố mang quyết định trong việc trả nợ ngân hàng. Bên cạnh đó, khách hàng có phẩm chất đạo đức tốt, vị trí xã hội quan trọng đảm bảo dù không chắc chắn rằng khách hàng không cố tình lừa đảo ngân hàng hay chây ỳ trong việc trả nợ. Như vậy, các yếu tố thuộc về bản thân khách hàng như trình độ quản lý, năng lực tài chính, tý cách phẩm chất đạo đức có ảnh hýởng lớn tới việc hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Một khách hàng tốt không may bị các nguyên nhân khách quan như bão lụt chẳng hạn làm ảnh hýởng đến hoạt động kinh doanh làm cho họ không có khả năng trả nợ mặc dù họ không có ý định không trả nợ.
1.2.3.2 Nhân tố chủ quan
Nhân tố thuộc về ngân hàng
Ngân hàng luôn đýa ra các công cụ để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng: bao gồm chính sách tín dụng, quy trình tín dụng, cách thức quản lý tiền cho vay của ngân hàng, chất lượng của đội ngũ cán bộ tín dụng, hệ thống thông tin tín dụng, đa dạng hoá hoạt động.
Chính sách tín dụng: Là hệ thống chủ trýõng, định hýớng quy định chi phối hoạt động tín dụng do ngân hàng đýa ra nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, các hộ gia đình và cá nhân.
Mục đích của chính sách tín dụng :
-Chính sách tín dụng xác định những giới hạn áp dụng cho các hoạt động. Đồng thời cũng thiết lập môi Trường nhằm giảm bớt rủi ro trong hoạt động tín dụng.
-Chính sách tín dụng được đýa ra nhằm bảo đảm rằng mỗi quyết định tín dụng (quyết định tài trợ vốn) đều khách quan tuân thủ quy định của ngân hàng và phù hợp thông lệ quốc tế.
Quy trình tín dụng: Là các býớc mà nhân viên tín dụng cần làm khi quản lý hợp đồng tín dụng, nó bao gồm tất cả các quá trình từ khi lập hồ sõ cho vay, giải ngân, đến lúc thu nợ cả vốn lẫn lãi. Một quy trình tín dụng đặt ra phải đảm bảo chặt chẽ, chính xác, khoa học là cách thức hiệu quả nhất để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng: Chất lượng của nhân viên tín dụng phải được đảm bảo hai yếu tố chuyên môn và đạo đức. Cán bộ tín dụng có chuyên môn giỏi giúp cho ngân hàng đýa ra chính sách tín dụng phù hợp, quy trình tín dụng chặt chẽ, các công cụ thích hợp và thực hiện chúng một cách hiệu quả từ đó sẽ giúp ngân hàng phòng ngừa và hạn chế được rủi ro. Đạo đức nghề nghiệp với ngành nghề nào cũng rất quan trọng nhưng riêng đối với ngân hàng thì đặc biệt quan trọng bởi nhân viên ngân hàng sống trong môi Trường mà ở đó các hành vi hàm lợi cá nhân dễ dàng xảy ra hõn và khó phát hiện hõn. Nhân viên ngân hàng không đáp ứng đủ các điều kiện cần thiết về mặt đạo đức nghề nghiệp thì dù ngân hàng có các chính sách tín dụng phù hợp đến mấy thì việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng cũng không hiệu quả.
Hệ thống thông tin ngân hàng: Thông tin ngân hàng đầy đủ, chính xác và kịp thời là cõ sở để ra một quyết định đúng đắn. Hoạt động ngân hàng là một hoạt động đa dạng và phức tạp nên điều này rất quan trọng. Trong hoạt động tín dụng, thông tin được sử dụng ở mọi thời điểm: Khi xem xét cho vay nhân viên tín dụng căn cứ vào các thông tin về người vay, phýõng án vay vốn,… để đýa ra quyết định cho vay. Khi khoản vay được giải ngân nhân viên tín dụng phải giám sát người vay bằng các thông tin như tình hình sử dụng vốn có hợp lý hay không, tình hình hoạt động kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng…. Như vậy thông tin có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định một khoản vay có hiệu quả hay không, hay nói cách khác thông tin có tính chất quyết định trong việc hạn chế rủi ro tín dụng.
Tính đa dạng trong hoạt động của ngân hàng: Đa dạng hoá là một nguyên tắc trong hạn chế rủi ro nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng. Tính đa dạng hoá trong hoạt động của ngân hàng thể hiện trên các khía cạnh: Ngân hàng không chỉ có các hoạt động cõ bản như huy động vốn, tín dụng, thanh toán quốc tế mà còn có các dịch vụ như nghiệp vụ quản lý ngân quỹ, tý vấn quản lý quỹ đầu tý, bảo hiểm …. Trong hoạt động ngân hàng mà cụ thể là hoạt động cho vay sự đa dạng hoá thể hiện ở các hình thức cho vay phong phú, các ngành nghề cho vay đa dạng, với nhiều đối týợng khách hàng khác nhau. Sự đa dạng còn thể hiện ở các công cụ ngân hàng đýa ra để hạn chế rủi ro tín dụng.
1.3 Ý nghĩa phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
Việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong quan hệ tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng tránh được những hậu quả do nó gây ra. Những rủi ro trong quan hệ tín dụng không chỉ tác động tiêu cực đến chính bản thân ngân hàng mà nó còn tác động không nhỏ đối với nền kinh tế. Vì vậy, việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong quan hệ tín dụng có ý nghĩa hết sức quan trọng .
1.3.1 Hạn chế tổn thất về vốn và tài sản của ngân hàng Thương mại, góp phần tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Rủi ro xảy ra tác động trực tiếp tới lợi nhuận của ngân hàng. Khi rủi ro xảy ra ở mức độ nhỏ thì ngân hàng có thể dùng lợi nhuận của mình hoặc vốn tự có để bù đắp. Song nếu rủi ro ở mức độ lớn thì lợi nhuận không đủ bù đắp thì ngân hàng sẽ ở bên bờ phá sản. Vì vậy, phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong quan hệ tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế được những tổn thất về vốn và tài sản của ngân hàng tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi cũng như nâng cao được lợi nhuận của mình.
1.3.2 Đảm bảo an toàn tài sản cho người gửi tiền và các doanh nghiệp.
Rủi ro là yếu tố gắn liền với mọi hoạt động đầu tý nói chung, trong đó có hoạt động cho vay của Ngân hàng. Trong nỗ lực nhằm thu được lợi nhuận, các Ngân hàng không thể chối bỏ rủi ro, nghĩa là không thể không cho vay, mà có thể tìm cách làm cho hoạt động này trở nên an toàn và hạn chế đến mức tối đa những tổn thất có thể có bằng cách đề ra cho mình một chiến lýợc quản lý rủi ro thích hợp. Như vậy ngân hàng mới có thể đảm bảo an toàn tài sản cho người gửi tiền và các doanh nghiệp.
1.3.3 Góp phần ổn định kinh tế-xã hội
Hoạt động Ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các nghành và các cá nhân, vì vậy khi một Ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các Ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các Ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống Ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hýởng đến tình hình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lýõng dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hõn nữa, sự hoảng loạn của các Ngân hàng ảnh hýởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH (VPBANK)
2.1 Giới thiệu về VP Bank
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh Việt Nam (VP Bank) được thành lập theo giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của Thống đốc NHNN Việt Nam cấp ngày 12 tháng 08 năm 1993 với thời gian hoạt động là 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04 tháng 09 năm 1993 theo giấy phép thành lập số 1535/ QĐ-UB ngày 04 tháng 09 năm 1993.
Các chức năng hoạt động chủ yếu của VPBank bao gồm: Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân cư từ khả năng nguồn vốn của ngân hàng; kinh doanh ngoại hối; chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác; cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa các khách hàng và các dịch vụ ngân hàng khác theo quy định của NHNN Việt Nam.
Hiện tại, VP Bank đang có hơn 120 điểm giao dịch trên toàn hệ thống. Bên cạnh việc mở rộng mạng lưới giao dịch, VPBank cũng mở thêm hai công ty trực thuộc đó là Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản và Công ty chứng khoán.
Gần 15 năm xây dựng và trưởng thành, VP Bank đã gặp không ít khó khăn nhưng đến nay VP Bank đã đạt được những kết quả đáng kể trong hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng luôn đảm bảo nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên, đồng thời hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn có lợi nhuận và dư nợ lành mạnh, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế-xã hội đất nước.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của VP Bank:
VPBank được quản lý bởi Hội đồng quản trị và được điều hành bởi Ban điều hành. VPBank được tổ chức theo cơ cấu kết hợp trực tuyến-chức năng, thực hiện kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Sơ đồ tổ chức:
ĐẠI HỘI CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN ĐIỀU HÀNH
Văn phòng
Hội đồng quản trị
Hội đồng Quản lý Tài sản nợ,
Tài sản có
Hội đồng
Tín dụng
Ban Kiểm soát
Phòng Kiểm toán nội bộ
Các ban Tín dụng
Phòng Kế toán
Phòng Ngân quỹ
Phòng Tổng hợp và Phát triển sản phẩm
Trung tâm Tin học
Trung tâm Đào tạo
Trung tâm Thẻ
Trung tâm
Western Union
Văn phòng
Phòng pháp chế
Phòng thanh toán Quóc tế - Kiều hối
Các chi nhánh
Các phòng
giao dịch
Công ty Quản lý Tài sản VP Bank
Công ty Chứng khoán VPBank
2.1.3 Kết quả hoạt động chính
2.1.3.1 Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn là hoạt động quan trọng của ngân hàng. Đây là hoạt động mở tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ tiền cho khách hàng, qua đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, tổ chức và của dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn tiền của ngân hàng vì có nguồn tiền ổn định, mạnh mẽ sẽ giúp cho ngân hàng chủ động kinh doanh. Ý thức được tầm quan trọng đó VPBank đã luôn chú trọng đến công tác huy động vốn từ các nguồn như các doanh nghiệp, tiền trong dân cư bằng các hình thức tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn.
Với chính sách lãi suất hấp dẫn, linh hoạt, phù hợp với biến động của thị trường VPBank đã thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, cá nhân, nguồn vốn này luôn tăng trưởng trong các năm thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1.2: Nguồn vốn huy động tại VPBank các năm 2006-2007
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
2007/2008
Số tiền
Tỷ
trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
(+)/(-)
%
Nguồn vốn huy động
8.065.194
12.970.246
4.905052
60,81
1.Tiền gửi DN
6.252.155
77,5
8.250.102
63,6
1.997.947
31,96
2.Tiền gửi dân cư
1.813.039
22,5
4.720.144
36,4
2.907.105
160
3.Tiền gửi KKH
3.386.736
42
4.872.130
37,6
1.485.394
43,8
4.Tiền gửi CKH
4.678.458
58
8.098.116
62,4
3.419.658
73
(Nguồn: Phòng tổng hợp VP Bank)
Từ bảng số liệu trên đã phản ánh tình hình nguồn vốn huy động năm 2007 của ngân hàng được 12.970,2 tỷ đồng tăng 60,81% so với nguồn vốn huy động năm 2006. Trong đó lượng vốn huy động từ dân cư tăng khá, năm 2007 tiền gửi dân cư là 4.720 tỷ đồng tăng 160% so với năm 2006. Mức huy động vốn từ dân cư tăng trưởng mạnh như vậy là nhờ ngân hàng đã áp dụng nhiều chính sách mới để thu hút khách hàng: lãi suất hợp lý, thủ tục nhanh chóng, thuận tiện, nhiều chương trình khuyến mại hấp dẫn, phương thức đa dạng… nên đã huy động ngày càng tăng lượng tiền nhàn rỗi lớn trong dân cư.
Căn cứ vào thời hạn huy động vốn ta thấy cơ cấu của tiền gửi có kỳ hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn. Tỷ lệ tăng nguồn tiền gửi có kỳ hạn của năm 2007 so với năm 2008 là 73%. Đây là điều rất có lợi cho ngân hàng vì như vậy nguồn tiền gửi có kỳ hạn bao giờ cũng ổn định hơn tiền gửi không kỳ hạn, tạo sự ổn định cho nguồn vốn.
Có được thành công như vậy là nhờ ban lãnh đạo VP Bank trong việc chỉ đạo định hướng hoạt động cũng như lực lượng cán bộ công nhân viên ngân hàng áp dụng các chính sách lãi suất linh hoạt theo thị trường, các chương trình khuyến mãi, chăm sóc khách hàng chu đáo, dịch vụ thuận tiện….
2.1.3.2 Hoạt động cho vay
Song song với hoạt động huy động vốn là hoạt động cho vay, nếu huy động vốn tốt mà không quan tâm đến đến hoạt động cho vay thì sẽ xảy ra tình trạng ứ đọng vốn làm cho ngân hàng dẫn đến rủi ro lỗ vốn. Trong những năm qua,mở rộng hoạt động cho vay luôn là mục tiêu hoạt động của VPBank và thực tế hoạt động cho vay đã được thực hiện rất tốt.
Bảng 2.2 Hoạt động cho vay tại VP Bank qua các năm 2006-2007
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2007/2006
Doanh số
Tỷ trọng
Doanh số
Tỷ trọng
(+) / (-)
Tỷ lệ
1.Dư nợ cho vay
5.031.190
9.867.024
4.835.834
96%
2.Cho vay ngắn hạn
1.511.550
30%
4.187.898
42,5%
2.676.348
177%
3.Cho vay trung và dài hạn
3.519.640
70%
5.679.126
57,5%
2.159.486
61%
4. Cho vay VNĐ
4.078.986
80%
7.152.170
72,5%
3.073.184
75%
5.Cho vay ngoại tệ
952.204
20%
2.714.854
27,5%
1.762.650
185%
6.Doanh số cho vay
4.594.000
9.070.000
4.476.000
97%
(Nguồn: Phòng tổng tổng hợp VPBank)
Qua bảng tổng kết hoạt động tín dụng của ngân hàng ta thấy: dư nợ tín dụng của ngân hàng tăng trưởng mạnh , từ 5,031 tỷ đồng năm 2006 lên 9,867 tỷ đồng năm 2007, tỷ lệ tăng tương ứng là 96%. Nếu căn cứ vào thời hạn tín dụng thì doanh số cho vay trung và dài hạn năm 2007 đạt 5,679 tỷ đồng tăng 61% so với năm 2007 và chiếm 57,5% tổng dư nợ. Nếu căn cứ theo loại tiền thì dư nợ cho vay đối với đồng VNĐ lớn hơn rất nhiều so với cho vay ngoại tệ. Mặc dù năm 2007 tỷ lệ cho vay ngoại tệ tăng mạnh đạt 185% so với năm 2006 nhưng tỷ trọng chỉ chiếm 27,5% tổng dư nợ. Điều này thể hiện tâm lý e ngại của người vay khi sử dụng tiền vay bằng ngoại trong điều kiện thị trường ngoại hối có nhiều diễn biến phức tạp.
2.1.3.3 Doanh số hoạt động dịch vụ
Ngoài hoạt động tín dụng ra thì một số ngành dịch vụ khác cũng mang lại lợi nhuận khá cao cho VPBank như dịch vụ thanh toán xuất ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33469.doc