Lời mở đầu
Ngày 07/11 vừa qua, tổ chức thương mại thế giới WTO đã kí quyết định chính thức công nhận Việt Nam là thành viên thứ 150 của tổ chức này. Đây là một sự kiện vô cùng quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Hội nhập, đó là xu thế tất yếu của kinh tế thế giới hiện đại và cũng là hướng đi của nền kinh tế Việt Nam. Sau 11 năm đàm phán, chúng ta đã là thành viên của WTO, đó có thể coi là một bước tiến mới của nền kinh tế. Tuy nhiên, vào WTO không phải là mục đí
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1424 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng quá trình Cổ phần hóa Ngân hàng thương Mại Nhà nước tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch cuối cùng của chúng ta. Điều quan trọng là vào được WTO, chúng ta có tận dụng được những cơ hội và đương đầu được với những thách thức để đưa nền kinh tế phát triển hay không.
Nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng đã và đang vận động, đề ra những hướng đi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, chuẩn bị hành trang bước vào WTO. Làm thế nào để tồn tại và phát triển trong điều kiện mới, giữ vững được thị trường trong nước, vươn tới các thị trường ngoài nước, cạnh tranh được với các doanh nghiệp ngoài nước sẽ tràn vào Việt Nam đang là những mối quan tâm hàng đầu, cấp bách của các doanh nghiệp cũng như những nhà quản lý. Ngành Ngân hàng cũng không nằm ngoài sự vận động chung đó. Trong những năm gần đây, các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) cũng như các ngân hàng thương mại cổ phần đã có nhiều bước phát triển mới. Tuy nhiên hệ thống ngân hàng ở nước ta vẫn còn nhiều yếu kém. Chính phủ đã đề ra nhiều kế hoạch tổ chức cơ cấu lại hoạt động của các NHTMNN. Một trong những nội dung quan trọng của kế hoạch này là việc thực hiện cổ phần hoá từng bước các NHTMNN mà đầu tiên là ngân hàng Vietcombank. Đây là một bước đi đúng đắn và rất quan trọng đối với sự phát triển của các ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là một vấn đề mới còn nhiều điều phải suy tính để việc cổ phần hoá ngân hàng đạt được hiệu quả cao nhất, thật sự nâng cao được chất lượng hoạt động của các NHTMNN. Cổ phần hoá NHTMNN vì vậy đang là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà lãnh đạo và các nhà kinh tế.
Trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ xin đưa ra một vài quan điểm về bản chất của quá trình cổ phần hoá NHTMNN trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay và thực trạng của quá trình này.
Đề tài gồm hai phần chính:
Phần 1: Cơ sở lý luận
Phần 2: Thực trạng quá trình cổ phần hoá NHTMNN tại Việt Nam
Phần I: Cơ sở lý luận
I.Khái quát chung về cổ phần hoá (CPH)
Để có thể tìm hiểu được về quá trình CPH NHTMNN ở Việt Nam, trước hết ta cần có một cái nhìn tổng quát về CPH doanh nghiệp nói chung
CPH có thể hiểu theo nghĩa chung nhất đó là quá trình chuyển đổi một doanh nghiệp từ một mô hình công ty nào đó sang mô hình công ty cổ phần, ( ở đây ta chỉ xét đến việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp gồm nhiều chủ sở hữu và việc ra quyết định và phân chia lợi nhuận dựa trên cơ sở tỉ lệ vốn góp của mỗi bên. Loại hình doanh nghiệp này đã xuất hiện và phát triển trên thế giới hàng trăm năm nay và ngày càng chứng tỏ tính ưu việt của nó trong hoạt động kinh doanh. Hiện nay, đây là loại hình doanh nghiệp chiếm ưu thế ở các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới.
Trong khi đó, loại hình công ty nhà nước là loại hình doanh nghiệp mà nhà nước là chủ sở hữu duy nhất. Đây là loại hình doanh nghiệp truyền thống, là công cụ quản lý kinh tế lâu đời của nhà nước, đặc biệt đối với các nước XHCN thì DNNN đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, loại hình doanh nghiệp này lại tỏ ra hoạt động kém hiệu quả trước sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy, việc CPH các công ty nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng là một trong những biện pháp được nhiều quốc gia áp dụng từ lâu.
Sau khi CPH điều thay đổi lớn nhất đối với các DNNN là sự thay đổi về quan hệ sở hữu.Nếu như trước CPH, DNNN chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là nhà nước thì sau CPH,doanh nghiệp sẽ có nhiều chủ sở hữu thuộc nhiều thành phần khác nhau như nhà nước, cá nhân, tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài…Sự thay đổi trong quan hệ sở hữu sẽ dẫn đến sự thay đổi trong quan hệ tổ chức quản lý và trong quan hệ phân phối. Với một quan hệ sản xuất tiến bộ và mang tính xã hội hoá cao hơn sẽ thúc đẩy hoạt động của doanh nghiệp phát triển.
II.Bản chất của quá trình cổ phần hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1.Vai trò của NHTMNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Trong sự phát triển hiện nay ở các nền kinh tế trên thế giới, dù là các nước phát triển hay là các nước đang phát triển đều hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lý ở một mức độ nào đó của nhà nước thông qua các chính sách, chủ trương, kế hoạch và thông qua hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Hệ thống DNNN trong các ngành, lĩnh vực là công cụ của nhà nước để can thiệp vào hoạt động kinh tế trong lĩnh vực đó. NHTMNN là một DNNN đặc biệt, không chỉ giúp cho nhà nước điều hành và quản lý lĩnh vực tài chính tiền tệ mà còn qua đó tác động tới các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Có thể tóm tắt vai trò của NHTMNN như sau:
1.1.NHTMNN các tác động thúc đẩy sự phát triển của ngành Công nghiệp ngân hàng.
ở nhiều nước trên thế giới mà đặc biệt là ở các nước đang phát triển thì Công nghiệp ngân hàng là một ngành công nghiệp non trẻ, phát triển muộn hơn so với các ngành công nghiệp khác. Vì vậy, trong giai đoạn đầu phát triển, muốn đặt nền móng để xây dựng được một hệ thông ngân hàng ổn định sau này thì cần phải có những ngân hàng với tiềm lực vốn lớn làm trụ cột. Đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì không ai khác chính là các NHTMNN sẽ đảm nhận nhiệm vụ này. Sự hoạt động ổn định của các NHTMNN sẽ tạo ra sự ổn định chung cho cả hệ thống và thúc đẩy, hỗ trợ phát triển cho các ngân hàng tư nhân hay các ngân hàng thương mại cổ phần khác.
1.2. NHTMNN đảm bảo cho sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các DNNN là lực lượng đi đầu cho sự phát triển kinh tế, trong đó NHTMNN là nơi cung cấp nguồn vốn sản xuất kinh doanh cho các ngành nghề khác.
Nguồn vốn cung cấp cho các DNNN được lấy từ ngân sách nhà nước, tuy nhiên chúng ta không thể cấp vốn 100% cho các doanh nghiệp như thời kì bao cấp mà NHTMNN sẽ là cơ quan đứng ra cho các DNNN vay tiền (mà thực ra cũng là tiền của nhà nước), điều này sẽ đảm bảo cho nền kinh tế vận động theo đúng qui luật của nó, giúp cho các DNNN, bao gồm cả các NHTMNN hoạt động một cách tích cực và hiệu quả hơn. Từ đó, khi nhà nước từng bước rút vai trò điều hành của mình ra khỏi các DNNN thì chúng ta đã có một cơ chế cung cấp vốn hiệu quả.
1.3. NHTMNN bảo đảm phân bố tài chính cho các khu vực mà các nhà đầu tư không muốn đầu tư hoặc khu vực cần có sự ưu đãi.
Trong nền kinh tế có những khu vực mà việc đầu tư vào đó có thể mang lại lợi ích xã hội cao nhưng hiệu quả kinh tế thấp hoặc những khu vực cần phải có một sự đầu tư ưu đãi về vốn thì mới phát triển được. Những khu vực này cần phải có sự trợ cấp, can thiệp của nhà nước, ngoài các khoản trợ cấp mang tính cho không thì còn thông qua các khoản tín dụung ưu đãi mà các NHTMNN thực hiện theo sự chỉ đạo của nhà nước. Như vây, NHTMNN sẽ trở thành một công cụ giúp nhà nước khắc phục những khuyết tật cuả nền kinh tế thị trường, đảm bảo cho sự phát triển đúng hướng của xã hội.
1.4. NHTMNN ngăn chặn khủng hoảng, đổ vỡ ngân hàng.
Với tiềm lực tài chính lớn và được sự bảo trợ của nhà nước, NHTMNN sẽ làm giúp giảm nguy cơ về những cuộc khủng hoảng dây chuyền trong hệ thống bắt nguồn từ các ngân hàng thương mại cổ phần tiềm lực vốn mỏng và còn non về kinh nghiệm hoạt động.
Bảng dưới dây cho ta thấy tỷ lệ vốn nhà nước trong khu vực ngân hàng tại một số nền kinh tế trên thế giới.
Ta thấy, tại các nước có nền kinh tế phát triển thì tỷ lệ vốn nhà nước là rất thấp, trong khi đó ở các nước đang phát triển thì vốn nhà nước đóng một vai trò chủ đạo trong toàn ngành.Từ đó có thể rút ra được rằng, trong một nền kinh tế đang phát triển thì vai trò của NHTMNN là rất lớn và vai trò này có xu hưóng giảm dần khi nền kinh tế phát triển tới một mức độ cao hơn.Với thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay, còn thua xa so với các nước ấn Độ, Trung Quốc, Nga thì dự đoán trong vòng 10 hay 20 năm tới, NHTMNN sẽ vẫn có một vai trò tích cực trong nền kinh tế.Vì thế, quá trình CPH các NHTMNN sẽ không thể làm thay đổi bản chất của các ngân hàng này.Nếu như vậy, mục đích của CPH là gì,và tại sao phải CPH?
2.Hiệu quả hoạt động của các NHTMNN
Qua nghiên cứu thực tế của các nước trên thế giới, người ta rút ra được rằng, các NHTMNN nhìn chung hoạt động kém hiệu quả hơn so với các ngân hàng tư nhân hay các ngân hàng thương mại cổ phần khác.Điều này có thể được giải thích như sau:
-Do mục tiêu hoạt động của các NHTMNN
Có thể thấy rằng, chủ sở hữu của các NHTMNN là nhà nước, là tổ chức có trách nhiệm đảm bảo cho sự phát triển chung của nền kinh tế đi đôi với công bằng và ổn định xã hội.Như vậy, NHTMNN không hoàn toàn hoạt động vì lợi nhuận của nó mà theo đuổi nhiều mục tiêu khác. Do đó, các ngân hàng có thể sẽ phải thực hiện những khoản cho vay có tỉ lệ lợi nhuận thấp hay mức rủi ro cao theo chỉ thị của nhà nước như cho vay ưu đãi với khu vực nông thôn, miền núi, hay cho các DNNN đang làm ăn thua lỗ vay vốn.Ngoài ra các quyết định của ngân hàng còn bị yếu tố chính trị chi phối như quyết định về chính sách lãi suất, quyết định về các vấn đề nhân lực, quyết định đầu tư …Các NHTMNN thường phải duy trì một chế độ lãi suất thấp hơn mức lãi suất thị trường và chấp nhận chế độ cầm cố, thế chấp lỏng hơn so với các ngân hàng khác.
-Do cơ chế quản lý yếu kém
Bộ máy quản lý cồng kềnh không linh hoạt là một vấn đề chung của các DNNN.Do được sự bảo trợ của nhà nước và do chậm sửa đổi cung cách làm việc kém hiệu quả của thời bao cấp, các NHTMNN thường kém nhạy bén trong hoạt động kinh doanh, bộ máy quản lý và nhân viên thường hoạt động kém nhiệt tình hơn ở các ngân hàng khác
-Do các NHTMNN phải đối mặt với tình trạng chây lỳ trong vay nợ
Các DNNN khi vay tiền của các NHTMNN thường có tư tưởng xem đó là khoản tiền được nhà nước tài trợ, tỏ ra thiếu nghiêm túc trong việc trả nợ, khi gặp khó khăn thì lại xin khoanh nợ,giãn nợ,xoá nợ.
-Do các vấn đề tiêu cục thường gặp ở DNNN
Nạn tham ô, tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, cơ chế xin cho vẫn còn tồn tại.Điều này không những gây thiệt hại về mặt tài chính mà còn khiến cho những người có tài không phát huy được sở trường của mình, làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Vì những lý do trên mà các NHTMNN thường hoạt động kém hiêu quả hơn các NHTMCP khác, thể hiện qua các chỉ tiêu ROE và ROA thấp hơn và tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn cao hơn.
ị Như thế, NHTMNN đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nhưng lại hoạt động kém hiệu quả hơn so với các loại hình ngân hàng khác.Chính vì thế một vấn đề đặt ra là làm thế nào nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTMNN.CPH chính là một giải pháp cho vấn đề này.Như đã phân tích ở trên, chúng ta vẫn còn cần đến NHTMNN trong một thời gian dài, vì thế, sau CPH NHTMNN vẫn sẽ phải đảm bảo là thành phần kinh tế nhà nước, vẫn là công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế.Tức là sau CPH, chúng vẫn sẽ là những NHTMNN được CPH chứ không thể giống với các NHTMCP khác được. Từ đó có thể rút ra rằng, bản chất của CPH NHTMNN là quá trình cơ cấu lại về hình thức sở hữu của các ngân hàng này, trong đó nhà nước vẫn giữ vai trò là chủ sở hữu cao nhất, nhằm mục đích nâng cao chất lượng hoạt động của chúng, đưa chúng thành một công cụ đắc lực hơn nữa của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế.
III.Những tác động của quá trình CPH đối với các NHTMNN
Một vấn đề lý luận đặt ra với quá trình CPH là với việc giữ nguyên vai trò chủ sở hữu chính của nhà nước như thế thì liệu CPH có đem lại những lợi ích thực sự cho ngân hàng hay không, hay CPH chỉ đơn thuần là một biện pháp tăng vốn không hơn không kém.Theo như kế hoạch thì sau CPH phần vốn của nhà nước trong ngân hàng sẽ giảm dần nhưng không dưới 51%, tức là về nguyên tắc, nhà nước sẽ nắm quyền quyết định đối với ngân hàng, vì chiếm quá bán số vốn.Như thế CPH phải chăng cũng chỉ là bình cũ rượu mới?
Qua thực tế quá trình CPH các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta( cũng mang một bản chất như trên), các doanh nghiệp sau khi CPH đều hoạt động hiêu quả hơn nhiều so với trước đó.CPH thực sự đã phát huy được tác dung đối với các doanh nghiệp.Vậy nhờ đâu mà CPH có thể giúp các doanh nghiệp hoạt động tốt hơn.?
Thứ nhất, quá trình CPH không đơn thuần là sự thay đổi cơ cấu sở hữu trong ngân hàng mà nó được diễn ra song song với quá trình tổ chức, cơ cấu lại hoạt động của ngân hàng.Từ sau đổi mới đến nay, chúng ta đã không ngừng thực hiên các biện pháp đổi mới đối với các NHTMNN.Gần đây nhất là đề án cơ cấu lại NHTM được chính phủ phê duyệt năm 2001, trong đó có nói đến CPH như là một nội dung quan trọng. Như vậy, chính nhà nước, người chủ sở hữu lớn nhất của ngân hàng sẽ thực hiện việc thay đổi đối với các hoạt động của ngân hàng.Và việc thay đổi cơ cấu sở hữu sẽ là một yếu tố quan trọng để dẫn đến những sự thay đổi khác
Thứ hai, việc CPH giúp cho các ngân hàng tăng được nguồn vốn chủ sở hữu của mình.Việc tăng vốn chủ sở có một vai trò to lớn đối với ngân hàng, đó là, nâng cao các hệ số an toàn vốn, tạo thành tấm đệm vững chắc hơn cho hoạt động của ngân hàng.Đồng thời, tăng vốn sẽ giúp các ngân hàng có điều kiện đầu tư mở rộng mạng lưới hoạt động, mở thêm nhiều dịch vụ mới, ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động quản lý, nâng cao hiệu quả quản lý.
Thứ ba, các cổ đông ngoài nhà nước khi tham gia hội đồng quản trị tuy không phải là người quyết định cuối cùng nhưng sẽ là những người tham gia xây dựng các quyết định đó. Các NHTMNN trước đây vốn bị đánh giá là kém nhạy bén trong các quyết định kinh doanh thì nay có thể có đựoc những quyết định đúng đắn hơn với sự tham gia đóng góp ý kiến của nhiều bên.
Thứ tư, chủ trương của chúng ta là ưu tiên bán cổ phần cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Trước CPH, cán bộ công nhân viên và thậm chí cả những người đúng đầu ngân hàng thực chất cũng chỉ là những người làm thuê, được nhà nước trả lương hàng tháng.Lời lỗ đều do nhà nước chịu.Vì vậy mà tồn tại một sự trì trệ và thiếu nhiệt tình trong cách làm việc của một bộ phận lớn các nhân viên, đặc biệt là lực lượng từ thời kỳ trước để lại.Khi được mua cổ phiếu của ngân hàng những người này sẽ có cơ hội được sở hữu một phần ngân hàng mà họ đang làm việc, quyền lợi của họ sẽ gắn trực tiếp với sự phát triển của ngân hàng.Vì thế, họ sẽ làm việc một cách có trách nhiệm và hiệu quả hơn.
Thứ năm, việc bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài giúp cho ngân hàng có cơ hội được làm việc với những nhà quản lý, những nhà đầu tư có kinh nghiệm, có trình độ cao, đồng thời có thể được tiếp cận với những công nghệ mới của ngành ngân hàng trên thế giới.
Thứ sáu, việc CPH làm tăng tính tự chủ của các NHTMNN.Trước CPH, nhà nước là chủ sở hữu duy nhất, gần như bảo trợ và quản lý mọi hoạt động của ngân hàng.Sau CPH, nhà nước cũng chỉ là một cổ đông lớn của ngân hàng, ngân hàng sẽ phải chịu trách nhiệm trước các cổ đông khác của nó. Đồng thời, khi nhà nước giảm dần tỉ lệ vốn của mình trong ngân hàng thì tính tự chủ của các ngân hàng cũng sẽ dần được nâng cao thêm.
Phần2.Thực trạng CPH NHTMNN
tại Việt Nam
I.Tính cấp thiết của vấn đề CPH NHTMNN tai Việt Nam
1.Vài nét về các NHTMNN tai Việt Nam
1.1.Vai trò, vị thế của các NHTMNN trong hệ thống các ngân hàng tại Việt Nam
Tính đến đầu năm 2006, ở Việt Nam có tất cả là 5 NHTMNN, 2 ngân hàng chính sách xã hội, 35 ngân hàng TMCP, 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 4 ngân hàng liên doanh. 5 NHTMNN bao gồm NH Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), NH Công thương Việt Nam( Incombank), NH Đầu tư và Phát triển (BIDV), NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn( Agribank) và NH Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long(MHB).Trong đó ngoại trừ MHB mới đươc thành lập năm 1998 thì 4 ngân hàng kia đã có một bề dày hoạt động và lượng vốn lớn hơn.
Mặc dù chỉ chiếm 5 trên tổng số 73 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên cả nước nhưng các NHTMNN đóng một vai trò chủ chốt trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hiện nay, các NHTM trong nước chiếm 90% thị phần( cả tiền gửi và cho vay), trong đó NHTMNN chiếm trên 70%, các NHTMCP chiếm 20% và các ngân hàng nước ngoài chiếm chưa đến 10%.Theo dự đoán sau khi Việt Nam gia nhập WTO số lượng các ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam sẽ tăng lên đáng kể và tỉ lệ này sẽ có nhiều thay đổi nhưng thời gian tới các NHTMNN vẫn sẽ chiếm phần lớn thị phần ở Việt Nam.
2. Thực trạng hoạt động của các NHTMNN tại Việt Nam hiện nay
2.1 Các NHTMNN của chúng ta hiên nay đang ở trong tình trạng thiếu vốn
Vốn điều lệ của 4 NHTMNN chủ chốt hiện nay là Vietcombank, Incombank, Agribank, và BIDV khoảng 2 tỷ USD, trong đó Vietcombank sau nhiều lần bổ sung vốn cũng chỉ xấp xỉ nửa tỷ USD.Số vốn này được coi là thiếu trầm trọng vì :
- So với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới thì số vốn này còn quá khiêm tốn, chưa thể cạnh tranh được khi hội nhập.
- Tỉ lệ an toàn vốn trung bình của các NHTMNN chỉ khoảng 6% trong khi tỷ lệ tối thiểu theo thông lệ quốc tế là 8%
- Tốc độ tăng vốn chậm hơn so với tốc độ tăng tài sản, nếu mức tăng tín dụng cứ duy trì ở mức tăng tên 25% như hiện nay mà tốc độ tăng vốn không được cải thiện thì trong vòng 5 năm tới tỉ lệ an toàn vốn của chúng ta trung bình chỉ còn khoảng 2%
- Do quy định về lượng vốn cho khách hàng vay không vượt quá tỉ lệ nhất định trong tổng vốn điều lệ, lượng vốn một khách hàng có thể vay từ một NHTMNN là vào khoảng 800 tỷ.Điều nay chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của những khách hàng lớn.
- Việc đầu tư mở chi nhánh mới hay đầu tư thêm trang thiết bị trong ngành ngân hàng cũng rất tốn kém. Ví dụ, muốn mở một chi nhánh mới phải mất vài chục tỷ, hay máy ATM có chi phí bình quân là 3000 USD.
Trong tình trạng như thế, mà một lượng vốn lớn của các NHTMNN hiện nay thực chất chỉ là vốn danh nghĩa, hàng năm chỉ chuyển sang vốn thực có 3% tức là khoảng 260 tỷ đồng do cách trả lãi trái phiếu đặc biệt của Bộ Tài chính.
2.2 Hiệu quả sử dụng vốn thấp
Tỷ lệ sinh lời bình quân tên vốn tự có ROE của các NHTMNN là thấp hơn 7% trong khi tỷ lệ này của các nước trong khu vực là khoảng 13-15% và tỷ lệ quy định đối với một ngân hàng tốt theo thông lệ quốc tế là 15 %.
Tỷ lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản chỉ đạt bình quân 0,65% trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực là 0,97% và tỷ lệ yêu cầu theo thông lệ quốc tế là 1%.
2.3. Năng lực cạnh tranh còn yếu kém
- Cơ chế quản lý cồng kềnh, kém linh hoạt, còn chịu ảnh hưởng của cung cách làm việc cũ
Nguồn nhân lực trình độ hạn chế, chưa được đào tạo sâu về chuyên môn. Đặc biệt, chúng ta còn thiếu nguồn nhân lực trình độ cao.Đối với những người có tài thì chế độ đãi ngộ chưa thoả đáng dẫn đến việc chảy máu chất xám.
Năng lực sử dụng công nghệ mới trong hoạt động quản lý và kinh doanh chưa cao.Do thiếu nguồn nhân lực có trình độ và cũng do chưa thực sự nhanh nhạy trong việc sử dụng công nghệ mới.
Hoạt động kinh doanh còn đơn điệu, huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi (chiếm 90% lượng vốn huy động được), hoạt động sinh lời chủ yếu là cấp tín dụng ( chiếm 90% thu nhập). Trong khi đó hoạt động của các ngân hàng trên thế giới rất đa dạng phong phú, và thông thường hoạt động cho vay chỉ chiếm khoảng 40%.
Tỷ lệ nợ tồn đọng, nợ xấu cao. Cụ thể, trong năm 2005 tỉ lệ nợ xấu của khối NHTMNN tính theo tiêu chuẩn của VN là 5,1% trong khi đó, tỉ lệ này của khối các NHTMCP là dưới 2%. Còn nếu tính theo tiêu chuẩn quốc tế thì tỉ lệ này gấp nhiều lần tiêu chuẩn cho phép.Hơn nữa, khoảng 40% các khoản vay của NHTMNN là của các DNNN, những khoản vay này thường có nguy cơ chuyển thành nợ tồn đọng cao.
Trong thời gian qua, thực hiên đề án cơ cấu lại NHTMNN của Chính phủ, các NHTMNN đã cải thiện được đáng kể tình hình, như tăng thêm vốn, cải thiện cơ chế quản lý theo hướng hiện đại hoá, tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực, giảm tỷ lệ nợ xấu,…Tuy nhiên, nhìn chung các NHTMNN ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn của quốc tế.
3. Những thách thức từ quá trình hội nhập
- Thách thức từ phía các ngân hàng nước ngoài
Hiện nay, các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam chủ yếu là các văn phòng đại diện, và một số chi nhánh hoạt động với một lượng vốn ít, chỉ chiếm chưa đến 10% thị phần. Điều này là do các quy định của chính phủ, hạn chế các hoạt động của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên theo cam kết với WTO mà chúng ta vừa ký kết ngày 7/11 vừa qua chúng ta sẽ cho thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007, đồng thời giảm dần các hạn chế đối với các ngân hàng này.Dự kiến đến năm 2010 các ngân hàng nước ngoài sẽ được thực hiện hầu hết các dịch vụ như một ngân hàng trong nước, (trừ dịch vụ tư vấn và cung cấp thông tin ngân hàng) và sẽ được hưởng quy chế đối xử không phân biệt. Như vậy trong thời gian tới các ngân hàng trong nước sẽ phải cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài có lượng vốn lớn hơn nhiều lần, có năng lực cạnh tranh cao hơn, nhiều kinh nghiệm hoạt động hơn .Có thể lấy ví dụ một ngân hàng gần đây nhất mới thành lập chi nhánh ở Việt Nam là ngân hàng Comerbank AG của Đức, có vốn là 18,7 tỷ EURO trong khi tổng vốn của 4 NHTMNN lớn nhất tại VN chưa đến 2 tỷ EURO.Theo kết quả của một cuộc điều tra do chương trình phát triển LHQ thực hiện gần đây, 45% khách hàng là doanh nghiệp và cá nhân được hỏi đã trả lời sẽ chuyển sang vay vốn của các ngân hàng nước ngoài thay vì vay của các ngân hàng trong nước.
- Thách thức từ sự phát triển của nền kinh tế
Sau khi gia nhập WTO, các quan hệ trao đổi mua bán thương mại sẽ được mở rộng, có nhiều doanh nghiệp nước ngoài tràn vào , quy mô và nhịp độ của nền kinh tế sẽ tăng thêm, khi đó hệ thống các ngân hàng trong nước sẽ cần phải có một sự phát triển tương thích thì mới thích ứng được với sự phát triển chung, đảm bảo cung cấp được nguồn tín dung ổn định cho các doanh nghiệp.
Tóm lại, việc CPH để nâng cao năng lực và hiêu quả kinh doanh cho các ngân hàng VN là một vấn đề cấp thiết trong điều kiện hiện nay.
II.Những nguyên tắc cần chú ý trong quá trình thực hiện CPH
1.CPH NHTMNN phải được thực hiện từng bước vững chắc theo một lộ trình thích hợp
Không phải ngẫu nhiên mà chủ trương CPH DNNN của chúng ta đã có từ 14,15 năm nay nhưng chúng ta chỉ tính đến chuyện CPH NHTMNN trong một vài năm gần đây.Đó là vì NH là một DNNN có đặc điểm riêng, và đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Nếu không có một sự chuẩn bị kỹ lưỡng, sai lầm trong quá trình CPH không chỉ ảnh hưởng đến ngân hàng mà còn có thể ảnh hưởng đến cả nền kinh tế
Qúa trình CPH không thể ngay lập tức diễn ra ở tất cá các NHTMNN mà cần phải triển khai thí điểm tại một ngân hàng có tình hình kinh doanh ổn định, đang có lãi.Qua kinh nghiệm từ một ngân hàng sẽ tiến hành CPH các ngân hàng khác.
2.Thực hiện đồng thời quá trình CPH và tổ chức lại các NHTMNN theo một đề án tổng thể:
Hiện nay, các NHTMNN đều có cơ cấu tổ chức khá phức tạp, bao gồm hệ thống các chi nhánh tại các địa phương và các đơn vị thành viên hạch toán độc lập như công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính, công ty liên doanh và các công ty phụ trợ khác.Trên cơ sở đặc điểm và thực trạng hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và của từng ngân hàng thương mại nói riêng, cần đề ra phương án tổng thể tổ chức lại mạng lưới cả hệ thống và từng NHTMNN theo hướng như sau:
- Mạng lưới chi nhánh ngân hàng cấp trung gian cần được tổ chức theo khu vực, địa bàn không theo địa giới hành chính; xác định mức độ CPH, lộ trình cho từng bước tiến hành CPH.
- Các đơn vị thành viên hạch toán độc lập cũng được xem xét tổ chức lại theo hướng ngân hàng (sau khi CPH) sẽ sở hữu 100% vốn điều lệ đối với đơn vị có vị trí hết sức quan trọng; nắm giữ cổ phần hoặc phần vốn góp chi phối với các đơn vị có vị trí quan trọng, cần thiết và chỉ nắm giữ cổ phần, vốn góp không chi phối hoặc không giữ cổ phần đối với đơn vị không có vị trí quan trọng đối với ngân hàng.
Như vậy, sau khi tiến hành CPH và tổ chức lại, NHTMNN sẽ có mô hình tổ chức gồm: công ty mẹ được hình thành từ CPH phần hoạt động nghiệp vụ ngân hàng (bao gồm cả mạng lưới các chi nhánh các cấp) và được tổ chức dưới hình thức ngân hàng cổ phần. Các công ty con hình thành từ việc tổ chức lại hoặc chuyển đổi đơn vị thành viên hạch toán độc lập được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (một hoặc hai thành viên trở lên) do ngân hàng cổ phần (công ty mẹ) sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối. Đối với các liên doanh đã hình thành từ trước khi CPH, tuỳ theo cơ cấu vốn sở hữu của ngân hàng mà trở thành công ty con hoặc công ty liên kết.
3.Đổi mới cơ chế quản lý của nhà nước đối với NHTMNN
Sau CPH, nhà nước không còn là chủ sở hữu duy nhất của ngân hàng nữa, mà việc quản lý ngân hàng phải tuân theo cơ chế của đại hội đồng cổ đông và ban quản trị.Sự quản lý của nhà nước với ngân hàng cần có sự phân biệt giữa 2 tư cách: một là cơ quan quản lý của nhà nước với ngân hàng và hai là chủ sở hữu của ngân hàng.Với tư cách là cơ quan quản lý,nhà nước có quyền cấp, thu hồi giấy phép hoạt động, thông qua việc mở chi nhánh,hay ra các chủ trương chính sách chung và thanh tra, giám sát các hoạt động của ngân hàng.Với tư cách là người chủ sở hữu, nhà nước có quyền cử người đại diện cho phần vốn của mình tại ngân hàng, tham gia các quyết định cụ thể của ngân hàng.
4.Trong quá trình thực hiện cần có sự phối kết hợp nhịp nhàng giữa các bên liên quan
Việc thực hiện CPH một ngân hàng chắc chắn sẽ phải do chính ngân hàng đó trực tiếp thực hiện bởi chỉ có ngân hàng mới nắm vững được tình hình hoạt động kinh doanh, về số liệu trong sổ sách, về kế hoạch phát triển.Về phía nhà nước, các quyết định quan trọng sẽ do đích thân thủ tướng Chính phủ phê duyệt, NHNN và Bộ Tài chính là hai cơ quan chịu trách nhiệm về vấn đề này.Chính phủ lập ra một ban chỉ đạo CPH mà thành viên chủ yếu là các quan chức trong NHNN và Bộ Tài chính và lãnh đạo của ngân hàng. Ban chỉ đạo sẽ là cơ quan trực tiếp chỉ đạo mọi công việc của quá trình CPH.Như vậy,cơ chế điều hành việc CPH khá là chặt chẽ.Điều này sẽ giúp các quyết định đuợc đưa ra có tính chính xác cao hơn.Tuy nhiên, nếu trong quá trình thực hiện không có sự phối hợp ăn ý giữa các bên thì chính cơ chế này sẽ lại gây chậm trễ cho việc CPH.
III. Một vài khó khăn trong quá trình CPH
1.Vấn đề xác định giá trị của ngân hàng
Giá trị thực tế của ngân hàng là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của ngân hàng tại thời điểm CPH (đã loại trừ một số khoản mục theo quy định, ví dụ như các khoản đầu tư góp vốn vào ngân hàng khác…), có tính đến khả năng sinh lời của ngân hàng.Gía trị của ngân hàng bao gồm cả các yếu tố hữu hình và vô hình như uy tín, thương hiệu, khả năng sinh lời…Việc xác định giá trị của ngân hàng gặp phải những khó khăn sau đây:
-Tài sản của các NHTM thường là những tài sản tài chính, giá trị của chúng khó đánh giá vì biến động thường xuyên và có mức độ rủi ro khác nhau
-Nợ khó đòi về nguyên tắc phải loại khỏi vốn của ngân hàng nhưng tỷ lệ nợ khó đòi ở các NHTMNN còn cao, nếu trước thời gian CPH mà không xử lý được các khoản nợ này thì vốn nhà nước sẽ bị giảm đi đáng kể.
-Vốn chủ sở hữu của nhà nước về nguyên tắc phải là vốn thực nhưng các ngân hàng vừa qua đã được cấp một lượng vốn bằng trái phiếu đặc biệt của Bộ tài chính, mỗi năm chỉ chuyển một phần thành vốn thực, như vậy, việc đánh giá nguồn vốn của ngân hàng sẽ không thực sự chuẩn xác.
- Các tài sản vô hình như uy tín, khả năng sinh lời rất khó ước tính giá trị, cần phải có sự tư vấn của các tổ chức nước ngoài
2.Những khó khăn pháp lý
Mặc dù có nhiều điểm khác với các DNNN khác nhưng việc thực hiện CPH NHTMNN đến nay vẫn dựa trên những quy đinh chung về CPH DNNN.Có nhiều điểm trong những quy định này tỏ ra không phù hợp với đặc điểm của ngành ngân hàng.Ví dụ:
- Trong nghị định 642002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về việc chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần
ĐIều 10 quy định: doanh nghiệp có trách nhiệm đối chiếu, xác nhận,thu hồi và xử lý các khoản nợ và khoản phải thu trước khi CPH. Rõ ràng, các ngân hàng không thể thu hồi các hết các khoản nợ và các khoản phải thu, mà chỉ có thể xử lý các khoản nợ tồn đọng và nợ xấu mà thôI
- Trong thông tư số 76/2002/TT-BTC ngày 9/92002 về hướng dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần quy định mức phí tối đa cho việc CPH một DNNN là 500 tỷ đồng.Trong khi đó việc CPH ở các NHTMNN do phức tạp hơn và phải thuê tổ chức tư vấn nước ngoài, tiến hành kiểm toán quốc tế nên chi phí sẽ vượt quá mức đề ra.
IV.Chủ trương, kế hoạch của chính phủ về việc CPH NHTMNN ở VN
1.Kế hoạch CPH các NHTMNN
Quá trình CPH các DNNN đã được Đảng và nhà nước ta thực hiện từ năm 1992, và đến nay cũng đã đạt được nhiều kết quả tích cực.Để đẩy mạnh hơn nữa quá trình này, hội nghị Trung Ương lần thứ 9 (khoá 9) năm 2004 đã xác định việc mở rộng diện các doanh nghiệp cần CPH sang các tổng công ty và doanh nghiệp có quy mô lớn, bao gồm các NHTMNN
Cụ thể, theo chỉ thị số 11/2004/CT-TTg ngày 30/3/2004 và quyết định số 84/2004/QĐ-TTg ngày 13/5/2004 Chính phủ yêu cầu thực hiện thí điểm CPH 5 doanh nghiệp nhà nước lớn, đang làm ăn có hiệu quả (trong đó bao gồm Ngân hàng Ngoại thương Vietcombank và Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long MHB)
Năm 2005, Chính phủ ra quyết định số 230/2005/QĐ-TTg ngày 29/11 chỉ đạo việc thực hiện quá trình CPH Ngân hàng Vietcombank.
Trong công văn gửi các bên liên quan mới đây, phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cũng đã đặt ra mục tiêu sớm CPH 3 NHTMNN còn lại là Incombank, Agribank và BIDV. Phó thủ tướng đã giao cho thống đốc Ngân hàng Nhà nước khẩn trương xây dựng đề án CPH để trình Chính phủ phê duyệt và sang năm 2007 sẽ bắt đầu thực hiện.
2.Kế hoạch CPH ngân hàng Ngoại thương VN Vietcombank.
Chủ trương của Chính phủ về CPH ngân hàng Vietcombank được nêu rõ trong quyết đinh 230/2005/QĐ-TTg :
- Mục đích của CPH là tăng hiệu quả quản lý và hoạt động, hiện đại hoá ngân hàng, tăng tiềm lực về vốn, tăng tính cạnh tranh, duy trì vị thế của Vietcombank trong hệ thống ngân hàng.
- Hình thức CPH: giữ nguyên phần vốn của nhà nước trongVCB theo giá trị được đánh giá lại và phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn theo những nguyên tắc:
+ Nhà nước nắm cổ phần chi phối, tỷ lệ này sẽ giảm dần nhưng không thấp hơn 51%
+ Đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn của VCB được giữ ở mức tối thiểu theo thông lệ quốc tế.
- Các đối tượng được phép mua cổ phần: Các nhà đầu tư trong và ngoài nước theo các điều khoản của luật pháp.
+Mỗi pháp nhân chỉ được sở hữu nhiều nhất là 10% vốn điều lệ, mỗi cá nhân nhiều nhất là 5% vốn điều lệ.
+Mỗi nhà đầu tư nứơc ngoài có thể sở hữu nhiều nhất 10% vốn điều lệ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0741.doc