Thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở Việt Nam

Tài liệu Thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở Việt Nam: ... Ebook Thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở Việt Nam

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3029 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Chúng ta nói rằng thế giới đang ngày một thu nhỏ ,họ nói rằng tất cả chúng ta đang trở nên giống nhau hơn. Tại sao mọi người đều nghĩ vậy ? bởi vỡ chỳng ta đều nói những ngôn ngữ giống nhau. just do it .(Nike) The real thing (cocacola)… Bạn có thể thấy quảng cáo ở mọi nơi từ Trung Quốc hay đến Buenos Aires . Trên thực tế bạn chỉ có thể thoát khỏi quảng cáo ở Nam Triều Tiên.NHưng thực tế có thể sớm thay đổi vỡ một vài cụng ty đang có kế hoạch quảng cáo tên của họ ở trên bề mặt của mặt trăng. Quảng cỏo là một ngành kinh doanh lớn.Trung bỡnh một người dân Mỹ nhỡn và nghe khoảng 1500 cỏc loại quảng cỏo mỗi ngày. Cùng với sự xuất hiện và phát triển của thương mại điện tử, quảng cáo trên Internet cũng bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam đang bắt đầu khám phá những sức mạnh của quảng cáo trên mạng và nó đã chứng minh những ưu điểm tuyệt vời của mình, đặc biệt là trong việc giúp các doanh nghiệp Việt Nam có được sự hiện diện của mình trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, cũng như thương mại điện tử, việc quảng cáo trên Internet mới chỉ hạn chế trong một số bộ phận nhỏ các doanh nghiệp. Một phần là do cơ sở hạ tầng và kỹ thuật thông tin của Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế, một phần khác quan trọng hơn là do các doanh nghiệp chưa nhận thức được các lợi ích của quảng cáo trên mạng và cách thức để biến phương tiện truyền thông này phục vụ cho hoạt động kinh doanh ,quảng cáo của mình. Vì vậy, mục đích của khoá luận này nhằm cung cấp một cỏi nhỡn khái quát về sự hình thành và phát triển của quảng cáo trên mạng, cách tiến hành quảng cáo trên Internet và về tình hình ứng dụng Internet vào hoạt động quảng cáo ở Việt Nam. Khoá luận gồm ba phần chính: Chương I: lý luận chung về quảng cáo trên mạng Internet . Chương II: Thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở VIệt Nam. Chương III: Phương hướng và biện pháp phát triển quảng cáo trên mạng Internet ở VIệt Nam. Trong chương thứ nhất, chúng ta sẽ tìm hiểu tại sao người ta lại coi Internet là phương tiện truyền thông quảng cáo tốt nhất hiện nay và xu hướng phát triển của nó. Chương thứ hai sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quát về các hình thức quảng cáo hết sức đa dạng và phong phú hiện nay ở Việt Nam và cách thức để thực hiện việc quảng cáo trên mạng đạt hiệu quả. Trong chương cuối cùng, chúng ta sẽ nghiên cứu về tình hình phát triển của quảng cáo trên mạng tại Việt Nam và những khó khăn mà ngành quảng cáo trên mạng của Việt Nam đang mắc phải và phương hướng phát triển trong thời gian tới. Do còn hạn chế về mặt thời gian và kiến thức, đề án này khó tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn thêm. Sau cùng, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Hoàng Đức Thân , người đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành đề án này. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢNG CÁO TRÊN MẠNG INTERNET . 1.1 Khái niệm chung về quảng cáo . “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện không gian và thời gian để truyền tin định trước về sản phẩm hay thị trường cho người bán lẻ hay người tiêu thụ ” Chi phí cho quảng cáo cực kỳ lớn nhưng nó được bù đắp bằng tiền của những người mua hàng bị nó chinh phục. Quảng cáo thu hút sự chú ý của khách hàng sau đó thuyết phục họ về những lợi ích, sự hấp dẫn của sản phẩm nhằm biến đổi hoặc củng cố thái độ, lòng tin của người tiêu thụ về sản phẩm của công ty và tăng lòng ham muốn mua hàng của họ. Quảng cáo là phương tiện hỗ trợ rất đắc lực cho cạnh tranh. Quảng cáo có tác dụng khai thác mọi giá trị tồn tại trong cuộc sống hiện đại: sức khỏe, sự an toàn,chất lượng, thuận tiện, sự thích thú, sự hấp dẫn, tính hiệu quả,tính thẩm mỹ cao kinh tế và tiết kiệm. Quảng cáo không chỉ cần thiết khi hàng hóa ứ đọng, thị trường bão hòa. Quảng cáo là một công việc cần thiết trong quá trình lưu thông hàng hóa với mục đích nhằm đẩy mạnh quá trình lưu thông, hướng dẫn hình thành nhu cầu, đáp ứng nhu cầu một cách nhanh chóng, đúng đối tượng và hướng dẫn người tiêu dùng sử dụng hiệu quả hàng hóa đã mua. Khả năng cung ứng hàng hóa càng lớn về số lượng, đa dạng về chủng loại hàng đồng thời xu hướng nhu cầu của người tiêu dùng càng đi vào chiều sâu, đòi hỏi về chất lượng càng cao, thị hiếu càng tinh tế và đa dạng thì quảng cáo càng trở nên cần thiết. Internet trở thành một phương tiện tiếp thị, quảng cáo từ năm 1994. Internet khác với các phương tiện truyền thông khác trên nhiều phương diện. Internet vừa là phương tiện thông tin cá nhân lại vừa là phương tiện thông tin đại chúng. Với các đặc tính ưu việt của mình, Internet đã trở thành một phương tiện quảng cáo hiện đại và hiệu quả nhất hiện nay. Khái niệm về quảng cáo trên Internet đã được phát triển và thay đổi liên tục trong suốt quá trình hình thành và phát triển của nó. Ban đầu người ta định nghĩa nó là sự tổng hợp của tất cả các ngành. Quảng cáo trên mạng kết hợp hiệu quả của các yếu tố in ấn, hình ảnh của báo chí cũng như âm thanh chuyển động của truyền hình. Người ta đã tranh cãi rất nhiều về việc liệu quảng cáo trên mạng có giống hình thức quảng cáo truyền thống nhằm gây sự chú ý hay giống kiểu marketing trực tiếp để bán hàng. Cũng như các mô hình quảng cáo khác, quảng cáo trên mạng nhằm cung cấp thông tin, đẩy nhanh tiến độ giao dịch giữa người mua và người bán. Nhưng quảng cáo trên mạng khác hẳn các mô hình quảng cáo khác, nó giúp những người tiêu dùng có thể tương tác với quảng cáo. Trên mạng, hành vi của người tiêu dùng theo một mô hình hoàn toàn khác so với các phương tiện truyền thông quảng cáo truyền thống. Mô hình này có thể giải thích theo quá trình: Nhận thức (Awareness) - Quan tâm (Interest) - Ham muốn (Desire) - Mua hàng (Action). Tất cả các hành động này diễn ra cùng một lúc trong quảng cáo trên mạng. Khách hàng có thể lấy thông tin hoặc mua sản phẩm cùng mẫu mã trên quảng cáo đó, thậm chí họ còn có thể mua cả sản phẩm từ các quảng cáo trên Web. Quảng cáo trực tuyến gửi các thông điệp tới khách hàng trên các Website hoặc thư điện tử nhằm đạt được các các mục đích sau: Tạo ra sự nhận thức của khách hàng về nhãn hiệu sản phẩm. Thúc đẩy nhu cầu mua sản phẩm hoặc dịch vụ. Cung cấp các phương tiện cho khách hàng để liên hệ với nhà quảng cáo cho mục đích lấy thêm thông tin hoặc mua hàng. Giống như các phương tiện truyền thông đại chúng khác, Internet cũng cung cấp các cơ hội lớn cho các doanh nghiệp tìm hiểu xem khách hàng thích gì và không thích gì, họ mua sắm hay thu thập thông tin như thế nào. Ngoài ra, Internet và mạng toàn cầu còn mang đến cơ hội cho các doanh nghiệp hướng các thông điệp vào một số lượng lớn các đối tượng mục tiêu nhưng vẫn thiết kế thông điệp phù hợp với từng nhóm dân cư và sở thích của mỗi nhóm. Ngày nay người ta không còn so sánh quảng cáo trên mạng với các hình thức quảng cáo truyền thống nữa: “ Quảng cáo trên mạng là sự kết hợp quảng cáo truyền thống và tiếp thị trực tiếp”. Nhóm quảng cáo của hãng American Online đã hoàn thiện hơn nữa khái niệm về quảng cáo trên mạng: “Quảng cáo trên mạng là sự kết hợp vừa cung cấp nhãn hiệu, cung cấp thông tin và trao đổi buôn bán ở cùng một nơi ”. 1.2 Đặc điểm và nội dung hoach định quảng cáo trên mạng Internet Cũng như các loại hỡnh quảng cỏo khỏc, quảng cỏo trờn mạng nhằm cung cấp thụng tin, đẩy nhanh tiến độ giao dịch giữa người mua và người bán. Nhưng quảng cáo trên Web khác hẳn quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng khác, nó giúp người tiêu dùng có thể tương tác với quảng cáo. Khách hàng có thể nhấn vào quảng cáo để lấy thông tin hoặc mua sản phẩm cùng mẫu mó trờn quảng cỏo đó, thậm chí họ cũn cú thể mua cả sản phẩm từ cỏc quảng cỏo online trờn Website. Quảng cáo trực tuyến đó tạo cơ hội cho các nhà quảng cáo nhắm chính xác vào khách hàng của mỡnh, và giỳp họ tiến hành quảng cỏo theo đúng với sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng. Các phương tiện thông tin đại chúng khác cũng có khả năng nhắm chọn, nhưng chỉ có mạng Internet mới có khả năng tuyệt vời như thế. Vỡ sao chọn Quảng cỏo trực tuyến: Quảng cỏo trờn Internet ? Hiện nay doanh nghiệp khi có nhu cầu quảng cáo, có rất nhiều lựa chọn đối với các loại hỡnh phương tiện để truyền tải thông điệp quảng cáo. Doanh nghiệp có thể chọn quảng cáo trên tấm lớn ngoài trời (billboard), quảng cáo trên các phương tiện công cộng, quảng cáo trên báo giấy, truyền thanh, truyền hỡnh…Trong rất nhiều phương tiện quảng cáo như vậy, quảng cáo trực tuyến (Quảng cỏo trờn Internet ) là một loại hỡnh quảng cỏo đem lại hiệu quả rất cao. Vậy tại sao quảng cỏo trờn Internet lại là giải phỏp hiệu quả cho doanh nghiệp? Những lý do sau chứng minh tớnh ưu việt của quảng cáo trên Internet đối với doanh nghiệp: 1. Internet là hỡnh thức truyền thụng mới, khỏch hàng cú khả năng tiếp cận thông điệp quảng cáo của doanh nghiệp ở bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào vỡ Internet là toàn cầu và Internet hiện diện 24/24- Internet khụng bao giờ “ngủ”. 2. Internet đem lại thông tin đa phương tiện, thông điệp của doanh nghiệp có thể chứa đựng hỡnh ảnh động, màu sắc và âm thanh. 3. Internet có số lượng tiếp cận lớn và người tiếp cận internet(khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp) phân nhóm rừ rệt về tuổi tỏc, giới tớnh, trỡnh độ văn hoá, tiện lợi cho việc phân đoạn và tiếp cận khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp. 4. Chi phớ cho việc quảng cỏo trờn Internet được thống kê là hiệu quả nhất. Chi phí phần ngàn (CPM-Chi phí tính trên 1000 khách hàng) là nhỏ nhất trong tất cả các loại hỡnh media quảng cỏo. 5. Quảng cỏo trờn Internet là một xu hướng tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hoá. Quảng cáo trên mạng có những đặc tính mà các hình thức quảng cáo khác không có Quảng cáo trên Internet có tất cả các đặc điểm của các hình thức quảng cáo trên các phương tiện truyền thông khác, bên cạnh đó nó còn có những đặc tính và khả năng mà các hình thức quảng cáo khác không có được. Khả năng nhắm chọn. Nhà quảng cáo trên mạng có rất nhiều khả năng nhắm chọn mới. Họ có thể nhắm chọn vào các công ty, các quốc gia hay khu vực địa lý, cũng như họ có thể sử dụng cơ cở dữ liệu để làm cơ sở cho tiếp thị trực tiếp. Họ cũng có thể dựa vào sở thích cá nhân và hành vi của người tiêu dùng để nhắm vào đối tượng thích hợp. Khả năng theo dõi. Các nhà tiếp thị trên mạng cũng có thể theo dõi hành vi của người sử dụng đối với nhãn hiệu của họ và tìm hiểu sở thích cũng như mối quan tâm của những khách hàng triển vọng. Ví dụ, một hãng sản xuất xe hơi có thể theo dõi hành vi của người sử dụng qua site của họ và xác định xem có nhiều người quan tâm đến quảng cáo của họ không. Khả năng cảm nhận về nội dung. Quảng cáo trên mạng dựa trên các nội dung có liên quan tới những thông tin mà khách hàng tìm kiếm. Điều này làm tăng khả năng chọn lựa và lợi ích cho khách hàng đồng thời làm cho các quảng cáo trên Internet hiệu quả và sinh lợi hơn các phương tiện khác. Tính tương tác. Quảng cáo trên mạng mang tính tương tác của mạng Internet. Chúng cho phép sự trao đổi thông tin hai chiều và cung cấp nhiều tầng thông tin cũng như tạo ra mối liên hệ trực tiếp giữa nhà cung cấp và khách hàng. Quảng cáo trên Internet cung cấp các thông tin theo yêu cầu của người sử dụng và cho phép người sử dụng xem các quảng đó theo tốc độ của họ hoặc cho phép họ vừa nghỉ ngơi vừa xem chúng. Với mối liên hệ gần gũi kiểu này, các công ty có thể xây dựng một trang Web hỗ trợ khách hàng cho các sản phẩm của mình ở trên mạng. Trên trang Web này, công ty có thể đưa lên các thông báo của công ty, tin tức và các phản hồi cho các khách hàng. Cho phép phát hành thông tin vào thời gian ấn định trước. Việc quảng cáo trên báo chí không cho phép linh động về thời gian phát hành. Internet sẽ giúp nhà quảng cáo chủ động về thời gian phát hành thông tin đến từng phút từng giờ. Thời gian tương tác dài hơn và khối lượng thông tin đưa lên một trang Web là không hạn chế. Phần lớn các phương tiện truyền thông chỉ cho phép một nhãn hiệu xuất hiện trong một thời gian và không gian giới hạn. Nhưng ở trên mạng, thời gian này kéo dài hơn phụ thuộc vào các đặc tính sáng tạo và tương tác được sử dụng. Điều này đã giúp cho các quảng cáo trên mạng đôi khi rẻ hơn so với quảng cáo trên tivi, báo, đài. Quảng cáo trên tivi hoặc báo đài đắt hơn bởi giá thành của chúng phụ thuộc vào khoảng cách không gian mà quảng cáo đó được truyền đi, số ngày quảng cáo và số lần quảng cáo trong một ngày, số lượng trạm truyền hình quốc gia hay địa phương sẽ phát quảng cáo đó hay số lượng báo sẽ đăng quảng cáo đó. Trong khi đó với cùng một mức giá (hoặc ít hơn) cho việc quảng cáo trên báo trong vòng một tháng, công ty có thể đưa được nhiều thông tin hơn vào trang Web của mình và số lượng trang thông tin có thể đưa lên mạng là không hạn chế. Những thông tin đó sẽ tồn tại trên mạng trong một khoảng thời gian vô hạn. Đây chính là lợi thế rất lớn mà một công ty có được khi sở hữu một Website. Tính linh hoạt và khả năng phân phối. Quảng cáo trên mạng có thể được thay đổi đúng thời điểm để phù hợp với đặc điểm của từng khách hàng, với các nhân tố và chỉ dẫn khác. Nhà quảng cáo có thể theo dõi tiến độ quảng cáo hàng ngày, xem xét hiệu quả quảng cáo ở tuần đầu tiên và có thể thay thế quảng cáo ở tuần thứ hai nếu thấy cần thiết. Khả năng này giúp cho việc quảng cáo hiệu quả và thực tế hơn. Điều này khác hẳn với quảng cáo trên báo chí, chỉ có thể thay đổi quảng cáo khi có đợt xuất bản mới, hay quảng cáo tivi với mức chi phí rất cao cho việc thay đổi quảng cáo thường xuyên. Mỗi khi công ty cần thay đổi hoặc cập nhật các tài liệu in ấn, các sách giới thiệu về sản phẩm và công ty, các ca-ta-lô, công ty cần phải in lại tất cả và phải trả một khoản chi phí lớn. Trong khi đó các trang Web có thể dễ dàng nhanh chóng cập nhật những thông tin mới nhất về sản phẩm và công ty của bạn với một mức chi phí hết sức nhỏ bé so với những gì phải bỏ ra trước đây. Bảng 1: So sánh Internet với các phương tiện quảng cáo khác. Loại phương tiện truyền thông Khả năng tiếp cận khách hàng Khả năng nhắm chọn Khả năng tạo phản hồi từ khách hàng Khả năng cung cấp thông tin Chi phí Khả năng đánh giá hiệu quả quảng cáo Báo chí cao trung bình thấp trung bình cao thấp Tạp chí trung bình Cao thấp trung bình cao trung bình Tivi rất cao Thấp rất thấp thấp thấp thấp Đài cao Thấp rất thấp rất thấp thấp rất thấp Internet thấp Cao rất cao rất cao rất thấp rất cao Nguồn: 1.2.1 Cỏc hỡnh thức quảng cỏo trờn quảng cỏo trờn mạng Internet : 1.2.1.1 Website- một hình thức quảng cáo Hình thức quảng cáo đầu tiên trên Web chính là Website. Một Website cho phép các khách hàng hiện tại và các khách hàng tiềm năng của công ty thăm quan công việc kinh doanh của công ty từ nhà hoặc từ văn phòng của họ. Doanh nghiệp có thể tạo riêng cho mình một Website để quảng cáo cho công ty mình, đồng thời thực hiện việc mua bán trực tuyến. Việc làm này giúp cho các công ty giảm chi phí, tiết kiệm thời gian và tăng khả năng cạnh tranh trên thương trường. Nó giúp cho sản phẩm hay dịch vụ của công ty được bán ra trên quy mô toàn cầu, cho phép công ty thu hút thêm nhiều khách hàng mới và phục vụ họ tốt hơn. Nếu biết cách giới thiệu về công ty mình, công ty có thể có được những hợp đồng mua bán tốt, những đề nghị hợp tác có lợi. Website của công ty được ví như là một trung tâm thông tin, văn phòng đại diện và cửa hàng bán lẻ của công ty đó ở mọi lúc, mọi nơi, trên mọi phương tiện. 1.2.1.2 Các hình thức quảng cáo bằng thư điện tử Ngày nay, điều đầu tiên người ta thường làm khi vào mạng là kiểm tra thư điện tử. Theo một cuộc điều tra của IDG năm 2000 thì 83% người được hỏi vào mạng để gửi email. Quảng cáo bằng thư điện tử là một trong những hình thức quảng cáo thông dụng nhất hiện nay trên mạng. “Quảng cáo bằng thư điện tử là hình thức nhà tiếp thị sử dụng email, sách điện tử hay catalogue điện tử để gửi đến khách hàng, thúc đẩy và đưa khách hàng đến quyết định mua hàng”. Các hình thức quảng cáo bằng thư điện tử bao gồm : Gửi thư điện tử trực tiếp, e- zine, tài trợ cho các danh sách thư thảo luận và danh sách thư điện tử thông báo. 1.2.1.3 Gửi thư điện tử trực tiếp Để gửi thư trực tiếp tới người nhận, công ty phải có được danh sách thư điện tử của các khách hàng mà công ty muốn gửi thông điệp của mình. Công ty có thể đi thuê của những công ty chuyên cung cấp các danh sách thư điện tử hoặc có thể tự làm danh sách thư điện tử cho riêng mình. Sau khi đã có được danh sách email của các khách hàng, công ty có thể tiến hành việc gửi thư trực tiếp để quảng bá cho sản phẩm của công ty. Tuỳ thuộc vào sự cho phép của người nhận hay không đối với các thư điện tử đó , ta có hai hình thức gửi thư điện tử trực tiếp là email không được sự cho phép của người nhận và email được sự cho phép của người nhận. Email không được sự cho phép của người nhận (Unsolicited Email Marketing hay Unsolicited Commercial Email - UCE) hay còn gọi là Spam "Spam là hiện tượng một công ty gửi thư quảng cáo tới các địa chỉ mà người nhận không có yêu cầu về thông tin của công ty đó”. Đây là hình thức marketing bằng email đầu tiên xuất hiện trên Internet. Người tiêu dùng hay khách hàng thường nhìn nhận hiện tượng spam như là hình thức tiếp thị qua điện thoại, điều đó có thể gây phiền phức cho họ và rất có thể sẽ khiến họ khó chịu và có những nhận xét không tốt về công ty đã gửi spam. Tuy nhiên, không phải là không có cách khắc phục nhược điểm của các spam nếu như nhà tiếp thị vẫn muốn dùng nó. Nhà tiếp thị có thể gửi kèm theo bức thư một món quà nho nhỏ cùng một mẫu đăng ký danh sách gửi thư. Chỉ nên gửi quảng cáo của mình đến hộp thư của khách hàng một hoặc hai lần và số lần nên cách nhau một khoảng thời gian dài để không gây khó chịu cho người nhận. Đồng thời nhà tiếp thị cũng nên nói rõ cho họ biết nếu họ không muốn nhận thư của công ty nữa, chỉ cần thực hiện một số thao tác đơn giản là họ có thể loại bỏ tên của mình ra khỏi danh sách nhận thư, cũng như sẽ không phải nhận bất kỳ một thư tiếp thị nào khác. Email được sự cho phép của người nhận (Solicited Commercial Email) Đây là một trong các hình thức tiếp thị quảng cáo tốt nhất để tạo cho công việc kinh doanh của công ty phát triển, mang lại lợi nhuận nhanh chóng với chi phí thấp nhất, vì: Công ty gửi email cho những cho người có quan tâm đến sản phẩm của công ty và họ sẽ cảm ơn công ty vì điều này. Công ty có thể nhận được đơn đặt hàng của khách hàng trong vòng vài phút sau khi thư chào hàng được gửi đi. Công ty có thể nhanh chóng xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng thông qua việc gửi cho họ các bản tin, thông tin cập nhật về sản phẩm, khuyến mại sau các khoảng thời gian khác nhau, hoàn toàn tự động. Nhược điểm duy nhất của hình thức này là công ty phải được sự cho phép của người nhận. Vậy làm thế nào để được khách hàng cho phép? Giải pháp cho vấn đề này đó là sử dụng các danh sách thư "tiếp nhận" (opt- in- list), nghĩa là người nhận có yêu cầu được nhận các email. Và bất kỳ lúc nào họ cũng có quyền lựa chọn ra khỏi danh sách và không nhận email. Để an toàn, khi lần đầu tiên sử dụng danh sách, nhà tiếp thị có thể gửi thử một số người trước khi sử dụng cả bảng danh sách. Mặc dù tài liệu có thể rất tốt, nhưng đảm bảo an toàn trước vẫn hơn là để sau này phải hối tiếc. Cách tốt nhất là công ty tự mình xây dựng danh sách thư điện tử cho riêng mình. Bên cạnh việc đảm bảo tính "tiếp nhận" tốt hơn cho danh sách các thư điện tử, danh sách này sẽ trở thành tài sản riêng của công ty. Việc xây dựng danh sách này cũng không khó khăn. Công ty có thể khuyến khích các khách hàng hiện tại hoặc tiềm năng đăng ký vào danh mục email hoặc newsletter hoặc email updates khi họ truy cập vào Website của công ty. Ngoài những biện pháp trên, công ty cũng cần thực hiện thêm một số biện pháp sau để bảo đảm tính hiệu quả của các chiến dịch quảng cáo bằng email của mình đồng thời tăng tính kết nối của các quảng cáo bằng email của công ty: PhảI Có chủ đề hấp dẫn. Khi họ nhìn vào email của mình để xem chủ đề của tất cả các email cùng một lúc, nếu thấy chủ đề hay hẫp dẫn họ sẽ mở email của công ty. Thông tin nên ngắn gọn đi vào chủ điểm, sự quan tâm của người xem chính là hàng hoá có giá trị trên mạng. Cung cấp kèm một thứ gì đó mà có giá trị trong mỗi lần gửi thư như: giảm giá, tin tức quan trọng hoặc một thứ gì khác Công ty cần đảm bảo việc liên lạc phản hồi là thuận lợi nhất bằng cách cung cấp các lựa chọn phương tiện liên lạc cho người sử dụng: địa chỉ email, URL, số điện thoại hoặc số fax. Kiểm tra một nhóm nhỏ độc giả trước khi giới thiệu một sản phẩm mới. Tạo ra các đường link liên kết trong các bức thư. nhằm đưa khách hàng tới thẳng địa chỉ của nhà quảng cáo. Cá nhân hoá các thông điệp và đưa ra các thông tin chọn lọc. Hãy thêm tên người xem vào dòng tiêu đề, vì nó nhanh chóng gây ra sự chú ý của người xem và khơi dậy trí tò mò của họ. Nếu biết sử đúng cách, thư điện tử sẽ là một hình thức tiếp thị và quảng cáo rất hiệu quả. Các công ty hiện nay đang đầu tư rất nhiều vào địa chỉ của mình và email vì đây là cách thức hiệu quả nhất để định hướng lượng truy cập dựa trên hành động và mục tiêu. Hình thức quảng cáo bằng E-zine Việc quảng cáo thông qua các bản tin, các cuộc thảo luận được gọi là e- zine. Theo các số liệu thống kê, ngày nay trên mạng Internet có khoảng hơn 100.000 bản tin và danh sách các diễn đàn thảo luận liên quan đến mọi chủ đề đều được gửi qua email. Trên thực tế có thể có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng về cơ bản người ta chia thành hai loại danh sách thư điện tử thường gặp đó là: danh sách thư thảo luận và danh sách thư thông báo. Danh sách thư thảo luận Danh sách thư thảo luận là một danh sách các thư điện tử mà bất kỳ ai cũng có thể đăng ký để tham gia vào một nhóm thảo luận qua thư điện tử trên mạng. Nhóm thảo luận qua thư điện tử là một cuộc hội thoại của những người tham gia bàn về một vấn đề nhất định nào đó. Bất cứ ai muốn tham gia vào cuộc hội thoại sẽ gửi thông điệp tới nhà điều phối hoặc địa chỉ hòm thư điện tử, nơi thông điệp sẽ được tự động gửi tới những người tham gia thảo luận. Ngay sau khi đăng ký vào danh sách, người đăng ký sẽ nhận được một bức thư xác nhận việc đăng ký với các thông tin quan trọng và những quy định, nội quy chung cho tất cả các thành viên. Lợi ích khi tham gia vào các danh sách thư thảo luận là những thành viên đăng ký được nhận, đọc và thảo luận các thông tin xung quanh những vấn đề mà họ quan tâm. Để có thể thành công khi tham gia vào danh sách này, trước hết nhà quảng cáo cần phải quyết định nên tham gia vào danh sách thư nào. Bởi vì mỗi danh sách thư là khác nhau, nhà tiếp thị chỉ nên tham gia vào những danh sách nào mà mình thực sự quan tâm và hài lòng với các nội dung mà danh sách đó cung cấp đồng thời cần phải ý thức rõ những quy định nào mình có thể chấp nhận và những quy định nào thì không. Điều quan trọng thứ hai là nhà tiếp thị cần phải biết thể hiện kiến thức và sự hiểu biết liên quan đến lĩnh vực mà mình tham gia. Nhà tiếp thị không thể tham gia thảo luận khi không đóng góp được những ý tưởng có ý nghĩa, cũng như không thể trả lời bất cứ câu hỏi của bất kỳ thành viên nào hay gửi thư với những câu nói ngắn gọn như: "Tôi đồng ý" hay "Tôi không biết". Khi các thành viên đã chú ý đến chữ ký của nhà quảng cáo, hãy tạo ra một đường link đơn giản từ "chữ ký " đến trang Web của công ty. Danh sách thư thông báo Trên thực tế, khi tung ra một sản phẩm mới hay cập nhật cơ sở dữ liệu mới, các công ty thường có xu hướng thông báo cho các thành viên trong danh sách nhận thư trước khi lên mạng hay bất kỳ địa điểm nào khác. Chỉ với một bài viết trên mạng cũng có thể giúp cho tên tuổi của công ty và địa chỉ Website của công ty được hàng triệu người biết đến. Các hình thức quảng cáo trên Web Đa phần các quảng cáo trên mạng đều diễn ra trên Web. Web với audio, video và các khả năng tương tác đem tới các cơ hội tuyệt vời để phát triển ngành quảng cáo hiệu quả và sáng tạo. Ban đầu các quảng cáo trên mạng xuất hiện nhằm phục vụ cho việc quảng cáo cho các Website và thực hiện các chức năng quảng cáo đơn thuần, về sau các quảng cáo trên Web ngày càng phát triển và cho phép người mua có thể tương tác và thực hiện việc mua bán ngay trên quảng cáo. Quảng cáo dạng biểu ngữ hay dải băng (banner) Banner có thể hiển thị hầu như mọi thứ mặc dù trong TMĐT nó chủ yếu được sử dụng như một công cụ quảng cáo. Banner là hình thức quảng cáo được sử dụng phổ biến nhất trên Internet. Khi bạn lướt trên xa lộ thông tin này, các quảng cáo banner ở khắp mọi nơi. Đây cũng là hình thức quảng cáo trên mạng phổ biến nhất ở Việt Nam. “Banner là một quảng cáo hình chữ nhật thường xuất hiện ở phần đỉnh phía trên hoặc đáy phía dưới của trang Web. Các quảng cáo biểu ngữ có nhiều kích thước khác nhau, kích thước thường được sử dụng nhiều nhất là 648x60 pixel”. Thông thường, một banner gồm một đoạn văn ngắn, một thông điệp hình ảnh để tiếp thị cho sản phẩm. Các nhà quảng cáo đã có những bước tiến dài trong việc thiết kế các banner để thu hút sự chú ý của người xem Cùng với sự phát triển của lập trình Internet, chúng ta bắt đầu làm quen với các banner có âm thanh, hình ảnh động. Trên các banner có các liên kết khi người xem nhấn chuột vào những liên kết này sẽ đưa người xem tới trang chủ của nhà quảng cáo.Vì vậy, suy cho cùng banner như một quảng cáo nhỏ để đưa người xem đến một quảng cáo lớn hơn, đó chính là Website của nhà quảng cáo. Có bốn loại banner: banner dạng tĩnh, banner dạng động và banner dạng tương tác và banner dạng rich media. Banner dạng tĩnh: Banner quảng cáo dạng tĩnh là các ảnh cố định trên một site nào đó và là loại quảng cáo đầu tiên mà được sử dụng trong những năm đầu của quảng cáo Web. Ưu điểm của loại này là dễ làm và được hầu hết các site tiếp nhận. Nhưng mặt trái của nó là những thay đổi mới về công nghệ quảng cáo banner khiến cho các banner tĩnh trông thật nhạt nhẽo và nhàm chán. Hơn nữa, loại quảng cáo này không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng tốt bằng các loại quảng cáo biểu ngữ khác. Banner dạng động: Đây là những banner có thể di chuyển, cuộn lại hoặc dưới hình thức nào đó. Hầu hết các dải băng quảng cáo kiểu này sử dụng hình ảnh dạng GIF89 hoạt động giống như những cuốn sách lật gồm nhiều hình ảnh nối tiếp nhau. Hầu hết các banner động có từ 2 đến 20 khung. Kiểu quảng cáo này cực kỳ phổ biến, với lý đơn giản là nó được nhấn vào nhiều hơn so với các quảng cáo banner tĩnh. Vì có nhiều khung nên các banner này có thể đưa ra được nhiều hình ảnh và thông tin hơn quảng cáo banner tĩnh. Banner kiểu tương tác: Quảng cáo kiểu banner tương tác ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng tốt hơn, cho phép khách hàng tương tác trực tiếp với quảng cáo chứ không đơn thuần là "nhấn". Các banner loại này còn thu hút các khách hàng bằng nhiều cách khác nhau như qua các trò chơi, chèn thông tin, trả lời câu hỏi, kéo menu xuống, điền vào mẫu hoặc mua hàng. Banner dạng rich media: Đây là sự kết hợp công nghệ tiên tiến đưa vào quảng cáo banner. Rich media là một công nghệ cho phép thể hiện được thông điệp quảng cáo chi tiết hơn, hoặc ở mức độ tương tác cao hơn so với các banner chuẩn GIF. Rich media được xem là loại quảng cáo có dải thông cao, gây ảnh hưởng với khách hàng nhiều hơn loại quảng cáo dạng banner động GIF. Banner dạng rich media cho phép khách hàng hoàn tất việc giao dịch trong quảng cáo mà không phải ra khỏi Website của nhà thiết kế. Ưu điểm của quảng cáo banner là nhà quảng cáo có thể thiết kế nó cho phù hợp với khách hàng mục tiêu. Nhà quảng cáo có thể quyết định thị trường nào để tập trung những nỗ lực quảng cáo của mình cũng như có thể thiết kế các banner để phù hợp với các quảng cáo nhắm chọn đến từng khách hàng (targeted one-to-one ads). Người ta cũng có thể sử dụng quảng cáo banner để thực hiện chiến lược quảng cáo bắt buộc (force advertising), nghĩa là các khách hàng bắt buộc phải xem chúng khi truy cập vào mạng. Chi phí để thiết kế các banner động hoặc tĩnh không cao, thêm vào đó những banner này có thể tái sử dụng vì gần như tất cả các Website đều tuân thủ các tiêu chuẩn về kích thước của IAB. Tuy nhiên, nếu một công ty muốn có một chiến dịch quảng cáo thành công, công ty đó sẽ phải dành một khoản rất lớn trong ngân sách của mình để có thể chi trả cho một số lượng lớn các lần banner được hiển thị ở mạng. Kích thước của một banner thường chỉ gấp 6 lần một chiếc tem và kích thước một file chỉ khoảng 10 KB, do đó rất khó để có thể đưa ra được âm thanh và hình ảnh lớn và hiệu quả như trên tivi. Bên cạnh đó nếu sử dụng quá nhiều hình ảnh, chuyển động và âm thanh trong quảng cáo banner sẽ khiến cho thời gian để tải banner đó xuống lâu hơn và điều này sẽ ngăn cản phần còn lại của trang Web hiện ra. Điều này sẽ khiến cho khách hàng mất kiên nhẫn và rời khỏi trang Web trước khi nó hoàn toàn hiện ra. Tất cả những điều này đã hạn chế việc đưa ra một thông điệp, hình ảnh hoặc âm thanh thật hấp dẫn cũng như buộc các quảng cáo phải nghĩ ra những thông điệp vừa ngắn gọn nhưng cũng phải thật sáng tạo. Đó quả thật không phải là một điều luôn luôn dễ dàng Quảng cáo interstitial Interstitial là các quảng cáo xuất hiện trên màn hình và làm gián đoạn công việc của người sử dụng. Nó còn được gọi là “pop- up”, “emercial” hay “intermercial”. Loại này giống với quảng cáo trên tivi chen ngang vào các chương trình. Các interstitial có nhiều kích cỡ khác nhau (có khi chiếm cả màn hình, có khi chỉ một góc nhỏ) với các mức độ tương tác khác nhau từ tĩnh đến động. Thỉnh thoảng người sử dụng có thể nhấn bỏ interstitial trên màn hình (điều không thể làm được trên tivi), nhưng không biết được lúc nào nó lại xuất hiện. Các nhà quảng cáo rất thích sử dụng interstitial vì chắc chắn nó sẽ được người sử dụng biết tới. Một vài quảng cáo interstitial cho phép nhà quảng cáo sử dụng video phim và hình ảnh sống động. Nhà quảng cáo thực sự có một cơ hội tốt hơn để truyền đi các thông điệp về sản phẩm của mình mà không phải cạnh tranh với các nội dung khác trên màn hình và có thể sử dụng nhiều hình ảnh hơn. Mặt trái của quảng cáo interstitial mà các nhà quảng cáo cần chú ý là phải thực hiện như thế nào để không làm mất lòng khách hàng. Khách hàng thường không hài lòng về site nào mà nhà quảng cáo buộc họ phải xem interstitial. Có một vài quy tắc giúp cho các nhà quảng cáo không làm mất lòng người tiêu dùng bởi những quảng cáo interstitial của mình: Chọn các site đã có sẵn interstitial. Dùng interstitial nhỏ hơn một trang Sử dụng interstitial khi màn hình của người sử dụng đang rỗi.. Có thể dùng interstitial tương tác. Nút bấm (button) Nút bấm là những loại quảng cáo nhỏ có thể bố trí ở bất cứ chỗ nào trên một trang và nối tới trang của người thuê nút. Button được khách hàng và các nhà quảng cáo Web chấp nhận nhanh hơn so với banner có lẽ vì chúng luôn cung cấp phần mềm tải xuống miễn phí. Các kết nối văn bản (t._.ext link) Các kết nối văn bản là loại quảng cáo gây ít phiền toái nhất, nhưng lại có hiệu quả cao nhất. Trong ngành công nghiệp quảng cáo trên mạng, vấn đề quan trọng nhất chính là tìm ra những cách quảng cáo mới có băng tần cao. Tuy nhiên, đôi lúc quảng cáo băng tần thấp và đơn giản lại đạt được hiệu quả cao nhất. Quảng cáo text link thường xuất hiện trong những bối cảnh phù hợp với nội dung mà người xem quan tâm vì vậy chúng rất hiệu quả mà lại không tốn nhiều diện tích màn hình. Chẳng hạn nó có thể được nhúng trong các nội dung thông tin mà khách hàng đang đọc và yêu cầu. Các quảng cáo text link còn được đưa ra như là một kết quả được tìm thấy đầu tiên của công cụ tìm kiếm khi người xem tìm kiếm về một vấn đề nào đó. Tài trợ (sponsorship) Quảng cáo tài trợ cho phép nhà quảng cáo thực hiện một chiến dịch thành công mà không cần lôi cuốn nhiều người vào Website của mình. Khi tài trợ, nhãn hiệu của nhà quảng cáo hoặc là gắn với một đặc tính cụ thể như một phần của địa chỉ hoặc được giới thiệu như một nhãn hiệu được yêu thích nhất của một trang hay của một địa chỉ. Các nhà tài trợ thường nhận được các biểu ngữ như là một phần của tài trợ. Tài trợ thường đặc biệt hiệu quả trong việc xây dựng nhãn hiệu, để lại ấn tượng sâu sắc cũng như cảm tình một cách hết sức tự nhiên trong lòng các khách hàng tiềm năng. Phần lớn các Website đều quan tâm đến việc kết hợp các chương trình tài trợ có mục đích và tinh tế với nhau cho nhà quảng cáo. Do vậy, nếu một công ty có ngân sách lớn dành cho phương tiện truyền thông, ngoài các chương trình quảng cáo khác, công ty luôn nghĩ tới việc tài trợ. Tài trợ thường diễn ra dưới các hình thức hết sức tinh tế, lôi cuốn các khách hàng tham gia vào chương trình quảng cáo của công ty mà không làm cho họ khó chịu. Tài trợ gồm nhiều hình thức như cùng hợp tác để xây dựng nhãn hiệu, phát triển nội dung gốc, tổ chức các cuộc thi, điều tra và trò chơi kết hợp với sản phẩm. Các cuộc thi và trò chơi rất phổ biến trên mạng, do đó một số nhà tiếp thị sử dụng chúng làm phương tiện lôi cuốn khách hàng vào thăm Website của mình. Các cuộc thi có thể tiến hành dựa trên Web hoặc email. Yoyodyne, bây giờ là một phần của Yahoo!, đã sớm tạo ra trò chơi email cho các hãng nhằm xây dựng nhãn hiệu và tăng số người vào thăm site. Một số công ty đã thử sử dụng các cuộc thi để tạo đường dẫn tới Website, tuy nhiên điều này có thể rất rủi ro. Nhiều người tiêu dùng tham gia các cuộc thi chỉ nhằm giành chiến thắng và không quan tâm đến người tài trợ. Một ví dụ hoàn hảo về hình thức tài trợ để cùng xây dựng nhãn hiệu là tài trợ của hãng rượu sâm panh Mot&Chandon trong lễ giáng sinh năm 1997. Một đại lý của Mot&Chandon đã xây dựng một vùng nội dung dựa trên nhãn hiệu được phát triển từ trang chủ của Starchefs.com và đưa ra một cuộc thảo luận về rượu sâm panh, tiểu sử đầu bếp của hãng và các công thức nấu ăn hàng tuần với các món đặc biệt hấp dẫn. Starchefs cũng kêu gọi người sử dụng chia sẻ những kinh nghiệm đáng nhớ về rượu sâm panh để khuyến khích họ thảo luận về rượu sâm panh trong suốt chiến dịch tài trợ. Ví dụ một tấm áp phích viết “Chúng ta thường mở rượu sâm panh ướp lạnh vào những dịp đặc biệt. Khi một đứa trẻ chào đời. Khi dạy dỗ thành công con chó nhỏ. Chiếc xe ô tô khởi động trong mưa. Đó là những dịp đáng kỉ niệm ”. Cuối cùng, việc tài trợ của Mot&Chandon trên Starchefs đã đểlại ấn tượng sâu sắc hơn các bản quảng cáo và việc quan sát các trang Web. Nó cung cấp một diễn đàn và thảo luận về rượu sâm panh, về Mot&Chandon giữa những độc giả yêu thích rượu và đồ ăn, giữa những người chuyên nghiệp trong ngành. Quảng cáo advertorial Advertorial là một loại quảng cáo tài trợ, nhìn giống như một bài xã luận hơn là một quảng cáo. Trong các ấn phẩm, các quảng cáo kiểu bãi xã luận thường có một chú thích rõ ràng để phân biệt các mục khác, như “mục quảng cáo đặc biệt”. Còn trên Web thường không có phân định rõ ràng giữa quảng cáo và xã luận. Vì các khách hàng tin tưởng vào các bài xã luận nên advertorial thường có hiệu quả cao hơn so với các quảng cáo Web khác. Tuy nhiên cần tránh gây ấn tượng không đẹp cho khách hàng để họ cảm thấy như bị lừa đảo: họ nhấn vào nội dung nào đó nhìn giống như của một ấn phẩm chỉ để khám phá ra nó là một quảng cáo. Advertorial sẽ rất hiệu quả nếu đưa ra được một nội dung mà các khách hàng mong muốn. Còn ngược lại quảng cáo sẽ thất bại và thậm chí gây ra ấn tượng xấu về sản phẩm. Một số hình thức quảng cáo khác Ngoài những hình thức quảng cáo ở trên, các nhà quảng cáo còn sáng tạo ra rất nhiều hình thức quảng cáo khác để có thể tận dụng mọi diện tích trên Web. Quảng cáo logo. Quảng cáo logo về thực chất cũng giống như quảng cáo banner nhưng có kích thước nhỏ hơn, nhưng khác với quảng cáo banner thường đưa ra nhiều nội dung, hình ảnh và có khả năng tương tác, mua bán ngay trên quảng cáo, quảng cáo logo thường chỉ đưa ra hình ảnh logo của công ty. Khi khách hàng nhấn vào logo, nó sẽ mang họ tới Website của công ty. Hình thức quảng cáo này thường gặp ở Việt Nam. New screen real estate- Giá trị đích thực của màn hình. Ngày nay khi truy cập vào mạng, người sử dụng thường thấy trên trang chủ trình duyệt của mình đột nhiên thay đổi, và trên bàn làm việc (desk top) hay trên khay hệ thống (system tray) chứa đầy những biểu tượng bí ẩn. Đó chính là các quảng cáo new screen real estate. Việc quảng cáo trên thanh công cụ giúp cho mọi người sử dụng đều có thể nhìn thấy quảng cáo ở trên bất kỳ site nào, cho phép người quảng cáo có mặt trên tất cả các Website, dù site đó có chấp nhận quảng cáo hay không. Bảo vệ màn hình (screen saver). Bản thân screen saver cũng có thể là một quảng cáo. Một số Website tạo ra hoặc cho phép người sử dụng thiết lập các screen saver riêng có lồng các quảng cáo. Thẻ đánh dấu và thanh công cụ. Nhà quảng cáo có thể mua quảng cáo trên các thanh công cụ (tool bar) và nút thẻ đánh dấu (book mark) của các trình duyệt. Con trỏ. Con trỏ cũng có thể trở thành một phương tiện quảng cáo. Một số trang Web đã thay hình dạng mũi tên cũ của con trỏ bằng các đồ hoạ hay hoạt cảnh. Ví dụ một cửa hàng bán hoa có thể để con trỏ hình bông hoa, và khi con trỏ chạy trên phần bông hoa, nó thay đổi thành các mức giảm giá đặc biệt. Những không gian Web chưa được tận dụng. Mọi thứ trên Web đều có thể tận dụng, thậm chí cả một trang được coi là phần cuối vô dụng. Chẳng hạn người ta có thể đặt quảng cáo trên các trang cuối của người sử dụng Web như trang cám ơn, trang nhận thanh toán. Việc đặt các quảng cáo như vậy dựa trên lập luận cho rằng lúc này người sử dụng vừa mới hoàn thành một công việc và đang chuẩn bị xem một cái gì đó hoặc tới một nơi nào khác, chính trên trang này quảng cáo được đưa tới người sử dụng mà không bị cản trở bởi bất kỳ một nội dung nào, trừ một kết nối ngược. Thiết kế quảng cáo trên mạng Thuê thiết kế quảng cáo trên mạng Rất ít doanh nghiệp có khả năng hoặc được chuẩn bị tốt cho việc thiết kế quảng cáo. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, tốt nhất là nên yêu cầu giúp đỡ từ các chuyên gia hoặc các nhà cố vấn thiết kế quảng cáo trên mạng. Có rất nhiều chuyên gia có thể giúp công ty trong việc hoạch định chiến lược và thực hiện các chiến lược đó với những phương pháp và kỹ năng mà tính hiệu quả đã được chứng minh. Vì vậy, nếu thuê người khác thiết kế Website hộ mình, công ty cần phải luôn luôn ghi nhớ kiểm tra những kỹ năng marketing của nhà thiết kế đó. Nếu họ không có đủ những kỹ năng cần thiết thì đừng ngần ngại tìm kiếm người khác để thay thế. Công ty tự thiết kế quảng cáo trên mạng. Nếu tài chính hạn hẹp, công ty cũng có thể tự thiết kế quảng cáo cho mình. Công ty có thể căn cứ vào các yêu cầu đối với quảng cáo trên mạng ở trên để tự thiết kế quảng cáo cho riêng mình. Có một công thức rất hiệu quả và quen thuộc mà nhà quảng cáo có thể áp dụng khi thiết kế một quảng cáo, đó là mô hình AIDA, viết tắt của các từ: Attention (Gây sự chú ý), Interest (Tạo sự quan tâm), Desire (Dẫn tới ham muốn), và Action (Dẫn tới hành vi mua). Gây sự chú ý (Attention). Để tạo ra sự chú ý của người xem, cần phải tạo ra một dòng tiêu đề hấp dẫn. Dòng tiêu đề chính là phần quan trọng nhất của quảng cáo. Nhà quảng cáo có hai đến ba giây để thu hút người xem đọc quảng cáo trước khi họ bỏ qua nó để chuyển sang đọc cái khác. Một dòng tiêu đề hiệu quả phải thu hút được sự chú ý của người mua, xác định được đâu là các khách hàng tiềm năng tốt nhất của công ty và lôi kéo người xem vào các nội dung bên trong của quảng cáo. Vậy làm thế nào để viết được một dòng tiêu đề hiệu quả. Trước hết cần phải xem lại tất cả các lợi ích mà sản phẩm của công ty có thể mang lại. Thứ hai, chọn ra lợi ích mà nhà quảng cáo cho là quan trọng nhất và đưa nó vào trong tiêu đề quảng cáo. Hãy sử dụng các từ hành động (action word) để miêu tả lợi ích cho từng đối tượng người xem. Chẳng hạn như: How to Design Profit - Producing Website That SELL (Làm thế nào để thiết kế được một Website sinh lời hiệu quả). Khi viết quảng cáo cho đối tượng người xem là các doanh nghiệp, cần phải ghi nhớ sáu lợi ích mà các doanh nghiệp quan tâm nhất, nhờ đó có thể thu hút được sự chú ý của họ: tiết kiệm tiền, tiết kiệm thời gian, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, củng cố nhãn hiệu, tăng tốc độ lưu chuyển của tiền. Tạo ra sự quan tâm và ham muốn mua hàng của người xem (Interest và Desire) Xây dựng sự quan tâm và ham muốn mua hàng của người xem được thực hiện bằng việc đưa ra những lời chào hàng hấp dẫn và việc mô tả càng nhiều càng tốt những lợi ích trong các điều kiện đơn giản và hấp dẫn: Các nhà quảng cáo hàng đầu thường thiết kế các quảng cáo trước rồi mới tìm nơi để đặt chúng. Các nhà quảng cáo thường không phải bận tâm lắm về điều này, vì có rất nhiều chỗ trên mạng để họ có thể đặt các quảng cáo của mình. Không nên chỉ tập trung quá nhiều vào việc thiết kế các hình ảnh bắt mắt mà lơi là việc viết một nội dung tốt cho quảng cáo. Một quảng cáo có nhiều hình ảnh đẹp nhưng lại có một nội dung sơ sài và thiếu hấp dẫn thì chỉ có thể thu hút sự chú ý của người xem mà chưa chắc đã tạo ra được sự quan tâm cũng như ham muốn của khách hàng. Đưa vào quá nhiều hình ảnh động, loè loẹt chỉ làm cho người xem mất tập trung vào nội dung của quảng cáo và làm tăng thời gian để tải quảng cáo xuống. Các nghiên cứu cho thấy rất ít người đủ kiên nhẫn để chờ quá 30 giây chỉ để xem một quảng cáo nào đó. Do đó cần phải quan tâm đến cả nội dung và hình ảnh. Các quảng cáo trên mạng cũng bị hạn chế bởi không gian quảng cáo. Vì vậy cần tận dụng tối đa diện tích cho phép, không dùng quá nhiều chữ. Khuyến khích người sử dụng xem quảng cáo với những những lời đề nghị và thiết kế đơn giản độc đáo để giảm dung lượng của quảng cáo. Một quảng cáo dài vẫn có thể có hiệu quả nếu nó được thiết kế tốt. Một quảng cáo được thiết kế tốt sẽ thu hút được sự chú ý của người xem ngay từ dòng tiêu đề và anh ta sẽ không thể rời khỏi quảng cáo nếu chưa thực hiện hành động mà quảng cáo đó đưa ra: đặt hàng, đi thăm gian hàng của công ty đưa ra quảng cáo, gọi điện thoại đến công ty, nhấn vào nút đặt hàng, điền vào mẫu đặt hàng trên mạng,... Luân chuyển nhiều quảng cáo khác nhau trong suốt thời gian quảng cáo để tăng hiệu quả quảng cáo đối với người xem. Theo nghiên cứu của DoubleClick thì người xem thường xem quảng cáo trong lần thứ nhất và thứ hai nhìn thấy nó, sau đó mức độ giảm dần. Thêm các từ “click here” (bấm vào đây) hay “click now” để tạo tính khẩn trương và thôi thúc khách hàng nhấn xem quảng cáo. Nhiều người sử dụng mạng họ chẳng biết bấm vào đâu. Điều này giải thích tại sao nhiều mục quảng cáo có tác động lớn hơn khi có những hướng dẫn kết nối ở dưới. Các siêu kết nối giúp những người mới biết sử dụng biết nơi nào có thể bấn vào và kích thích những người khác tò mò bấm thử. Dẫn tới hành vi mua (Action). Mục đích cuối cùng của việc quảng cáo bao giờ cũng là dẫn tới hành động mua hàng của người xem. Quảng cáo phải đưa ra gợi ý về việc đặt hàng, đưa ra được các lý do hợp lý để người xem mua ngay lập tức chứ không phải lúc nào khác và tạo điều kiện để quá trình mua hàng thuận tiện và nhanh chóng. Nếu không có lý do, sẽ chẳng có một động lực nào có thể khiến người sử dụng rời bỏ Website của nhà thiết kế. Động lực cần phải phù hợp với site mà ta tiến hành quảng cáo. Trong chiến lược marketing trả lời trực tiếp, những động lực thôi thúc khách hàng thực hiện việc mua hàng ngay lập tức có thể là một phiếu mua hàng giảm giá (coupon) cho việc đặt hàng bằng thư điện tử, một đường dây điện thoại đặt hàng do công ty trả, một địa chỉ thư điện tử miễn phí, một đường link tự động trả lời cho việc đặt hàng, ... bất cứ cái gì có thể giúp cho việc đặt hàng đơn giản và thuận tiện. Hãy xua tan những lo ngại của khách hàng khi mua hàng, đưa ra những đảm bảo chắc chắn, thiết lập một hệ thống đặt hàng đảm bảo cho các khách hàng trên mạng. Các điều kiện mua bán phải rõ ràng, bao gồm cả các thông tin về giao hàng, trả lại hàng,... và có một trang thông báo xác nhận việc mua hàng. Hãy đưa ra những bằng chứng về sự hài lòng của khách hàng đã mua các sản phẩm, dịch vụ của công ty. Nếu là một nhà bán lẻ trên mạng, hãy đưa ra các chỉ dẫn để đến được cửa hàng của công ty, những khách hàng mới rất thích điều này. Đưa ra danh sách những thẻ tín dụng mà công ty chấp nhận, giờ mà công ty mở cửa, hãy nói cho họ biết về những nhân viên thân thiện của công ty và đưa ra các phiếu giảm giá và các khuyến khích khác. Nói cách khác hãy “trải một tấm thảm đỏ ” để các khách hàng đến được với công ty. Mua quảng cáo trên mạng Định ra các mục tiêu quảng cáo Không thể có được một chiến lược tiếp thị thành công nếu như không đặt ra các mục tiêu cho chiến lược đó. Việc xác định mục tiêu cho quảng cáo là bước đầu tiên trong quá trình xây dựng một chương trình quảng cáo. Cũng giống như các chiến lược quảng cáo trên truyền hình, đài, báo,...các chiến dịch trên mạng cũng cần có những mục đích rõ ràng. Việc quảng cáo trên mạng thường nhằm vào bốn mục đích sau: Tăng lượng người vào Website của công ty: Các Website thương mại được xây dựng lên ngày càng nhiều, nếu chỉ đơn thuần xây dựng một Website không thôi thì chưa đủ để tiếp cận khách hàng trên Internet. Vì vậy, cần phải quảng cáo cho Website để tăng lượng hoạt động. Bán sản phẩm: Các site thương mại điện tử đang tăng lên nhanh chóng, cùng với số lượng hàng bán ra ở trên mạng cũng đang ngày càng tăng lên, là nguồn doanh thu chủ yếu cho nhiều hãng có hoạt động kinh doanh trên mạng. Một hãng bán sản phẩm không cần tất cả số người vào thăm Website của họ cũng như không chỉ cần người xem nhấn vào quảng cáo của họ, mà điều cần thiết là khách hàng mua hàng của họ. Tạo các lần dẫn (Leads): Trên thực tế, việc thu hút khách hàng tiềm năng yêu cầu thông tin trên mạng hay xem quảng cáo của công ty dễ dàng hơn để họ đặt mua sản phẩm. Một số người tiêu dùng rất e ngại đưa ra thông tin về tín dụng của họ trên mạng và không muốn mua sản phẩm vào thời điểm họ xem quảng cáo hay thăm một Website về thương mại điện tử. Điều này khiến các nhà tiếp thị phải sử dụng các Website của họ để tạo ra các lần dẫn. Khách hàng tiềm năng có các lựa chọn yêu cầu thông tin để nhận điện thoại, fax, thư. Cũng giống như việc bán hàng, việc tạo leads có thể tiến hành thông qua Website của nhà tiếp thị hoặc qua site mà nhà tiếp thị quảng cáo trên đó. Thông thường thì việc tạo leads thông qua site của nhà quảng cáo dễ dàng hơn, bởi vì khách hàng không phải rời khỏi site nếu họ muốn yêu cầu nhiều thông tin hơn. Thiết lập nhãn hiệu sản phẩm: Nhiều công ty sử dụng quảng cáo trên mạng để thiết lập nhãn hiệu sản phẩm và dịch vụ riêng của mình. Việc này có thể giúp bán được hàng. Thiết lập sự nhận biết về nhãn hiệu không đòi hỏi phải hấp dẫn người tiêu dùng vào Website của nhà quảng cáo. Trên thực tế, một số chiến lược về nhãn hiệu sản phẩm thành công đều liên quan đến quảng cáo liên kết với một bài xã luận và không yêu cầu nhấn. Xác định đối tượng hướng tới Cũng như các phương tiện truyền thông khác, trước khi lựa chọn một địa chỉ trên Internet hay các mạng máy tính, cần phải nghiên cứu kỹ về nhu cầu độc giả. Công ty đã có những thông tin gì về độc giả quan tâm đến sản phẩm của công ty? Nhóm dân số mục tiêu và tâm lý của họ là gì? Bao nhiêu phần trăm lượng độc giả trên trực tuyến sẽ là các khách hàng của công ty? Họ thường truy cập vào các trang Web nào? Sản phẩm đã được công chúng biết đến và bán khắp mọi nơi hay mới chỉ dừng ở từng địa phương? Công ty đã sử dụng những phương tiện truyền thông nào để tiếp cận với độc giả? Trên thực tế không phải bất kỳ khách hàng trực tuyến nào cũng có nhu cầu mua sản phẩm của công ty, vì thế công ty cần phải có một phương pháp thích hợp để xác định thị trường mục tiêu và cách thức tiếp cận để thu hút được nhiều khách hàng nhất và điều quan trọng nhất là giúp công ty tiết kiệm được hàng nghìn đô la cho chi phí quảng cáo. Có một số phương pháp sau: (1) Tiến hành các cuộc điều tra qua các khách hàng hiện tại Với một phiếu điều tra ngắn và đơn giản, công ty có thể tập hợp được tất cả các thông tin cần thiết về thói quen tiêu dùng của các khách hàng đang mua và sử dụng những sản phẩm, dịch vụ của công ty. Điều đó không chỉ giúp công ty có được cái nhìn chính xác nhất về thị trường mục tiêu mà còn có thể nhận ra được nhược điểm mạnh và yếu của mình để từ đó đưa ra được một chiến lược phù hợp hơn. (2) Tham gia vào các câu lạc bộ trực tuyến, phòng tán gẫu (chat room) và các diễn đàn có liên qua đến sản phẩm dịch vụ của công ty Bằng việc quan sát, theo dõi các cuộc thảo luận, đặt một số ít các câu hỏi chiến lược sẽ nhanh chóng giúp công ty nghiên cứu được động cơ,thói quen của khách hàng, xu hướng chung nổi bật mà nó sẽ giúp công ty xác định được thị trường mục tiêu cho sản phẩm của mình. (3) Tạp chí điện tử Ngày nay có hàng nghìn tạp chí điện tử được xuất bản tren Internet liên quan đến mọi chủ đề, lĩnh vực. Công ty có thể tiếp cận với thị trường mục tiêu bằng việc đặt các quảng cáo ngắn vào một số ít các tạp chí điện tử khi công ty đã biết độc giả của họ là ai. (4) Phân tích cạnh tranh Bất kỳ công ty nào khi kinh doanh trên mạng cũng phải đối mặt với các cuộc cạnh tranh và nếu như công ty mới gia nhập thị trường và đang cố gắng xác định thị trường mục tiêu, thì các đối thủ cạnh tranh đã từng thành công sẽ là những người bạn tốt nhất (5) Theo dõi khách hàng truy cập. Bằng việc theo dõi khách hàng truy cập và tìm hiểu xem họ thường truy cập vào các trang Web nào, công ty có thể biết được cần đặt các quảng cáo ở đâu để có thể tiếp cận và thu hút được nhiều nhất các khách hàng tiềm năng chiến lược. Lựa chọn Website để quảng cáo Có một số yếu tố mà nhà quảng cáo cần xem xét khi quyết định lựa chọn site cho hoạt động quảng cáo của mình: Đối tượng người xem và khả năng nhắm chọn. Yếu tố trước tiên và quan trọng nhất là liệu đối tượng được nhắm chọn có thể tiếp cận thông qua Website đó không. Một quảng cáo tốt nhất thế giới cũng không thành công, nếu nó không tiếp cận được đối tượng phù hợp. Site nào càng tập trung vào đối tượng nhắm chọn thì quảng cáo đặt trên đó càng hiệu quả. Trong đánh giá một site, cần tìm ra điểm đặt có thể giúp cho việc nhắm chọn được khách hàng xem tốt nhất của mình. Nghiên cứu về độc giả. Nói chung các nhà bán quảng cáo có thể cung cấp các thông tin chi tiết về nhóm dân số của độc giả kèm theo nguồn dữ liệu. Đồng thời họ cũng có thể cho biết các thông tin về tâm lý mua hàng của độc giả cũng như việc sử dụng và hành vi mua hàng trực tuyến của họ. Phân tích về lượng truy cập. Khi quyết định lựa chọn một địa chỉ nào đó, nhà quảng cáo cần phải xem xem có bao nhiêu lượt truy cập (thường được xác định trên một trang trong một tháng), Báo cáo. Các kết quả được xem xét như thế nào? Mức độ thường xuyên của chúng như thế nào? Những lựa chọn thông thường nhất sẽ nhận được các kết quả trên Website được bảo vệ bằng mật mã hoặc qua email. Khi tiến hành thử nghiệm, việc cập nhật thường xuyên là rất cần thiết Khả năng luân chuyển nhanh các mẫu sáng tạo quảng cáo. Các báo cáo về quảng cáo nhanh nhất thế giới sẽ không hiệu quả nếu không được thay đổi đúng lúc. Mặc dù nhà quảng cáo rất nóng lòng, một số site vẫn yêu cầu chờ một số ngày nhất định trước khi họ chuyển đổi mẫu. Một số site tuyên bố sẽ thay đổi banner chỉ trong một ngày, nhưng thực tế phải mất đến một tuần mới thực sự chuyển đổi. Khi gặp các site loại này, nhà quảng cáo có thể thương lượng một mức giá thấp hơn hoặc tránh sử dụng các site này. Kích cỡ banner và điểm đặt trên trang. Trong mỗi trường hợp, nhà quảng cáo nên kiểm tra xem cái gì hoạt động tốt cho chiến dịch quảng cáo của mình. Thứ nhất, quảng cáo càng lớn, tỷ lệ số lần tiến hành quảng cáo được nhấn vào càng cao. Điều này có thể là đương nhiên, nhưng đôi khi biểu đạt quảng cáo mới là quan trọng. Thứ hai, không nên đặt quảng cáo ngay trên đỉnh trang. Đặt quảng cáo như vậy có thể là sai lầm, vì người ta có thể nhầm quảng cáo với tiêu đề trên đỉnh trang. Quảng cáo không phải là yếu tố đầu tiên trên trang mà là gần đỉnh trang. Một nghiên cứu được thực hiện bởi các sinh viên của trường đại học kinh doanh Michigan, Mỹ đã chỉ ra các quảng cáo ở góc phải phía dưới của màn hình, ngay bên cạnh thanh cuốn, tạo ra số lần nhấn chuột cao hơn 228% so với các quảng cáo được đặt ở đỉnh của trang. Nghiên cứu cũng chỉ ra các quảng cáo đặt ở khoảng 1/3 phía dưới của màn hình cũng giúp tăng tỷ lệ nhấn chuột lên 77% so với các quảng cáo đặt ở phía trên cùng của màn hình, nơi mà các quảng cáo vẫn thường được đặt. Andrew Kind, một nhà điều hành trang Web của Athenia, cho rằng việc đặt các quảng cáo trong khu vực “nhấn chuột” (click zone), nơi mà chuột của người sử dụng thường lướt qua một cách tự nhiên, sẽ tạo ra được tỷ lệ nhấn chuột cao. Ngược lại, nếu quảng cáo được đặt trên một trang có quá nhiều quảng cáo thì quảng cáo rất khó vượt trội hẳn. Vì vậy nhà quảng cáo cần phải cân nhắc điều này. Khả năng công nghệ. Tuỳ thuộc vào sản phẩm và đối tượng nhắm chọn của mình, nhà quảng cáo có thể sử dụng các công nghệ như: banner HTML hay Java. Trước khi ký hợp đồng cần đảm bảo các site nhận các mẫu sáng tạo này, và thông thường các site đòi giá cao cho việc chạy quảng cáo HTML và quảng cáo đa phương tiện. Tốt nhất khi thiết kế các quảng cáo, nhà quảng cáo nên cố gắng làm sao để quảng cáo mình thiết kế ra có thể chạy trên nhiều site khác nhau. Các kiểu mua quảng cáo trên mạng Có hai cách để đặt các quảng cáo lên Website của người khác. Cách thứ nhất đó là trao đổi quảng cáo giữa hai Website hoặc giữa nhiều Website với nhau. Cách thứ hai đó chính là mua quảng cáo tại các site khác. Trao đổi quảng cáo. Trao đổi giữa hai site với nhau (Ads swapping). Điều đó có nghĩa là công ty A đồng ý cho chạy quảng cáo của công ty B trên Website của mình để đổi lại việc công ty B cho chạy quảng cáo của công ty A trên Website của họ. Có một đường link trực tiếp giữa hai Website này, mỗi khi có người truy cập vào Website của công ty B thì quảng cáo của công ty A sẽ được đưa ra, nếu người xem đọc và nhấn chuột vào quảng cáo thì đường link đó sẽ dẫn anh ta đến Website của công ty A. Đây chính là cách truyền thống và ít tốn kém nhất để đưa quảng cáo của công ty lên Website của người khác. Tuy nhiên, cách này cũng rất khó thực hiện bởi vì không phải lúc nào nhà quảng cáo cũng tìm được một Website vừa thoả mãn được yêu cầu thu hút đủ một lượng khách hàng chất lượng cho quảng cáo của mình đồng thời người chủ sở hữu của site cũng đồng ý chấp nhận trao đổi quảng cáo với nhà quảng cáo đó. Mà việc trao đổi chỉ có thể thực hiện được khi đạt được sự nhất trí của cả hai bên. Trao đổi thông qua hệ thống trao đổi (Ads exchange) Rất khó có được sự thoả thuận nhất trí giữa hai công ty khi tiến hành trao đổi quảng cáo, tuy nhiên để đạt được sự thoả thuận giữa nhiều công ty thì lại dễ dàng hơn nhiều. Hầu hết các hệ thống trao đổi đều đưa ra tỷ lệ trao đổi là 2: 1. Nghĩa là cứ hai quảng cáo được trình chiếu trên Website của công ty thì quảng cáo của công ty sẽ được trình chiếu trên hệ thống. Sở dĩ tỷ lệ này là 2: 1 chứ không phải là 1: 1 là do các công ty đứng ra tổ chức và quản lý các hệ thống trao đổi cũng cần phải có thu nhập để trang trải các chi phí hoạt động và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ. Vì vậy, họ bán 50% số các lần quảng cáo được thực hiện tại các Website của các thành viên trên toàn hệ thống. Ví dụ như hệ thống trao đổi do Link Exchange điều hành, có khoảng nửa triệu thành viên. Link Exchange cung cấp các hỗ trợ cho các thành viên trong việc thiết kế quảng cáo, tham gia vào các nhóm tin và thậm chí tổ chức cả các cuộc thi trên mạng. Nhà điều hành hệ thống quảng cáo có thể bán 50% lượng quảng cáo mà các thành viên không được sử dụng đó hoặc có thể sử dụng chúng để quảng cáo cho các dịch vụ của chính mình. Mua quảng cáo. Việc mua không gian quảng cáo trên mạng cũng giống như việc mua không gian quảng cáo trên các phương tiện truyền thông khác. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc mua quảng cáo trên mạng thường đắt hơn so với việc mua quảng cáo trên các phương tiện truyền thông khác. Bên cạnh đó, các quảng cáo trên mạng cũng bị giới hạn bởi kích thước và nội dung của quảng cáo để đảm bảo thời gian tải xuống của quảng cáo không quá lâu. Nhà quảng cáo có thể mua quảng cáo trên các phương tiện và thư mục dò tìm, trên các site nội dung, trên mạng quảng cáo, trên các dịch vụ email tự do hoặc tham gia vào đấu giá quảng cáo trên mạng. Mua quảng cáo trên các site và thư mục dò tìm. Các site dò tìm và chỉ dẫn nhận được số lượng ngân quỹ khá lớn từ các nhà quảng cáo. Nhà quảng cáo dễ dàng đầu tư một lượng tiền lớn vào các site dò tìm có mức độ hoạt động cao hơn là đầu tư rải rác vào các site nhỏ dù chúng chuyển giao đến cùng một đối tượng. Người mua quảng cáo chỉ cần giao dịch với một đối tác, không phải thương lượng với nhiều site, gửi quảng cáo đến từng site,... Site dò tìm có bán nhiều loại quảng cáo khác nhau: Quảng cáo luân chuyển chung: là quảng cáo có thể xuất hiện ở bất cứ điểm nào trên phương tiện dò tìm vào bất kỳ lúc nào. Mua quảng cáo kiểu này có mức giá thấp nhất so với các kiểu khác, bởi vì quảng cáo không nhắm chọn. Quảng cáo chạy trên chuyên mục: quảng cáo quay vòng tròn trên một chủ đề nhất định như: nghệ thuật, giải trí hay thể thao. Quảng cáo này có khả năng nhắm chọn hơn so với quảng cáo luân chuyển chung. Quảng cáo nhắm chọn theo từ khoá: từ khoá là điểm đặt quảng cáo tốt nhất của phương tiện dò tìm, nó cho phép quảng cáo xuất hiện bất cứ khi nào người tiêu dùng dò tìm tới từ khoá đó Dựa vào cơ chế tìm kiếm theo từ khoá của các công cụ tìm kiếm, các nhà quảng cáo đã sáng tạo ra một hình thức rất độc đáo để thu hút khách hàng đến Website của mình thông qua một trang Web gọi là trang mirror (mirror page). Khi nhà quảng cáo phát hiện ra một từ rất thông dụng mà rất nhiều người tìm kiếm, từ này không nhất thiết phải liên quan tới sản phẩm của công ty, nhà quảng cáo sẽ xây dựng một trang mirror trong đó có đề cập rất nhiều tới từ đó và đăng ký từ này với công cụ tìm kiếm. Chẳng hạn, một nhà kinh doanh phát hiện thấy có rất nhiều người sử dụng từ “Bill Clinton” làm từ khoá trên công cụ tìm kiếm, nhà kinh doanh đó có thể xây dựng một trang mirror trong đó nói rất nhiều về Bill Clinton. Nội dung bài viết, đầu đề và các từ khoá nhắc lại từ “Bill Clinton” nhiều lần. Sau đó, bài viết này sẽ liên kết người xem tới Website của nhà kinh doanh. Nhà kinh doanh có thể đăng ký trang miror này với các công cụ tìm kiếm và bất cứ khi nào có người tìm kiếm từ “Bill Clinton” thì trang này sẽ xuất hiện trong phần kết quả tìm kiếm. Dưới đây là 10 công cụ tìm kiếm thông dụng nhất hiện nay. Các công cụ có thể thu hút tới 80% lượng khách hàng trên mạng. Bảng 2 : Mười công cụ tìm kiếm thông dụng nhất hiện nay 1. Lycos 6. Direct Hit 2. Google 7. Fast 3. Hotbot 8. Yahoo! Business Express 4. Altavista 9. Looksmart 5. DMOZ 10. Inktomi’s Search/Submit service Nguồn: www.thuongmaidientu.com Mua quảng cáo trên mạng quảng cáo. Mạng quảng cáo đóng vai trò như một người đại diện bán quảng cáo chứ không phải là người chủ sở hữu các site. Mạng quảng cáo giúp một nhóm các site có quảng cáo bán hàng nhằm giúp các nhà thiết kế và nhà quảng cáo tiếp cận tốt hơn và dễ dàng hơn. tượng nhắm chọn đủ số lần, nhằm đạt được tỷ lệ mong muốn và có khả năng đo lường tỷ lệ đó. Một ưu điểm nữa của quảng cáo trên mạng quảng cáo là chúng có khả năng nhắm chọn cao. Nhiều mạng đại diện cho rất nhiều site, và thực sự có khả năng tiếp cận tốt hơn so với các site lớn của phươngtiện dò tìm. Ngoài ra, các mạng quảng cáo thường báo cáo công tác tiến hành quảng cáo một cách kiên định, giá cũng rẻ hơn nhờ cán cân của hệ thống. Các dịch vụ email tự do. Nhà quảng cáo có thể mua quảng cáo trong các dịch vụ email tự do như: www.hotmail.com, www.usanet.com và phần lớn các phương tiện dò tìm. Nhiều dịch vụ email tự do yêu cầu người sử dụng đăng ký và do đó cung cấp khả năng nhắm chọn theo đối tượng dân số dựa vào các câu trả lời của người sử dụng. Các site nội dung. Các site nội dung như CNN thường đắt hơn so với phương tiện dò tìm. Nhưng site nội dung có thể tạo hiệu quả quảng cáo rất cao, vì bạn có được đối tượng nhắm chọn chính xác. Tuy nhiên, không giống như những phương tiện dò tìm, các site nội dung tốt được mọi người vào thăm để đọc các bài báo, dò tìm thông tin, điều này làm cho khách vào thăm ít nhấn vào quảng cáo. Mua quảng cáo đấu giá. Loại này cho phép nhà quảng cáo mua điểm đặt quảng cáo trên một thị trường mở. Thông thường, đối tượng bán đưa ra mức giá tối thiểu, và các nhà quảng cáo đưa ra mức trả của mình. Chi trả để mua phương tiện quảng cáo Quảng cáo trên mạng có các mô hình định giá sau: CPM (Cost Per Thousand Impression)- Định giá cho một nghìn lần triển khai quảng cáo “CPM là chi phí của một nghìn lần quảng cáo hay chi phí cho một nghìn ấn tượng được ghi nhận trên Website”. CPM định giá dựa trên một nghìn lần quảng cáo được tiến hành. Các nhà quảng cáo và dịch vụ cảm thấy rất thoải mái khi sử dụng phương thức định giá này do đây là đơn vị đo của tiếp thị truyền thống. Trong quảng cáo truyền thống, các chuyên gia về phương tiện quảng cáo thường tính giá quảng cáo trên một phương tiện cụ thể cho 1000 người. Chẳng hạn giá cho quảng cáo nhiều màu toàn trang trên một tạp chí là 60.000 USD và số độc giả của tạp ._.ược chưa cao. CHính phủ cũng đã có chính sách phổ cập công nghệ thông tin tới các tầng lớp nhân dân . điều này sẽ dần làm thay đổi tập quán văn hoá của người dân VIệt Nam. Đánh giá thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở VIệt Nam. Những khó khăn đối với việc phát triển quảng cáo trên mạng. Những cản trở đối với việc nhập mạng Để hoạt động quảng cáo trên mạng nói riêng và TMĐT nói chung có thể phát triển được thì việc sử dụng Internet phải trở nên rộng rãi trong xã hội. Hiện nay, số lượng người sử dụng Internet ở Việt Nam còn quá thấp so với trong khu vực và trên thế giới. Số lượng người thuê bao Internet ở Việt Nam mới chỉ chiếm 0,16% dân số, thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình của các nước Asean là 1,27% và của thế giới là 5,58%. Việc sử dụng Internet của người dân Việt Nam vẫn còn ít và hạn chế trong một bộ phận nhỏ dân chúng có thu nhập cao ở thành thị và có trình độ học vấn cao trong xã hội. Theo thống kê gần đây của VDC, người sử dụng Internet hiện nay chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận, ở độ tuổi từ 18- 25 tuổi, trong đó có khoảng 80% có trình độ đại học. Nguyên nhân của tình trạng này trước hết là vấn đề nhận thức,văn hoá và tập quán tiêu dùng của người dân Việt Nam. Người Việt nam đã rất quen thuộc với các phương tiện liên lạc truyền thống như thư, báo chí, truyền hình, điện thoại,...Thói quen sử dụng này rất khó có thể thay đổi. Mặt khác hiểu biết của người dân về Internet và lợi ích của nó chưa nhiều, sử dụng thì phức tạp trong khi trình độ văn hoá chưa cao. Đại bộ phận người dân Việt Nam sử dụng Internet cho những mục đích đơn giản. Theo Công ty điện toán và truyền số liệu VDC thì chỉ có 13% lượt truy cập Internet là để vào các trang Web để tìm kiếm thông tin, 80% là thư điện tử và các dịch vụ khác. Ngay cả các cơ quan, công ty đã thấy sự cần thiết của Internet, nhưng khai thác nó chưa thực sự hiệu quả, chủ yếu sử dụng cho những mục đích đơn giản như gửi email, vì không có đủ cán bộ có đủ trình độ khai thác những điểm mạnh của Internet. Nguyên nhân thứ hai đó chính là cước phí truy cập Internet. Mặc dù cước truy cập Internet ở Việt Nam đã ngang bằng với các nước trong khu vực, nhưng tính đến yếu tố thu nhập và mức sống thì mức cước này vẫn còn khá cao so với người dân. Theo một báo cáo về CNTT gần đây, tháng 5/2002 của Trường đại học Harvarrd, Việt Nam là một trong những nước có giá truy cập Internet cho 20 giờ mỗi tháng so với thu nhập đầu người cao nhất thế giới, chiếm 20% GDP theo đầu người. Trung bình một khách hàng hiện nay chi phí 200.000 đồng/ tháng cho sử dụng Internet. Trong khi đó, thu nhập bình quân đầu người là 400USD/ năm, hơn 76% dân số sống ở vùng nông thôn miền núi có thu nhập bình quân đầu người dưới 200USD/ năm, cuộc sống hàng ngày còn gặp nhiều khó khăn, nên Internet đối với họ vẫn còn là thứ hàng xa xỉ, đắt tiền. Các điểm truy cập Internet công cộng tuy giá rẻ nhưng chất lượng dịch vụ lại rất thấp, chủ yếu đáp ứng các dịch vụ gửi thư điện tử và trò chuyện trên mạng (chat). Nguyên nhân thứ ba là do những hạn chế liên quan đến cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện nay. Cơ sở hạ tầng cả về phần cứng và mềm của công nghệ thông tin Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội cũng như tạo điều kiện để mọi người dân có thể sử dụng máy tính và truy cập vào mạng Internet. Mật độ điện thoại và máy tính còn thấp (5,44 máy điện thoại/100 dân, 1,2 máy tính/ 100 dân), dẫn đến nhiều người cùng chia sẻ một máy tính, một account truy cập Internet. Mặc dù đạt tốc độ phát triển gần 200%/ năm, nhưng giới công nghệ thông tin và các nhà quản lý vẫn đánh giá Internet Việt Nam phát triển chậm, đặc biệt là các dịch vụ truy cập tốc độ cao và các dịch vụ giá trị gia tăng. Tốc độ truyền dẫn chậm dẫn đến chất lượng dịch vụ kém, chưa cho phép người sử dụng có thể khai thác được nhiều dịch vụ trên Internet như phim, video,... Số các loại hình dịch vụ trên mạng còn quá hạn chế. Tình trạng này là hậu quả của chính sách độc quyền của nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ Internet trước đây và việc kiểm soát luồng thông tin ra vào trong và ngoài nước thông qua các bức tường lửa. Các bức tường lửa giúp đảm bảo tính an toàn của các thông tin ra vào trong nước tuy nhiên lại làm giảm 30% tốc độ của đường truyền. Bên cạnh đó kênh truyền dẫn kết nối từ các nhà cung cấp dịch vụ Internet đến các máy chủ đặt Web site còn hẹp và việc tổ chức thông tin trên các Web site chưa khoa học cũng làm giảm tốc độ đường truyền. Việc thiếu các ISP và đặc biệt là các IXP đã khiến cho cước phí truy cập Internet ở Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc cấp phép cho hơn 10 ISP và hai nhà cung cấp dịch vụ kết nối mới vừa qua là một bước cải thiện đáng kể tình hình thị trường dịch vụ Internet ở Việt Nam. Tuy nhiên các IXP mới chỉ được chọn điểm đến ở nước ngoài, còn vẫn phải thuê lại đường kết nối vật lý từ Việt Nam ra bên ngoài của Trung tâm Viễn thông quốc tế (VII). Vì vậy, giá thuê đường truyền Internet đã giảm 3 lần, từ 60.000 USD xuống còn 18.000 USD, nhưng vẫn đắt gấp 3 so với các nước trong khu vực. Cuối cùng là do hiện nay thông tin trên mạng chủ yếu do các Web site tiếng nước ngoài cung cấp, trong khi chỉ có một số ít trang Web tiếng Việt với nội dung còn nghèo nàn cả về chất lượng và tính phong phú, đã không thu hút được các độc giả đến mạng để xem tin tức, tạo điều kiện để nâng cao số lượng người sử dụng Internet và do đó Web site có thể bán quảng cáo. Mặc dù số lượng các Web site tiếng Việt thời gian qua đã tăng đáng kể nhưng chất lượng thông tin và hiệu quả hoạt động hầu hết vẫn chưa đạt yêu cầu. Các Web site Việt Nam sau khi được tạo lập thường không được cập nhật và bổ sung thông tin , không được đầu tư đúng mức dẫn đến nghèo nàn thông tin và thiếu tính hấp dẫn, không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của người truy cập. Việc triển khai thương mại điện tử còn chậm Đã hai ba năm nay kể từ khi khái niệm TMĐT được nhắc đến ở nước ta, song những gì mà tầng lớp dân chúng nhận thức về TMĐT vẫn còn rất hạn chế. Các cán bộ trong bộ máy nhà nước có nhận thức khá hơn nhờ chương trình quốc gia về công nghệ thông tin (CNTT) được triển khai rộng rãi trên phạm vi toàn quốc từ năm 1996. Người tiêu dùng nói chung chưa có nhận thức về TMĐT, khái niệm TMĐT cũng không được biết đến. Người Việt Nam vẫn chưa quen lắm với hình thức giao dịch trên mạng. Do số người sử dụng Internet hiện nay còn ít nên chưa hình thành nên thị trường mua bán trên mạng. Việc mua bán trên mạng mới chỉ giới hạn trong một bộ phận dân cư có thu nhập và trình độ cao trong xã hội và ở thành phố. Việc cước phí truy cập cao cũng là một cản trở đối với việc mua bán trên mạng của khách hàng. Về phía các doanh nghiệp, tỷ lệ các doanh nghiệp nước ta có thể tham gia TMĐT rất thấp, có thể nói đại đa số các doanh nghiệp chưa sẵn sàng tham gia TMĐT. Theo khảo sát của Hội tin học Việt Nam, hiện có tới 90% trong số 70.000 doanh nghiệp và trên 1,4 triệu hộ kinh doanh cá thể ở nước ta vẫn thờ ơ với TMĐT. Việt Nam đã đi hết 1/3 lộ trình để tiếp cận với TMĐT và nhiều doanh nghiệp đã nhận ra lợi ích của loại hình kinh doanh qua mạng này, nhưng hiện nay chỉ có 2% doanh nghiệp là quan tâm và triển khai TMĐT cùng với khoảng 7% doanh nghiệp khác là bắt đầu triển khai phương thức kinh doanh mới này. Nguyên nhân trước hết là do các doanh nghiệp thiếu nhạy bén, nhận thức quan điểm và trình độ còn chưa chuyển biến kịp trong việc tiếp cận cái mới. Các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự tin vào hiệu quả của TMĐT. Vì vậy, dù đã có hàng nghìn trang Web “thương mại điện tử” đã ra đời nhưng phần lớn mới chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm, thăm dò phản ứng của thị trường. Cơ sở hạ tầng thông tin yếu kém cũng là một nguyên nhân hạn chế việc triển khai các ứng dụng của TMĐT, giá thuê miền cho Web site cũng cao hơn rất nhiều so với quốc tế. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ bé, tiềm lực tài chính có hạn, gặp khó khăn trong đầu tư lao động, cơ sở vật chất để áp dụng TMĐT. Một nguyên nhân khác hạn chế hoạt động mua bán trên mạng của các doanh nghiệp là do phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa có đủ uy tín và tiếng tăm trên thị trường quốc tế để có thể thực hiện việc đặt hàng và thanh toán trực tiếp trên mạng. Các sản phẩm hàng hoá của Việt Nam hầu hết chưa gắn với mẫu mã, tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng được giới thiệu nên bán hàng trên mạng rất khó. Một nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ triển khai TMĐT ở Việt Nam là cho đến hiện nay Việt Nam vẫn chưa có cơ quan chuyên trách quốc gia về TMĐT, chưa xây dựng được lộ trình và kế hoạch tổng thể cho việc triển khai và ứng dụng TMĐT ở Việt Nam. Việc thiếu một môi trường pháp lý và cơ sở hạ tầng đầy đủ cho TMĐT cũng là một cản trở rất lớn. Việt Nam hiện mới đang trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động TMĐT. Hệ thống tài chính cũng như ở nhiều quốc gia đang phát triển khác chưa đủ phát triển để hỗ trợ cho các giao dịch điện tử phức tạp. Hiện nay, hệ thống thanh toán bằng thẻ ở Việt Nam còn chưa phát triển nếu không nói là còn quá sơ khai, người dân vẫn chưa có thói quen mở tài khoản tại ngân hàng và tiền mặt vẫn là công cụ thanh toán chính trong mọi hoạt động mua bán. Việc sử dụng séc và thẻ tín dụng vẫn còn rất ít. Người dân nếu có điều kiện mua hàng trên Internet cũng chỉ có thể thực hiện thao tác chọn hàng và đặt hàng mà thôi, còn giao hàng và thanh toán vẫn phải thực hiện theo cách truyền thống. Những khó khăn về mặt nhân lực Hiện nay, ở Việt Nam chưa có nhiều các chuyên gia giỏi về lĩnh vực tin học để có thể phát triển các ứng dụng TMĐT nói chung và quảng cáo trên mạng nói riêng. Hệ thống giáo dục còn nhiều bất cập và những khó khăn về tài chính đã không cho phép các cơ sở đào tạo về CNTT đưa Internet vào phục vụ việc giảng dạy. Các doanh nghiệp vẫn chưa có đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ marketing nói riêng giỏi về máy tính và Internet, do đó hạn chế rất nhiều việc ứng dụng Internet vào hoạt động kinh doanh. Việc thiếu các cán bộ thiết kế quảng cáo cũng là một vấn đề của quảng cáo Việt Nam nói chung và quảng cáo trên mạng nói riêng. Hiện nay, các trường mỹ thuật công nghiệp Việt Nam chưa có ngành đào tạo về thiết kế quảng cáo. Việc thiết kế quảng cáo hiện do các nhà thiết kế đồ hoạ đảm nhận. Mặc dù họ đã làm khá tốt công việc này nhưng không thể thay thế cho những nhà thiết kế quảng cáo chuyên nghiệp. Quảng cáo trên mạng cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Việc thiết kế quảng cáo trên mạng hiện nay thường do các chuyên gia tin học đảm nhiệm. Điều này đã phần nào hạn chế chất lượng và tính hiệu quả của quảng cáo. 2.3.2 MỘT SỐ NHẬN XÉT Từ phía doanh nghiệp : Doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động quảng cáo trên mạng và thương mại điện tử có thêm một kênh tiếp thị bán hàng mới. Giúp doanh ngiệp giảm các chi phí phát sinh, xử lý, phân phối , dự trữ và giảm thiểu chi phí trong thu nhận thông tin. Tạo khả năng chuyên môn hoá cao trong kinh doanh. Giảm thời gian mua bán trong quá trình mua và bán Bên cạnh đó vẫn còn nhứng khó khăn : Thiếu các hệ thống hoàn chỉnh về an toàn giao dịch. tính xác thực. Các công cụ phát triển phần mềm vẫn đang trong giai đoạn phát triển Chi phí ban đầu để triển khai là rất lớn và mức rủi ro cao do thiếu kinh nghiệm Thiếu sự tin tưởng từ phía khách hàng và giá cước truy cập Internet còn cao. Từ phía chính phủ : chính phủ rất ủng hộ và tạo mọi điều kiện để cho Internet cũng như quảng cáo trên mạng phát triển . quảng cáo trên mạng Internet tạo ra sự hoà hợp giũa các mạng thông tin. Lưu thông tiền tệ . thực hiện mục tiêu mạng hoá đời sống cá nhân và hiện đại hoá sự phát triển của doanh nghiệp trong tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước . Từ phía người tiêu dùng : Tạo điều kiện cho người tiêu dùng trở thành người tiêu dùng thông tháI, thông qua việc so sánh các hàng hoá. Khách hàng có thể nhận được thông tin xác thực và chi tiết một cách nhanh chóng và còn có thể tham gia các cuộc bán đấu giá . CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN QUẢNG CÁO TRÊN MẠNG INTERNET Ở VIỆT NAM. 3.1 Phương hướng phát triển quảng cáo trên mạng Internet ở Việt Nam. Để bắt kịp với sự phỏt triển chung của thời đại cụng nghệ thụng tin trờn toàn thế giới . ỏp dụng những thành tựu khoa học cụng nghệ vào hoạt động kinh doanh số hoỏ . ngày 18 thỏng 10 năm 2001 Thủ tướng chớnh phủ đó cú quyết định phờ duyệt chiến lược phỏt triển bưu chớnh viễn thụng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 với những nội dung như sau: 3.1.1 Quan điểm của chính phủ . Viễn thụng Việt nam phải trở thành một ngành mũi nhọn , phỏt triển mạnh mẽ . trong quản lý và khai thỏc phải đạt hiệu quả nhằm tạo điều kiện ứng dụng và thúc đẩy phát triển công nghệ thụng tin trong mọi lĩnh vực của xó hội . Phát huy mọi nguồn lực và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển Bưu chính viễn thông- Tin học. Phat triển đứng vững ở trong nước tạo đà vươn ra quốc tế. Phát triển hội nhập nhưng phải đảm bảo an ninh. An toàn thông tin 3.1.2 Mục tiêu của chiến lựơc . Xây dựng xa lộ thông tin quốc gia . với băng thông rộng .tốc độ lớn , toàn xó hội cựng khai thỏc . đó chính là nền tảng cho sự phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Các dịch vụ bưu chính viễn thông được cung cấp rộng rói với chi phớ thấp .nhưng vẫn bảo đảm hiện đại , đa dạng . phổ cập tin học, dịch vụ buư chính tới vùng sâu .Phấn đấu đến năm 2010. đạt tỷ lệ số máy điện thoại , số người sử dụng Internet / 100 dõn. Đưa nghành Bưu chính viễn thông thành ngành kinh tế mũi nhọn. tạo nhiều việc làm cho xó hội. 3.1.3 Định hướng phát triển các lĩnh vực. phát triển cơ sở hạ tầng mạng lưới viễn thông, tin học. truyền thụng quảng bỏ tốt cỏc ứng dụng và các phương thức truy cập băng thông rộng tới tận các hộ tiêu dùng . cáp quang vô tuyến băng thông rộng… để làm nền tảng cho các ứng dụng công nghệ thông tin. Tất cả các tỉnh thành phố trong năm 2005 đều kết nối băng thông rộng.. tiếp đó đến năm 2010 xa lộ thụng tin quốc gia nối tất cả cỏc huyện và nhiễu xó. Ít nhất 30% số thuê bao có khả năng truy cập viễn thông. Phát triển thị trường . Phát huy nguồn lực đất nước kết hợp với hợp tác quốc tế hiệu quả .xoá bỏ những lĩnh vực độc quyền doanh nghiệp . Các doanh nghiệp mới ( ngoài doanh nghiêp chủ đạo ) đạt khoảng 25-30% vào năm 2005 và tăng lên 40-50% vào năm 2010. đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Phỏt triển khoa học cụng nghệ Thường xuyên cập nhập công nghệ mới .tương thích phù hợp với xu hướng công nghệ thụng tin thế giới. Đầu tư đẩy mạnh công tác nghiên cứu . ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong tất cả các lĩnh vực. Phỏt triển công nghệ bưu chính ,viễn thông, tin học Khuyến khich các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia phát triển công nghệ bưu chính , viễn thông , tin học , các hỡnh thức nước ngoài có chuyển giao công nghệ cao kể cả hỡnh thức 100% vốn nước ngoài . Nâng cao năng lực sản xuất thiết bị trong nước , năm 2005 đáp ứng 60% và năm 2010 đạt 80% nhu cầu sử dụng thiết bị bưu chính , viễn thông tin học của Việt Nam. Đẩy nhanh tiến trỡnh nõng cao hàm lượng giá trị lao động trong sản phẩm năm 2005 đạt 30 – 40 % ,năm 2010 đạt 60 – 70 %. đẩy mạnh thị trường xuất khẩu ra nước ngoài . Phỏt triển nguồn nhõn lực. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn lành nghề , có phẩm chất, làm chủ công nghệ , kỹ thuật hiện đại biện phỏp phỏt triển quảng cỏo trờn mạng Internet ở Việt Nam Để hoạt động quảng cáo trên mạng có thể phát triển thuận lợi, cần phải nâng cao hơn nữa trình độ và số người sử dụng Internet trong toàn xã hội, làm cho các hoạt động mua bán trên mạng và các hoạt động TMĐT trở thành phổ biến trong xã hội và tạo cơ sở hạ tầng CNTT và pháp luật cho việc phát triển các ứng dụng TMĐT và quảng cáo trên mạng. Trên cơ sở phân tích vai trò và tầm quan trọng của quảng cáo trên mạng đối với nền kinh tế nói chung và TMĐT nói riêng, Nhà nước cần có các biện pháp, chính sách để phát triển hơn nữa các hoạt động TMĐT nói chung và quảng cáo trên mạng nói riêng. Nâng cao nhận thức, trình độ ứng dụng Internet và TMĐT và phát triển nguồn nhân lực cho quảng cáo trên mạng Cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội đối với những lợi ích của Internet và TMĐT. Biến Internet trở thành một trong những kỹ năng cơ bản của cuộc sống nghề nghiệp và cuộc sống hàng ngày, tạo thói quen sử dụng Internet ở cả thành phố và nông thôn. Bên cạnh đó cần nâng cao trình độ sử dụng máy tính và Internet của người dân cũng như trong các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp. Đặc biệt đối với những người làm công tác ngoại thương, môi trường kinh doanh trên mạng chính là môi trường kinh doanh quốc tế và việc phát triển các hoạt động mua bán trên mạng là một xu hướng tất yếu trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Vì vậy, các cán bộ ngoại thương và cả các sinh viên ngoại thương ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cần phải trang bị các kiến thức về Internet, TMĐT, marketing và quảng cáo trên mạng. Để thực hiện được điều này, trong điều kiện hiện nay, trước hết chúng ta có thể tổ chức các seminar về công nghệ tin học, Internet và TMĐT cũng như về quảng cáo trên mạng cho các cán bộ trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức cung cấp thông tin trên mạng và đặc biệt là cho các sinh viên. Việc tổ chức các seminar như thế này không tốn kém và được coi là sinh hoạt khoa học bổ ích và lý thú. Thứ hai, thực hiện việc đào tạo ở các cơ quan, doanh nghiệp, và trong các trường đại học về Internet và TMĐT. Xây dựng đội ngũ cán bộ marketing hiểu biết về Internet và quảng cáo trên mạng trong các doanh nghiệp. Đưa kiến thức về marketing và quảng cáo trên Internet vào giáo trình đào tạo của bộ môn marketing và quảng cáo trong các trường kinh tế. Thứ ba, tăng cường đầu tư cho việc đào tạo các cán bộ tin học giỏi để tạo điều kiện phát triển các ứng dụng cho quảng cáo nói riêng và TMĐT nói chung và các ứng dụng khác phục vụ cho việc quảng cáo trên mạng ở quy mô doanh nghiệp cũng như trong hệ thống đào tạo quốc gia. Đồng thời trang bị các kiến thức về TMĐT, marketing và quảng cáo trên mạng cho các lập trình viên bởi vì họ chính là những người biến các ý tưởng của các nhà tiếp thị thành các quảng cáo trên mạng sau này và nhằm cải tạo chất lượng của các quảng cáo hiện nay. Thứ tư, trang bị máy móc và khả năng thực hành Internet tại các trường đại học. Nhà trường có thể xây dựng các Web site nhỏ với chi phí không quá lớn để phục vụ cho việc giảng dạy. Với các điều kiện như vậy, các cán bộ giảng dạy và sinh viên sẽ có điều kiện thâm nhập vào công nghệ mới, nhanh chóng nắm vững kiến thức cần thiết và những ý tưởng sáng tạo trong việc tổ chức và nghiên cứu thị trường thông tin, thực hành các bài tập liên quan đến các vấn đề về TMĐT, quảng cáo và các hoạt động trên mạng khác. Cuối cùng, đào tạo đội ngũ cán bộ thiết kế quảng cáo, đưa môn thiết kế quảng cáo nói riêng và thiết kế quảng cáo trên mạng nói chung vào giảng dạy tại các trường đại học mỹ thuật công nghiệp và các trường đào tạo về tin học. Kết hợp đội ngũ cán bộ thiết kế quảng cáo hiện thời với các chuyên gia tin học để tạo ra các sản phẩm quảng cáo trên mạng vừa đảm bảo các yêu cầu về mặt kỹ thuật lại vừa đảm bảo các chức năng marketing của quảng cáo. Phát triển cơ sở hạ tầng CNTT Việc phát triển cơ sở hạ tầng CNTT và viễn thông trong nước một mặt tạo cơ sở để phát triển các ứng dụng quảng cáo trên mạng và TMĐT, nâng cao chất lượng các quảng cáo và các dịch vụ trên mạng, mặt khác tạo điều kiện để việc sử dụng Internet phù hợp hơn với mức thu nhập của người dân Việt Nam hiện nay. Để đạt được mục đích trên, trước hết cần thực hiện tốt các biện pháp mà chính phủ đã đề ra để phát triển CNTT và Internet trong kế hoạch tổng thể về CNTT giai đoạn 2001- 2005. Phát triển ngành công nghiệp phần cứng để tạo điều kiện hạ giá thành và đáp ứng nhu cầu sử dụng máy tính cho đại đa số người dân trong nước. Đồng thời phát triển ngành công nghiệp phần mềm để phát triển các ứng dụng TMĐT và quảng cáo trên mạng. Mở cửa hơn nữa thị trường cung cấp dịch vụ Internet, mở rộng băng thông đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các dịch vụ Internet. Trước mắt tập trung cho phát triển Internet ở khu vực thành thị, áp dụng nhiều đợt giảm cước hơn nữa để mức cước sử dụng phù hợp hơn với mức thu nhập của người dân hiện nay. Thúc đẩy sự phát triển của TMĐT Đẩy mạnh hơn nữa tốc độ phát triển TMĐT, đặc biệt là các hoạt động kinh doanh trên mạng. Việc phát triển các ứng dụng TMĐT, trong đó có quảng cáo trên mạng đòi hỏi sự nỗ lực của toàn xã hội. Bên cạnh việc huy động tối đa các nguồn lực trong nước, chính phủ cần có các biện pháp khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các hoạt động cải thiện cơ sở hạ tầng CNTT và Internet cũng như cơ sở hạ tầng kinh tế và pháp luật cho các hoạt động kinh doanh trên mạng. Đây cũng chính là những vấn đề mà kế hoạch tổng thể về CNTT giai đoạn 2001- 2005 của Bộ Thương mại cần tập trung giải quyết trong những năm sắp tới để tạo điều kiện cho Internet và TMĐT phát triển. Đặc biệt vấn đề này cần gắn liền với việc hỗ trợ phát triển cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và và các nhiệm vụ và cam kết để Việt Nam có thể tham gia hiệp định điện tử ASEAN. Bộ thương mại đang xây dựng một kế hoạch TMĐT dự định sẽ đưa phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam lên mạng vào năm 2005 thông qua 14 dự án. Kế hoạch này nêu rõ nhu cầu cần phải xây dựng một cơ sở pháp lý cho TMĐT trong những năm sắp tới, bao gồm việc phát triển hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống bảo mật thông tin, chữ ký điện tử, các chính sách về thuế và tài chính, các chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và luật bảo vệ người tiêu dùng. Ngày 21/3/2002, Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định công nhận giá trị của chữ ký điện tử dùng cho hoạt động giao dịch diện tử liên ngân hàng. Việc khai báo hải quan qua mạng cũng đang được triển khai từ tháng 6/2002 đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực hàng gia công. Đây chính là những bước phát triển rất quan trọng để góp phần hiện thực hoá và đẩy nhanh tốc độ phát triển của TMĐT ở Việt Nam. Nâng cao số lượng và chất lượng các Web site tiếng Việt Việc nâng cao chất lượng các nội dung thông tin trên mạng trên các Website tiếng Việt hiện nay nhằm tạo điều kiện để người truy cập Việt Nam làm chủ các kho tàng tri thức ngày càng phong phú trên các site tiếng Việt, đó cũng chính là động lực quan trọng thúc đảy tăng lượng người sử dụng Internet ở Việt Nam, thúc đẩy Internet ở Việt Nam phát triển và tạo cơ hội cho hoạt động quảng cáo trên các Website này. Để thực hiện được điều này, cần tăng cường trách nhiệm của người làm công tác thông tin trên mạng. Các nhà cung cấp thông tin trên Internet phải xác định rõ tôn chỉ, mục đích, nâng cao chất lượng các Website tiếng Việt. Về phía nhà nước cần tiếp tục ban hành các văn bản tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động Internet và quản lý hạot động này theo quy định của pháp luật. Bộ Bưu chính- Viễn thông phải đẩy nhanh tốc độ phát triển Internet và ban hành các văn bản tạo điều kiện cho việc phát triển Internet, báo điện tử và các Website. Hoàn thiện hệ thống luật pháp cho quảng cáo trên mạng Cần tiếp tục nhanh chóng xây dựng hệ thống pháp luật để điều chỉnh các hoạt động quảng cáo trên mạng và khắc phục những hạn chế của các quy định hiện thời. Đối với các bất cập trong các văn bản pháp luật điều chỉnh việc cung cấp, cập nhật thông tin và đưa quảng cáo lên mạng đã phân tích ở trên, có một số đề xuất sau để giải quyết các hạn chế này: Giải pháp cho vấn đề cấp giấy phép của Bộ Văn hoá- Thông tin cho việc cập nhật thông tin, đưa trang Web lên mạng đó là cơ quan quản lý có thể yêu cầu các doanh nghiệp muốn làm trang Web khi đăng ký tên miền làm luôn các bước đăng ký theo đúng nội dung mà quy chế yêu cầu. Một cách khác đơn giản hơn, đó là yêu cầu các đơn vị cung cấp dịch vụ Internet phải chịu trách nhiệm về các trang Web mà họ truyền tải. Chính những nơi này sẽ thay mặt cơ quan quản lý đảm bảo nội dung họ đưa lên Internet phù hợp với các quy định của pháp luật, nếu không chính họ là những người bị xử lý trước tiên. Đối với vấn đề quản lý nội dung và đưa quảng cáo lên mạng, cơ quan quản lý có thể giao trách nhiệm về nội dung quảng cáo trên một trang Web cho nơi điều hành trang Web đó, tương tự như việc giao cho tổng biên tập báo in chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung quảng cáo đăng trên báo. Chính những nơi này mới nắm được họ đưa lên quảng cáo những gì, thời gian bao lâu vì họ phải ghi nhận để tính tiền với khách hàng. Lúc đó, nơi nào đăng quảng cáo sai sự thật, quảng cáo trái với quy định của pháp luật sẽ chịu xử lý vi phạm theo luật pháp. Trong điều kiện mà hệ thống các văn bản pháp luật cho quảng cáo trên mạng chưa hoàn chỉnh, các đơn vị tham gia vào hoạt động quảng cáo trên mạng cần tuân thủ đúng các quy định đối với các hoạt động quảng cáo truyền thống, đồng thời từ thực tiễn hoạt động của mình tích cực đóng góp ý kiến, đề xuất cho các cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng các văn bản pháp luật cho việc quảng cáo hiện nay. Phát triển hoàn thiện thị trường quảng cáo trên mạng Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị tham gia vào hoạt động quảng cáo trên mạng để nâng cao số lượng các đơn vị tham gia vào thị trường này. Bên cạnh đó cần thành lập ra các cơ quan, tổ chức điều hành, quản lý và xúc tiến hoạt động quảng cáo trên mạng. Phát triển các tổ chức trung gian, các hệ thống cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động quảng cáo trên mạng. Trong điều kiện hiện nay, mô hình thích hợp nhất cho các công ty bán quảng cáo trên mạng đó là hình thành nên các công ty tương tác. Đây là loại hình công ty kết hợp giữa các công ty quảng cáo với các công ty tin học cung cấp các dịch vụ thiết kế các Web site và quảng cáo trên mạng. Mô hình này kết hợp được thế mạnh của các công ty quảng cáo với các kỹ năng chuyên nghiệp trong lĩnh vực quảng cáo với thế mạnh kỹ thuật của các công ty tin học. Đồng thời mô hình này khắc phục được những hạn chế về mặt tài chính và phù hợp với tình hình hoạt động quảng cáo còn chưa sôi động hiện nay chưa đòi hỏi phải có những công ty có quy mô lớn, chuyên sâu về hoạt động quảng cáo trên mạng. Đồng thời, đối với những doanh nghiệp có nhu cầu quảng cáo trên mạng lớn và thường xuyên, việc thành lập nên các bộ phận tương tác trong các công ty có thể là một giải pháp đáng xem xét. KẾT LUẬN Thụng qua những phõn tớch về tỡnh hỡnh quảng cáo trên mạng ở trên thế giới cũng như ở VIệt Nam . Thỡ cú thể thấy rừ được lợi ích mà quảng cáo trên mạng nó mang lại . Đề án này sẽ rất có ích trong các chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, các cá nhân, các tổ chức , giúp vạch ra được con đường đi ngắn nhất đến thành công , vươn tầm doanh nghiệp ra thế giới Giỳp cho cỏc cỏ nhõn cú ý tưởng kinh doanh lập nghiệp một sự lựa chọn tốt nhất ít tốn kém để thành công trong chiến lược kinh doanh. Đề án cũng đó chỉ ra được những mặt ưu và nhược điểm của quảng cáo trên mạng và các xu hướng phát triển của quảng cáo trên mạng, cũng như các giải pháp để phát triển tốt ngành quảng cáo trên mạng Internet điều đó sẽ giúp cho các cá nhân tổ chức nhỡn nhận rừ hơn vị trí hiện tại của quảng cáo trên mạng và tương lai của nú.Cũng như nhỡn ra được các cơ hội tiềm ẩn mà nó mang lại. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1: So sánh Internet với các phương tiện quảng cáo khác. Bảng 2 : Mười công cụ tìm kiếm thông dụng nhất hiện nay Bảng 3: Giá thiết kế trang Web của một số đơn vị thiết kế DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT B2B Business-to-business. B2C Business- to – customer. ISP Nhà cung cấp dịch vụ Internet. ITC Trung tâm thương mại quốc tế. OSP Nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng Internet. VASC Công ty phần mềm và truyền thông Vasc. VCCI Phòng công nghiệp và thương mại VIệt Nam. VNEMART Sàn giao dịch thương mại điện tử Việt Nam VNPT Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam. CNTT Công nghệ thông tin MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢNG CÁO TRÊN MẠNG INTERNET . 3 1.1 Khái niệm chung về quảng cáo . 3 1.2 Đặc điểm và nội dung hoach định qu¶ng c¸o trªn m¹ng Internet 5 1.2.1 Cỏc hỡnh thức quảng cỏo trờn quảng cỏo trờn mạng Internet 9 1.2.2 Các hình thức quảng cáo trên Web 14 1.2.3 Thiết kế quảng cáo trên mạng 21 1.2.4 Mua quảng cáo trên mạng 25 1.3 Những điều kiện bảo đảm phát triển quảng cáo trên mạng Internet 37 1.3.1 Cơ sở hạ tầng Internet 37 1.3.2 Xu hướng quảng cáo trên mạng đang dần chiếm ưu thế 39 1.3.3 Các chính sách luật pháp 42 1.3. 4 Nguồn nhân lực mạng toàn cầu . 46 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG QUẢNG CÁO TRÊN MẠNG INTERNET Ở VIỆT NAM 47 2.1 Đặc điểm của hệ thống Internet ở Việt Nam . 47 Sự phát triển của Internet tại Việt Nam 47 Sự gia tăng của việc sử dụng máy vi tính và Internet 50 Sự hình thành và phát triển của thương mại điện tử tại Việt Nam đã tạo điều kiện phát triển và nhu cầu cho quảng cáo trên mạng 51 Thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở Việt Nam. 52 Vài nét về tình hình thị trường quảng cáo trên mạng 52 Các hình thức quảng cáo thường gặp 55 Đánh giá về chất lượng các quảng cáo 55 2.2.4 Vấn đề thiết kế quảng cáo trên mạng 56 2.2.5 Khuôn khổ luật pháp 58 2.2.6 Tập quán văn hoá . 58 Đánh giá thực trạng quảng cáo trên mạng Internet ở VIệt Nam .58 Những khó khăn đối với việc phát triển quảng cáo trên mạng. 58 2.3.2 MộT Số NHậN XéT 63 CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN QUẢNG CÁO TRÊN MẠNG INTERNET Ở VIỆT NAM. 65 3.1 Phương hướng phát triển quảng cáo trên mạng Internet ở Việt Nam. 65 3.1.1 Quan điểm của chính phủ . 65 3.1.2 Mục tiêu của chiến lựơc . 65 3.1.3 Định hướng phát triển các lĩnh vực. 66 Biện pháp phát triển quảng cáo trên mạng tại VIệt Nam. 67 Nâng cao nhận thức, trình độ ứng dụng Internet và phát triển nguồn nhân lực cho quảng cáo trên mạng 67 Phát triển cơ sở hạ tầng CNTT 69 Thúc đẩy sự phát triển của TMĐT 69 Nâng cao số lượng và chất lượng các Web site tiếng Việt 70 Hoàn thiện hệ thống luật pháp cho quảng cáo trên mạng 70 Phát triển hoàn thiện thị trường quảng cáo trên mạng 71 KẾT LUẬN 73 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Thương mại điện tử và Quảng cáo trên mạng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33317.doc
Tài liệu liên quan