Lời nói đầu
Trong số những thành tích đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, trong thời gian qua, có thể nói nông nghiệp là một ngành đã có những bước đột phá ngoạn mục. Thu nhập của nông dân không ngừng tăng lên, bộ mặt nông thôn được cải thiện đáng kể. Sản xuất nông nghiệp đã đảm bảo an toàn lương thực cho đời sống xã hội.
Thế nhưng, sự phát triển ấy so với yêu cầu phát triển kinh tế chung trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong điều kiện hội nhập kinh tế
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1909 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & phương hướng phát triển kinh tế trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quốc tế mạnh mẽ như hiện nay thì vẫn còn quá thấp và nhỏ bé. Cho đến bây giờ, nông nghiệp Việt Nam nói chung và nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng vẫn là một nền sản xuất kém hiệu quả và thiếu tính hợp lý. Cần phải hình thành và phát triển những hình thức sản xuất phù hợp hơn, mà trong đó, kinh tế trang trại là một mô hình tốt có thể áp dụng để đáp ứng yêu cầu này.
Đã manh nha từ rất lâu, nhưng chỉ trong khoảng chục năm trở lại đây, vai trò của kinh tế trang trại mới thực sự được công nhận và được quan tâm chú ý, đặc biệt là sau khi nghị quyết số 03/2000 - CP của Chính phủ ngày 02/2/2000 về kinh tế trang trại ra đời, thì kinh tế trang trại ở Việt Nam mới có được một sự trợ giúp của Nhà nước về cơ chế, chính sách như là hỗ trợ cho các doanh nghiệp thông thường của nền kinh tế thị trường. Sự tăng nhanh về số lượng, gia tăng về giá trị sản lượng đã chứng tỏ đây là một mô hình tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp với đặc thù kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta, giúp nông dân làm giàu, tăng thu nhập cho bản thân họ và cho xã hội.
Không có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại với quy mô đất đai lớn như ở vùng trung du miền núi phía Bắc hay vùng đồng bằng phía Nam, nhưng đồng bằng sông Hồng vốn là vùng có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời, trình độ thâm canh cao nhất cả nước. Nhưng để ngành nông nghiệp của vùng đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kì mới thì phải hợp lý hoá, hiệu quả hoá sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác một cách triệt để tiềm năng về đất đai cũng như khả năng lao động của con người vùng châu thổ này, và mô hình kinh tế trang trại là phù hợp hơn cả. Những năm qua kinh tế trang trại vùng đồng bằng sông Hồng đã có nhiều thành tích đáng khích lệ, nhưng thật sự vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Câu hỏi đặt ra là: khả năng phát triển kinh tế trang trại của vùng đến đâu? Làm sao để mô hình được áp dụng đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất? Trả lời cho câu hỏi này chính là mục đích của đề tài: “Các giải pháp phát triển kinh tế trang trại vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010”.
*Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu: các trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng, thực trạng phát triển, các yếu tố ảnh hưởng, cùng các biện pháp nhằm thúc đẩy qúa trình phát triển của các trang trại.
*Phương pháp nghiên cứu:
+Phương pháp thống kê
+Phương pháp quan sát vĩ mô
Kết cấu chuyên đề gồm 3 phần chính:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển kinh tế trang trại
Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng thời gian qua.
Chương III: Phương hướng phát triển kinh tế trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2010.
Hoàn thành bài viết này, em xin trân trọng gửi tới thầy giáo, TS. Lê Huy Đức, Khoa Kế hoạch – Phát triển, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, TS. Nguyễn Thế Hiển cùng toàn thể cán bộ nghiên cứu Ban Nông nghiệp – Nông thôn, Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư lời cảm ơn sâu sắc vì đã hết lòng hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thu thập tài liệu, xử lý thông tin và xây dựng chuyên đề. Rất mong tiếp tục nhận được những ý kiến đóng góp để bài viết có điều kiện phát triển ở mức độ hoàn chỉnh hơn.
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Thu Thuỷ.
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển
kinh tế trang trại
I. Khái niệm, đặc trưng và tiêu chí phân loại
Phát triển cách đây khoảng hơn 200 năm, cho đến những năm cuối thế kỷ 20, kinh tế trang trại mà đặc biệt là trang trại gia đình đã trở thành mô hình sản xuất phổ biến nhất của nền nông nghiệp các nước phát triển, chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai cũng như khối lượng nông sản, đặc biệt ở các nước Anh, Pháp, Nga- nơi bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đầu tiên của nhân loại.
Trải qua hàng mấy thế kỉ, đến nay, kinh tế trang trại tiếp tục phát triển ở những nước tư bản chủ nghĩa lâu đời cũng như các nước đang phát triển, các nước công nghiệp mới và đi vào những xã hội chủ nghĩa với cơ cấu và quy mô sản xuất khác nhau.
Tại Việt Nam, kinh tế trang trại phát triển muộn, chỉ từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận và đặc biệt là từ sau khi có nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4/98) về đổi mới quản lý kinh tế nhà nước, kinh tế hộ nông dân mới từng bước phục hồi và phát triển, phần lớn họ trở thành những chủ thể tự sản xuất. Cùng với các hộ gia đình công nhân viên chức làm nông nghiệp, lại có tích luỹ về vốn, kinh nghiệm sản xuất và kinh nghiệm quản lý, tiếp cận được với thị trường, thì sản xuất nông nghiệp mới thoát khỏi cái vỏ tự cấp tự túc và vươn tới nền sản xuất hàng hoá. Kinh tế trang trại ra đời.
Cho đến nay, quan điểm về kinh tế trang trại vẫn được trình bày theo nhiều khía cạnh khác nhau.
1. Khái niệm về kinh tế trang trại
1.1. Trang trại
Gần với khái niệm trang trại, người ta hay sử dụng khái niệm điền trang hay nông trang. Nhưng về bản chất, chúng là các cách gọi khác nhau của một đơn vị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp với quy mô lớn theo hướng sản xuất hàng hoá.
1.2. Kinh tế trang trại
Về kinh tế trang trại, có nhiều quan điểm, nhiều cách tiếp cận khác nhau:
Có quan điểm cho rằng: “Kinh tế trang trại là loại hình cơ sở sản xuất nông nghiệp, hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường từ khi phương thức này thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Trang trại được hình thành từ các hộ tiểu nông sau khi phá bỏ cái vỏ tự cấp tự túc khép kín, vươn lên sản xuất nhiều nông sản hàng hoá tiếp cận với thị trường, từng bước thích nghi với nền kinh tế cạnh tranh”(1) Báo cáo chuyên đề: “Chính sách phát triển trang trại và tác động của nó đến việc làm và thu nhập của lao động nông thôn”, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, 2002.
Khái niệm này đã chỉ đúng bản chất sản xuất hàng hoá của kinh tế trang trại nhưng lại sai lầm khi cho rằng nguồn gốc cuả các trang trại chỉ là xây dựng từ kinh tế của các hộ tiểu nông.
Trong nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về kinh tế trang trại. Chính phủ ta đã thống nhất nhận thức về kinh tế trang trại như sau: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông- lâm- thuỷ sản”.
Khái niệm này khá đầy đủ, nêu ra được cơ sở, chức năng, hình thức sản xuất của trang trại nhưng chưa hướng đến tính chất hàng hoá hướng ra thị trường của trang trại.
Như vậy có thể tóm lại: Kinh tế trang trại là một trong những hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông - lâm - ngư nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hay thuộc quyền sử dụng của một chủ thể độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô đất đai và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với cách tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kĩ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường.
1.3. Tiêu chí xác định một trang trại.
Không phải nhà nước bỏ qua hình thức tổ chức sản xuất này, nhưng vì đến trước những năm 2000, do chưa có một sự thống nhất về khái niệm cũng như tiêu chí xác định trang trại nên mang đầy đủ đặc điểm của một đơn vị sản xuất kinh doanh nhưng chủ trang trại vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc xin hưởng các chế độ hỗ trợ của nhà nước và vì không có tư cách pháp nhân nên trang trại rất khó khăn trong các hoạt động giao dịch thương mại. Thông thường các nhà thống kê vẫn sử dụng những chỉ tiêu định tính hoặc chỉ tiêu định lượng mà tính định lượng không cao, và các chỉ tiêu này không được thống nhất trong cả nước.
*Tiêu chí định tính:
Có thể dùng tiêu chí này để nhận dạng thế nào là một trang trại, tức là căn cứ vào mức độ sản xuất nông sản hàng hoá của trang trại để phân biệt kinh tế trang trại với kinh tế hộ gia đình.
*Tiêu chí định lượng:
Dùng để phân biệt rõ ràng trang trại và không phải trang trại, và để phân loại các trang trại khác nhau. Ngày 23/6/2000, Liên bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn- Tổng cục Thống kê đã ra thông tư số 69/2000/ TTLT/ BNN-TCTK hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại. Cụ thể như sau:
1.Các đối tượng và ngành sản xuất được xem xét để xác định là kinh tế trang trại
Hộ nông dân, hộ công nhân viên nhà nước và lực lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các loại hộ thành thị và cá nhân chuyên sản xuất (bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản) hoặc sản xuất nông nghiệp là chính, có kiêm nhiệm các hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn.
II.Tiêu chí định lượng để xác định là kinh tế trang trại:
Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được xác định là trang trại phải đạt được cả hai tiêu chí định lượng sau đây:
1.Giá trị sản lượng hàng hoá và dịchvụ bình quân 1 năm:
Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng trở lên.
Đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên từ 50 triệu đồng trở lên.
2.Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và với từng vùng kinh tế.
a.Đối với trang trại trồng trọt:
(1)Trang trại trồng cây hàng năm:
Từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung
Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên
(2)Trang trại trồng cây lâu năm:
Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung
Từ 5 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên
Trang trại trồng hồ tiêu từ 0,5 ha trở lên.
(3)Trang trại lâm nghiệp:
Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước.
b.Đối với trang trại chăn nuôi:
(1)Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò,v.v...
Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên
Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên
(2)Chăn nuôi gia súc: lợn, dê, v.v...
Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn từ 20 con trở lên, đối với dê, cừu từ 100 con trở lên
Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn sữa), dê thịt từ 200 con trở lên.
(3)Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, v.v... có thường xuyên từ 2000 con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi).
c.Trang trại nuôi trồng thuỷ sản:
Diện tích mặt nước có để nuôi trồng thuỷ sản từ 2 ha trở lên (riêng đối với nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên).
d.Đối với các loại sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có tính chất đặc thù như: trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong, giống thủy sản và thuỷ đặc sản, thì tiêu chí xác định là sản lượng hàng hoá.
2. Đặc trưng của kinh tế trang trại
Hầu hết các ý kiến đều thống nhất về đặc trưng của kinh tế trang trại ở 3 điểm sau đây:
2.1. Mục đích sản xuất của kinh tế trang trại là sản xuất nông- lâm- thuỷ sản hàng hoá với quy mô lớn
Knh tế trang trại là kinh tế nông nghiệp sản xuất hàng hóa, khác với kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc. K.Marx đã phân biệt chủ trang trại với người tiểu nông như sau:
Chủ trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra
Người tiểu nông dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt.
Đây là điểm khác biệt lớn nhất của kinh tế trang trại so với kinh tế cá thể sản xuất nông nghiệp trước đây. Sản xuất hàng hoá đòi hỏi các trang trại phải có quy mô lớn để giảm chi phí đầu vào, tạo ra sản phẩm hàng hoá với giá thành cạnh tranh, chất lượng cao. Đến lượt nó, sản xuất quy mô lớn lại càng đòi hỏi phải làm ra sản phẩm hàng hoá để trao đổi trên thị trường vì rõ ràng người chủ trang trại không thể tiêu dùng hết được.
Quy mô của trang trại lớn gấp nhiều lần quy mô của hộ gia đình hay kiểu tiểu nông. Nó được đánh giá bằng diện tích đất đai sử dụng, hay bằng giá trị sản lượng làm ra trong một năm hoặc đo bằng tỉ suất hàng hoá của trang trại.
2.2. Quá trình tích tụ ruộng đất và vốn đầu tư dẫn đến chuyên môn hoá và hình thành các vùng chuyên canh
Bất kì một hình thức sản xuất nông nghiệp nào cũng cần có sự tập trung đất đai và vốn ở mức độ nhất định. Do tính chất sản xuất hàng hoá quy mô lớn, quá trình phát triển kinh tế trang trại sẽ dần tạo ra những vùng, tiểu vùng sản xuất nông nghiệp với cơ cấu sản xuất khác nhau:
Cơ cấu sản xuất độc canh: là mức phát triển thấp của kinh tế trang trại. Trang trại chỉ sản xuất kinh doanh một loại cây (con) nhất định, tính chuyên nghiệp, chuyên môn và tính chất hàng hoá chưa cao.
Cơ cấu sản xuất đa dạng: trang trại kết hợp nhiều loại cây trồng vật nuôi để tận dụng mọi năng lực sản xuất của mình.
Cơ cấu sản xuất chuyên môn hoá: đây là giai đoạn trang trại đã tích luỹ đủ về đất đai, vốn, năng lực và kinh nghiệm quản lý để tham gia vào hệ thống phân công lao động xã hội. Khác với cơ cấu độc canh, sản xuất chuyên môn hoá đòi hỏi ứng dụng rộng rãi những tiến bộ khoa học kĩ thuật và đạt đến trình độ, tính chất sản xuất hàng hoá cao. Dần dần, nhiều trang trại cùng chuyên môn hoá một loại cây trồng, vật nuôi có thể hình thành nên những vùng chuyên canh rộng lớn.
2.3. Tổ chức và quản lý sản xuất theo phương thức tiến bộ
Dựa trên cơ sở thâm canh, chuyên môn hoá sản xuất, các trang trại phải có cơ chế tổ chức và quản lý sản xuất như là các đơn vị kinh doanh khác, tức là phải hạch toán, điều hành sản xuất hợp lý và thường xuyên tiếp cận với thị trường, khác với lối sản xuất “làm tới đâu thì tới” của kinh tế tiểu nông. ở đây hiệu quả kinh tế được đặt lên hàng đầu nên tất cả các hoạt động sản xuất đều phải tính toán lợi ích - chi phí bỏ ra.
Lao động trong trang trại có hai bộ phận: lao động quản lý (thường là chủ trang trại) và lao động trực tiếp (lao động gia đình và lao động làm thuê). Số lượng lao động thuê mướn thay đổi tuỳ loại hình trang trại và quy mô trang trại khác nhau.
Chủ trang trại là người có kiến thức và kinh nghiệm, trực tiếp điều hành sản xuất, biết áp dụng khoa học công nghệ. Thu nhập của trang trại vượt trội so với kinh tế hộ.
3. Phân loại kinh tế trang trại
3.1. Theo quy mô đất sử dụng, có thể chia 4 loại:
Trang trại nhỏ: dưới 2 ha
Trang trại vừa: 2 - 5 ha
Trang khá lớn: 5 - 10 ha
Trang trại lớn: trên 10 ha
3.2. Phân loại theo cơ cấu sản xuất, chia thành:
* Trang trại trồng trọt:
Trang trại trồng rừng: thường có quy mô lớn và được phát triển ở các vùng núi phía Bắc. Loại hình trang trại này không chỉ đòi hỏi lượng vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn lại dài (5 - 10 năm hoặc hơn) cho nên để người kinh doanh trang trại có điều kiện nhận thì phải có cơ chế chính sách hỗ trợ về lâu dài.
Trang trại trồng cây ăn quả: Đây là loại hình trang trại phổ biến không chỉ ở miền núi mà còn rất thích hợp với vùng đồng bằng, đặc biệt là Đồng bằng Bắc Bộ và Đồng bằng Nam Bộ. Tuỳ điều kiện đất đai, khí hậu và ý tưởng kinh doanh mà chủ trang trại có thể lựa chọn trồng một hay nhiều loại cây ăn quả khác nhau.
Trang trại trồng cây công nghiệp: Loại hình này thường chỉ phù hợp với những vùng đất có tính chất đặc thù. Có lẽ đây là loại hình trang trại ra đời ở Việt Nam sớm nhất, bắt đầu từ những đồn điền cao su của các ông chủ người Pháp. Đến nay, cây công nghiệp được trang trại lựa chọn rất đa dạng, bao gồm cả cây công nghiệp dài ngày (cà phê, tiêu, điều...) và cây công nghiệp ngắn ngày (đay...)
Trang trại trồng cây lương thực, thực phẩm: quy mô đất nhỏ. Rất phù hợp với điều kiện đất đai và khí hậu vùng đồng bằng. Trong nhóm này, cây lúa chiếm một vị trí đáng kể.
Trang trại kinh doanh đặc thù: đó là các trang trại trồng hoa cảnh, cây cảnh, hoặc nuôi vật cảnh, cung cấp giống cho nông dân... Loại này không đòi hỏi diện tích đất đai lớn, vốn lớn nhỏ tuỳ loại sản phẩm nhưng phải có trình độ khoa học kĩ thuật. Rất phù hợp với các vùng đồng bằng vốn đất đai hạn chế.
*Trang trại chăn nuôi:
Loại hình trang trại này cũng rất đa dạng. Nếu là vùng núi trung du rộng lớn, thường chăn nuôi các loại đại gia súc (bò, dê...) còn ở vùng đồng bằng là các loại gia súc nhỏ (lợn, đà điểu,...) và gia cầm.
*Trang trại thuỷ sản: loại hình trang trại này rất đặc thù, nhất thiết phải có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản với một diện tích nhất định. Ven biển Đồng bằng Sông Hồng có rất nhiều yếu tố để phát triển ngành này. Tuy nhiên, các trang trại thủy sản cũng rất thường xuyên phải đối mặt với những rủi ro về khí hậu do những đặc trưng riêng của ngành.
*Trang trại kinh doanh tổng hợp: chủ trang trại có thể kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, trồng trọt với nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất với dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp hoặc thậm chí tất cả các hình thức miễn sao có lợi.
3.3. Phân loại trang trại theo chủ thể kinh doanh
Chủ trang trại có thể sở hữu hoặc đi thuê tư liệu sản xuất. Trường hợp phổ biến là chủ trang trại sở hữu quyền sử dụng đất nhưng phải đi thuê máy móc, thiết bị, chuồng trại, kho tàng. ở Việt Nam, người chủ trang trại chỉ có quyền sử dụng đất (tư liệu sản xuất chủ yếu) chứ không có quyền sở hữu nên tốt nhất không phân loại theo loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất.
Theo chủ thể kinh doanh, có thể chia kinh tế trang trại thành:
- Trang trại nhà nước: như nông trường quốc doanh, công ty nông nghiệp nhà nước, thường có quy mô lớn nên hình thành nên nhiều cấp trung gian. Các nông trường các công ty này lại khoán cho gia đình công nhân lập trang trại gia đình.
- Các hợp tác xã nông nghiệp: sau khi luật hợp tác xã ra đời, nhiều hợp tác xã nông nghiệp chuyển thành hợp tác xã dịch vụ đầu vào, đầu ra cho các hộ gia đình nông dân. Hợp tác xã nông nghiệp cũng có thể hình thành nhờ sự hợp tác sản xuất của các xã viên. Hình thức này ngày nay rất ít tồn tại.
- Trang trại của công ty hợp doanh: Là loại hình kinh doanh nông nghiệp quy mô lớn theo hướng sản xuất hàng hoá của các công ty hợp doanh. Họ có thể trực tiếp sản xuất hoặcgiao cho các hộ gia đình hay một đơn vị kinh tế khác làm, hùn vốn hay góp phần lớn vốn góp.
- Trang trại gia đình: Đây là loại hình phổ biến nhất của kinh tế trang trại trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Loại hình này thực chất là các hộ nông dân từ kinh tế tiểu nông sản xuất tự túc, tiến lên kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá với các mức độ khác nhau. Trang trại gia đình rất đa dạng về quy mô, về sở hữu và sử dụng ruộng đất, về chủng loại và số lượng lao động với số lượng khác nhau, về nguồn vốn và khoa học công nghệ, về ngành nghề, mặt hàng sản xuất.Trong hình thức này, mỗi gia đình là một chủ thể kinh tế, họ bỏ vốn và sức lao động để sản xuất, tự lo cả đầu vào và đầu ra cho sản phẩm.
- Trang trại tư nhân kinh doanh nông nghiệp: là loại trang trại của cá nhân các nhà tư bản, công thương gia, hoặc công ty cổ phần , hoặc thuê đất đai, thuê lao động sản xuất kinh doanh nông nghiệp nghĩa là họ hoàn toàn sử dụng lao động làm thuê như các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh công nghiệp, dịch vụ khác của nền kinh tế.
II. Vai trò của kinh tế trang trại đối với phát triển kinh tế-xã hội vùng Đồng bằng Sông Hồng
Bất kì một hình thức sản xuất nào cũng gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội nói chung. Là một thực thể kinh tế, các trang trại hình thành và phát triển đã có những đóng góp không nhỏ cả về mặt tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp - nông thôn.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, vùng Đồng bằng Sông Hồng bao gồm Thủ đô Hà Nội và 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, là một trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá lớn, giữ một vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển chung của quốc gia. Nông nghiệp của vùng Đồng bằng Sông Hồng có một thế mạnh lớn, đóng góp 23,28% GDP toàn vùng và không ngừng tăng qua các năm, trong đó có sự đóng góp của kinh tế trang trại.
1. Phát triển kinh tế trang trại là một tất yếu của quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp- nông thôn
Các ngành sản xuất đều có xu hướng tích luỹ về vốn và các yếu tố sản xuất khác: tư liệu, lao động, kinh nghiệm, trình độ quản lý... Trong nông nghiệp cũng vậy. Những năm cuối thế kỷ 17 ở các nước bắt đầu công nghiệp hoá, đã có chủ trương thúc đẩy các quá trình tập trung ruộng đất, xây dựng các xí nghiệp nông nghiệp tư bản quy mô lớn với hi vọng mô hình này sẽ tạo ra nhiều nông sản tập trung với giá rẻ hơn sản xuất gia đình phân tán. Lúc đầu Marx cũng cho rằng đây là điều tất yếu trong qúa trình công nghiệp hoá nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa nhưng trong tác phẩm cuối cùng của mình, ông đã viết: “Ngay ở nước Anh nền công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không dùng lao động làm thuê”.(2) K.Marx, Toàn tập, tập 25, phần 2.
Sở dĩ như vậy là vì sản xuất nông nghiệp có đặc trưng khác với công nghiệp ở chỗ là phải tác động vào những vật sống (cây trồng, vật nuôi) nên không phù hợp với hình thức tổ chức sản xuất tập trung quy mô quá lớn.
Công cuộc đổi mới kinh tế và đổi mới nông nghiệp của Việt Nam mới bắt đầu cách đây gần hai chục năm. Cơ chế thị trường không chỉ tác động mạnh mẽ đến hoạt động của các ngành công nghiệp, dịch vụ mà còn làm thay đổi căn bản mục đích và do đó thay đổi cả phương thức sản xuất trong nông nghiệp. Sự phát triển của trao đổi hàng hoá đặt ra yêu cầu làm ra sản phẩm phải là hàng hoá với giá cả hợp lý và chất lượng đảm bảo hơn. Không chỉ là các nông trại lớn, ngay cả các đơn vị sản xuất nhỏ như hộ gia đình cũng hiểu rõ mục đích sản xuất của mình: sản phẩm để bán chứ không phải để tiêu dùng.
Khi nông nghiệp đã có một bước chuyển mình đáng kể, nhiều hộ nông dân đã giàu lên, nhận thức và hiểu biết về khoa học kĩ thuật ngày càng sâu sắc, kinh nghiệm và khả năng quản lý, tổ chức sản xuất ngày càng được nâng cao, vốn tích luỹ đạt đến một mức độ nhất định, thì cũng là lúc người kinh doanh nông nghiệp phải nghĩ đến một hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp mới, có quy mô lớn hơn, tỉ suất lợi nhuận cao hơn. Thế là họ bỏ vốn, lập nên các trang trại, thuê nhân công và hoạt động như một nhà kinh doanh thật sự.
Nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế trang trại trong phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp- nông thôn nói riêng, Chính phủ đã có khá nhiều văn bản quan trọng về các vấn đề: đất đai cho trang trại, vốn sản xuất cho trang trại, hỗ trợ khâu cung ứng đầu vào, đầu ra..., bắt đầu từ “khoán 100” thực hiện sản lượng khoán, tránh đồng ruộng bị chia cắt manh mún, đến Nghị quyết Trung ương 5 Khoá VII (6/1993) sau đó là Luật đất đai (9/1993), rồi Nghị quyết Trung ương 4 khoá VIII (12/1997) cũng khẳng định: “kinh tế trang trại với các hình thức sở hữu khác nhau (nhà nước, tập thể, tư nhân) được phát triển chủ yếu trồng cây dài ngày, chăn nuôi đại gia súc ở những nơi có nhiều ruộng đất, khuyến khích việc khai phá đất hoang vào mục đích này”. Và gần đây nhất, một văn bản quan trọng đã được ban hành. Đó là Nghị quyết số 03/2000/NQ – CP, trong đó có nêu rõ: “Nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học – công nghệ chế biến, tiêu thụ sản phẩm, xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho các trang trại phát triển bền vững”, “chủ trang trại được thuê lao động không hạn chế về số lượng, trả công lao động trên cơ sở thoả thuận với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động”. Có thể nói, chưa bao giờ kinh tế trang trại được quan tâm đúng mức như những năm gần đây.
Tuy vậy, kinh tế nước ta đang trong qúa trình chuyển từ một nền kinh tế tự cung tự cấp sang một nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, sự quá độ của nền kinh tế lại quy định tính đa dạng của nó, về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, về sở hữu tư liệu sản xuất... Tính không đồng đều về trình độ sản xuất, một mặt dẫn tới những hình thức tổ chức sản xuất khác nhau, mặt khác, dẫn tới sự không thống nhất của mỗi hình thức tổ chức sản xuất. Do vậy trang trại nước ta cũng không thể thuần nhất khi mà kinh tế còn trong thời gian quá độ. Đó cũng là một quy luật phát triển như quy luật phát triển của các mô hình sản xuất khác mà thôi.
Như vậy, kinh tế trang trại là một thực thể khách quan, xuất hiện như là kết quả của quá trình tích luỹ về vốn, kinh nghiệm, năng lực của người chủ sản xuất, do tác động của cơ chế thị trường, mà trong đó, trang trại gia đình (với một số ưu thế riêng sẽ được xem xét ở phần sau) là mô hình được lựa chọn số 1.
2. Tác động của kinh tế trang trại đến sự phát triển của ngành sản xuất nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng
2.1. Góp phần chuyên môn hoá sản xuất và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp- nông thôn, phát triển kinh tế hàng hoá của vùng
Như đã nói, đặc trưng của kinh tế trang trại là mức độ tập trung cao về đất đai và tích luỹ lâu dài về vốn, đã dần tạo nên một quy mô vượt trội so với sản xuất của hộ gia đình. Với riêng mỗi trang trại, trong giai đoạn đầu do còn thiếu vốn và khả năng sản xuất cũng như kinh nghiệm quản lý, họ thường kết hợp sản xuất nhiều loại nông sản khác nhau nhưng sau đó, do sự tích luỹ về các yếu tố trên, trang trại sẽ hướng theo một vài loại sản phẩm do đó quy mô của loại sản phẩm này cũng lớn lên. ảnh hưởng của các lợi thế về quy mô dẫn đến các trang trại ở trong cùng một vùng có điều kiện tự nhiên giống nhau sẽ trồng hay nuôi cùng một loại cây, con như nhau, xây dựng các mô hình thâm canh, chuyên canh, tiếp cận các biện pháp canh tác hiện đại, từ đấy các vùng chuyên canh, vùng chuyên môn hoá hình thành, trở thành vùng cung cấp nguyên liệu rộng lớn cho các cơ sở chế biến. Cho đến nay, vùng Đồng bằng Sông Hồng đã có nhiều vùng chuyên canh cây ăn quả, cây công nghiệp, vùng chuyên trồng hoa cảnh… (Hưng Yên, Thái Bình, ngoại thành Hà Nội, Hải Phòng…)
Sản xuất quy mô lớn lại đòi hỏi áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất để làm ra sản phẩm với chi phí thấp, chất lượng cao và đồng đều. Vì mục đích của kinh tế trang trại là thị trường: sản xuất cái gì, khối lượng bao nhiêu, chất lượng ở mức độ nào,... đều phải bắt kịp các tín hiệu của thị trường. Và vì xu hướng của trang trại là ngày càng đòi hỏi sản phẩm có chất lượng cao hơn, nên cơ cấu sản xuất của trang trại cũng thay đổi, hàm lượng khoa học kĩ thuật trong sản phẩm nông nghiệp thậm chí tăng lên. Nhìn chung, kinh tế trang trại sẽ tăng tỉ lệ chăn nuôi, giảm tỉ lệ trồng trọt, một số tiểu ngành như sản xuất thực phẩm cao cấp, hoa kiểng... ngày càng phát triển, đem lại nguồn thu lớn.
Biểu 1: Cơ cấu GDP ngành nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng
(giá cố định 1994), Đơn vị: %
Hạng mục
1990
1995
2000
2001
Tổng số
100
100
100
100
Nông nghiệp
94,7
94,2
92,8
92,5
- Trồng trọt
75,3
74,9
71,7
70,0
- Chăn nuôi
19,4
19,3
21,1
22,5
Lâm nghiệp
2,4
1,6
1,1
1,0
Thuỷ sản
2,9
4,2
6,0
6,5
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê.
Qua bảng có ta có thể nhận thấy một sự chuyển dịch cơ cấu Nông – Lâm – Ngư nghiệp theo hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp và tăng tỉ trọng ngành thuỷ sản, nhờ quy mô sản xuất hàng hoá lớn, đặc biệt nhóm ngành thuỷ sản tăng nhanh trong những năm gần đây. Nhóm ngành trồng trọt trong đó cây lương thực giảm nhưng cây công nghiệp và cây ăn quả thì lại tăng lên trong giai đoạn 1995 – 2001. Tỉ trọng ngành chăn nuôi giảm nhanh vào những năm cuối thập kỉ 90 khi mà kinh tế trang trại phát triển mạnh. Sự biến động của cơ cấu năm 2001 so với năm 2000 cũng tương đương với sự chuyển dịch trong suốt 5 năm trước đó.
2.2. Góp phần làm tăng giá trị sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của vùng, và đối với cả nước trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho các tỉnh, thành phố trong vùng cũng như đáp ứng một phần nhu cầu của các vùng khác. Trong thời kì 1991 – 2001, sản lượng lương thực của vùng tăng hơn 2,7 triệu tấn; giá trị sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp (theo giá cố định 1994) tăng lên từ 13.402 tỉ đồng (năm 1990) lên 24.103 tỉ đồng (năm 2001), bằng 23,8% giá trị sản lượng nông – lâm – nghiệp của cả nước, tốc độ phát triển bình quân mỗi năm là 6,02%. Sự phát triển của ngành nông nghiệp có sự đóng góp quan trọng của kinh tế trang trại.
Lợi thế về quy mô của các trang trại (quy mô đất đai, quy mô lao động...) giúp các trang trại tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn. Trang trại có điều kiện thuận lợi trong cả việc giảm giá thành các yếu tố đầu vào và cả trong quản lý, tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là dễ dàng hơn khi áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, sử dụng máy móc, trang thiết bị hiện đại trong hoạt động sản xuất. Với các hộ gia đình, chi phí cho các thiết bị này chiếm tỉ lệ quá lớn so với thu nhập và giá trị sản phẩm làm ra, nên thông thường họ phải đi thuê, tỉ suất lợi nhuận vì thế cũng thấp, khiến cho giá trị của cả ngành nông nghiệp giảm theo.
Cũng nhờ quy mô lớn, chuyên môn hoá cao, cùng với tính chất sản xuất hàng hoá mà sản phẩm của trang trại là những sản phẩm có giá trị cao. Thông thường thì người làm trang trại hiểu rõ mục đích sản xuất của mình là cung cấp cho thị trường, nên họ chỉ chọn kinh doanh những loại cây, con sao cho có hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng đúng yêu cầu mà thị trường đòi hỏi. Hơn thế nữa, sản phẩm làm ra thường có giá thành cạnh tranh, chất lượng đồng đều, có khả năng cung cấp với khối lượng lớn nên thường dễ được các cơ sở chế biến và người tiêu dùng chấp nhận. Giá trị sản phẩm cao không chỉ đem lại thu nhập cho chủ trang trại mà trong phạm vi toàn ngành, nó sẽ là phần đóng góp đáng kể để gia tăng giá trị ngành sản xuất nông nghiệp.
2.3. Góp phần vào sự phát triển của các ngành công nghiệp, dịch vụ, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp- nông thôn
Sản phẩm nông nghiệp là đầu vào quan trọng của các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Rõ ràng là khối lượng, chất lượng, giá cả nông sản cung cấp cho một nhà máy chế biến thực phẩm nào đó sẽ quyết định tính cạnh tranh của sản phẩm nhà máy này. Không những thế, sản phẩm của trang trại sẽ góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp cơ khí, công nghiệp năng lượng trong các mối liên hệ ngược với các ngành này. Để làm ra sản phẩm, các trang trại cần sử dụng máy móc, cần tiêu dùng năng lượng, cần được cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu... Đó là không kể những trang trại kinh doanh tổng hợp còn tự sơ chế, chế biến ngay tại chỗ. Yêu cầu này cần được sự giúp đỡ của ngành công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm... Mối quan hệ qua lại này chỉ ra rằng: sự phát triển của ngành này là động lực phát triển của ngành kia.
Mặt khác, khi kinh tế trang trại phát triển nó sẽ đem lại thu nhập cho một bộ phận nông dân, tiêu dùng của khu vực nông nghi._.ệp - nông thôn tăng lên kéo theo sự khởi sắc của ngành dịch vụ theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường.
Như vậy, kinh tế trang trại không chỉ là lực lượng xung kích đi đầu trong lĩnh vực sản xuất nông sản hàng hoá, mà còn là lực lượng đi đầu trong ứng dụng khoa học công nghệ nông nghiệp, do đó là nhân tố cơ bản cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn nước ta. Điểm yếu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn là tính chất lạc hậu, manh mún, phân tán của sản xuất nông nghiệp nước ta nói chung và vùng đồng bằng Sông Hồng nói riêng (cho dù vùng Đồng bằng Sông Hồng vẫn là vùng có trình độ thâm canh cao nhất cả nước) nên đã hạn chế khả năng thay đổi cách thức sản xuất từ thủ công sang lao động bằng máy móc hiện đại. Quy mô đất đai và vốn lớn của các trang trại sẽ khắc phục nhược điểm này.
Nói chung, trong điều kiện kinh tế thị trường, với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mô hình kinh tế trang trại là một hướng đi đầy triển vọng cho nông nghiệp Việt Nam. Chắc chắn trong tương lai, sự phát triển của nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng phải bao gồm cả sự phát triển của mô hình kinh tế trang trại.
3. Tác động về mặt xã hội và môi trường
3.1. Góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
Theo số liệu năm 2001, dân số nông thôn vùng Đồng bằng Sông Hồng vào khoảng 13,77 triệu người, tổng số lao động là 10,47 triệu trong đó lao động trong độ tuổi ở nông thôn là gần 8,2 triệu, chiếm tới 78,17% tổng lao động của vùng. Tính chất mùa vụ của hoạt động sản xuất nông nghiệp cùng với việc mở rộng dần phạm vi ứng dụng của máy móc hiện đại càng làm tăng tỉ lệ thất nghiệp trá hình. Theo ước tính, lao động ở khu vực nông thôn mới chỉ sử dụng hết khoảng 3/4 thời gian lao động nông nghiệp, như vậy là đã lãng phí một lượng lớn lao động nông thôn. Trong số đó thậm chí nhiều người thậm chí còn hoàn toàn không có cả việc làm. Một phần lao động dư thừa ấy sẽ được giải quyết khi các trang trại hình thành vì trang trại không chỉ giải quyết việc làm cho bản thân chủ trang trại cũng như người nhà của họ mà còn thu hút được một lực lượng đáng kể lao động làm thuê.
3.2. Phát triển lựclượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Tác động của kinh tế trang trại tới sự phát triển của lực lượng sản xuất xét ở 3 khía cạnh:
Một là, nhờ cách làm ăn hiệu quả hơn, kinh tế trang trại đem lại nguồn thu nhập cao hơn cho người lao động tham gia sản xuất và trong thực tế, rất nhiều nông dân đã giàu lên thực sự bằng con đường này. Không những thế, những lao động làm thuê cũng được hưởng một mức thu nhập cao hơn trước đây, nhờ đó đời sống được cải thiện cả về mặt vật chất và tinh thần.
Hai là, dựa vào ưu thế của kinh tế trang trại trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật mà trình độ kĩ thuật, trình độ thâm canh, chuyên môn hoá nông nghiệp của vùng nói chung được nâng lên rõ rệt. Trong thời đại này, máy móc là bộ phận vô cùng quan trọng của lực lượng sản xuất nông nghiệp, và sự phát triển của máy móc (xét cả về số lượng và chất lượng) chính là sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Ba là, kinh tế trang trại phát triển kéo theo sự phát triển của các mối quan hệ giữa nông dân - nông dân trong việc hợp tác, hỗ trợ sản xuất, thuê nhân công, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ giữa các khâu sản xuất - chế biến - tiêu thụ của quy trình sản xuất hàng hoá. Tiếp theo đó là mối liên hệ giữa các chủ trang trại và nhà cung cấp, cũng được nâng lên thông qua các loại hình dịch vụ và chuyển giao kĩ thuật.
3.3. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn
Rõ ràng là để đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hoá của mình, các trang trại cần phải được đảm bảo bằng một hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ và hiện đại. Nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, các trang trại có thể kết hợp với các địa phương, cùng các doanh nghiệp khác để giải quyết những vấn đề chung này (giao thông, điện, nước, thuỷ lợi, hệ thống tiêu thụ sản phẩm...), các công trình giao thông, kho tàng, bến bãi, các phương tiện vận tải được mở rộng và xây dựng mới để phục vụ cho sản xuất hàng hoá của các trang trại. Và vì không phải trang trại nào cũng có khả năng tự xây dựng hệ thống này nên cần có những sự giúp đỡ của nhà nước.
Đi đôi với việc phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất là hệ thống cơ sở phục vụ đời sống nhân dân, hệ thống trường học, trạm xá, chợ, các công trình văn hoá, thể thao... Một số thị tứ đã hình thành cùng với sự phát triển của kinh tế trang trại.
Đồng bằng Sông Hồng, đóng góp của kinh tế trang trại sẽ là góp phần xây dựng mới, tu sửa và mở rộng mạng lưới thuỷ lợi, hệ thống đường sá nối khu vực nông thôn với thành thị và các khu vực nông thôn với nhau, nhất là các vùng ngoại thành xa trung tâm đô thị, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động của các trung tâm nghiên cứu khoa học.
3.4. Khai thác hiệu quả các nguồn lực
Thực tế cho thấy trong các mô hình kinh tế trang trại các yếu tố nguồn lực thường được sử dụng hiệu quả hơn so với kinh tế hộ. Không còn mang tính chất tự sản tự tiêu, cơ chế thị trường buộc các “doanh nghiệp trang trại” phải hạch toán kinh doanh do đó vì lợi nhuận, các yếu tố đầu vào như đất đai, chi phí mua giống, phân bón, trang thiết bị máy móc, thuê mướn nhân công,... đều được tính toán sao cho đem lại tỉ suất lợi nhuận cao nhất. Rộng hơn, kinh tế trang trại còn góp phần tích cực vào việc huy động tiền vốn đọng trong một bộ phận lớn nông dân lâu nay vào sản xuất nông nghiệp.
3.5. Những lợi ích về môi trường:
Đối với vùng Đồng bằng Sông Hồng, các trang trại trồng rừng gần như không đáng kể, nhưng số lượng số lượng các trang trại còn lại đã góp phần đáng kể vào công cuộc xây dựng một nền nông nghiệp đa dạng, sinh thái, bền vững.
Tóm lại, mô hình kinh tế trang trại không chỉ là một mô hình thích hợp với sản xuất nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng mà nó còn phù hợp với cơ chế thị trường và đem lại những lợi ích to lớn cả về kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, nhận thức về vai trò của nó chưa đủ để chúng ta xây dựng được hệ thống các giải pháp hiệu quả, bởi vì ta còn phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại nữa.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng
1. Nhóm các nhân tố tài nguyên thiên nhiên
Vùng Đồng bằng Sông Hồng bao gồm lãnh thổ của 11 tỉnh vùng đồng bằng ven biển phía Bắc. Diện tích tự nhiên là 14.795 km2, bằng 4,5% cả nước. Dân số năm 2001 là 17,03 triệu người, bằng 22% dân số cả nước. Vùng có vị trí rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế giữa các vùng trong cả nước, giữa các tỉnh ở miền núi và đồng bằng phía Bắc, giữa các tỉnh miền Bắc và miền Nam, cùng các cảng hàng không, cảng biển giao lưu quốc tế, thuận lợi cho các hoạt động thương mại.
Trong quá trình phát triển, sản xuất nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng của vùng chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố sau đây:
1.1. Đất đai
Quan trọng nhất đối với sản xuất nông nghiệp là yếu tố đất đai. Dù áp dụng bất cứ hình thức sản xuất nào, kinh doanh bất cứ loại nông sản nào, chủ trang trại cũng phải phát triển trêncơ sở một diện tích đất đai nhất định. ảnh hưởng của đất đai đến phát triển kinh tế trang trại quyết định bởi:
- Quy mô đất đai: tức là diện tích cần thiết để tạo ra một khối lượng nhất định sản phẩm. Nói chung, một quy mô đất sản xuất rộng lớn là một điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại. Theo thống kê, đất nông nghiệp của vùng Đồng bằng Sông Hồng là 857,6 nghìn ha, bằng 9,2% diện tích đất nông nghiệp cả nước, bình quân 497m2/người. Tuy nhiên phần lớn đất đai vẫn còn ở tình trạng manh mún, phân tán làm cản trở quá trình hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp.
- Đặc điểm của đất đai: Đây là một yếu tố đặc biệt quan trọng cần phải tính đến khi tiến hành sản xuất, nhất là với các trang trại trồng trọt. Đồng bằng Sông Hồng vốn là một vùng châu thổ, có gần 80% đất canh tác trên loại đất phù sa màu mỡ thuộc loại tốt trong cả nước, đó là lợi thế có thể thâm canh cây trồng đạt năng suất cao. Một lợi thế hơn hẳn là vùng có tới 70% đất canh tác lúa màu được tưới bằng nước phù sa của hệ thống sông Hồng, có chất lượng nước tốt, nhiều dinh dưỡng. Tuy nhiên, theo tiến trình khai thác một cách lạc hậu và không tính đến hậu quả lâu dài cho nên đến nay, nhiều vùng đất đã trở nên bạc màu, muốn trồng trọt phải chi phí cải thiện đất rất tốn kém. Bên cạnh đó còn các vùng đất mặn, đất phèn, đất nhiều khoáng sản,... rất khó canh tác, nhưng cũng còn nhiều đất màu thuận lợi cho các loại cây trồng phát triển. Nếu là một trang trại chăn nuôi thì đất đai chưa phải là một yếu tố quan trọng lắm. Những vùng đất xấu, đất trũng có thể chuyển từ trồng cây lương thực thực phẩm sang chăn nuôi gia súc gia cầm hoặc nuôi trồng thuỷ sản.
Tuy rằng một trang trại phát triển trên vùng đất đai rộng lớn thì thường có khả năng phát đạt nhanh, nhưng thực tế, vẫn có những trang trại nhỏ mà hiệu quả kinh doanh lại lớn. Vấn đề là ở chỗ chủ trang trại biết và vận dụng những sự hiểu biết về khoa học kĩ thuật, sử dụng máy móc để tiến hành thâm canh, chuyên canh sao cho thật hiệu quả, nhất là trong điều kiện đất đai ngày càng trở nên khan hiếm, khi đó kinh tế trang trại mới thực sự chứng tỏ tính ưu việt của mình so với kinh tế hộ gia đình.
1.2. Thời tiết, khí hậu
Yếu tố thời tiết ảnh hưởng mạnh mẽ đến cơ cấu sản xuất của cả trang trại chăn nuôi và trang trại trồng trọt, bởi lẽ chúng là những “đối tượng sống” được đặt trong một “môi trường sống” ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh trưởng và sinh sản. So với các vùng trong cả nước, khí hậu của vùng Đồng bằng Sông Hồng có thể xếp vào bậc nhất về mức độ thuận lợi và đa dạng, thích hợp với rất nhiều loài động, thực vật khác nhau. Vùng có tổng tích ôn khoảng 85000C, cho phép canh tác nhiều loại cây trồng trong năm. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 230C, lượng bức xạ lớn. Nhờ số giờ nắng cao, tính chất nóng ẩm của mùa hè và không khí lạnh của mùa đông, trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng có điều kiện để đa dạng hoá cơ cấu cây trồng của mình, cả các loài cây nhiệt đới và cây ôn đới. Không những thế, sự phong phú của khí hậu ở các vùng, miền khác nhau, ở các độ cao khác nhau cũng tạo điều kiện để có một cơ cấu chăn nuôi đa dạng cho cả vùng.
Tuy vậy, tính chất diễn biến phức tạp của khí hậu trong vùng cũng sẽ gây không ít khó khăn cho sản xuất của các trang trại.
2. Các nhân tố kinh tế xã hội
2.1. Lao động của trang trại
Bao gồm lao động quản lý và lao động sản xuất trực tiếp, xét trên 2 khía cạnh: số lượng và chất lượng.
- Số lượng lao động tuỳ thuộc vào: quy mô sản xuất của trang trại, trình độ cơ giới hoá, yêu cầu về nhân công do đặc trưng của ngành sản xuất, và khả năng thuê mướn lao động của chủ trang trại. Chắc chắn, so với kinh tế hộ, số lao động của trang trại sẽ nhỏ hơn, nhưng đó là điều cần thiết để có hiệu quả kinh doanh cao, tạo ra động lực cho cả ngành nông nghiệp phát triển. Hiện vùng Đồng bằng Sông Hồng có khoảng 8,2 triệu lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn và theo quy hoạch đến năm 2010, con số này sẽ chỉ còn 7,61 triệu (do chủ trương chuyển đổi lao động sang các khu vực phi nông nghiệp). Dù giảm nhưng đây vẫn là một nguồn lao động rất dồi dào cung cấp cho các trang trại. Hơn nữa, do có sự dư thừa lao động nông thôn mà các chủ trang trại có thể dễ dàng thuê lao động với chi phí thấp.
- Chất lượng lao động phụ thuộc: tuổi, giới tính, trình độ học vấn, kinh nghiệm, tay nghề, mức độ tận tuỵ của người lao động. Nhìn chung, lao động cung cấp cho các trang trại thường là nông dân (ngay cả bản thân chủ trang trại cũng thường xuất thân như vậy) nên mức độ linh hoạt để thích ứng với cơ chế thị trường còn thấp. Phần vốn lớn nhất mà họ có là kinh nghiệm và những hiểu biết truyền thống về sản xuất nông nghiệp. Dù sao, Đồng bằng Sông Hồng cũng là vùng mà nông nghiệp được cơ giới hoá nhanh và sớm nhất cả nước, tiếp cận với sản xuất hàng hoá sớm nhất nên ít nhiều khả năng đáp ứng của người lao động cũng có phần nhỉnh hơn những vùng khác.
Sự phát triển của kinh tế trang trại còn phụ thuộc vào trình độ tổ chức và quản lý của chủ trang trại. Họ là những người có kinh nghiệm hoặc ít ra cũng là những người mạnh dạn, có hiểu biết về thị trường, về kinh tế hàng hoá, về cách thức sản xuất hiện đại.
Trong điều hiện hiện nay, có rất nhiều lao động có kinh nghiệm, có trình độ, am hiểu khoa họckĩ thuật, và lựclượng này cung cấp cho trang trại một đội ngũ nhà nghiên cứu, những kĩ sư nông nghiệp... chính họ bằng lao động chất xám của mình sẽ góp phần nâng cao sản lượng và chất lượng của nông phẩm.
2.2. Sự tích tụ vốn sản xuất:
Đây là điều kiện cần thiết để kinh tế hộ chuyển thành kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại là một mô hình sản xuất lớn có tỉ suất hàng hoá cao, chấp nhận cạnh tranh ngày càng gay gắt và đặc biệt là luôn vận động theo các quy luật khách quan của cơ chế thị trường, nên ngày càng cần phải được tăng nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
Nguồn vốn cung cấp cho các trang trại bao gồm: sự hỗ trợ từ ngân sách địa phương, từ phía nhà nước, vốn tự có của chủ trang trại, vốn vay, vốn tín dụng, trong đó chủ yếu là vốn của chủ trang trại, phần hỗ trợ từ phía nhà nước là rất hạn hẹp, vì thế khả năng tích luỹ vốn để mở rộng kinh doanh, đầu tư trang trại thiết bị công nghệ tiên tiến là rất khó khăn.
2.3. Những tác động của thị trường
Cùng với vốn, thị trường, là vấn đề sống còn của kinh tế trang trại, bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra, đặc biệt là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chúng tác động một cách mạnh mẽ tới tư duy và cách thức hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại, đẩy nhanh phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá ở nông thôn, nhờ đó dân cư thoát khỏi tư duy kinh tế theo lối tiểu nông.
Vì là sản xuất hàng hoá nên vấn đề cung ứng vật tư (thị trường đầu vào) là rất quan trọng. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của trang trại, và rõ ràng là một thị trường đầu vào có sự độc quyền sẽ gây ra rất nhiều điều bất lợi, chủ trang trại sẽ phải mua vật tư với giá cao mà chất lượng không đảm bảo. Vì vậy cũng cần có sự quan tâm của nhà nước trong lĩnh vực này.
Còn thị trường sản phẩm đầu ra là một trong những vấn đề các trang trại quan tâm nhất, nó phát đi các tín hiệu định hướng cho các thị trường nên sản xuất loại nông sản nào, khối lượng, chất lượng ra sao, sản xuất như thế nào thì hiệu quả... Tuy vậy, hiện nay có một hạn chế rất lớn là cho đến nay, hầu hết các trang trại là hình thành tự phát, hoạt động chủ yếu mới ở khâu sản xuất và mới chỉ tạo ra sản phẩm nguyên liệu nên thường xuyên rơi vào tình trạng không có đầu ra hoặc tiêu thụ chậm, bị ép giá sản phẩm (nhất là các sản phẩm tươi sống) làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh.
2.4. Tiến bộ khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất của trang trại vì đây là một hình thức sản xuất ứng dụng rộng rãi những thành tựu của nó, từ máy móc thiết bị, đến kĩ thuật canh tác, tạo ra nhiều giống mới có năng suất, chất lượng cao cung cấp cho thị trường, đặc biệt là trong khâu chế biến nông sản. Công nghệ phù hợp, không chỉ giải quyết hết nhu cầu chế biến sản phẩm, mà còn là một trong những biện pháp để giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh. Vùng Đồng bằng Sông Hồng với Thủ đô Hà Nội cùng các thành phố và trung tâm công nghệ như Hải Phòng, Hải Dương, là những điểm nghiên cứu, nắm bắt những tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến để vận dụng vào sản xuất, đặc biệt là sản xuất hàng hoá lớn như trang trại.
2.5. Cơ sở hạ tầng nông thôn
Đây chính là “bầu không khí sống” của kinh tế trang trại, là yếu tố hỗ trợ cho kinh tế trang trại và trong nhiều trường hợp, nó mang tính quyết định. Một hệ thống thuỷ lợi tốt, một mạng lưới điện và thông tin liên lạc đồng bộ, đầy đủ, giáo dục đào tạo và một hệ thống thương mại đáp ứng đúng nhu cầu, là điều kiện thuận lợi như là sự thuận lợi với các yếu tố đầu vào khác. Một hệ thống đường giao thông hoàn chỉnh nối vùng sản xuất - chế biến - tiêu thụ là một trong những điều kiện cần thiết để tạo ra một cơ chế sản xuất liên hoàn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại. Về mặt này, vùng Đồng bằng Sông Hồng có nhiều lợi thế: hệ thống đường giao thông hoàn chỉnh nối liền các xã với nhau, nối liền nông thôn và thành thị, nối liền vùng nguyên liệu và chế biến; hệ thống thuỷ lợi kiên cố và không ngừng được tu bổ; đã hoàn thành điện khí hoá và nhìn chung có một hệ thống trạm, trường tương đối đầy đủ, đáp ứng những nhu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân.
Những tác động phức tạp của các yếu tố kinh tế - xã hội sẽ được đơn giản hoá và có lợi nếu các chủ trang trại linh hoạt, khéo léo tận dụng những thời cơ mà chúng đem lại, có phương án phòng tránh rủi ro, đồng thời phải có sự can thiệp của một chủ thể mà nhờ đó, mục tiêu kinh doanh của trang trại mới trở nên hoàn chỉnh: đó là Nhà nước.
3. Vai trò của Nhà nước.
Trong một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như nền kinh tế nước ta, những chính sách, thể chế mà nhà nước ban hành luôn là yếu tố ảnh hưởng trưc tiếp và mạnh mẽ đến các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, cũng như đến sự phát triển của kinh tế trang trại. ảnh hưởng này thể hiện ở các điểm sau đây:
Quy hoạch đất đai và các quy hoạch vùng chuyên môn hoá
Các chính sách về đất đai
Các chính sách về vốn đầu tư, tín dụng và thuế
Chính sách lao động
Chính sách thị trường
Chính sách khoa học - công nghệ - môi trường
Chính sách bảo hộ tài sản đã đầu tư cho trang trại
Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
Môi trường pháp lý.
Những chính sách này đã khuyến khích kinh tế trang trại phát triển đúng hướng, phát huy được các mặt mạnh và thuận lợi, hạn chế khắc phục khó khăn và trở ngại trong điều kiện các mối quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành và phát triển của kinh tế trang trại vốn rất đa dạng, tinh tế và phức tạp.
IV. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở một số nước châu á
Qua khảo sát tình hình phát triển kinh tế trang trại của các nước ở khu vực Châu á, có những đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội gần gũi với nước ta, chúng ta có thể rút ra những nhận xét, kinh nghiệm thực tế, bổ ích để tham khảo và vận dụng có chọn lọc vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trước hết hãy xem xét quá trình phát triển kinh tế trang trại ở một số nước cụ thể:
1. Kinh tế trang trại ở các nước Châu á
1.1. Kinh tế trang trại ở các nước Châu á phát triển
Kinh tế trang trại ở Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc – những nước và lãnh thổ công nghiệp hoá đạt trình độ cao, được hình thành và phát triển mạnh mẽ từ sau thế chiến lần thứ hai. Sau cải cách ruộng đất, xoá bỏ quan hệ sở hữu phong kiến, một tầng lớp nông dân tự chủ sản xuất hàng hoá theo mô hình trang trại xuất hiện.
Những vùng này có đặc điểm chung là đất ít, người đông, (tương tự như vùng Đồng bằng Sông Hồng) bình quân đất nông nghiệp trên một đầu người thấp nhất thế giới nên quy mô đất đai của các trang trại vào loại nhỏ nhất Châu á và thế giới (khoảng trên dưới 1 ha, so với bình quân Tây Âu là 20 – 30 ha và của Mĩ là 150 – 180 ha).
ở Nhật Bản, kinh tế trang trại phát triển mạnh từ những năm 50 theo hướng giảm số lượng, tăng quy mô (xem bảng)
Năm
Số lượng trang trại
Quy mô bình quân 1 trang trại (ha)
1950
6176
0.8
1970
5382
1.1
1980
4661
1.1
1995
2382
1.5
Xu hướng tích tụ ruộng đất diễn ra chậm, và quy mô tích tụ không cao. Trang trại chăn nuôi gia tăng nhanh hơn trang trại trồng trọt. Lao động trong trang trại chủ yếu là lao động gia đình, rất ít lao động làm thuê (những năm 80 – 90 trung bình mỗi trang trại với 1 ha đất canh tác có 1 lao động chính và 1,1 lao động làm thuê).
Mặc dù quy mô nhỏ nhưng do công nghiệp hoá cao nên các trang trại đạt trình độ công nghiệp hoá và trình độ thâm canh cao. Năng suất cây trồng và năng suất lao động cùng tỷ suất hàng hoá đều cao, đảm bảo cơ bản nhu cầu của 125 triệu dân về lúa gạo, thịt, trứng, sữa, rau quả. Cơ cấu sản xuất và cơ cấu thu nhập của các trang trại có sự chuyển dịch từ thuần nông sang kiêm nghiệp, hoạt động nông nghiệp và ngoài nông nghiệp theo chiều hướng tỉ trọng hoạt động ngoài nông nghiệp ngày càng tăng. Các trang trại thuần nông thường là các trang trại trồng trọt quy mô lớn, bình quân 4 ha, hoặc là trang trại chăn nuôi. Còn các trang trại kiêm nghiệp thường là các trang trại trồng trọt ít đất đai, bình quân dưới 1 ha nên phải tìm thêm việc làm ngoài nông nghiệp.
Hiện nay trong nông nghiệp của Nhật Bản, kinh tế trang trại vẫn tồn tại và phát triển, với loại hình phổ biến là trang trại gia đình, quy mô không lớn. Tuy nhiên trang trại quy mô nhỏ cũng bộc lộ nhược điểm cơ bản là khó phát huy ưu thế cạnh tranh về giá cả nông sản trong điều kiện mậu dịch tự do đang mở rộng trên trang trại thế giới.
ở Đài Loan và Hàn Quốc, quá trình hình thành và phát triển của kinh tế trang trại cũng diễn ra tương tự. Cải cách ruộng đất những năm 50 tạo tiền đề cho sự ra đời của các hộ nông dân – trang trại gia đình tự chủ sản xuất nông sản hàng hoá với quy mô nhỏ, vì quỹ đất nông nghiệp hạn chế.
Đầu thời kì công nghiệp hoá thì số lượng trang trại tăng và quy mô giảm nhưng giai đoạn sau thì số lượng trang trại có chiều hướng giảm xuống (từ 880.274 năm 1970 còn 779.000 năm 1996, và quy mô tăng lên, đạt 1,2 ha/trang trại). Các trang trại chăn nuôi tăng nhanh trong quá trình công nghiệp hoá, chủ yếu là nuôi lợn.
Kinh tế trang trại ở Đài Loan phổ biến là trang trại gia đình. Trong thời gian 1955 – 1990, số trang trại thuần nông giảm từ 39,67% còn 8,98% tổng số trang trại, và số trang trại kiêm nhiệm tăng từ 60,13% lên 91,02%. Tuy quy mô nhỏ nhưng trình độ công nghiệp hoá sản xuất cao, khối lượng nông sản hàng hoá làm ra lớn, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Để thúc đẩy việc tích tụ ruộng đất, các trang trại ở Đài Loan đã phát triển hình thức uỷ thác.
ở Hàn Quốc, trang trại cũng phát triển tương tự. Quy mô trung bình của mỗi trang trại lúc đầu khoảng 0,9 ha; thời kì 1970 – 1980 khoảng 1,2 ha và cũng áp dụng khoa học công nghệ một cách rộng rãi.
1.2. Kinh tế trang trại ở các nước Châu á đang phát triển
Những nước này mãi gần đây mới bắt đầu công nghiệp hoá, do đó kinh tế trang trại cũng phát triển muộn hơn. Cơ sở để hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở những nước này là kinh tế hộ nông dân tiểu nông phân tán ở các hộ đồng bằng sản xuất lương thực và những doanh nghiệp, đồn điền sản xuất tập trung cây công nghiệp xuất khẩu ở vùng đồi núi.
Quỹ đất nông nghiệp ở các nước này có khác nhau. ở Inđônêxia, Bănglađét, Trung Quốc, bình quân một hộ nông dân chỉ có 0,5 – 1 ha. ở các nước ấn Độ, Philippin có 1,7 đến 2,6 ha; Thái Lan, Pakixtan có 4 – 5 ha. Trừ Trung Quốc đã tiến hành cải cách ruộng đất một cách triệt để, phần lớn các nước này ruộng đất vẫn tập trung trong tay những địa chủ lớn, cản trở sự phát triển kinh tế trang trại.
Trong thời kì bắt đầu đi vào công nghiệp hoá, số lượng hộ nông dân ở các nước đang phát triển Châu á đều lớn và có xu hướng tăng lên và quy mô bình quân đất đai của hộ cũng giảm đi. Đến thời kì công nghiệp hoá cao thì số lượng hộ nông dân trang trại gia đình mới dừng lại và quy mô đất đai trung bình tăng lên. Tuy vậy ngay trong thời kì đầu cũng đã có sự chuyển dịch từ sản xuất tự túc sang sản xuất hàng hoá, với sự hình thành ngày càng nhiều các hộ nông dân sản xuất nhiều nông sản hàng hoá theo mô hình trang trại gia đình, bao gồm 2 loại:
Loại hộ nông dân tiểu nông biết khai thácquỹ đạo sản xuất tự túc cổ truyền, tiến lên sản xuất lương thực hàng hoá ở các vùng đồng bằng.
Loại hộ công nhân làm thuê ở các đồn điền, doanh nghiệp tư bản trước đây nay do thay đổi cơ chế quản lý kinh doanh, trở thành các chủ nông dân nhận khoán thầu đất đai và có cả vật tư kĩ thuật thì trở thành đơn vị trang trại sản xuất nông lâm sản hàng hoá.
Số lượng trang trại ở các nước đang phát triển hiệnnay chưa nhiều và tỉ trọng trong số hộ nông dân chưa cao nhưng đang có xu thế phát triển cùng với nhịp độ phát triển công nghiệp hoá, và ngày càng thể hiện vị trí quan trọng trong nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá.
2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở các nước Châu á và liên hệ với vùng Đồng bằng Sông Hồng
2.1. Một số nhận xét về quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại các nước Châu á
Từ khi bắt đầu công nghiệp hoá, kinh tế trang trại ở các nước Châu á đã hình thành và phát triển và đến khi đạt trình độ công nghiệp hoá cao, kinh tế trang trại vẫn tồn tại, và đóng vai trò chủ lực trong nền công nghiệp sản xuất nông sản hàng hoá, giống như ở các nước công nghiệp phát triển Âu Mĩ. Thực tế đã chứng minh kinh tế trang trại là loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, là lực lượng xung kích sản xuất nông sản hàng hoá.
Đặc điểm của kinh tế trang trại các nước Châu á là quy mô nhỏ bé, phổ biến quy mô bình quân trên dưới 1 ha chỉ bằng 1/20- 1/10 của các nước Tây Âu và bằng 1/200- 1/100 của các nước Bắc Mĩ. Nhưng các trang trại quy mô nhỏ Châu á vẫn còn những tính chất cơ bản của kinh tế trang trại, như đảm bảo tỉ suất hàng hoá cao, khối lượng nông sản nhiều (khi các trang trại sản xuất chuyên môn hoá từng mặt hàng ở vùng tập trung) vẫn dung nạp được các trình độ khoa học công nghệ nông nghiệp từ các trang trại nhỏ trên dưới 1 ha đã có cơ giới liên hoàn, đồng bộ các khâu sản xuất lúa, và nhiều cây khác... Tất nhiên, quy mô đất đai của các trang trại lớn hay nhỏ không phải là điều kiện quyết định năng lực sản xuất nông sản hàng hoá và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến.
Kinh tế trang trại ở các nước Châu á đến nay vẫn có nhiều quy mô cực nhỏ (dưới 0,5 ha), nhỏ (trên dưới 1 ha), vừa (3 - 5 ha) và lớn (8 - 10ha), cơ cấu quy mô khác nhau nay tiếp tục tồn tại lâu dài.
Tiêu chí phân biệt kinh tế trang trại với kinh tế tiểu nông chủ yếu là dựa vào tiêu chí sản xuất hàng hoá tỉ suất cao, khối lượng và giá trị sản lượng nhiều, không phải dựa vào quy mô lớn, vốn đầu tư nhiều, số lượng lao động sử dụng nhiều...
Kinh tế trang trại ở Châu á có hai loại hình phổ biến: trang trại sản xuất theo phương thức gia đình và trang trại sản xuất theo phương thức tư bản chủ nghĩa.
Trang trại gia đình là loại trang trại phổ biến nhất ở các nước Châu á cũng như ở các nước Âu Mĩ. Còn trang trại tư bản tư nhân chiếm số lượng và tỉ trọng không lớn trong tổng số trang trại, vì sản xuất kinh doanh nông nghiệp trực tiếp, thành phần đầu tư vốn nhiều, dài hạn, thu hồi chậm, lợi nhuận thấp, không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư tư bản tư nhân.
Kinh tế trang trại ở các nước Châu á phát triển ở tất cả các vùng kinh tế: đồi núi, đồng bằng, ven biển, nhưng ở mỗi nước có bước đi cụ thể riêng, tuỳ thuộc vào đặc điểm tự nhiên - kinh tế - xã hội. ở Nhật Bản đồi núi và đồng bằng đan xen nhau, nên kinh tế trang trại phát triển đồng thời ở các vùng trong cả nước. ở Thái Lan, phát triển trang trại trồng lúa và chăn nuôi lợn gà, xuất khẩu tập trung ở đồng bằng trung tâm, trang trại trồng sắn xuất khẩu vùng đồi núi và trang trại nuôi tôm xuất khẩu ở vùng ven biển. Malaysia, Indonesia thì tập trung phát triển kinh tế trang trại ở vùng đồi núi trước là vùng sản xuất cao su, cọ dầu, hồ tiêu, ca cao, là những nông sản xuất khẩu có giá trị còn ở đồng bằng thì trồng lúa, kinh tế trang trại phát triển chậm phát triển hơn vì ở đây quỹ đất hạn chế, sản lượng hàng hoá ít.
2.2. Bài học kinh nghiệm cho phát triển kinh tế trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng
- Trước hết cần xoá bỏ ngay quan niệm về kinh tế trang trại là phải sản xuất trên những diện tích đất đai rộng lớn nhất là khi mà ở vùng Đồng bằng Sông Hồng, điều kiện này không dễ đáp ứng. Chúng ta nên nhận định trang trại từ tính chất sản xuất hàng hoá của nó.
- Phải nhanh chóng nâng cao trình độ cơ giới hoá trong các trang trại để sản xuất không bị lạc hậu.
- Trong giai đoạn đầu, cơ cấu sản xuất của các trang trại còn hỗn tạp để tận dụng mọi năng lực sản xuất hiện có, nhưng sau dần chuyển sang cơ cấu mang tính chuyên canh và một loại nông, lâm, hải sản nhất định. Về lâu dài, sẽ kết hợp các hoạt động sản xuất nông nghiệp và hoạt động phi nông nghiệp (như dịch vụ chẳng hạn) để nâng cao hiệu quả sản xuất của trang trại.
- Mô hình trang trại gia đình đang và sẽ là loại hình trang trại phổ biến và thích hợp. Nó bao gồm trang trại gia đình tiểu chủ vừa sử dụng lao động gia đình vừa thuê thêm lao động thời vụ và thường xuyên với số lượng khác nhau, được nhà nước chủ trương khuyến khích. Chính loại lao động tiểu chủ là lực lượng lao động có nhiều tiềm năng sản xuất nông sản hàng hóa hiện nay. Mô hình này có nhiều ưu điểm nổi bật:
+ Có khả năng dung nạp những trình độ sản xuất nông nghiệp khác nhau
+ Có khả năng dung nạp các quy mô sản xuất khác nhau
+ Có khả năng dung nạp các cấp độ công nghệ khác nhau
+ Có khả năng liên kết các loại hình kinh tế khác nhau: kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác, kinh tế nhà nước.
Các chính sách phát triển kinh tế trang trại của nhà nước sẽ phải tạo điều kiện thuận lợi để các hộ gia đình nông dân có thể sản xuất theo mô hình này.
- Xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của vùng, từ yêu cầu đặt ra của công nghiệp hoá, chúng ta có thể vận dụng một cách sáng tạo những bài học của các nước bạn, phát triển trang trại chăn nuôi lợn, gia cầm, sản xuất thóc gạo hàng hoá ở những nơi có điều kiện xuất khẩu, trang trại trồng cây con cần ít đất, trồng hoa, cây cảnh, nuôi cá cảnh, trăn rắn, baba... có thể đạt hiệu quả kinh tế cao.
-Về vấn đề phân hoá thu nhập: có nhiều ý kiến cho rằng kinh tế trang trại là “lối làm ăn của người giàu”, bởi những nông dân nghèo thì khó mà có đủ vốn để làm trang trại, đồng thời cho rằng không nên khuyến khích loại hình trang trại tư bản tư nhân vì nó có thể dẫn đến sự tư bản hoá sản xuất nông nghiệp. Đúng là nhờ kinh tế trang trại, một bộ phận dân cư đã có mức thu nhập cao hơn hẳn và cũng làm phân hoá giàu nghèo, nhưng thực tế là nó không làm cho những người nghèo nghèo đi và cũng không làm tăng số người nghèo, trái lại còn giải quyết việc làm cho một phần đáng kể lực lượng lao dộng nữa. Hơn thế, nông nghiệp Việt Nam còn quá lạc hậu, thu nhập của người nông dân Việt Nam thấp so với thu nhập của nông dân các nước trong khu vực và trên thế giới, vì thế để đuổi kịp họ về trình độ sản xuất, về mức sống dân cư, về khả năng cạnh tranh của nông sản, thì kinh tế trang trại là sự lựa chọn số một, sự lựa chọn đúng đắn và hiệu quả._.iền không thể ngắn hơn chu kì sống của vật nuôi cây trồng.
+Đối với gia đình, cá nhân đã được nhà nước giao đất hoặc đã được chuyển nhượng quyền sử dụng đất vượt mức hạn điền trước ngày 02/2/2000 thì tiếp tục sử dụng và chuyển sang cho thuê đất với thời gian sử dụng bằng thời gian đất được giao để có thể tiến hành sản xuất đồng bộ và thuận lợi.
+Hộ nông dân không có đất sản xuất ở địa phương phải được ưu tiên giao đất, nhất là các hộ ở diện nghèo có nguyện vọng làm kinh tế trang trại. Cho phép các hộ gia đình phi nông nghiệp có nguyện vọng lập trang trại được thuê đất; hộ gia đình, cá nhân ở địa phương khác nếu có nguyện vọng lập nghiệp lâu dài, có vốn đầu tư được thuê đất để lập trang trại để tận dụng năng lực sản xuất của địa phương.
*Tiếp tục khai hoang
Tiếp tục khai thác những vùng đất hoang hoá ở các vùng đồi núi trọc rải rác trong vùng Đồng bằng Sông Hồng, các bãi bồi ven sông, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản còn chưa sử dụng. Hiện nay diện tích này còn khoảng 178.153 ha, nên có chế độ ưu đãi những hộ nào khai thác để làm kinh tế trang trại. Những vùng có nhiều khó khăn trong khai thác và sản xuất như là địa hình không bằng phẳng, đất bạc màu, nhiều khoáng sản, đất nhiễm lợ phải cải tạo… thì có thể cho giao với mức thuế thấp, hoặc miễn hẳn. Cho thuê hoặc khoán theo luật định.
*Có chính sách đồn điền đổi thửa để lập các trang trại lớn
Do tập quán sản xuất lâu đời để lại nên đất đai vùng Đồng bằng Sông Hồng ở vào tình trạng manh mún, phân tán. Muốn phát triển kinh tế trang trại phải “dồn” những diện tích nhỏ để có những vùng đất rộng hơn. Quá trình này có thể được sự chủ động tiến hành của Nhà nước nhưng vì đất đai cũng là một loại hàng hoá đặc biệt, nên thị trường đất đai cần sự hướng dẫn, kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ hơn của Nhà nước bằng hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, chặt chẽ, để sự tích tụ đất đai cho việc hình thành kinh tế trang trại một cách nhanh chóng, thuận lợi, đúng quy luật, có hiệu quả nhất, tuân theo quy hoạch của nhà nước và tránh những hậu quả khác ở nông thôn. Cho phép các trang trại có thể nhận, chuyển nhượng quyền sử dụng hoặc cho thuê đất đai, để tích tụ đất ở những nơi có điều kiện.
Một vấn đề đặt ra khi thi hành chính sách dồn điền đổi thửa là phải có sự quản lý chặt chẽ để đảm bảo không có tình trạng người nông dân mất đất, bần cùng hoá.
- Có chính sách ưu đãi về thuế sử dụng đất, thuế phụ thu để khuyến khích các chủ trang trại mạnh dạn mở rộng quy mô của mình.
*Cần sớm có quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế- xã hội, quy hoạch đất đai ở cấp huyện.
Huyện là cấp hành chính trực tiếp giải quyết các vấn đề có liên quan đến phát triển kinh tế trang trại. Trên cơ sở các định hướng phát triển đã được xác định, đất đai của huyện được chia thành các tiểu vùng kinh tế- sinh thái - xã hội. Từ đó bố trí sản xuất trên toàn bộ địa bàn của huyện và tính toán tốc độ phát triển của từng ngành. Các tiểu vùng dự định phát triển kinh tế trang trại cần được quy định rõ trong quy hoạch của huyện theo từng bước phát triển, từ đó đi sâu vào quy hoạch cụ thể và thiết kế các tiểu vùng kinh tế trang trại trên địa bàn huyện.
*Nhanh chóng xây dựng kết cấu hạ tầng cho các tiểu vùng kinh tế trang trại
Trước hết cần tiếp tục cải thiện hệ thống đường sá, giao thông đi lại cho thuận tiện. Nâng cấp những tuyến đường đã hư hỏng làm cản trở giao thông trong vùng.
Tìm nguồn nước, xây dựng các hồ chứa nước, hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất, hệ thống cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư trong vùng và phục vụ nhu cầu tưới tiêu , nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của trang trại.
1.2. Các chính sách về vốn
- Nhà nước nên có chính sách tín dụng ưu đãi cho các trang trại theo hai hướng: tăng vốn vay cao hơn cho kinh tế hộ, đồng thời tăng lượng vốn vay trung hạn và dài hạn để thuận lợi cho các trang trại kinh doanh cây lâu năm hoặc chăn nuôi gia súc lớn; không phân biệt vốn vay giữa các khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, đơn giản hoá thủ tục, giảm lãi suất... coi như đó là một phần gián tiếp nhà nước đầu tư cho nông nghiệp.
Ngày 22.9.2000 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết định số 423/2000/NĐ-NHNN về chính sách tín dụng ngân hàng đối với kinh tế trang trại. Theo đó quy định: thời gian cho vay phù hợp với thời gian sinh trưởng, thu hoạch, tiêu thụ sản phẩm của cây trồng, vật nuôi, thời gian khấu hao tài sản cố định, thời gian thuê và khả năng của chủ trang trại. Mức ngắn hạn là 12 tháng, trung hạn 12- 16 tháng và dài hạn theo dự án đầu tư là trên 60 tháng. Nếu vay từ 20 đến dưới 50 triệu thì không phải thế chấp tài sản, nhưng phải có phương án kinh doanh hiệu quả và phải nộp giấy chứng nhận quyền sử dụngđất, hoặc giấy xác nhận của UBND xã, phường là đất đang sử dụng không có tranh chấp.
- Đa dạng hoá các hình thức cho vay và huy động vốn. Các ngân hàng huy động vốn từ tiết kiệm, phát hành kì phiếu, trái phiếu...; vay vốn của các tổ chức tài chính quốc tế và cả vốn ODA, vốn vay thương mại; ngoài ra hàngnăm cũng nên dành một phần ngân sách để chuyển sang các tổ chức tín dụng cho vay theo chương trình, dự án.
- ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, đảm bảo một môi trường tài chính- tiền tệ lành mạnh, trong đó giữ vững ổn định tương đối giá trị đồng tiền Việt Nam để tạo điều kiện khuyến khích việc huy động vốn dài hạn phục vụ cho mục tiêu đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cần tiến tới việc xoá bỏ quy định về lãi suất trần để tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng, thúc đẩy dòng luân chuyển được nhanh hơn.
- Cần đổi mới mạnh mẽ phương thức cho vay, thu nợ phù hợp với đặc điểm của từng loại hình kinh tế trang trại. Đổi mới thủ tục cho vay, thu lãi sao cho đơn giản, thuận tiện hơn.
- Cần có cơ chế cho phép ngân hàng thương mại thực hiện cho vay theo dự án đầu tư trọn gói (bao gồm cả chiphí trả lãi ngân hang) đố với kinh tế trang trại.
1.3. Các biện pháp để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm
Đây là vấn đề sống còn không chỉ riêng với kinh tế trang trại mà còn đối với cả nền nông nghiệp nước ta. Cần tập trung vào các mặt sau đây:
- Về thông tin thị trường:
Việc người sản xuất nắm bắt thông tin thị trường là vô cùng quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá. Nhà nước cần làm tốt công tác thông tin kinh tế, đưa những thông tin này đến người sản xuất thông qua nhiều hệ thống kênh trong đó có thông qua hệ thống khuyến nông để tăng khả năng tiếp thị của người sản xuất, để chủ trang trại có điều kiện phân tích cung cầu trên thị trường. Chẳng hạn, hình thành các kênh thông tin để doanh nghiệp và các chủ trang trại tiếp cận thị trường như: tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân nước ngoài vào Việt Nam đặt hàng, thương nhân Việt Nam ra nước ngoài chào hàng; triển khai các hội chợ hàng nông sản, hội thảo hàng nông sản, không chỉ ở các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, Hải Phòng mà ở cả những địa phương khác nữa; mở rộng hợp tác trao đổi hàng hoá với các vùng khác trong cả nước.
Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố tổ chức tốt việc cung cấp thông tin, giá cả, khuyến cáo khoa học giúp trang trại định hướng kinh doanh phù hợp nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, đồng thời cũng phải chú ý đến cơ cấu sản xuất của các vùng kinh tế khác trong nước, khi họ có những điều kiện thuận lợi để sản xuất các mặt hàng nông sản tương tự và mang tính cạnh tranh cao. Các cơ quan xúc tiến thương mại của nhà nước cần làm tốt công tác dự báo thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước để giúp các trang trại có hướng sản xuất thích hợp.
- Về lưu thông hàng hoá
Đa dạng hoá các hình thức liên kết giữa thương nghiệp nhà nước với các thành phần kinh tế, giữa các viện nghiên cứu với các cơ sở sản xuất và các địa phương, gắn việc kí kết hợp đồng cung ứng vật tư với bao tiêu sản phẩm giữa người sản xuất và thương nhân, giữa vùng Đồng bằng Sông Hồng với các vùng khác, đặc biệt tận dụng lợi thế trong việc thông thương với các thị trường trong và ngoài nước, nhằm bảo đảm hiệu quả kinh tế. Hình thành và phát triển kinh tế hợp tác trên cơ sở tự nguyện và nguyên tắc các bên cùng có lợi giữa các trang trại và dân cư nông thôn gắn với thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá và nơi cung cấp các mặt hàng công nghiệp thực phẩm thiết yếu cho sản xuất và đời sống của nông dân và nông thôn. Khuyến khích phát triển hệ thống chợ nông thôn và các trung tâm giao dịch mua bán nông sản, vật tư nông nghiệp ở các thị trấn, thị tứ nhất là các địa bàn tập trung phát triển kinh tế trang trại, thúc đẩy trao đổi hàng hoá ngay trong địa phương.
Khắc phục tình trạng thả nổi thị trường nông thôn tạo điều kiện cho các chủ trang trại không chỉ xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình mà nếu có điều kiện còn có thể thu gom của các chủ trang trại khác, hay khuyến khích làm đại lý vật tư nông nghiệp.
Bên cạnh đó cần củng cố hệ thống các doanh nghiệp thương mại làm nhiệm vụ xuất khẩu cho các trang trại ở các vùng chuyên canh (chủ yếu là các nhà máy chế biến, các công ty xuất nhập khẩu). Qua hệ thống này có thể vừa không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các trang trại, vừa có thể kiểm soát các quan hệ kinh tế theo hướng bảo đảm lợi ích hợp lý cho cả phía trang trại lẫn doanh nghiệp thương mại phi nhà nước. Đồng thời phải thắt chặt sự kiểm soát đối với hàng hoá nông sản giá rẻ, chất lượng kém của nước ngoài xâm nhập vào thị trường trong nước thông qua con đường phi mậu dịch ở các vùng biên giới.
- Về xuất khẩu nông sản: một mặt nhà nước tiếp tục duy trì quan hệ với các thị trường truyền thống như Đông Âu, Trung Quốc, Cu ba... mặt khác tích cực tìm kiếm các thị trường mới. Đẩy mạnh việckhuyến khích các chủ trang trại có điều kiện về vốn, cơ sở vật chất kĩ thuật và có thị trường tham gia xuất khẩu trực tiếp những nông sản hàng hoá đã qua chế biến.
Khắc phục tình trạng quá nhiều đầu mối xuất khẩu không có tổ chức dẫn đến tranh chấp, ép giá, gây thiệt hại cho nông dân và lãng phí sản phẩm. Hoàn chỉnh chính sách tiêu thụ ổn định lâu dài và trực tiếp cho những mặt hàng nông sản quan trọng như gạo, thịt, rau quả cao cấp, nông đặc sản... Thoát dần tình trạng xuất khẩu nhỏ từng chuyến qua các khâu trung gian, khuyến khích các đơn vị trực tiếp giao dịch với đối tác nước ngoài, tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
1.4. Nâng cao trình độ ứng dụng khoa học công nghệ ở các trang trại
- Mảng này đặc biệt quan trọng vì phương châm phát triển kinh tế trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng là thâm dụng lao động và phát huy tối đa khả năng vận dụng những thành tựu khoa học công nghệ để thu được thu nhập cao tính trên một ha đất trang trại. Muốn vậy, Nhà nước cần đổi mới, hoàn thiện tổ chức hoạt động khoa học công nghệ từ nghiên cứu đến triển khai. Cần huy động các tiềm năng của các thành phần kinh tế tập trung đầu tư vào KH&CN nông nghiệp, coi đây là mặt trận hàng đầu. Lãnh đạo các tỉnh, thành phố cần phải phối hợp với cấp Trung ương để đào tạo đội ngũ các nhà khoa học, kĩ sư, lao động lành nghề.
-Ngoài chính sách chung về KH&CN nông nghiệp, cần có chính sách cụ thể hướng dẫn khuyến khích, hỗ trợ KH&CN đối với kinh tế trang trại là lực lượng, là loại hình tổ chức sản xuất có nhiều nhu cầu và khả năng nhất trong việc ứng dụng KH&CN nông nghiệp vào sản xuất. Đó chính là công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư:
Nâng cao, hướng dẫn cho các trang trại áp dụng các mô hình canh tác tổng hợp có hiệu quả, ứng dụng các biệnpháp kĩ thuật, quy trình kĩ thuật canh tác tiến bộ nhất là sử dụngcác loại giống mới, có năng suất và chất lượng cao vào sản xuất, khuyến khích hỗ trợ các trang trại có điều kiện về đất đai, vốn, cơ sở vật chất kĩ thuật tham gia sản xuất và cung ứng giống.
Tiếp tụcphát huy sức mạnh tổng hợp trong hoạtđộng khuyến nông của mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế và phương châm tất cả mọi hoạt động khuyến nông đều tác động đến người lao động, đem lại hiệu quả cao nhất.
Cần có chính sách mạnh mẽ để tập hợp được nhiều cán bộ khuyến nông, chuyên môn giỏi, nhiều cán bộ quản lý kĩ thuật, kinh tế và xã hội, những nông dân giỏi trong sản xuất và có kinh nghiệm làm giàu. Đảm bảo công tác khuyến nông đạt chất lượng cao nhưng phù hợp với ngân sách của địa phương. Trước mắt cần tuyển những cán bộ nông nghiệp có năng lực chuyên môn và giỏi thực hành biết làm công tác tuyên truyền và vận động quần chúng đưa về từng xã, trả lương ngân sách. Nhiệm vụ của số cán bộ này là tuyên truyền và phổ biến, hướng dẫn tập huấn các chủ trang trại và người lao động có đủ khả năng ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật về công nghệ sau thu hoạch, bảo quản sản phẩm, công nghệ chế biến nông, lâm, thuỷ sản theo quy mô vừa và nhỏ sử dụng các trang trại thiết bị cơ giới phù hợp trong khâu làm đất, vận chuyển, bơm nước... Bên cạnh ngân sách của nhà nước đầu tư cho khuyến nông, cần xây dựng các chính sách thu hút vốn của các ngành hàng, các cơ sở sản xuất kinh doanh nông sản, và nguồn tài trợ quốc tế tham gia công tác này. Hiện nay ngành nông nghiệp chỉ hoạt động khuyến nông chung cho cả nông dân giàu lẫn nghèo. Đã đến lúc cần tập trung công tác khuyến nông riêng đối với các hộ nông dân- trang trại sản xuất hàng hoá. Hình thành và mở rộng các câu lạc bộ khuyến nông cho các chủ trang trại theo các ngành sản xuất, đi vào những chuyên đề thiết thực. Mục tiêu của công tác là hướng dẫn các trang trại sử dụng các giống cây, con mới; áp dụng các tiến bộ kĩ thuật về bảo quản sản phẩm, nhất là bảo quản rau quả nhằm kéo dài thời gian tiêu thụ; áp dụng công nghệ chế biến nông, lâm, hải sản tiên tiến; phân loại và đóng gói sảnphẩm tiêu thụ; sử dụng máy móc phù hợp để làm đất, vận chuyển và bơm nước tưới tiêu...
- Chính sách khoa học công nghệ của nhà nước phải kết hợp những kinh nghiệm, tinh hoa cổ truyền với hiện đại hoá theo hướng cơ giới hoá, tin học hoá, thuỷ lợi hóa, đặc biệt là ứng dụngnhững thành tựu mới nhất của công nghệ sinh học trong nước và quốc tế.
-Nhà nước cũng nên quản lý và kiểm tra chặt chẽ chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông nghiệp, đặc biệt là giống nhập từ các nước, xử lý kịp thời những trường hợp buôn bán hàng giả, giống chất lượng xấu thậm chí có nguy cơ gây hại cho cả ngành sản xuất chung để hạn chế rủi ro cho các trang trại và cho toàn ngành nông nghiệp.
-Phát huy vai trò của các trung tâm, các Viện nghiên cứu khoa học kĩ thuật thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, của các địa phương. Các cơ quan này cần theo dõi sát sao nhu cầu của các trang trại, liên kết với các trang trại để xác định các mô hình chuyển giao kĩ thuật mới cho nông dân trong vùng. Đầu tư xây dựng các vườn ươm nhân giống cây trồng, vật nuôi trên địa bàn phát triển trang trại, thậm chí khuyến khích loại hình trang trại kinh doanh hình thức này để đảm bảo cung cấp đủ giống tốt tại chỗ cho các trang trại.
-Tổ chức đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học phục vụ nông nghiệp bằng nhiều hình thức đa dạng. Khuyến khích cá nhân, tập thể mở rộng trao đổi, hợp tác với nước ngoài, có chính sách đãi ngộ thoả đáng với những sáng tạo công nghệ và ứng dụng có hiệu quả vào sản xuất.
-Đối với công nghiệp chế biến, trên cơ sở quy hoạch các vùng nguyên liệu tập trung, sắp xếp lại hệthống các cơ sở chế biến công nghiệp, đồng thời phát triển công nghiệp chế biến với các trình độ sản xuất khác nhau để tăng lượng nông sản qua chế biến, phục vụ nhu cầu đa dạng không chỉ của trong vùng mà còn của các vùng khác. Đối với các loại nông sản xuất khẩu thì phải đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
1.5. Các giải pháp về lao động trang trại
-Số lượng lao động trong các trang trại ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Thị trừơng lao động đang hình thành và phát triển theo quy luật cung cầu nhưng lại nằm ngoài tầm kiểm soát của chính quyền các cấp. Vì vậy chính quyền và các cấp có chức năng cần có chủ trương thống nhất để quản lý việc thuê trang trại đảm bảo lợi ích của cả hai phía trang trại và người lao động theo đúng luậtlao động hiện hành.
- Đặc điểm của lao động trang trại là vừa là lao động trí tuệ, vừa là lao động cơ bắp, vừa là lao động quản lý lại vừa là lao động trực tiếp. Công tác khuyến nông cũng như công tác thông tin thị trường cần phải tạo được mối quan hệ gắn bó với các chủ trang trại, hỗ trợ họ có điều kiện nâng cao trình độ quản lý và trình độ khoa học kĩ thuật, trình độ chuyên môn thông qua các khoá huấn luyên, đào tạo nghiệp vụ được tổ chức thường xuyên ở ngay địa phương. Về lâu dài, giao cho các trường Đại học, Cao Đẳng, Trung học chuyên nghiệp tổ chức các khoá đào tạo nghiệp vụ cho các chủ trang trại. Chương trình đào tạo phải xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn sản xuất, dựa vào các mô hình trang trại sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao sẵn có ở mỗi vùng.
-Đối với lao đông trực tiếp của trang trại, đây là nhóm lao động nhìn chung không có trình độ chuyên môn và chưa quen với sản xuất hiện đại, cần phải được bổ sung hiểu biết về đối tượng sản xuất và khoa học công nghệ. Đối với nhóm lao động kĩ thuật, phải chú ý đào tạo trong tất cả các lĩnh vực: tạo giống, chăm sóc vật nuôi, cây trồng, các nghiệp vụ phòng và trị bệnh, kĩ năng vận dụng và sử dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, máy móc thiết bị nông nghiệp v.v... Các trường dạy nghề phối hợp với các tổ chức khuyến nông, các tổ chức quần chúng, các hội nghề nghiệp,... hỗ trợ các trang trại đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động. Hiện nay mới chỉ có hơn 12% lao động trang trại được bồi dưỡng tay nghề.
-Các địa phương hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật lao động ở các tra. Các chủ lao động được thuê lao động không hạn chế về số lượng nhưng phải thực hiện tốt việc trang trại bị dụng cụ theo từng loại nghề cho người lao động; có trách nhiệm với người lao động khi gặp rủi ro, tai nạn, ốm đau trong thời gian hợp đồng. Khuyến khích chủ trang trại ưu tiên thuê lao động của những hộ nông dân không đất, thiếu đất sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo thiếu việc làm, giúp những hộ này có thu nhập cải thiện cuộc sống. Đối với các địa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, các chủ trang trại đươc vayvốn thuộc các chương trình giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, tham gia các dự án phát triển nông, lâm, ngư nghiệp v.v... để mở rộng quy mô sản xuất, thu hút lao động nghèo trong vùng.
-Để tránh tình trạng bóc lột lao động làm thuê, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Lao động và chính quyền địa phương 11 tỉnh, thành phố nghiên cứu, ban hành các quy chế sử dụng lao động trong các trang trại, xây dựng quy chế hợp đồng lao động mang tính pháp lý giữa chủ trang trại và người làm thuê để bảo vệ quyền lợi cho cả hai bên.
1.6. Giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng
- Trước hết cần hoàn thiện và nâng cấp hệ thống đường giao thông trong vùng, nhất là đường giao thông nông thôn. Hệ thống đường bộ quốc gia đã có thể đảm bảo lưu thông hàng hóa, vật tư và nông sản trong phạm vi toàn vùng. Vấn đề là nâng cấp chất lượng đường giao thông liên huyện, liên xã phù hợp với yêu cầu phát triển của nông nghiệp hàng hoá và kinh tế nông thôn cũng như kinh tế trang trại. Giải pháp nâng cấp đường giao thông hiện nay phải coi trọng chất lượng hơn số lượng.Tiếp tục xây dựng và nâng cấp các tuyến đường giao thông như quốc lộ 1,5,10,18; nâng cấp và mở rộng cảng Hải Phòng, Cái lân, cầu Bãi Cháy…
-Hoàn thiện hệ thống điện nông thôn. Hiện nay điện nông thôn ở vùng Đồng bằng Sông Hồng đã về 100% số xã nên giải pháp hoàn thiện hệ thống điện là ổn định nguồn điện bằng các biện pháp kĩ thuật và quản lý. Nên chăng giảm giá điện sản xuất cho các trang trại nhỏ. Giảm giá bán điện cho nông nghiệp nói chung.
-Nâng cấp các công trình thuỷ lợi trong vùng đặc biệt là hệ thống đê sông Hồng. Hệ thống thuỷ lợi hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu thâm canh cao hơn và đối phó với những biến động thất thường của thời tiết. Yêu cầu tưới tiêu chủ động, tiến tới tưới tiêu theo yêu cầu của sinh trưởng và phát triển của cây trồng đang đặt ra hàng loạt vấn đề kinh tế và kĩ thuật đối với các công trình thuỷ lợi trong vùng, do đó cần phải nâng cấp các công trình hiện có để tăng công suất tưới tiêu và cải tiến phương pháp tưới tiêu. Sắp tới vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhấn mạnh vào việc kiên cố hoá kênh mương, gắn kết việc xây dựng kênh mương với hệ thống giao thông nội đồng.
-Đầu tư nâng cấp hệ thống trạm nghiên cứu khoa học, chuyển giaovà ứng dụng kĩ thuật mới trong nông nghiệp: hệ thống các trạm kĩ thuật cần được ưu tiên đầu tư vốn, khoa học công nghệ.
-Tổ chức các hệ thống dịch vụ, sản xuất, kinh doanh đồng bộ liên hoàn từ các khâu đầu vào cho đến các khâu đầu ra của sản xuất. Hình thành hệ thông cung ứng vật tư, kĩ thuật, dịch vụ tư vấn, thông tin...
1.7. Nâng cao vai trò quản lý của nhà nước và sự hỗ trợ của các cơ quan có liên quan
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các tỉnh, thành phố thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại, chỉ đạo xây dựng quy hoạch, kế hoạch, phối hợp các biện pháp hỗ trợ kinh tế trang trại phát triển.
Nhanh chóng ổn định việc quy hoạch phát triển các vùng cây trồng, vật nuôi với khối lượng và chất lượng nông sản hàng hoá lớn. Tại những vùng này, nhà nước cùng các chủ trang trại đầu tư các hệ thống bảo vệ thực vật, thu mua và chế biến, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm cuối cùng, đồng thời có chiến lược dự trữ các mặt hàng nông sản chủ yếu để sẵn sàng can thiệp và điều tiết giá cả thị trường khi cần thiết.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Tổng cục Thống kê và các cơ quan có liên quan hướng dẫn tiêu chí về xác định trang trại để phân biệt với các loại hình tổ chức sản xuất khác.Tiêu chí cơ bản là giá trị sản xuất hàng hoá. Các tiêu chí phụ khác được sử dụng để phản ánh quy mô, trình độ, hiệu quả sản xuất hàng hoá của trang trại phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, gồm: quy mô diện tích đất đai, diện tích cây trồng chính, số đầu com gia súc, tỷ trọng hàng hóa, tỉ suất lợi nhuận, số lượng nhân công làm thuê... Việc xác định trang trại để cấp giấy chứngnhận trang trại là điều kiện để các trang trại nhận được sự ưu đãi về vốn và tiêu thụ sản phẩm của nhà nước.
Các địa phương tăng cường công tác chỉ đạo, kiển tra, đảm bảo các chủ trang trại thực hiện đầy đủ quy trình kĩ thuật canh tác và làm giàu đất, bảo vệ môi trường. Thống kê trang trại hàng năm.
Tổ chức tổng kết đúc rút kinh nghiệm các mô hình trang trại tiên tiến, để tuyên truyền phổ biến, tham quan học tập lẫn nhau. Khen thưởng kịp thời các trang trại sản xuất kinh doanh giỏi, tạo được nhiều việc làm, hỗ trợ nhiều hộ nghèo đói khó khăn vươn lên sản xuất, ổn định cuộc sống.
Trong bối cảnh nước ta đã tham gia vào ASEAN, APEC và đang chuẩn bịgia nhập AFTA, WTO thì sự cạnhtranh trên thị trường lại càng khốc liệt. Theo đó vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong nông thôn và các chủ trang trại là hết sức quan trọng, doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại phải định hướng cho các chủ trang trại bảo đảm lợi ích lâu dài và ổn định.
2. Đối với bản thân các chủ trang trại
-Về công tác thị trường, các chủ trang trại nói riêng, người sản xuất nông sản nói chung phải chủ động tìm kiếm thông tin chỉ dẫn cẫn sản xuất cái gì, số lượng baonhiêu, các cơ quan của nhà nước chỉ có thể cung cấp một hệ thống các kênhthông tin đa chiều chứ không thể canthiệp trực tiếp vào định hướng kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của trang trại được.
-Nâng cao trình độ nhận thức, trình độ quản lý và chuyên môn nghiệp vụ để có thể kinh doanh hiệu quả. Nhanh chóng tham gia các khoá đào tạo về các lĩnh vực:
+Kĩ thuật trồng trọt và chăn nuôi các loại cây con dự định phát triển
+Công nghệ lập quy hoạch cụ thể sửdụng đất đai của trang trại
+Các vấn đề kinh tế và quản lý trang trại
+Các vấn đề giữ đất, chống xói mòn, bảo vệ môi trường.
- Chủ động đưa tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất.
- Về cơ cấu sản xuất của trang trại: chú ý phát triển các loại nông sản thích hợp với điều kiện tự nhiên của vùng và có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là các loại có khả năng xuất khẩu, các loại nông sản đặc sản...
- Có thể kết hợp nhiều hình thức: trồng trọt với chăn nuôi, chăn nuôi với nuôi trồng thuỷ sản... để trước mắt khai thác hết các thế mạnh của mình trong điều kiện chưa thể chuyên môn hoá sản xuất theo vùng lớn.
- Nếu những điều kiện về cơ sở hạ tầng nông thôn của địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất thì phải chủ động xây dựng hệ thống riêng trong điều kiện cho phép.
Kết luận và kiến nghị
Trong bối cảnh nền nông nghiệp nước ta đang đòi hỏi gay gắt phải có sự chuyển biến mạnh mẽ cho thích hợp với lối sản xuất hàng hoá và đem lại thu nhập cao cho người nông dân, kinh tế trang trại kịp xuất hiện như một tất yếu khách quan, và nhanh chóng chứng tỏ là một trong những loại hình tổ chức sản xuất quan trọng, có vai trò và vị trí tiên phong trong tiến trình thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Kinh tế trang trại là một bộ phận của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá được vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên nó cũng được hưởng tất cả các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp, đồng thời kinh tế trang trại cũng phải làm tất cả các nghĩa vụ mà các thành phần kinh tế khác trong nông nghiệp phải làm. Ngoài ra, kinh tế trang trại mang nhiều yếu tố sản xuất hàng hoá lớn, nó sẽ phải gánh vác vai trò lịch sử là thực hiện sự phân công sâu hơn và hợp tác rộng hơn, cùng với các thành phần, lĩnh vực kinh tế khác trong phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, chế biến thực phẩm, mở mang ngành nghề dịch vụ ở nông thôn theo một cơ cấu hợp lý, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
So với các vùng sinh thái khác trong cả nước, vùng Đồng bằng Sông Hồng dường như ít có điều kiện phát triển kinh tế trang trại. Song thực tế những năm qua đã cho thấy kinh tế trang trại thực sự là đầu tàu trong việc đổi mới nền nông nghiệp của vùng, là cách tôt nhất để phát triển nền nông nghiệp hàng hoá và trong tương lai nó còn có nhiều triển vọng, hứa hẹn đem lại một khối lượng lớn giá trị hàng hoá, nâng trình độ sản xuất nông nghiệp của vùng lên một bước mới.
Với hệ thống các biện pháp đã đưa ra, để kinh tế trang trại phát triển đúng với tiềm năng, đem lại nguồn thu lớn cho sản xuất nông nghiệp, xin có một số kiến nghị như sau:
-Sau khi có quy hoạch đất, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội và quy hoạch các vùng chuyên canh của vùng Đồng bằng Sông Hồng, các Sở Nông nghiệp nên dựa vào đó và căn cứ những thế mạnh của địa phương để hướng dẫn các hộ gia đình có điều kiện kinh doanh trang trại, lựa chọn một cơ cấu sản xuất thích hợp.
- Sở Nông nghiệp nông thôn các tỉnh, thành phố nên thống kê trang trại hàng năm (về số lượng, về mức độ tăng trưởng giá trị sản xuất, tăng trưởng thu nhập, đời sống của trang trại…) cũng như các vướng mắc, khó khăn của chủ trang trại trong quá trình tiến hành sản xuất kinh doanh, để tiện cho việc nghiên cứu, đánh giá, kịp thời có những điều chỉnh thích hợp,đẩy nhanh sự phát triển của kinh tế trang trại.
-Không chỉ khuyến khích các trang trại đưa tiến bộ khoa họckĩ thuật vào sản xuất, mà với các hội gia đình sản xuất nhỏ cũng nên có biện pháp hỗ trợ tương tự để họ mở rộng dần quy mô, bước đầu tạo tiền đề đi lên làm kinh tế trang trại.
-Cho đến nay các trang trại vẫn hoạt động độc lập, thiếu sự phối kết hợp với nhau và với các chủ thể kinh tế khác của nền kinh tế. Có lẽ nên nghiên cứu xem xét việc thành lập Hiệp hội các trang trại của vùng hoặc của cả nước để các trang trại có điều kiện thuận lợi hơn trong việc cha sẻ kinh nghiệm, hợp tác sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, đồng thời cũng tốt cho chủ trương hình thành các vùng chuyên canh lớn của Nhà nước nhờ sự thoả thuận phân công giữa các trang trại trong hiệp hội với nhau.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Báo cáo tóm tắt: Tình hình kinh tế trang trại nước ta những năm vừa qua và tổ chức triển khai nghị quyết của Chính phủ về Kinh tế trang trại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2000.
2.Báo cáo chuyên đề: Chính sách phát triển trang trại và tác động của nó đến việc làm và thu nhập của lao động nông thôn, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, 2002.
3.Báo cáo: Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu nông – lâm nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, 2003.
4.Báo cáo: Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai cả nước đến năm 2010, Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2003.
5.Hoàn thiện một số chính sách phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010, Nguyễn Thị Vân Anh, Luận văn tốt nghiệp.
6.Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và Châu á, Nguyễn Điền, Trần Đức, Trần Huy Năng, NXB Thống kê, 1993.
7.Phát triển và quản lý trang trại trong nền kinh tế thị trường.
8.Trang trại gia đình ở Việt Nam và trên thế giới, Trần Đức, NXB Chính trị quốc gia, 1995.
9.Thanh niên làm kinh tế trang trại, GS.Đường Hồng Dật, TS.Phan Thị Nguyệt Minh, NXB Thanh niên, 2001.
10.Niên giám Thống kê.
11.Thống kê các ngành sản xuất năm 2001, NXB Thống kê.
12.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam.
13.Nghị quyết số 03/2000/NQ – CP ngày 02/2/2000 của Chính phủ về Kinh tế trang trại.
14.Nghị quyết số 09/2000/NQ- CP ngày 15/6/2000 của Chính phủ về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
15.Thông tư Liên tịch số 69/2000/TTLB/BNN – TCTK ngày 23/6/2000 hướng dẫn tiêu chí xác định kinh tế trang trại.
16.Thông tư số 82/2000/TT – BTC ngày 14/8/2000 hướng dẫn thi hành chính sách tài chính nhằm phát triển kinh tế trang trại.
17.Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 59/1999.
18.Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, các số 258/99, 265/2000, 248/1999.
19.Tạp chí Con số&Sựkiện các số 7/2001, 7/2000.
20.Tạp chí Thông tin- Giá cả số 6/2001.
21.Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 3/2001.
22.Tạp chí Kinh tế và Phát triển các số 30/1999, 49/2001, 30/1999, 35/2000.
23.Tạp chí Cộng sản các số 17/1999, 10/1999.
24.Tạp chí Phát triển Kinh tế các số 131/2000, 102/1999.
25.Tạp chí Công nghiệp Việt Nam các số 5/2001, 6/2001.
26.Tạp chí Thương mại, số 9/2001.
27.Tạp chí lý luận chính trị, số 1/2001.
28.Tạp chí Ngân hàng, số 8/1999.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0009.doc