Thực trạng quan hệ phân phối & Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta

a. Lời mở đầu Đất nước ta đang từng bước đổi mới,quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội . Với đặc thù riêng về chính trị đất nước , hoàn cảnh lịch sử… tác động gián tiếp trực tiếp làm xuất hiện nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng và phong phú về các hình thức sở hữu . Sự đa dạng về các hình thức sở hữu này đã làm xuất hiện nhiều hình thức phân phối khác nhau. Mỗi một hình thức sở hữu nhất định nó sẽ làm nẩy sinh một hình thức phân phối nhất định. Như vậy khi đI phân tích quan hệ phân phối

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng quan hệ phân phối & Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong nền kinh tế chúng ta sẽ nắm bắt được các quan hệ kinh tế nhìn nhận được sự công bằng xã hội qua các hình thức phân phối khác nhau. Trong bất cứ một nền kinh tế nào phân phối cũng luôn chiếm giữ một vị trí vô cùng quan trọng, là cây cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, là lĩnh vực hoạt động kinh tế nhạy cảm& phức tạp đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách kinh tế phảỉ nghiên cứu sâu rộng mỗi một hình thức phân phối nó gắn liền với một chế độ chính trị pháp quyền nhất định . Như vậy mỗi một chế độ chính trị xã hội khác nhau ta lại có một quan hệ phân phối khác nhau ở nước ta hiện nay đang trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế mạnh mẽ thích ứng với sự chuyển đổi này là sự đa dạng về các hình thức sở hữu để phát huy hết sức mạnh của nền kinh tế quốc dân. Cho nên làm xuất hiện nhiều quan hệ phân phối như phân phối theo lao động ,phân phối ngoài thù lao lao động ,phân phối theo vốn và tài sản Quan hệ phân phối trong nền kinh tế nước ta hiện nay là một chủ đề rộng. Để có thể tìm hiểu một cách có hệ thống,và sâu sắc hơn về quan hệ phân phối em xin được đi nhiều hơn vào quan hệ phân phối theo lao động(là quan hệ phân phối chủ yếu ở nước ta hiện nay) và một hình thức thể hiện rõ nét của nó đó là:hình thức thu nhập theo lao động B. Nội dung Chương I: Một số lý luận chung về quan hệ phân phối Một số quan điểm và bản chất của quan hệ phân phối Một số quan điểm về quan hệ phân phối Quan điểm của Mac-Enghen . Những quan hệ phân phối hay nó chính là nhu cầu động cơ khách quan, quan hệ những lợi ích kinh tế phản ánh nhu cầu và động cơ khách quan của mỗi tác nhân kinh tế trong tổng thể nèen kinh tế . Bởi vậy đến với quan điểm về phân phối Mac-Enghen có quan điểm hời hợt đầu tiên “ trong qúa trình sản xuất , các thành viên của xã hội thích nghi(tạo ra, cải biến) các sản phẩm của tự nhiên cho phù hợp với những nhu cầu của con người, phân phối xác định tỷ lệ mỗi cá nhân thâm gia vào sản phẩm đã sản xuất ra , trao đổi đem lại cho cá nhân những sản phẩm nhất định mà anh ta muốn dùng phần nhận được do phân phối để trao đổi…” Như vậy rõ ràng trong mọi nền kinh tế các tác nhân kinh tế tham gia vào nền sản xuất xã hội thiết lập một quan hệ sản xuất nhất định, quá trình sản xuất cho phép tạo ra những sản phẩm nhất định phục vụ cho nhu cầu của xã hội và dưạ trên những nền tảng những quan hệ sản xuất của những tác nhân kinh tế đó mỗi một tác nhân được nhận một sản phẩm nhất định do quá trình phân phối đem lại . Quan hệ phân phối là mối quan hệ giữa chủ thể sản xuất và chủ thể tiêu dùng.Dưới chế độ xã hội nhủ nghĩa Mac cho rằng “ phân phối sản phẩm là do phương thức sản xuất quyết định” như vậy trong xã hội tư bản và xã hội chủ nghĩa tồn tại hai phương thức sản xuất khác biệt liệu có dẫn đến hai quá trình phân phối khác nhau không . Để hiểu rõ về vấn đề này Mac đã đề cập đến các quan hệ phân phối ở từng khía cạnh trong từng xã hội . Phân phối và sản xuất: phân phối là nhân tố quyết định sản xuất cũng là nguồn thu nhập , người lao động tham gia sản xuất tạo ra sản phẩm và qua đó họ dược hưởng tiền công tiền lương, chế độ … người chủ sở hữu bỏ vốn sản xuất và họ thu được lợi nhuận, cổ tức … Mac viết bản thân sự phân phối là sản vật của sản xuất không những về mặt nội dung vì người ta chỉ có thể phân phối những kết quả của sản xuất thôi mà cả về mặt hình thức, vì phương thức nhất định của việc tham gia vào sản xuất quy định hình thái đặc thù của phân phối , hình thái đó theo đó người ta tham gia vào sự phân phối” (1) Trong xã hội tư bản người công nhân tham gia vào quá trình sản xuất họ sáng tạo ra những giá trị lớn hơn nhữnh giá trị mà họ nhận được từ tay những nhà tư bản rất nhiều , họ bị nhà tư bản chiếm đoạt phần thặng dư đó . Như vậy trong xã hội tư bản không có dược sự phân phối một cách công bằng, người lao động và người chủ sở hữu có sự khác biệt khá lớn về hình thức phân phối . Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa – một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất . Người lao động đồng thời cũng là người làm chủ trong quá trình sản xuất , họ được hưởng lợi ích xứng đáng với thành quả lao động của họ , hay nói cách khác trong xã hội chủ nghĩa phân phối cong bằng hơn cho mọi tầng lớp người trong xã hội. -Mối quan hệ giữa phân phối và tiêu dùng . Chế độ tư bản chủ nghĩa nhà tư bản chỉ quan tâm duy nhất tới lợi nhuận và vì vậy họ đầu tư nâng cao năng xuất lao động vắt kiệt sức của người công nhân. quá trình sản xuất tạo ra rất nhiều của cải cho xã hội và nó là thành quả lao động của người công nhân nhưng rút cuộc nó lại phục vụ chủ yếu cho nhà tư bản . Các nhà tư bản không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần… trong khi đó giai cấp công nhân chỉ nhận được giá trị phân phối của nhà tư bản chỉ đủ bù đắp lại sức lao động đã mất , đời sống của họ vẫn nghèo khổ cơ cực , có lẽ sự lệ thuộc về kinh tế như vậy nhà tư bản mới giữ được họ ở tầng lớp thấp kém, làm thuê cho họ được . Khi nghiên cứu sang chế độ xã hội chủ nghĩa Mac thấy rằng trong xã hội chủ nghĩa vì sự bình đẳng trong quan hệ sở hữu nên đã thiết lập chế độ phân phối công bằng. Người lao động được hưởng đúng với sức lao động hao phí đã bỏ ra . Khi người lao động có hu nhập cao họ sẽ tiêu dùng nhiều hơn một mặt nâng cao được đời sống của người lao động mặt khác nó làm cầu tiêu dùng tăng lên có tác dụng thúc đẩy sản xuất . -Mối quan hệ giữa phân phối và trao đổi . Thực chất đây là mối quan hệ giữa hai khâu trung gian trong quá trình phân phối và phân phối lại. Với giá trị nhận được từ trong quá trình lao động người lao động có thể dùng nó để trao đổi lấy sản phẩm mà mình cần thiết hơn điều đó được thực hiện trong quá trình trao đổi hàng hoá . Trong xã hội tư bản cạnh tranh Mac đề cập đến sự sản xuất tràn lan , và sự cạnh tranh gay gắt làm cho quá trình trao đổi sản phẩm nhiều khi bị gián đoạn giá cả trên thị trường bấp bênh không ổn định , tình trạng lạm phát làm cho đồng lương danh nghĩa tăng đồng lương thực tế giảm gây khó khăn cho người lao động . Nhìn nhận về quan hệ phân phối của Mac-Enghen đã đề ra. Trên nền tảng đó Đảng và Nhà nước ta nhận định rằng “ chúng ta phải sống phù hợp với kết quả lao động của mình không tiêu dùng quá giới hạn mà mức sản xuất cho phép” (2) “thiết lập trật tự mới xã hội chủ nghĩa , trên mặt trận phân phối , lưu thông để góp phần ổn định đời sống đẩy mạnh sản xuất chuyển đổi tình hình kinh tế xã hội . Phát huy tác dụng đòn kéo và cầu nối của phân phối … phân phối , lưu thông phải tham gia đắc lực vào cuộc đấu tranh giữa hai con đường , mở rộng trận địa chủ nghĩa xã hội , điều tiết bằng được thu nhập của các tầng lớp dân cư cho công bằng và hợp lý”(3) Quan đIểm về các quan diểm phân phối khác(Adámsmith,Ricardo,sismonvi) Trước hết đến với quan điểm của Adáms.mith .Vềlý luận tiền theo ông trong xã hôI nguyên thuỷ trước chủ nghĩa tư bản thì toàn bộ sản phẩm thuộc về người lao động .Điều đó có nghĩa là Adámsmith đã khẳng định rằng một khi người lao động làm việc bằng chính những tư liệu sản xuất và ruộng đât của mình , thì lẽ công bằng là người sản xuất phải được sản phẩm toàn vẹn của lao động của họ Nhưng khi sở hữu tư bản chủ nghĩa xuất hiện , người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sảnt xuất buộc họ trở thành những người làm thuê cho chủ tư bản .Trong điều kiện như vậy người làm thuê chỉ được nhạn một phần tiền từ chủ sau khi đã làm việc cho chủ một thời gian nhát định .Vạy tiền lưong của những người công nhân làm thuê không phải là toàn bộ giá trị sản phảm mà lao động của họ làm ra ,mà chỉ là một bộ phận giá trị đó. Ông chỉ ra mức bình thường của tiền lương và cho rằng tiền lương phải đạt được ở mức tối thiểu .Theo Adamsmith,tiền lương không dược hạ thấp quá mức tối thiểu nếu không đó sẽ là thảm hoạ đối với dân tộc .Bằng luận cứ khoa học ông chỉ ra rằng mức tiền lương tối thiểu chỉ diễn ra ở những nước đang diễn ra sự thoái hoá về kinh tế.Còn ở những nước phát triẻn nhanh thì tiền lương vượt ngoài mức tối thiểu . Adámsmith cho rằng tiền lương cao sẽ là động lực tăng trưởng kinh tế .cụ thể khi tiền lương cao, người lao động phấn khởi tìm mọi cách đẻ tăng năng suất lao động , tăng thu nhập quốc dân nói chung .Đến lượt mình tăng thu nhập quốc dân đẫn đến khả năng tăng tích luỹ tư bản và do đó tăng cầu về sản phẩm và suy đén cùng nó sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển Mặc dù có những tư tưởng hợp lý như vậy nhưng Adámsmith vẫn không tránh khỏi sự lẫn lộn giữa lao đông và sưc lao động và coi tiền lương là giá cả của sức lao động . Tiếp tục sự nghiệp này của Adamsmith,D.Ricảrdo cho rằng giá trị người lao động tạo ra gồm :Tiền lương và Lợi nhuận và khẳng định khi tiền lương tăng thì lợi nhuận giảm .Ông có ý đồ giải quyết việc xác định tiền lương theo quy luặt giá trị nhưng khong thành công vì ông đã mắc phải sai lầm giống Adámsmith.một trong những công lao to lớn của ông là ông đă phân tích được tiền công thực tế và xác định lương hàng hoá mà người cong nhân mua được bằng tiền chưa quyết định địa vị xã hội của người đó.Sự quyết đinh tình cảnh của công nhân phụ thuộc vào mối tương quan giữa tiền lương và lợi nhuận . Sí smonvi khi đén với quan đIểm về tiền lương ông có nhiều điẻm rõ ràng hơn Adamsmithvà Ricardo.Ôcho rằng công nhân dân là ngươì tạo ra của cải vật chất cho xã hội .Theo ông tiền lương phải ngang bằng toàn bộ giá trị sản phẩm của công nhân… Như vậy một số nhà kinh tế học cổ điẻn trước C.MAC đã đạt dược một số thành tựu nhất định trong việc giải quyết các vấn đè phân phối .Nhưng bên cạnh đó rõ ràng trong nhận định của các ông vẫn còn những hạn chế nhất định. Đến với những lý luận về quan hệ phân phối của các nhà kinh tế học cổ điển và lý luận và lý luận của các Mác Đảng và Nhà nước ta đã có những nhận định riêng trên cơ sở tổng hợp những ưu nhược điểm của các nhà kinh tế chính trị học tù đó rút ra cơ sở lý luận về vấn đề quan hệ phân phối ở nước ta. Bản chất của quan hệ phân phối và nguyên tắc phân phối ở nước ta. Quan hệ phân phối là một mặt quan trọng trong nền sản xuất. Phân phối không chỉ đơn thuần là phân phối giá trị sản xuất ra mà nó còn bao hàm cả phân phối nguồn lực cho sản xuất. Phân phối cho sản xuất là sự bảo đảm các yêú tố đầu vào về tư liệu sản xuất, về lao động, nguyên nhiên liêu… cho quá trình sản xuất. Trong bất cứ một quá trình sản xuất nào thì phân phối cho sản xuất luôn là vấn đề thiết yếu nó quyết điịnh hiệu quả kinh tế, sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất. Khi phân phối cho quá trình sản xuất đạt hiệu quả kinh tế, nó có thể cho nhiều sản phẩm đầu ra hơn trong khi đầu vào không đổi. Rõ ràng ở đây phân phối sản xuất đã đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy từ sự phân phối tư liệu sản xuất, cùng các yếu tố đầu vào khác đã tạo lên những đặc trưng riêng của san phẩm đầu ra và từ những sản phẩm đầu ra đó người ta lại tiến hàng phân phối và phân phối lại theo các hình thức khác nhau. Vậy thì ta thấy rằng phân phối sản phẩm chẳng qua chỉ là kết quả của quá trình phân phối cho sản xuất, sự phân phối này đã bao hàm trong quá trình sản xuất và quyết định cơ cấu sản xuất. Xem xét sản xuất mà không quan tâm đến sự phân phối đó, sự phân phối bao hàm trong sản xuất thì rõ ràng đó là một sự trừu tượng trống rỗng, còn sự phân phối sản phẩm thì trái lại, đã bao hàm trong sự phân phối này là một yếu tố của sản xuất. Trong quá trình phân phối cho sản xuất tạo nên cơ cấu sản xuất khác nhauvà từ đó thiết lập lên quan hệ phân phối sản phẩm khác nhau như ta đã nói. Ơ nước ta chủ yếu là hình thức công hữu về tư liệu sản xuất, kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo. Vì tư liệu sản xuất là bình đẳng cho mọi người lao động nên ở nước ta có được quan hệ phân phối công bằng hơn cho người lao động. Tuy nhiên toàn bộ những sản phẩm mà xã hội làm ra lhông phải đều được sử dụng cho tiêu dùng cá nhân mà trước hết những giá trị tạo ra đó phải được sử dụng để: - Bù đắp những tư liệu sản xuất đã hao phí, hao mòn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Lập quỹ dự phòng đề phòng thiên tai, tai nạn bất ngờ , quốc phòng an ninh… Để mở mang sản xuất, quá trình sản xuất ngày càng mở rộng, phát triển thì các tư liệu sản xuất phải được thay đổi, đổi mới cùng với sự cải tiến của quan hệ sản xuất. Phần còn lại mới được dành cho tiêu dùng. Trong phần này lại được phân phối cho quá trình sản xuất để bù đắp lại những hao phí bỏ ra, quản lý hành chính, phúc lợi xã hội…phần còn lại cuối cùng mới được dành cho tiêu dùng cá nhân. Như vậy tổng sản phẩm xã hội vừa được phân phối để tiêu dùng cá nhân vừa được phân phối tiêu dùng cho sản xuất. 2.2.Nguyên tắc phân phối ở nước ta hiện nay. Xuất phát từ bản chất của quan hệ phân phối ở nước ta đã hình thành lên một số nguyên tắc phân phối chủ yếu sau. 2.2.1. Phân phối theo lao động. La hình thức phân phối chủ yếu và rã nét nhất ở nước ta hiện nay. Xuất phát từ một nền sản xuất chủ yếu dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất thì phân phối theo lao động là một hình thức phân phối tỏ ra thích hợp nhất. Chính sự công hữu về tư liệu sản xuất này đã thiết lập lên sự công bằng cho người lao động, quyền làm chủ của người lao động. Người lao động sẽ được hưởng những thành quả lao động xứng đáng với năng lực sản xuất của mình, giá trị lao động của họ đem lại cho xã hội, đó cũng chính là cơ sở để tiến hành phân phối theo lao động. Khi mà nước ta chủ yếu là kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể thì phân phối theo lao động là hoàn toàn phù hợp. Hơn nữa nước ta hiện nay còn tồn tại sự khác biệt rất lớn giưuã các thành phần lao động như lao động động trí óc, lao động chân tay, lao động giản đơn…Do xuất phát từ nước nông nghiệp lạc hậulại đang định hướng lại theo con đường phát triển kết hợp công nông nghiệp-dịch vụ nên có sự pha trộn không đồng đều giữa các thành phần kinh tế vì vậy mà lao động cũng hình thành nhiều loại khác nhau. Chính vì vậy mà kết quả lao động cũng rất khác nhau, do đó chúng ta muốn tiến hành phân phối công bằng cho họ thì cần phải căn cứ vào giá trị mà lao động động của họ dã tạo ra cho xã hội. Mặt khác trong xã hội hiện còn tồn tại khá nhiều những người có tư tưởng ỉ lạ, ăn bám “ muốn trút bỏ gánh nặng lao động cho người khác ” trong tình hình đó phân phối theo lao động là giải pháp hợp lý. đất nước ta mới chỉ đang ở giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế còn nghèo nàn, sản phẩm quốc dân chưa đủ để phân phát cho mọi người theo nhu cầu, hơn nữa lao động chưa trở thành nhu cầu mà nó vẫn còn là phương thức sinh nhai của mỗi người, trong hoàn cảnh đó thì phân phối theo lao động sẽ thúc đẩy mọi người lao động ngày một tích cực và hăng hái hơn giúp cho sản xuất phát triển. Như vậy để phân phối theo lao động cần đảm bảo các yêu cầu: Phải căn cứ vào số lượng chất lượng lao động của mỗi người dể trả công cho người lao động ,phải trả cong bằng nhau cho lao động như nhau,trả công khác nhau cho lao động khác nhau khong phan biệt già trẻ , gái trai, dân tộc …Mặt khác phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích vật chất với đông viên tinh thần cho người lao động,có vậy mới phát huy khả năng lao động, sáng tạo của mọi người .Sau cùng để phân phối theo lao động được công bằng hơn chúng ta cần đấu tranh chống lại hai sai lầm phổ biến đó là chủ nghĩa bình quân và khuynh hướng đòi mở rộng quá mức khoảng cách bậc lương mà không có căn cứ kinh tế .Thực hiện tốt phân phối theo lao động ở nước ta hiện nay sẽ mang lại nhiều tác dụng to lớn ,nó sẽ góp phần tạo ra công bằng trong xã hội ,khuyến khích người lao dộng tích cực lao động hết năng lực và khong ngừng nâng cao trình độ bản thân , qua đó tạo diều kiện phân bổ lao động hợp lý giữa các ngành kịnh tế , thúc đẩy nền sản xuât xã hội phát triển. 2.2.2.Phân phối theo tài sản ,ng uồn vốn và những đóng góp khác Nguyên tắc phân phối này cũng rất phù hợp cho thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay khi mà chúng ta đang thực đa dang hoá các hình thức sở hữu trong kinh doanh .Phân phối theo vốn taì sản và những đóng góp khác đựoc hiểu là quá trình trả công cho vốn tài sản và những đóng góp khác đó nó được thể hiện thông qua lãi ,cỏ tức ,lợi nhuận…Với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay bao gồm chủ yếu là hình sản suất nhỏ lẻ ,hộ gia đình chưa thành lập được công ty lớn (vì thiếu vốn)thì hình thức theo vốn tài sản cùng những đóng góp khác là một động lực to lớn thúc đẩy huy động vốn trong dân chúng . chúng ta biết rằng hiện nay, một phần lớn nguồn vốn còn đang nằm rải rác trong tay người lao dộng , nhà tư bản nhỏ .Để huy động nguồn vốn này chúng ta không thể áp dụng các biện pháp cưỡng bức vì nước ta là một nưóc theo chủ nghĩa xã hội .một biện pháp tỏ ra hiệu quả trong vấn đề này,không có gì khác chính là những biên pháp kinh tế mềm dẻo ,khuyến khích nguời dân . Muốn dân chúng góp vốn kinh doanh thì nhà nước cần có những chính sách rõ ràng trong việc quy định lãi suất , lợi nhuận …thu được từ nguồn vốn tài sản đóng góp đó. Huy động được nguồn vốn trong dân kích ứng được người dân mạnh dạn đầu tư sản suất kinh doanh sẽ nlà một lợi thế lớn tạo đà cho nền kinh tế phát triển vững mạnh và đó cũng là một trong những mục tiêu chiến lược của đảng ta. 2.2.3)Hình thức phân phối ngoài thù lao động thông qua quỹ phúc lợi xã hội Hình thức phân phối này là một trong những hình thức phân phối không thể thiếu trong một đất nước luôn vươn tới sư công bằng bình đẳng như nước ta .Nguyên tắc phân phối này đảm bảo cho mọi người được hưởng một mức phân phối cômg bằng và nó mang tính nhân đạo cao . Nhũng người làm việc với năng lực cao hơn mang lại hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt hơn sẽ được hưởng xứng đáng với lao đông mình bỏ ra , ngoài phần lương cơ bản ra còn có khen thưởng .Điều đó giúp cho người lao động hứng khởi trong sản xuất , người làm tốt sẽ làm ngày một tốt hơn ,người làm chưa tốt thì không ngừng phấn đấu ,rèn giũa mình để làm việc lao động tốt hơn .Không chỉ bó hẹp trong phạm vi cá nhân ngươì lao đọng nó còn giúp cho tưng nhà máy ,từng phân xưởng ,đôn vị sản xuất không ngừng nâng cao năng suất tạo ra nhiều hơn của cải cho xã hôi. Phân phối ngoài thù lao lao động thông qua quỹ phúc lợi xă họi mang tinh chất nhân dạo cao. Qua hai hình thức phân phối đa xét ta thấy rằng nhửng ngưòi có sức lao động , có vốn,hay có đóng gỏp khác cho quá trinh sản xuất xă hội họ sẽ được hưởng những giá trị phân phối nhất định từ thành quả lao động ,đóng góp ấy.Thế vậy còn nhưng người không có khả năng lao động(như người ốm yếu ,già cả mất sửc lao đọng….) thì sao.Quan hệ phân phối trong xã hội chủ nghĩa mà cụ thể là nước ta đảm bảo cho họ một mức sống ổn định tối thiểu . Nhận định về hình thửc phân phối này ta thấy rằng nó tạo ra sức phát triển toàn diện cho mọi thành viên trong xãhội,đúng theo quan điẻm mà đại hội VII của đảng dã đề ra “coi con nguời là trung tâm của mọi sư phát triển gắn liền chíng sách phát triển kinh tế với chíng sách phát triển xã hội” 2.2.4) Đến với đa quan hệ phân phối trên ta thấy đó là ba quan hệ phân phối phổ biến và quan trọng , không thể thiếu đối với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay. Các quan hệ phân phối này tạo nên các hình thức thu nhập khác nhau giữa các tầng lớp dân cư ,phổ biến là các hình thức thu nhập sau: Thứ nhất là: hình thức tiền công,tiền lương : Cùng với quá trình chuyển nền kinh tế nước ta từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường là quá trình chúng ta dần dần thừa nhận sức lao động là hàng hoá. Khi người lao đọng làm việc cho chủ doang nghiệp hoặc tổ chức kinh tế quốc doanh người lao đọng nhận được một khoản thu nhập gắn với kết quả lao dộng của họ . Về nguyên tắc khoản thu nhập đó phải dược tương xứng với số lượng và chất lượng lao động mà họ đã cống hiến . Số thu nhập theo lao đong đó dược gọi la tiền lương .Hay nói cách khác tiền lương chính là hình thức thu nhập theo lao đọng . Để cho người lao đọng thực sự yên tâm từ dó sẵn sàng mang hết sức sáng tạo của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh ,điều quan trọng trước hết ở chỗ là người lao dộng phải được nhận đủ mức lương và nhận kịp thời ,mức lương đó phải ngày một tăng theo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của chính họ. Do vậy trong cơ cấu tiền lương thường bao gồm hai phần là tiền lương cơ sở và tiền thưởng . Phần tiền lương cơ sở là phần lương tính chung cho người lao động có trình độ và điều kiện làm việc như nhau còn phần tiền thưởng là phần tính riêng cho những cá nhân lao động xuất sắc, đây là phần lương có tác dụng khuyến khích người lao động. Tiền lương còn được các nhà kinh tế học thể hiện qua hai phạm trù đó là tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế. Tiền lương danh nghĩa là phần tiền tệ mà người lao động nhận được phù hợp với sức lao động mà họ bỏ ra. Trong điều kiện không có sự biến động trên thị trường giá cả và thị trường tiền tệ thì sự nâng cao tiền lương danh nghĩa cũng đồng nghĩa với việc nâng cao đời sống của người lao động. Nhưng trong tình trạng lạm phát, chẳng hạn tiền tệ giảm giá trị hàng hóa tăng giá trị khi đó mức tiền lương danh nghĩa không phản ánh đúng mức thu nhập của người lao động. Khi ấy người ta phải dùng đến tiền lương thực tế. Tiền lương thực tế chính là phần giá trị thu được từ những giá trị vật chất, dịch vụ mà người lao động đã có được khi mua chúng bằng tiền lương danh nghĩa. Mức tiền lương thực tế phản ánh chính xác nhất đầy đủ nhất thu nhập thực tế của người lao động, nó cho biết đời sống của người lao động được nâng lên hay giảm đi. Như vậy tăng thu nhập tiền lương thực tế sẽ làm tăng mức sống của dân cư. Rõ ràng tiền lương có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của người lao động, do đó thông qua chính sách tiền lương, có thể tác động mạnh mẽ tới đời sống của người lao động. Nghị quyết đại hội VII đã khẳng định “Đối với chính sách tiền lương và thu nhập, khuyến khích mọi người tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế bảo vệ các nguồn thu nhập hợp pháp, điều tiết hợp lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành, các vùng đấu tranh ngăn chặn thu nhập phi pháp”. Thứ hai là : hình thức lợi tức, lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường cái mà các nhà sản xuất kinh doanh quan tâm trước hết là lợi nhuận và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh thể hiện ở lợi nhuận nhiều hay ít. Lợi nhuận là phần chênh lệch giữa chi phí bán hàng và phí tổn sản xuất. Trong lịch sử đã có nhiều nhà kinh tế học quan niệm rằng lợi nhuận chính là sự trả công cho những ai dám mạo hiểm vay vốn đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh và dám chấp nhận rủi ro, thậm chí phá sản. Để đạt lợi nhuận tất yếu các nhà sản xuất kinh doanh phải cạnh tranh mạnh mẽ với nhau tìm mọi cách để giảm chi phí để thu lợi nhuận cao nhất. Trong nền kinh tế thị trường lưọi nhuận là động lực chi phối hoạt động của người sản xuất kinh doanh. Chính lợi nhuận đã đưa doanh nghiệp đến các khu vực sản xuất hàng hóa mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ các khu vực ít người tiêu dùng. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến việc áp dụng khoa học kỹ thuật ngày càng rộng rãi và hiệu quả nhất. Lợi nhuận tạo điều kiện xúc tác cho thị trường hàng hóa ngày càng hoàn thiện và đa dạng để có thể đáp ứng mọi nhu cầu của người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, các nhà sản xuất kinh doanh ngoài phần thu nhập là tiền lương, còn khoản thu nhập khác đó là lợi nhuận và phần này ngày càng tăng lên, chiếm ưu thế trong tổng thu nhập. Tổng thu nhập mà mỗi người lao động nói chung mỗi nhà sản xuất nói riêng nó vừa phải phản ánh kết quả lao động của mỗi người, vừa phản ánh kết quả lao động của tập thể với tư cách là chỉnh thể. Để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế cần phải phát huy tối đa sức sáng tạo của các nhà kinh doanh giỏi và thạo với cơ chế thị trường. Đúng vậy cần không nâng cao thu nhập trong đó có lợi nhuận của họ. Việc không ngừng nâng cao thu nhập cho họ đòi hỏi không ngừng cải tiến cơ chế quản lý và các chinsh sách kinh tế, trong đó có chính sách phân phối lợi nhuận. Việc đưa ra đúng cơ chế hình thành và phân phối lợi nhuận sẽ góp phần hình thành quan hệ “làm chủ thực sự với côngviệc”. Lợi tức chính là một phần từ lợi nhuận mà các tổ chức kinh tế trả cho người sở hữu tiền tệ (đóng góp cổ phần vào doanh nghiệp) như vậy lợi tức có nguồn gốc từ lợi nhuận, tuỳ theo hình thức mua bán cổ phiếu mà lợi tức được chi trả theo các phương thức khác nhau. Lợi lức chính là động cơ để mọi người mua cổ phiếu cả doanh nghiệp, thường thì những doanh nghiệp có uy tín sẽ thu hút được mọi mua cổ phiếu khi doanh nghiệp phát hành cổ phiếu. Thông qua hình thức phát hành cổ phiếu giúp cho doanh nghiệp có thể huy động vốn nhàn rỗi để mở rộng quy mô của doanh nghiệp, tăng nguồn vốn chủ sở hữu. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay đã và đang xuất hiện những công ty cổ phần, đó là công ty cổ phần nhà nước và công ty cổ phần tư nhân, đều được nhà nước khuyến khích mở rộng. Thứ ba : Hình thức thu nhập từ quỹ tiêu dùng công cộng: đó là phần thu nhập mà người lao động nhận được từ quỹ tiêu dùng chung của xã hội những khoản ưu đãi nhất định như trợ cấp, bảo hiểm, các khoản ưu đãi…Đó chính là phần thu nhập mà chính phủ trích ra từ ngân sách nhà nước để hỗ trợ cho người lao động. Đây là hình thức thu nhập phản ánh tính nhân đạo, quan tâm đến đời sống mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội của đảng ta, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà nguồn thu nhập bình quân đầu người chưa cao. Các khoản trợ cấp , ưu đãi đảm bảo cho những người không còn khả năng lao động hoặc bị tai nạn lao động một cuộc sống bình thường tối thiểu… Các khoản bảo hiểm xã hội thường chỉ có ở thành phần kinh tế nhà nước, nó là nguồn thu nhập ổn định đảm bảo cuộc sống cho những người lao động đã đến tuổi nghỉ hưu : 2.3 Kinh nghiệm thực hiện phân phối ở một số nước 2.3.1) Indonexia : ở Indonexia các vấn đề chính được chính phủ quan tâm là giáo dục và tạo việc làm. Trong lĩnh vực giáo dục, chính phủ một mặt chú trọng tăng cường giáo dục phổ thông, một mặt đưa ra hệ thống đào tạo quốc gia về kỹ năng hướng nghiệp. Hệ thống này có nhiệm vụ đào tạo công nhân các ngành nghề cơ bản như thêu, hàn, sửa chữa xe hơi, xây dựng. Từ những năm 60 chính phủ Indonexia đã luôn tiến hành các chương trình tăng cường việc làm ở khu vực nông thôn với một phần kinh phí do ngân sách cấp và phần khác là viện trợ của nươc ngoài. Mục tiêu chính của chương trình là tăng cường sản xuất lương thực mở ra các cơ hội việc làm và tạo ra sự phân phối thu nhập công bằng hơn. Tuy nhiên nhiều nhà kinh tế cho rằng, ở đây dân chúng ngày càng phụ thuộc nặng nề hơn vào các chương trình của chính phủ hoặc nói cách khác nhân dân không nắm vững hoặc làm chủ quá trình phát triển. ở Indonexia các tổ chức phi chính phủ có đóng góp to lớn trong việc tiếp cận, giúp đỡ các tầng lớp nghèo khổ. Sự ra đời các tổ chức này, một mặt do nhu cầu phải bổ sung những khiếm khuyết trong những chương trình của chính phủ. Mặt khác có quan hệ chặt chẽ với việc suy giảm các nguồn tài trợ từ ngân sách do thu nhập từ dầu lửa giảm. Hoạt động của các tổ chức này gồm bốn dạng chính, huấn luyện, nghiên cứu, phát triển thực hiện các chương trình như sản xuất, tư vấn… về các chức năng của các tổ chức này tỏng việc giảm bớt nghèo khổ có thể kể đến là hỗ trợ, bổ sung và làm trung gian. Do tính chất quan liêu nặng nề, các chương trình của chính phủ có thể không với tới các vùng các nhóm dân cư. Sự có mặt của các tổ chức phi chính phủ ở những nơi bị bỏ trống này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.Với tư cách là người hỗ trợ, các tổ chức này làm chức năng cộng sự thực hiện các chương trình của chính phủ giúp đỡ các tầng lớp nghèo, với tư cách là người trung gian họ chuyển những nguyện vọng cảu tầng lớp nghèo đến các cơ quan của chính phủ. 2.3.2 )Singapore : Đất nước giàu có và có thu nhập cao, việc giảm bớt nghèo khổ, chênh lệch thu nhập lại có những điểm khác. Sự tăng trưởng kinh tế cao và liên tục trong nhiều thập niên đã làm cho việc xoá bỏ nghèo khổ ở đây ít nan giải hơn. Một chiến lược quan trọng nhằm làm giảm nghèo khổ là đầu tư vào con người. Trong những năm gần đây, chính phủ Singapore đã có những cố gắng đáng kể để tăng kỹ năng và chất lượngcủa toàn bộ lượng lao động, coi đó như là một phần của cải cách kinh tế của chính phủ. Chi phí cho giáo dục tăng nhanh chủ yếu là tập trung cho các lĩnh vực giáo dục kỹ thuật, đào tạo chuyên ngành. Mặt khác các chính sách được áp dụng đều khuyến khích công nhân có tay nghề cao. ậ Singapore sự can thiệp của nhà nước vào thị trường lao động và giáo dục có tác dụng toạ nên nguồn vốn nhân lực trong các hộ gia đình và cá nhân. Các biện pháp trên không trực tiếp loại bỏ mức thu nhập thấp và những bất bình đẳng về của cải. Nó chỉ giúp cho mọi cá nhân có được việc làm tốt với thu nhập xứng đáng. 2.3.3 )Thailand : Trong các nước ASIAN , Thailand vẫn được coi là ít có sự can thiệp của chính phủ vào đời sống kinh tế hơn cả. Những năm gần đây, Thailand đã thành công trong việc phát triển kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, tỷ lệ sinh đẻ hạ làm cho thu nhập theo đầu người tăng một cách ổn định. Thailand đã có nhiều thành tựu trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản dưới nhiêù hình thức phong phú, có mục đích chung là nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân chúng. Một số dịch vụ có thể kể đến là : Phúc lợi cho những khốn cùng trong xã hội. ở đây những người rơi vào hoàn cảnh nan giải có thể được cung cấp tiền mặt, hiện vật, các chỉ dẫn hoặc tư vấn. Một chương trình quan trọng khác là giúp đỡ vô danh và thầm yêu đối với những phần tử khốn cùng do hoàn cảnh kinh tế xã hội gây ra. Trợ giúp gia đình. Hình thức này nhằm mục đích củng cố gia đình như một đơn vị cơ bản của xã hội. Đối tượng này là gia đình thiếu khả năng tự đảm bảo được cuộc sống tối thiểu. Phúc lợi trẻ em và thanh niên. Phúc lợi này bao gồm các dịch vụ cho trẻ em tại gia đình khuyến khích các gia đình chăm sóc cho trẻ em lang thang cơ nhỡ bảo vệ phúc lợi cho trẻ em hư hỏng chống bóc lột trẻ em và chăm sóc có tổ chức khi cần. Trợ giúp việc làm và cho vay vốn, vốn được cho vay không quá 4000bạt , không tính lãi hoàn trả trong 3 năm nhằm các gia đình tự tạo việc làm. Phúc lợi chăm sóc và phục hồi chức năng cho những người tàn tật. Tham gia hoạt động này là các tổ chức chăm sóc cho người tàn tật trên 17 tuổi bị lệ thuộc không có bệnh truyền nhiễm, có khuyết tật như mù, mất khả năng về chân tay hoặc có bệnh mãn tính. Những người tàn tật còn đư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0249.doc
Tài liệu liên quan