MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Rủi ro luôn luôn thường trực trong cuộc sống của con người. Để phòng ngừa và hạn chế những tác hại của những rủi ro đó đem lại đối với con người, bảo hiểm phi nhân thọ đã ra đời.
Mục đích của bảo hiểm phi nhân thọ là sự đảm bảo cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp an tâm về tài chính và tinh thần khi không may gặp rủi ro.
Sự ra đời của bảo hiểm phi nhân thọ đã đáp ứng nhu cầu và sự đòi hỏi cấp thiết của nhiều đối tượng tham gia, cũng như nhiều đối tượng bảo hiểm, đồng thờ
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở chi nhánh Bảo Việt Thanh Xuân của Bảo Việt Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i có tác dụng lớn trong việc phát triển thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng.
Từ thực tế nêu trên, để hiểu rõ hơn về quá trình phát triển của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ em chọn đề tài : “Thực trạng phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở chi nhánh Bảo Việt Thanh Xuân của Bảo Việt Hà Nội” để nghiên cứu. Nghiên cứu đề tài này cho chúng ta thấy được một cách tổng quan về thị trường bảo hiểm thay đổi qua các năm. Đó là: khả năng cung cấp và đổi mới sản phẩm bảo hiểm của các doanh nghiệp và cầu về loại hình bảo hiểm nào được lựa chọn nhiều, từ đó hiểu rõ hơn về tác động của cung cầu trong việc đưa ra giá sản phẩm bảo hiểm và tác động đến doanh thu và thị phần của doanh nghiệp; chính sự tác động đó sẽ dẫn tới việc lựa chọn cạnh tranh hay liên kết giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với nhau. Ngoài ra, nghiêm cứu thị trường bảo hiểm cũng giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm xác định trường mục tiêu của mình để đề ra những chiến lược kinh doanh, chiến lược marketting, chiến lược giá cả, chiến lược phân phối..., bên cạnh đó trong quá trình nghiên cứu thị trường doanh nghiệp có thể phát hiện ra những khúc thị trường chưa được khai thác và có khả năng sinh lời cao để khai thác tạo doanh thu và mở rộng thị trường của mình. Do vậy, nghiên cứu về thị trường bảo hiểm là rất cần thiết.
Kết cấu để tài được chia làm bốn chương, ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm phi nhân thọ và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
Chương 2: Thực trạng thị trường bảo hiểm phi nhân thọ và kết quả hoạt động của chi nhánh Bảo Việt Thanh Xuân Bảo Việt Hà Nội
Chương 3:Phương hướng hoạt động của chi nhánh Thanh Xuân Bảo Việt Hà Nội trong năm 2008
Chương 4: Một số giải pháp phát triển bảo hiểm phi nhân thọ
Phạm vi nghiên cứu là ở văn phòng bảo hiểm Thanh Xuân của Bảo Việt Hà Nộ trong thị trường bảo hiểm Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu em sử dụng là tổng hợp, so sánh, phân tích các số liệu thu thập được để đưa ra ý kiến cá nhân.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Hà Văn Sỹ đã nhiệt tình giúp đỡ để em có thể hoàn thành bản chuyên đề. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các anh chị phòng Bảo Việt Thanh Xuân của Bảo Việt Hà Nội đã tạo điều kiện để em hoàn thành nhiệm vụ.
Trong quá trình thực hiện khóa luận do trình độ còn nhiều hạn chế nên không khỏi có những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý từ thầy cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ và THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1.1 Khái quát chung về bảo hiểm phi nhân thọ
1.1.1 Khái niệm và đặc trưng của bảo hiểm phi nhân thọ
1.1.1.1 Khái niệm
a. Bảo hiểm là gì?
Chúng ta đã từng nghe nói nhiều về bảo hiểm, nhưng không phải ai hiểu đúng ý nghĩa hoạt động đó. Nội dung của phần này sẽ giải thích thế nào là bảo hiểm.
“ Bảo hiểm là một sự thỏa thuận hợp pháp thông qua đó một cá nhân hay tổ chức ( Người tham gia bảo hiểm) chấp nhận đóng góp một khoản tiền nhất định ( Phí bảo hiểm) cho tổ chức khác (Người bảo hiểm) để đổi lấy những cam kết về những khoản bồi thường hoặc chi trả khi có sự kiện quy định trong hợp đồng xảy ra.”
- Thỏa thuận hợp pháp về chủ thể tham gia ký kết hợp đồng và hợp pháp về các nội dung ký kết trong hợp đồng. Ví dụ các điều kiện bảo hiểm, mức phí phù hợp với quy định của pháp luật. Các bên tham gia ký kết hợp đồng phải có đầy đủ tư cách pháp lý.
- Người tham gia bảo hiểm và người bảo hiểm đại diện cho cả cá nhân hoặc tổ chức ( hội, nhóm, công ty…có đăng ký chính thức). Ở Việt Nam, chỉ có các công ty có đăng ký và được cấp phép thì mới được kinh doanh bảo hiểm. Bởi vậy, người bảo hiểm ở đây chỉ bao gồm các công ty bảo hiểm.
b. Bảo hiểm phi nhân thọ:
Bảo hiểm phi nhân thọ là một trong hai loại hình bảo hiểm thương mại. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm qua đó công ty bảo hiểm cam kết sẽ trả một số tiền thỏa thuận khi có sự kiện quy định xảy ra liên quan đến sinh mạng và sức khỏe của con người. Thì “ Bảo hiểm phi nhân thọ là các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại khác không phải là bảo hiểm nhân thọ, là loại hình bảo hiểm qua đó công ty bảo hiểm cam kết sẽ chi trả bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra liên quan đến tổn thất về vật chất và tai nạn con người, trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm”
1.1.1.2 Đặc trưng của bảo hiểm phi nhân thọ.
a. Đặc điểm chung:
Bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng và bảo hiểm nói chung có đặc trưng là ngành dịch vụ đặc biệt.
Nó đặc biệt bởi:
- Sản phẩm của bảo hiểm là sản phẩm vô hình: thế nào là sản phẩm vô hình?
Sản phẩm bảo hiểm, về bản chất là một dịch vụ, một lời hứa, một lời cam kết mà công ty bảo hiểm đưa ra với khách hàng. Khách hàng đóng phí để đổi lấy những cam kết bồi thường hoặc chi trả trong tương lai.
Khác với sản phẩm vật chất mà người mua có thể cảm nhận được qua cac giác quan, người mua sản phẩm bảo hiểm không thể chỉ ra mầu sắc, hình dáng, kích thước hay mùi vị của sản phẩm. Họ cũng không thể cảm nhận được bằng các giác quan như cầm nắm, sờ mó, ngủi hoặc nếm thử…
Để khắc phục những khó khăn đó, cũng là để củng cố lòng tin của khách hàng, các doanh nghiệp bảohiểm tìm cách tăngtính hữu hình của sản phẩm: chú ý những lợi ích có liên quan đến dịch vụ: sử dụng những người nổi tiếng, có uy tín tuyên truyền dịch vụ; phát triển hệ thống đại lý chuyên nghiệp; xây dựng uy tín của công ty bảo hiểm; tăng cường vai trò quan trọng của hoạt động marketing. Như vậy, lòng tin và chất lượng dịch vụ khách hàng chính là chìa khóa để bán sản phẩm bảo hiểm
- Bảo hiểm có chu trình kinh doanh ngược:
Khác với chu trình sản xuất hàng hóa thông thường, khi giá cả được quyết định sau khi đã biết được chi phí sản xuất ra hàng hóa đó. Như vậy, các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa hữu hình phải bỏ vốn ra trước, mua các máy móc, nguyên vật liêu, thuê nhân công thì mới sản xuất ra sản phẩm và thực hiện quy trình đưa sản phẩm đến người tiêu dùng, khi sản phẩm đó bán được doanh nghiệp mới thu tiền về, trong khoản tiền này bao gồm cả vốn doanh nghiệp bỏ ra và lãi doanh nghiệp nhận được. Còn doanh nghiệp bảo hiểm không phải bỏ vốn trước, họ nhận phí bảohiểm trước của người tham gia bảo hiểm đóng góp và thực hiện nghĩa vụ sau với bên được bảo hiểm khi xảy ra sự cố bảo hiểm. Do vậy, không thể tính được chính xác hiệu quả của một sản phẩm bảohiểm vào thời điểm bán sản phẩm.
Thông thường, hợp đồng bảo hiểm được coi là có hiệu lực ngay sau khi có sự chấp nhận của Người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo hợp đồng. Phí bảo hiểm mà khách hàng đóng khi ký hợp đồng chính là giá bán một hợp đồng bảo hiểm.
Ví dụ, công ty bảo hiểm B bán bảo hiểm tai nạn con người. Người tham gia bảo hiểm đóng phí để mua dịch vụ bảo hiểm vào ngày đầu năm. Công ty bảohiểm B có ngay doanh thu từ đầu năm. Các hợp đồng bảo hiểm này sẽ kết thức vào ngày cuối năm, khi đó trách nhiệm của các công ty bảo hiểm B trước các tổn thất – theo như thỏa thuận trong hợp đồng – sẽ chấm dứt. Đến ngày cuối năm, công ty bảo hiểm B mới có thể tính được chi phí triển khai dịch vụ bảo hiểm này. Tương tự như vậy là chi phí hoạt động của công ty. Chu trình kinh doanh của bảo hiểm có đặc điểm là công ty bảo hiểm định giá bán dịch vụ của mình trước khi tính toán được chi phí mình bỏ ra.
Đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đưa loại sản phẩm nào ra thị trường. Nếu một sản phẩm đưa ra được đông đảo người mua chấp nhận, công ty bảo hiểm sẽ thu về một khoản tổng phí bảo hiểm rất lớn. Khi rủi ro xảy ra cho một số khách hàng nào đó, công ty bảo hiểm có đủ khả năng chi trả mà không bị bội chi. Ngược lại, nếu chỉ có một số ít khách hàng chấp nhận, tổng phí thu được nhỏ bé. Công ty bảo hiểm sẽ dễ rơi vào tình trạng thu không đủ chi nếu như nhóm khách hàng đó có tỷ lệ rủi ro quá cao trong khoảng thời gian các hợp đồng bảo hiểm còn có hiệu lực.
Mặt khác, chu trình kinh doanh ngược còn có tác dụng chi phối trách nhiệm đề phòng hạn chế tổn thất của người được bảo hiểm khi họ đã được một hợp đồng bảo hiểm bảo vệ. Bởi lẽ nếu tổn thất xảy ra ít, giá bán của các hợp đồng bảo hiểm năm sau đó sẽ được giảm đi ( hay nói cách khác, khách hàng sẽ được giảm phí), ngược lại, nếu tỷ lệ tổn thất lớn, khách hàng sẽ phải trả phí cao hơn vào những năm sau.
- Tâm lý người mua hàng không mưốn tiêu dùng dịch vụ này:
Người mua bảo hiểm không mong muốn có sự kiện rủi ro xảy ra để được nhận quyền lợi bảo hiểm dù rằng quyền lợi đó có thể nhiều hơn gấp bội lần so với số phí phải đóng.
Quá trình mua sản phẩm bảo hiểm chịu sự chi phối của các yếu tố tâm lý. Do chi phối bởi những tập tục, quan niệm có thể mang nặng yếu tố tâm linh, nên nói chung người mua không muốn nói đến rủi ro, không muốn thấy cụ thể những hậu quả của rủi ro có thể được bảo hiểm, điểm hình nhất trong bảo hiểm tử vong hay thương tật.
Nhưng ngược lại, người mua coi việc mua một sản phẩm bảo hiểm như một chiếc bùa hộ mệnh, giúp họ yên tâm hơn về mặt tinh thần đồng thời có sự đảm bảo về mặt vật chất khi điều không may xảy ra. Người bán cũng dễ bị ý nghĩ chiều lòng, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng mà thiếu sự cân nhắc cần thiết cho việc lực chọn và đánh giá những rủi ro có thế đảm nhận.
Trong khi tiến hành giao dịch chào bán dịch vụ, cán bộ bảo hiểm phải chú ý tới đặc điểm này để thuyết phục khách hàng khi họ nói không quan tâm đến rủi ro và không mong muốn rủi ro xảy ra đối với họ. Bởi lẽ, tất cả đều không mong muốn những tai nạn, tổn thất xảy ra. Mặt khác, bảo hiểm là tấm lá chắn cho những điều không mong muốn này. Thông qua thực tế tình hình thiên tai, tai nạn, cũng như giải quyết bồi thường tổn thất tại địa phương, để minh chứng về lợi ích của bảo hiểm và sự cần thiết tham gia bảo hiểm.
b. Đặc điểm riêng:
Ngoài những đặc điểm chung của bảo hiểm đã đề cập ở trên, bảo hiểm phi nhân thọ còn có những đặc điểm riêng cơ bản sau:
- Thứ nhất: Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ là một hợp đồng có thời hạn bảohiểm thường là một năm hoặc ngắn hơn ( như bảo hiểm cho một chuyến hoạt động từ A đến B hoặc một chuyến du lịch ngắn ngày…)
- Thứ hai: Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ chỉ bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm khi có rủi ro được bảo hiểm xảy ra trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực
- Thứ ba: Phí bảo hiểm phi nhân thọ được tính cho thời hạn bảo hiểm, thông thường phí tính cho từng năm bảo hiểm hoặc từng chuyến. Phí bảo hiểm cho những năm tiếp theo sẽ có sự thay đổi. Phí bảo hiểm phi nhân thọ còn phụ thuộc mức độ rủi ro. Ví dụ với điều khoản bảo hiểm nếu Người tham gia bảo hiểm giới hạn phạm vi bảo hiểm một vài rủi ro không tham gia thì phí bảo hiểm được xem xét giảm đi, ngược lại nếu mở rộng bảo hiểm thêm một số rủi ro phụ khác thì phí bảo hiểm sẽ tăng lên. Hoặc cùng một thời gian đi du lịch là 2 ngày nhưng nếu tới khu du lịch có mức độ rủi ro lớn hơn, như vùng núi rừng nguy hiểm thì phí bảo hiểm cao hơn.
- Thứ tư: Trừ các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ, còn các nghiệp vụ khác như tài sản, trách nhiệm dân sự giữa Người bảo hiểm, Người được bảo hiểm và Người thứ ba có liên quan tới rủi ro bảo hiểm đều có mối quan hệ về quyền lợi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
1.1.2.Các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ:
1.1.2.1 Bảo hiểm tài sản:
Bảo hiểm tài sản là thể loại bao gồm những nghiệp vụ có đối tượng là tài sản có thể tính được giá trị bằng tiền.
Có nhiều loại tài sản: những tài sản hữu hình, tồn tại dưới hình thể vật chất ( như nhà cửa, phương tiện vận chuyển, hàng hóa…) và tài sản vô hình ( như phát minh, sáng chế, bản quyền, giọng hát…)
Bảo hiểm thiệt hại do hậu quả tài sản được bảo hiểm bị tổn thất. Thực tế, khi tài sản bảo hiểm bị tổn thất thì hậu quả để lại không chỉ thiệt hại đối với chính tài sản đó mà còn làm ngưng trệ, dẫn tới thiệt hại kinh doanh sản xuất và thiệt hại tài chính do phải giải quyết hậu quả tổn thất.
* Các nghiệp vụ của loại hình bảo hiểm tài sản:
Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
Bảo hiểm thân tàu thủy
Bảo hiểm xây dựng lắp đặt
Bảo hiểm hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí
Bảo hiểm cháy
Bảo hiểm tiền gửi tiền cất trữ trong kho và trong quá trình vận chuyển
Bảo hiểm vật chất các phương tiện
Bảo hiểm trong nông nghiệp
1.1.2.2 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự:
“ Trách nhiệm dân sự” là gì? Trong Bộ Luật dân sự nước ta không có định nghĩa. Song với nghĩa rộng có thể hiểu, trách nhiệm dân sự là trách nhiệm phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự.
* Nghĩa vụ trách nhiệm dân sự thường có 2 loại:
- Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng: Đây là trách nhiệm nghĩa vụ mà các bên đã cam kết thỏa thuận trong một hợp đồng.
Ví dụ: Hợp đồng vận chuyển hàng hóa từ cảng A đến cảng B. Hợp đồng vận chuyển hành khách ( vé là hợp đồng ). Hợp đồng thuê thuyền viên làm việc trên tàu.
- Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng: Đây là trách nhiệm phát sinh do pháp luật quy định mà người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Ví dụ: lái xe ô tô đâm vào nhà dân, đâm phải người đang đi trên hè phố. Do đóng cọc móng nhà làm rung nứt đổ nhà bên cạnh.
* Trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý, do đó nó mang đặc tính chung của trách nhiệm pháp lý.
+ Thứ nhất, được coi là biện pháp cưỡng chế bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ trách nhiệm đã thỏa thuận ( trong hợp đồng).
+ Thứ hai, có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm theo quy định của luật pháp vì đã có những hành vi vi phạm pháp luật.
Thông thường thực hiện nghĩa vụ trách nhiệm này bằng 2 hình thức tự nguyện tham gia thương lượng thỏa thuận và hình thức cưỡng chế của luật pháp tòa án.
* Các nghiệp vụ của bảo hiểm trách nhiệm:
- Bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
- Bảo hiểm trách nhiệm pháp lý của người vận chuyển trong ngành hàng không dân dụng
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ doanh nghiệp
- Bảo hiểm trách nhiệm công cộng và trách nhiệm sản phẩm
....
1.1.2.3 Bảo hiểm con người phi nhân thọ:
* Đặc điểm chủ yếu:
Mặc dù cùng là loại hình bảo hiểm con người, nhưng bảo hiểm con người phi nhân thọ trong bảo hiểm thương mại có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Hậu quả của những rủi ro mang tính chất thiệt hại vì rủi ro bảo hiểm ở đây là tai nạn, bệnh tật, ốm đau thai sản liên quan đến thân thể và sức khỏe của con người. Những rủi ro ở đây khác với 2 sự kiện “ sống”, “chết” trong bảo hiểm nhân thọ và vì thế tính chất rủi ro được bộc lộ khá rõ còn tính chất tiết kiệm không được thể hiện.
Người được bảo hiểm thường được quy định trong một khoảng tuổi nào đó, các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những người có độ tuổi quá thấp hoặc quá cao. Bởi vì ở độ tuổi quá thấp hoặc quá cao tình trạng rủi ro diễn biến phức tạp, xác suất rủi ro cao, việc kiểm soát và quản lý rủi ro rất khó thực hiện. Chẳng hạn ở nước ta, các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những em bé dưới 12 tháng tuổi và những người trên 65 tuổi. Nhưng ở nước Anh lại quy định khác, những đứa trẻ dưới 3 tuổi và những người trên 65 tuổi không được các công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm.
So với bảo hiểm nhân thọ, thời hạn bảo hiểm con người phi nhân thọ ngắn hơn và thường là 1 năm như: bảo hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật…Thậm chí có nghiệp vụ bảo hiểm thời hạn chỉ trong vài ngày, vài giờ đồng hồ như: bảo hiểm tai nạn hành khách. Do đó, phí bảo hiểm thường nộp một lần khi ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ thường được triển khai kết hợp với các nghiệp vụ bảo hiểm khác trong cùng một hợp đồng bảo hiểm. Chẳng hạn: bảo hiểm tai nạn được lồng ghép trong bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp…Việc triển khai kết hợp này làm cho chi phí khai thác, chi phí quản lý…của công ty bảo hiểm giảm đi từ đó có điều kiện giảm phí bảo hiểm.
Ở hầu hết các nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu của sự phát triển ngành bảo hiểm, bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai sớm hơn bảo hiểm nhân thọ, họ vừa triển khai vừa rút kinh nghiệm, đến khi điều kiện kinh tế đã chín muồi mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân thọ. Chính vì vậy, bảo hiểm con người phi nhân thọ được coi là loại hình bảo hiểm bổ sung hữu hiệu nhất cho các loại hình bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Ở Việt Nam, hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ đều ra đời trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, mãi đến năm 1996 mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân thọ.
* Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ
Bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai rất đa dạng và linh hoạt tùy theo tình hình cụ thể ở từng nước và ngay trong phạm vi một nước, cũng có sự khác nhau giữa các thời kỳ, giữa các công ty bảo hiểm về một số nội dung cơ bản như: phạm vi bảo hiểm, phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm, thủ tục trả tiền bảo hiểm… Điều này cũng thật dễ hiểu vì bảo hiểm thương mại là hoạt động mang tính kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên trong quá trình ký kết hợp đồng hoặc triển khai một sản phẩm mới đều phải tuân thủ khung pháp lý của mỗi nước.
Bảo hiểm tai nạn con người 24/24
Bảo hiểm tai nạn hành khách
Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật
Bảo hiểm học sinh
1.2 Thị trường bảo hiểm và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.1 Thị trường bảo hiểm
1.2.1.1 Khái niệm
Thị trường bảo hiểm là nơi mua bán các sản phẩm bảo hiểm. Sản phẩm bảo hiểm là loại sản phẩm dịch vụ đặc biệt; là loại sản phẩm vô hình không thể cảm nhận được hình dáng, kích thước, màu sắc...sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không được bảo hộ bản quyền; là sản phẩm mà người mua không mong đợi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với mình để được bồi thường hay trả tiền bảo hiểm ( trừ bảo hiểm hưu trí và bảo hiểm nhân thọ)...
Tham gia vào thị trường bảo hỉem có người mua, tức là khách hàng; người bán và các tổ chức trung gian. Người mua- khách hàng là những cá nhân hay tổ chức có tài sản, trách nhiệm dân sự trước pháp luật, tính mạng hoặc thân thể có thể gặp rủi ro cần bảo hiểm thi mua các dịch vụ (sản phẩm) bảo hiểm hoặc trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức trung gian bảo hiểm. Khách hàng bao gồm khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng củâ một loại sản phẩm. Khách hàng hiện tại là khách hàng đang tham gia vào quá trình mua và sử dụng sản phẩm đó. Khách hàng tiềm năng là khách hàng có thể tham gia vào quá trình mua và sử dụng sản phẩm đó trong tương lai. Khách hàng tiềm năng phải thỏa mãn các điều kiện:
+ Có nhu cầu về sản phẩm;
+ Có khả năng tài chính;
+ Là đối tượng thỏa mãn các điều kiện của sản phẩm;
+ Người mà các nhà bảo hiểm có thể tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với họ. Những người hội đủ các điều kiện trên mới có thể trở thành khách hàng tiềm năng.
Người bán là các doanh nghiệp bảo hiểm. theo tính chất sở hữu, doanh nghiệp bảo hiểm có thể chia ra doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp liên doanh... Theo quy mô tổ chức, có thể chia ra tổng công ty, công ty... Các doanh nghiệp bảo hiểm bán các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ hoặc phi nhân thọ trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức trung gian.
Tổ chức trung gian là cầu nối giữa người mua với người bán. Tổ chức trung gian gồm các công ty (hoặc hãng) môi giới và đại lý bảo hiểm. Công ty ( hoặc hãng) môi giới và đại lý bảo hiểm có đặc trưng về tổ chức và chức năng khác nhau.
1.2.1.2 Đăc điểm của thị trường bảo hiểm
a. Đặc trưng cơ bản của thị trường bảo hiểm
Thị trường bảo hiểm cũng như các thị trường khác, đều có những đặc trưng chung, đó là:
Cung, cầu về các loại sản phẩm luôn biến động
Cung về bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện. các doanh nghiệp ngày một nhiều và luôn đưa ra thị trường những sản phẩm mới thích ứng với thị trường. Sản phẩm bảo hiểm ngày một nhiều và luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật của nền kinh tế, của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa... Điều đó chứng tỏ sản phẩm bảo hiểm không dừng lại ở số ban đầu mà luôn được cải tiến, hoàn thiện và sáng chế, phát minh ra cái mới.
Cầu về bảo hiểm của dân cư, của các tổ chức xã hội, của doanh nghiệp...cũng không ngừng tăng lên. Khi nền kinh tế phát triển thì các tổ chức kinh tế xã hội cũng phát triển theo; đời sống vật chất và tinh thần của dân cư cũng được cải thiện... do đó, nhu cầu đa dạng về dịch vụ bảo hiểm cũng tăng lên.
Cung cầu về sản phẩm bảo hiểm phát triển song hành. Cầu tăng thì cung tăng và ngược lại. Ở đây, không có hiện tượng mất cân đối giữa cung và cầu; không có hiện tượng khủng hoảng thừa.
Giá cả của sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố
Giá cả của bảo hiểm thực chất là phí bảo hiểm. phí bảo hiểm là số tiền mà người mua- khách hàng nộp cho doanh nghiệp bảo hiểm trên cơ sở thỏa thuận giữa người mua và người bán về một dịch vụ bảo hiểm nào đó. Phí bảo hiểm được thỏa thuận giữa người mua và người bán, cũng có thể xem đó là giá chấp nhận của thị trường về dịch vụ ( hay sản phẩm) bảo hiểm. phí bảo hiểm bao gồm phí thuần và phụ phí ( hoặc phí hoạt động trong bảo hiểm nhân thọ). Phí bảo hiểm được tính toán trên cơ sở số tiền bảo hiểm (số tiền người mua chấp nhận với người bán – người bảo hiểm đưa ra) với tỷ lệ phí bảo hiểm (R).
Phí bảo hiểm luôn thay đổi theo thời gian. Bởi vì, mỗi thời gian có xác suất rủi ro khác nhau, mức độ thiệt hại khác nhau; điều kiện bảo hiểm cũng thay đổi theo nhận thức của con người... Mặt khác, những chính sách quản lý của Nhà nước như chính sách thuế, lãi suất, hợp tác và liên kết... cũng ảnh hưởng đến chi phí quản lý, đến chính sách đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm...
Như vậy, phí bảo hiểm (giá bảo hiểm) phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ngoài những yếu tố trên, phí bảo hiểm còn phụ thuộc vào quy luật cung cầu của thị trường; quy luật cạnh tranh.
Cạnh tranh và liên kết diễn ra liên tục
Thị trường bảo hiểm cũng như các thị trường khác, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để tranh giành khách hàng, để thu nhiều lợi nhuận diễn ra liên tục, gay go, quyết liệt. Cạnh tranh diễn ra trên nhiều khía cạnh, thủ thuật. Do đặc điển của sản phẩm bảo hiểm là dễ bắt chước, không bảo hộ bản quyền nên các doanh nghiệp bảo hiểm “đổ xô” vào những sản phẩm mà thị trường chấp nhận ( ngoài việc tung vào thị trường những sản phẩm mới) bằng cách cải tiến để hoàn thiện sản phẩm đó hơn các doanh nghiệp khác; bằng cách tuyên truyền quảng cáo sâu rộng, hấp dẫn để thu hút khách hàng và đặc biệt giảm chi và tăng tỷ lệ hoa hồng để giành giật khách hàng, chiếm lĩnh thị trường... Thực tế sôi động đó đã chứng minh khi thị trường bảo hiểm Việt Nam có nhiều doanh nghiệp của các thành phần kinh tế tham gia.
Cùng với cạnh tranh là liên kết. cạnh tranh càng mạnh thì liên kết càng phát triển. liên kết thường diễn ra giữa các doanh nghiệp mới, còn yếu về tiềm lực để tạo ra sức mạnh cạnh tranh; liên kết giữa các doanh nghiệp có thế mạnh để hòa hoãn, cùng phát triển tránh gây thiệt hại cho nhau... Liên kết còn diễn ra giữa các doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp lớn để tăng sức mạnh cho doanh nghiệp nhỏ, để đảm bảo an toàn trong cạnh tranh và cũng để tăng thêm đồng minh cho doanh nghiệp lớn.
Liên kết còn là nhu cầu của thị trường bảo hiểm mới hình thành và phát triển trong điều kiện thị trường thế giới đã ổn định, có tiềm lực. Liên kết cũng là xu hướng của hội nhập và toàn cầu hóa.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam tuy mới hình thành và phát triển, nhưng cạnh tranh cũng diễn ra gay gắt giữa các doanh nghiệp với đủ thủ thuật và mánh khóe. Cạnh tranh cũng gây thiệt hại đáng kể cho một số doanh nghiệp, nhưng cũng mang lại thành công cho các doanh nghiệp có lợi thế...Để đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp trước sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp liên kết lại trong tổ chức “ Hiệp hội bảo hiểm” để điều hòa giữ thế cân bằng trong kinh doanh trước hiện tượng giảm phí và tăng tỷ lệ hoa hồng tùy tiện; đồng thời tiến hành liên kết dưới hình thức liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài để tăng tiềm lực kinh tế, và kinh nghiệm kinh doanh để mở rộng thị trường...
Thị phần các doanh nghiệp luôn thay đổi
Thị phần bảo hiểm là tỷ lệ phần trăm (%) của mỗi doanh nghiệp bảo hiểm chiếm trong thị trường bảo hiểm. thị phần của doanh nghiệp bảo hiểm thường được tính theo doanh thu phí bảo hiểm của doanh nghiệp so với tổng phí bảo hiểm thu được của toàn thị trường. Thị phần càng lớn thì chứng tỏ vị trí doanh nghiệp càng cao; kết quả kinh doanh càng phát triển.
Nói đến thị phần là nói đến thị trường phát triển không còn mang tính độc quyền. Ở đây, các doanh nghiệp bảo hiểm có cơ hội như nhau. Song, doanh nghiệp nào giành được thị phần nhiều hơn là do doanh nghiệp đó làm tốt công tác quảng cáo, tiếp thị; do chất lượng dịch vụ tốt hơn, phí bảo hiểm có thể không thấp hơn...
Như vậy, thị phần của doanh nghiệp bảo hiểm luôn thay đổi do số lượng doanh nghiệp tham gia vào thị trường thay đổi; do chiến lược marketing, chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả... của doanh nghiệp thay đổi không những giữ vững được thị phần của mình mà còn giành giật được thị phần của cac doanh nghiệp khác.
Ngoài việc cạnh tranh giành giật thị trường của nhau, các doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh hợp lý để thu hút bộ phận khách hàng không tiêu dùng tương đối. Đây là bộ phận dân cư có nhu cầu bảo hiểm, nhưng chưa có thông tin chính xác về các dịch vụ bảo hiểm trên thị trường. Doanh nghiệp nảo có chiến lược tuyên truyền, quảng cáo, phục vụ tốt... sẽ thu hút thêm khách hàng ở bộ phận này góp phần tăng thị phần của doanh nghiệp. mặt khác, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng phải tung ra thị trường những sản phẩm mới để thu hút dân cư trong bộ phận không tiêu dùng tuyệt đối- bộ phận không có nhu cầu đối với dịch vụ bảo hiểm có trên thị trường.
b. Đặc điểm riêng của thị trường bảo hiểm
Thị trường bảo hiểm có đối tượng khách hàng rộng lớn vì đối tượng bảo hiểm đa dạng, bao gồm tài sản, trách nhiệm dân sự, con người.
Thị trường bảo hiểm là thị trường dịch vụ tài chính, do đó cũng như thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ... chịu sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước. Nhà nước có thể can thiệp khá sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm. Nhà nước không những xét duyệt biểu phí, xác định trách nhiệm bồi thường trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự mà còn quyết định hình thức triển khai tự nguyện hay bắt buộc. Chỉ có trong thị trường bảo hiểm mới có hình thức bắt buộc với người tham gia.
Thị trường bảo hiểm thường ra đời muộn hơn so với các thị trường khác như thị trường hàng hóa, lao động... Sự ra đời này phụ thuộc vào nhiều điều kiện.
Thị trường bảo hiểm là thị trường cung cấp những sản phẩm liên quan đến rủi ro, đến sự bấp bênh. Nguồn gốc của bảo hiểm là sự tồn tại của những rủi ro bất ngờ không dự đoán trước được. Những rủi ro bất ngờ có thể gây ra những thiệt hại về tài sản hoặc bệnh tật, thương tích thậm chí làm chết người; những rủi ro đó có thể gây ra trách nhiệm dân sự trước pháp luật. Trước thực tế đó, bảo hiểm cung cấp những sản phẩm nhằm bồi thường về tài chính cho những tổn thất do tai nạn , rủi ro bất ngờ gây ra.
1.2.1.3 Một số quy luật chung của thị trường bảo hiểm
Cũng như các thị trường khác, thị trường bảo hiểm cũng bị chi phối bởi các quy luật chung của thi trường và quy luật riêng của thị trường bảo hiểm. Đó là các quy luật: cung cầu, quy luật cạnh tranh và liên kết, quy luật “số đông bù số ít”...
Quy luật cung cầu về bảo hiểm luôn luôn tồn tại song hành. Cung phát triển trên cơ sở cầu; cầu dựa vào khả năng cung để thỏa mãn. Cung – cầu cùng phát triển trên cơ sở kinh tế xã hội phát triển. Do đó, cung cầu phát triển nhịp nhàng, cân đối.
Quy luật cung – cầu có ảnh hưởng đến quy luật giá cả, tức phí bảo hiểm của các dịch vụ bảo hiểm. Giá cả bảo hiểm được điều tiết theo quan hệ cung cầu về bảo hiểm của thị trường, theo xác suất rủi ro thời gian qua, theo chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước như chính sách thuế, chính sách đầu tư, tỷ giá, lãi suất...
Thị trường bảo hiểm với sự tham gia nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thì sự cạnh tranh để thu hút khách hàng, để chiếm lĩnh thị trường, nâng cao thị phần...giữa các doanh nghiệp càng gay gắt, càng quyết liệt. Cạnh tranh càng mạnh thì liên kết càng phát triển. Liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau, liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với nước ngoài... Cạnh tranh và liên kết là quy luật vốn có của thị trường. Do đó, thị trường bảo hiểm cũng không vượt ra ngoài quy luật ấy. Vấn đề là biết tận dụng tính quy luật để điều tiết, tổ chức hợp lý nhằm thúc đẩy thị trường phát triển
Quy luật “số đông bù số ít” là quy luật đặc thù của thị trường bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm vận dụng quy luật này một cách nhuần nhuyễn vào hoạt động kinh doanh của mình. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp bảo hiểm phải có chiến lược tiếp thị, tuyên truyền quảng cáo...thật sinh động để thu hút số đông khách hàng tham gia mua sản phẩm bảo hiểm của mình với giá chấp nhận. nhiều khách hàng mua sản phẩm bảo hiểm cũng có nghĩa là doanh nghiệp thu được nhiều phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm là số tiền mà người tham gia- người mua bảo hiểm phải gánh chịu. Phí bảo hiểm phải phù hợp với khả năng thanh toán của người tham gia; phải tương đương với quyền lợi kinh tế mà họ nhận được từ doanh nghiệp bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường về tài chính cho những tổn thất xảy ra trong tai nạn rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm. Số tiền bồi thường được căn cứ vào giá trị tổn thất thực tế, nhưng cao nhất bằng số tiền bảo hiểm. Do đó, số tiền bồi thường cho một người tham gia trong một rủi ro nào đó thông thường lớn hơn số phí mà họ đã nộp ( tức là số tiền mà họ đã mua dịch vụ bảo hiểm đó). Trong trường hợp đó, doanh nghiệp bảo hiểm phải lấy số phí của nhiều người tham gia vào dịch vụ bảo hiểm ấy để chi trả cho một người (hoặc một số ít người) không may gặp rủi ro gây tổn thất.
Quy luật số đông bù số ít được tận dụng triệt để trong hoạt động bảo hiểm. nếu quy luật này không phát huy được tác dụng thì hoạt động bảo hiểm không tồn tại. Nói cách khác doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phá sản. quy luật này mang tính tương trợ, cùng san sẻ rủi ro trong cộng đồng những người tham gia bảo hiểm.
1.2.2 Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ:
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là một bộ phận trong thị trường bảo hiểm, do đó thị trường bảo hiểm phi nhân thọ sẽ có những đặc điểm chung và đặc điểm riêng của thị trường bảo hiện. Nhưng thị trường bảo hiểm phi nhân thọ cũng có một số đặc điểm đặc trưng:
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ra đời sớm hơn so với các loại hình bảo hiểm khác. Trước công nguyên ở Ai Cập, những người thợ đẽo đá đã biết thành lập ._.“quỹ tương trợ” để giúp đỡ các nạn nhân trong các vụ tai nạn. Từ đó, hoạt động mang tính chất bảo hiểm phát triển dần theo sự phát triển của xã hội loại người. những nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ xuất hiện liên tục. Năm 1182, ở miền Bắc của Italia xuất hiện bản hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bẵng đường biển; năm 1667 công ty bảo hiểm hỏa hoạn ở Anh ra đời...
Sự ra đời của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ít phụ thuộc vào sự phát triển của kinh tế- xã hội.
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là nơi mua bán các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ. Sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ cũng có những đặc điểm chung của sản phẩm bảo hiểm nói chung. Nhưng sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ khác với sản phẩm của bảo hiểm nhân thọ như thời hạn bảo hiểm ngắn thường là 1 năm, được chi trả bồi thường khi có tổn thất về vật chất và tai nạn con người, trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm hay người được bảo hiểm.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ CHI NHÁNH THANH XUÂN BẢO VIỆT HÀ NỘI
2.1 Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của Bảo Việt Hà Nội và chi nhánh bảo hiểm Thanh Xuân.
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Bảo Việt Hà Nội và chi nhánh bảo hiểm Thanh Xuân
Công ty bảo hiểm Hà Nội (hay còn gọi là Bảo Việt Hà Nội) được thành lập từ năm 1980 theo quyết định số 1125/QĐ-TCCB ngày 17/11/1980 của Bộ Tài chính và trực thuộc Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, với nhiệm vụ tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm thương mại trên địa bàn Hà Nội. Là một thành viên doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, Bảo Việt Hà Nội có chức năng thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm từ sự đóng góp, tham gia bảo hiểm của các đơn vị sản xuất kinh doanh và mọi thành viên khác trong địa bàn Hà Nội, nhằm bồi thường cho những người tham gia bảo hiểm khi không may họ gặp phải những rủi ro gây thiệt hại, giúp các cá nhân, tổ chức nhanh chóng ổn định sản xuất và đời sống.
Từ khi mới thành lập có tên là chi nhánh bảo hiểm Hà Nội, đến ngày 17/2/1989, Bộ Tài chính đã ra quyết định chuyển chi nhánh bảo hiểm Hà Nội thành công ty bảo hiểm Hà Nội, trụ sở chính đặt tại số 15c Trần Khánh Dư.
Năm 1996, căn cứ quyết định số 145/TC/QĐ-TCCB ngày 01/03/1996 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc thành lập lại công ty bảo hiểm Hà Nội, theo đó ngày 11/05/1996, quyết định số 461/TC/QĐ-TCCB của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam và ngày 24/09/1996 ban hành kèm quyết định số 32/QĐ-HĐQT, chủ tịch hội đồng quản trị của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty bảo hiểm Hà Nội (Bảo Việt Hà Nội ), Bảo Việt Hà Nội có nhiệm vụ kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm, đầu tư vốn và các dịch vụ có liên quan đến bảo hiểm theo luật pháp của Nhà nước theo phân cấp.
Phòng bảo hiểm Thanh Xuân là một bộ phận trong công ty Bảo Việt Hà Nội. Phòng được thành lập vào năm 1997. Sự ra đời này rất cần thiết, giúp cho Bảo Việt Hà Nội mở rộng các chi nhánh tới từng cơ sở địa phương đồng thời đưa sản phầm bảo hiểm tới gần với khách hàng từng khu vực hơn. Lúc mới thành lập chi nhánh mới chỉ có 3 người là nhân viên chính thức và 5 người khai thác bảo hiểm. Đến nay phòng bảo hiểm Thanh Xuân hoạt động kinh doanh bảo hiểm được 11 năm với số lương nhân viên của phòng Thanh Xuân tăng lên 5 nhân viên chính thức và 12 nhân viên khai thác. Việc tăng nhân viên này đặc biệt là nhân viên khai thác đã cho thấy hoạt động kinh doanh của chi nhánh Thanh Xuân rất phát triển. Không những thế các nhân viên của chi nhánh rất có trách nhiệm, năng động và rất chuyên nghiệp nắm bắt và đáp ứng nhanh chóng nhu cầu mua bảo hiểm của khách hàng, do đó đã thu hút cho công ty một lượng lớn khách hàng. Điều đó được thể hiện qua doanh thu hàng năm của phòng tăng, đóng góp không nhỏ trong doanh thu phí của toàn công ty Bảo Việt Hà Nội.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của công ty
Căn cứ vào đặc điểm hoạt động kinh doanh, công ty đã tổ chức quản lý theo 2 cấp:
* Ban giám đốc: giám đốc công ty chịu trách nhiệm lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp tới các phòng quản lý kinh doanh, thay mặt công ty chịu trách nhiệm pháp lý đối với Nhà nước về mọi hoạt động kinh doanh, định kỳ báo cáo với cấp trên về tình hình hoạt động của công ty. Kết thúc năm tài chính, giám đốc thực hiện phân tích tình hình thực hiện kế hoạch kinh doanh, báo cáo tại đơn vị, giúp việc cho giám đốc là các phó giám đốc và các phòng ban chức năng, thực hiện các chức năng quản lý nhất định.
* Các phòng chức năng và nghiệp vụ:
Các phòng chức năng thực hiện nhiệm vụ cụ thể theo chức năng của phòng, đồng thời có nhiệm vụ quản lý, hướng dẫn các phòng quận, huyện về các hoạt động theo đúng chức năng đó.
Các phòng nghiệp vụ, ngoài nhiệm vụ khai thác khách hàng, còn hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra, giám sát toàn diện về hoạt động của các văn phòng địa phương trực thuộc về các nghiệp vụ được phân cấp quản lý.
Năm phòng nghiệp vụ cùng với phòng Marketing và 14 phòng đại diện tại tất cả các quận, huyện là các đơn vị trực tiếp tiến hành triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm. Các phòng chức năng và phòng nghiệp vụ có quan hệ mật thiết với Ban giám đốc thực hiện quản lý, đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, đưa ra các quy định nghiệp vụ, đề ra các biện pháp, đối sách kịp thời với tình hình cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, công ty còn có một hệ thống đại lý, cộng tác viên rộng khắp, được quản lý thống nhất bởi phòng Quản lý đại lý.
CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CÔNG TY BẢO VIỆT HÀ NỘI
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
PHÒNG
BH HÀNG HẢI
PHÒNG KẾ TOÀN TÀI VỤ
PHÓ GIÁM ĐỐC
PHÒNG KIỂM TRA NỘI BỘ
PHÒNG TIN HỌC
PHÒNG TỔNG HỢP
PHÒNG BH
CHÁY VÀ RRKT
CÁC PHÒNG BẢO HIỂM QUÂN, HUYỆN
PHÒNG
BH HOÀN KIẾM
PHÒNG
BH TỪ LIÊM
PHÒNG
BH GIA LÂM
PHÒNG BH HAI BÀ TRƯNG
PHÒNG
BH THANH TRÌ
PHÒNG BH QUỐC PHÒNG
PHÒNG
BH BA ĐÌNH
PHÒNG
BH TÂY HỒ
PHÒNG
BH ĐÔNG ANH
PHÒNG
BH ĐỐNG ĐA
PHÒNG BH THANH XUÂN
PHÒNG
BH SÓC SƠN
PHÒNG
PHI HÀNG HẢI
CÁC ĐẠI LÝ,CÔNG TÁC VIÊN BH TRONG TOÀN THÀNH PHỐ
2.2 Thực trạng chung thị trường bảo hiểm phi nhân thọ và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ chi nhánh bảo hiểm Thanh Xuân Bảo Việt Hà Nội
2.2.1 Thực trạng chung của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
Hiện nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam đang là điểm đến của nhiều doanh nghiệp nước ngoài. Sự xuất hiện của nhiều tên tuổi bảo hiểm quốc tế mới trong thị trường bảo hiểm Việt Nam đã làm cho thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng sôi động, và tăng trưởng với tốc độ khá cao. Tính đến nay, toàn thị trường có 23 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ thì trong đó có tới 7/23 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài như công ty bảo hiểm AAA, UIC, IAI,....Sự góp mặt của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài và sự phát triển của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ trong nước đã làm cho thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tiếp tục tăng trưởng cao. Như, trong năm 2006, tổng doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ 6.445 tỷ đồng, tăng 17,48% so với doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ năm 2005 là 5.486 tỷ đồng , chiếm tỷ trọng 43,17% so với tổng phí toàn thị trường là 14.928 tỷ đồng. Trong đó, doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ của các doanh nghiệp trong nước chiếm 94,86%, còn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 5,14%
Biểu đồ 2.1: QUY MÔ THỊ TRƯỜNG NGÀNH BẢO HIỂM
VIỆT NAM
( Nguồn: Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2006– Bộ tài chính)
Sở dĩ các doanh nghiệp phi nhân thọ Việt Nam trong những năm vừa qua đạt được mức phí cao như vậy là do nhiều nguyên nhân, trong đó có 2 nguyên nhân cơ bản:
- Do số lượng các doanh nghiệp phi nhân thọ nước ngoài trên thị trường ít ( chỉ có 3 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài)
- Do doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài bị hạn chế phạm vi kinh doanh trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ, họ chỉ được khai thác bảo hiểm trong một số sản phẩm bảo hiểm nhất định
Với doanh thu phí cao, đến cuối năm 2006 tại thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, các doanh nghiệp phi nhân thọ Việt Nam chiếm thị phần lớn như Bảo Việt chiếm 34,94%, Pjico: 10,55%, PVI: 18,08%, Bảo Minh: 21,29%, còn lại là của Bảo Long, Viễn Đông, AAA, BIC, UIC, VIA,…
Biểu đồ 2.4: THỊ PHẦN NĂM 2006 CỦA BẢO HIỂM
PHI NHÂN THỌ
( Nguồn: thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2006- Bộ tài chính)
So với năm 2005, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ hiện nay cung cấp 11 loại hình nghiệp vụ khác nhau tuy nhiên vẫn tập trung chủ yếu vào loại hình bảo hiểm xe cơ giới: doanh thu phí bảo hiểm gốc chiếm 26,9%, bảo hiểm tài sản và thiệt hại chiếm 23,3%, sức khỏe và tai nạn con người chiếm 15,2% so với tổng doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ. Các loại nghiệp vụ bảo hiểm khác như bảo hiểm nông nghiệp, thiệt hại kinh doanh và rủi ro tài chính hầu như không đáng kể.
Biểu đồ 2.2: CƠ CẤU DOANH THU PHÍ BẢO HIỂM GỐC
(Nguồn: thị trường bảo hiểm Việt Nam 2006- Bộ tài chính)
Sau 3 năm thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm, năng lực tài chính, năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm đã tăng lên đáng kể, công tác đáng giá rủi ro và đề phòng hạn chế tổn thất cũng được cải thiện. Kết quả là, mức phí bảo hiểm giữ lại tăng so với năm 2005: bảo hiểm hàng không tăng 33,3%, trách nhiệm chung 28,6%, bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con người 16,8%, bảo hiểm xe cơ giới 13,8%...Do đó, tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm giữ lại của các nghiệp vụ này so với tổng doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ toàn thị trường tăng và được thể hiện qua biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ 2.3: CƠ CẤU DOANH THU PHÍ BẢO HIỂM GIỮ LẠI
(Nguồn: Thị trường bảo hiểm Việt Nam 2006- Bộ Tài chính)
Nhưng tất cả những nguyên nhân trên sẽ không còn nữa khi Việt Nam gia nhập WTO. Do đó các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ đứng trước áp lực cạnh tranh rất lớn.
Trong khoảng 6 tháng đầu năm 2007, Nghị định 45-46 sửa đổi Nghị định số 42-43 và các thông tư hướng dẫn về hoạt động kinh doanh bảo hiểm được ban hành cùng với các cam kết của Việt Nam về gia nhập WTO có hiệu lực từ 1/1/2007, đã tạo nhiều cơ hội cho khai thác dịch vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Một số văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động kinh doanh bảo hiểm được ban hành đã tác động tích cực tới khả năng tăng trưởng doanh thu bảo hiểm cho toàn thị trường như Nghị định bắt buộc về bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm xe cơ giới, Nghị định quy định chi tiết luật du lịch yêu cầu các công ty lữ hành mua bảo hiểm bắt buộc cho khách.
Tuy nhiên trong bối cảnh nhiều cơ hội và nguy cơ như vậy thì tình hình cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu bằng cách hạ phí phi kỹ thuật, tăng chi phí khai thác vẫn diễn ra phổ biến, đặc biệt từ các doanh nghiệp nhỏ và mới đi vào hoạt động.
Trong khi đó, hoạt động của các công ty bảo hiểm nước ngoài tiếp tục hướng vào chuyên môn hóa, với chiến lược “ chọn lọc rủi ro, tập trung vào khúc thị trường mục tiêu” nên mặc dù mức độ cạnh tranh chưa cao, nhưng họ đang chiếm lĩnh dần các khúc thị trường có hiệu quả tốt.
Môi giới bảo hiểm nước ngoài tiếp tục hoạt động tốt, tuy nhiên có sự chuyển dịch hướng khai thác bảo hiểm tài sản sang các sản phẩm bảo hiểm y tế, con người, trách nhiệm nghề nghiệp có nhiều tiềm năng hơn.
Tình đến thời điểm này, toàn thị trường có 23 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, trong đó có 2 doanh nghiệp phi nhân thọ nhà nước, 10 doanh nghiệp phi nhân thọ cổ phần, 4 doanh nghiệp liên doanh, và 7 doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm mới thành lập đã đi vào ổn định và bắt đầu mở rộng hoạt động như: BIC phát triển mạnh nhờ sự hỗ trợ tích cực của BIDV trong các dự án đầu tư lớn, Bảo hiểm Toàn cầu (GIC) tận dụng khai thác triệt để ở các dịch vụ bảo hiểm kỹ thuật và tài sản từ các cổ đông lớn là SFC (công ty bay dịch vụ) và EVN. Bên cạnh đó Vietnam Airlines cũng đang có kế hoạch thành lập công ty bảo hiểm.
Hiện nay, 12 doanh nghiệp bảo hiểm trong nước vẫn nắm giữ thị trường bảo hiểm phi nhân thọ với thị phần doanh thu phí bảo hiểm đạt hơn 80%, trong đó tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp lớn như Bảo Việt, Bảo Minh, PVI và PJICO.
Cạnh tranh càng gay gắt thì liên kết càng phát triển là quy luật vốn có của thị trường. Đặc biệt giữa năm 2006, xuất hiện nhiều hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với các doanh nghiệp khác như ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB bank) đã hợp tác với công ty bảo hiểm Quốc tế Mỹ (AIAV) với các sản phẩm “ an nghiệp bảo tín”, “an tâm bảo gia”, “an sinh thịnh vượng”, “an trí thành tài”, “nhất niên gia hạn”; hay công ty bảo hiểm BIDV và ngân hàng mẹ - ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam; ngân hàng TMCP Kỹ thuật VN Techcombank và Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Minh liên kết cung cấp dịch vụ nhắn tin qua điện thoại di động để thanh toán phí bảo hiểm cho xe cơ giới...Đây là một xu thế mới và cũng là một tấm là chắn thay vì cạnh tranh bằng liên kết cho các doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập.
Dựa vào những số liệu doanh thu các năm, có thể nói doanh thu phí bảo hiểm gốc của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ của Việt Nam có xu hướng tăng trong những năm tiếp theo, cụ thể cuối năm 2007: doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ là 7.400 tỷ đồng và năm 2008 ước tính doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ là: 8.355 tỷ đồng
Biểu đồ 2.5: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG
BẢO HIỂM VIỆT NAM NĂM 2008
2.2.2 Thực trạng phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ chi nhánh bảo hiểm Thanh Xuân Bảo Việt Hà Nội.
2.2.2.1 Các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ chi nhánh bảo hiểm Thanh Xuân Bảo Việt Hà Nội đang triển khai
Hiện nay, chi nhánh Bảo Việt Thanh Xuân đang triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm của Bảo Việt Hà Nội, đó là các nghiệp vụ:
Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm con người
+ Bảo hiểm tai nạn hành khách
+ Bảo hiểm toàn diện học sinh
+ Bảo hiểm kết hợp con người
+ Bảo hiểm tai nạn con người 24/24
+ Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật
+ Bảo hiểm sinh mạng cá nhân
+ Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe và người ngồi trên xe
+ Bảo hiểm tai nạn thuỷ thủ, thuyền viên
+ Bảo hiểm chi phí y tế và vận chuyển y tế công cộng
+ Các loại hình bảo hiểm khách du lịch
Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm
+ Bảo hiểm trách nhiệm kiến trúc sư
+ Bảo hiểm trách nhiệm người sử dụng lao động
+ Bảo hiểm trách nhiệm đối với thiệt hại người và tài sản
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe đối với hành khách
+ Bảo hiểm trách nhiệm chủ xe đối với hàng hoá trên xe
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe ô tô đối với người thứ ba
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe mô tô đối với người thứ ba
+ Bảo hiểm trách nhiệm khác
Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm tài sản:
+ Bảo hiểm hàng hóa nhập khẩu
+Bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu
+ Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển nội địa
+ Bảo hiểm thân tàu biển
+ Bảo hiểm xây dựng lắp đặt
+ Bảo hiểm cháy nổ
+ Bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt
+ Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
+ Bảo hiểm thiết bị điện tử
+ Bảo hiểm máy móc xây dựng
+ Bảo hiểm tài sản
+ Bảo hiểm vật chất ô tô
+ Bảo hiểm vật chất xe mô tô
Trong những năm vừa qua chi nhánh bảo hiểm Thanh Xuân của Bảo Việt Hà Nội đã nhận được sự giúp đỡ rất lớn từ phía trong việc đánh giá, chấp nhận rủi ro, thanh tra và xử lý khiếu nại…
2.2.2.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh Thanh Xuân giai đoạn 2005 – 2007
a. Mục tiêu và phương châm hoạt động của phòng bảo hiểm Thanh Xuân
Trong điều kiện thị trường có nhiều khó khăn và có tính cạnh tranh cao, phòng bảo hiểm Thanh Xuân của Bảo Việt Hà Nội đã kịp thời có những phân tích và đánh giá những kết quả kinh doanh đạt được để phát huy, đồng thời chỉ ra được những khó khăn cần khắc phục. Phòng bảo hiểm Thanh Xuân xây dựng mục tiêu hoạt động là “ Tăng trưởng, hiệu quả, phát triển bền vững” với phương châm hoạt động hiện nay là “Phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển”
b. Những nguyên nhân ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của phòng bảo hiểm Thanh Xuân
* Nguyên nhân khách quan:
+ Thứ nhất: Quận Thanh Xuân đang trong đà phát triển cả về chất và lượng như cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối hoàn chỉnh ( hệ thồng đường, điện, nước, các loại hình dịch vụ viễn thông, nhà ở, chợ, trường học, bệnh viện...); Quận còn gần các khu trung tâm thành phố, các khu vui chơi ở các tỉnh giắp với Quận như: Ao Vua, Khoang Xanh, Tây Thiên,... nên sẽ có nhiều người tới định cư. Do vậy đây sẽ là thị trường tiền năng có thể khai thác.
+ Thứ hai: Hiện nay, dân cư của Quận Thanh Xuân đông, cơ cấu dân số chủ yếu là trong độ tuổi lao động, những người trong độ tuổi đi làm chiếm 65%, còn là những người ngoài độ tuổi đi làm và những người đang thất nghiệp, chưa có việc làm. Thu nhập bình quân một người dân năm 2007 khoảng từ 120 – 200 USD/ người tăng so với năm 2006, điều này sẽ dẫn đến sự phát triển tất yếu về nhu cầu các sản phẩm bảo hiểm.
+ Thứ ba: Quận Thanh Xuân là Quận có nhiều trường học từ các cấp: trường mần non Khương Đình, trường tiểu học Nhân Chính, trường Đại học Phương Đông, Học viện Kỹ thuật Quân sự...rất thuận lợi cho việc triển khai các loại hình bảo hiểm con người phi nhân thọ.
+ Thứ tư: Quận Thanh Xuân nằm trên địa bàn giắp với các tỉnh ngoại thành Hà Nội như Hà Đông-Hà Tây, ….do vậy lưu lượng xe tham gia giao thông, rất lớn với nhiều loại khác nhau như xe buýt, xe khách đi các tỉnh ngoại thành, xe có trọng tải lớn ( xe conterner, xe chở cát xỏi…), xe máy, xe đạp… Ngoài ra, tuyến đường không có phân luồng xe cho từng loại, nhất là sự bất hợp lý trong việc có tuyến đường riêng dành cho xe buýt nhưng lại có những đoạn rẽ cắt ngang không có biển báo hiệu hay đến giao thông. Bên cạnh đó ý thức tham gia giao thông của người dân kém, có những trường hợp đội mũ bảo hiểm không cài dây hoặc không đội mũ bảo hiểm, đi lạng lách, phóng nhanh vượt ẩu, vẫn có tình trạng vượt đèn giao thông khi không có sự giám sát của cảnh sát giao thông ở ngã tư đèn hay chở hàng quá trọng lượng của xe, chở hàng cao so với mức quy định...gây nhiều nguy hiểm cho người tham gia giao thông, và xảy ra rất nhiều vụ tai nạn mất cả người và tài sản.
+ Thứ năm: Quận Thanh Xuân đang trong thời kỳ phát triển mạnh, nhất là về cơ sở hạ tầng, nhà ở. Ngoài ra, quận cũng có nhiều các công ty sản xuất như công ty giầy Thượng Đình, Nhà máy phụ tùng số 1, Nhà máy cơ khí...; nhiều siêu thị và chợ như siêu thị PICO, chợ vải lụa Hà Đông. Đây là một nhân tố thuận lợi trong việc phát triển loại hình nghiệp vụ bảo hiểm tài sản như bảo hiểm xây dựng- lắp đặt, bảo hiểm vật chất bất ngờ, bảo hiểm hỏa hoạn rủi ro đặc biệt, bảo hiểm mọi rủi ro trong công nghiệp; bảo hiểm con người như bảo hiểm tai nạn cho người lao động...; hay bảo hiểm trách nhiệm như bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ doanh nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm công cộng và trách nhiệm sản phẩm... được các tổ chức, các doanh nghiệp quan tâm và đã tham gia. Tuy nhiên, các tổ chức, doanh nghiệp này thường tìm đến công ty Bảo Việt Hà Nội mà ít khi thông qua các văn phòng đại diện do tính chất, quy mô, tâm lý của người tham gia bảo hiểm lựa chọn. Nhưng không vì thế doanh thu các nghiệp vụ này giảm.
* Nguyên nhân chủ quan:
+ Phòng bảo hiểm Thanh Xuân là một chi nhánh bảo hiểm của Bảo Việt mà thương hiệu Bảo Việt hiện là một trong những thương hiệu được bảo hộ nổi tiếng nhất Việt Nam.
+ Phòng có đội ngũ cán bộ và nhân viên khai thác chuyên nghiệp, chất lượng phục vụ và chăm sóc khách hàng tốt
c. Kết quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của phòng bảo hiểm Thanh Xuân năm 2005-2007
Hiện nay, Phòng bảo hiểm Thanh Xuân của Bảo Việt Hà Nội đang triển khai hơn 21 nghiệp vụ bảo hiểm và nhìn chung đều đạt mức tăng trưởng về doanh thu phí qua các năm. Kết qủa kinh doanh đã thể hiện được năng lực của phòng bảo hiểm Thanh Xuân của Bảo Việt Hà Nội trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Những nghiệp vụ truyền thống như bảo hiểm hàng hoá, bảo hiểm toàn diện học sinh, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm cháy… vẫn có mức doanh thu phí cao và tăng trưởng ổn định, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ doanh thu phí của toàn công ty. Một vài nghiệp vụ bảo hiểm chẳng hạn như bảo hiểm thiết bị điện tử, bảo hiểm du lịch, tuy mới ra đời nhưng đã thể hiện ngay vai trò và ngày càng khẳng định sự cần thiết của mình thông qua số phí bảo hiểm thu được tăng đáng kể qua các năm. Một số nghiệp vụ mới triển khai, doanh thu phí vẫn chưa đều. Điểm hạn chế này là do các phòng chưa thực sự giành thời gian nghiên cứu nên chưa nắm được các đầu mối khách hàng lớn, vấn đề chăm sóc khách hàng nhằm tái tục hợp đồng và việc quảng cáo các sản phẩm mới còn chưa được quan tâm.
Kết quả khai thác của phòng bảo hiểm Thanh Xuân của Bảo Việt Hà Nội được thể hiện qua doanh thu 3 năm gần đây:
Bảng 1: Doanh thu các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ 2005-2007
Loại hình bảo hiểm
Doanh thu 2005(VND)
Doanh thu 2006 (VND)
Doanh thu 2007( VND)
Bảo hiểm tài sản
436.592.875
628.674.250
1.320.717.549
Bảo hiểm con người
1.702.365.984
2.086.354.416
2.583.426.771
Bảo hiểm trách nhiệm
685.324.456
919.524.339
563.955.323
(Nguồn: Phòng bảo hiểm Thanh Xuân của Bảo Việt Hà Nội)
Biểu đồ 2.6: Doanh thu các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ
năm 2005-2007
(Nguồn: Phòng bảo hiểm Thanh Xuân của Bảo Việt Hà Nội)
Năm 2007 tổng doanh thu đạt 4.468.099.634 đồng, bằng 89,36% mức kế hoạch công ty Bảo Việt Hà Nội giao. Tăng trưởng trên 122,93% so với năm 2006 doanh thu là 3.634.553.005 đồng. Trong đó:
* Đối với bảo hiểm tài sản
Trong năm 2007, tổng doanh thu bảo hiểm tài sản là: 1.320.717.549 đồng lớn hơn năm 2006 là 628.674.250 đồng, tăng 110,08%.
Với nguyên nhân khách quan và chủ quan trên, để tránh xảy ra những mất mát lớn về tài sản của chính mình khi chẳng may có rủi ro xảy ra nên đã có nhiều người mua các sản phẩm bảo hiểm tài sản như bảo hiểm vật chất xe cơ giới, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển nội địa…để khắc phục phần nào những tổn thất mà rủi ro đem lại. Chính vì thế doanh thu một số nghiệp vụ của bảo hiểm tài sản năm 2007 tăng so với năm 2006:
Bảng 2: Tỷ lệ % tăng doanh thu một số nghiệp vụ BHTS
năm 2007 so với năm 2006
Nghiệp vụ bảo hiểm tài sản
Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển nội địa
Bảo hiểm vật chất tổn thất bất ngờ
Bảo hiểm vật chất ô tô
Bảo hiểm hỏa hoạn rủi ro đặc biệt
Bảo hiểm xây dựng- lắp đạt CAR
Kh%
19,17
4,27
0.59
1.78
20.72
Ngoài ra trong năm 2007, phòng bảo hiểm Thanh Xuân mới triển khai một số nghiệp vụ mới và có kết quả doanh thu cao:
Bảo hiểm mọi rủi ro trong công nghiệp: doanh thu năm2007 là 148.666.000 đồng
Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy hoặc tổn thất: doanh thu năm2007 là: 5.622.727 đồng.
Biểu đồ 2.7:Doanh thu các nghiệp vụ của bảo hiểm tài sản
năm 2006-2007
(Nguồn: Phòng Bảo hiểm Thanh Xuân của Bảo Việt Hà Nội)
* Đối với bảo hiểm trách nhiệm
Cũng với những nhân tố trên của Quận Thanh Xuân mà loại hình bảo hiểm trách nhiệm được nhiều người tham gia.Tuy nhiên số người tham gia loại hình bảo hiểm này lại có xu hướng giảm đi, phải chăng loại hình bảo hiểm này không được người dân quan tâm do nhiều nguyên nhân như: cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trên quận Thanh Xuân, thu nhập của người dân, nhận thức của người dân về loại hình bảo hiểm trách nhiệm, quảng cáo sản phẩm của doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả hay quyền lợi và trách nhiệm trong hợp đồng bảo hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người muốn tham gia…
Bảng 3: Tỷ lệ % doanh thu các nghiệp vụ BHTN
năm 2007 so với năm 2006
Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm
BH TN sản phẩm & công cộng dạng mở
BH TNDS chủ xe ô tô bắt buộc
BH TNDS chủ xe mô tô bắt buộc
Kh%
0.06
0.91
0.72
Ngoài ra trong năm 2007, một số nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm không có doanh thu: Bảo hiểm trách nhiệm chủ xe đối với hành khách và bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe đối với hàng hóa vận chuyển trên xe. Và một số nghiệp vụ mới được triển khai và đạt doanh thu trong năm 2007 như: Bảo hiểm trách nhiệm công cộng: 9.000.000 đồng, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp kiến trúc sư: 94.058.466 đồng
Biểu đồ 2.8: Doanh thu các nghiệp vụ của bảo hiểm trách nhiệm
năm 2006-2007
(Nguồn: Phòng bảo hiểm Thanh Xuân của Bảo Việt Hà Nội)
* Đối với bảo hiểm con người phi nhân thọ
Đây là loại hình bảo hiểm chiếm giữ doanh thu cao nhất của bảo hiểm phi nhân thọ. Từ khi các sản phẩm của bảo hiểm con người phi nhân thọ ra đời đã có được kết quả to lớn trong việc phát triển sản phẩm này ở mọi nơi, đặc biệt phải kể đến nghiệp vụ bảo hiểm học sinh, bảo hiểm kết hợp con người, bảo hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật…
Chi nhánh đã kết hợp cùng với các trường học ở trên địa bàn quận nhằm phát triển các nghiệp vụ bảo hiểm dựa trên tiêu chí hai bên cùng có lợi vì chi nhánh muốn tăng doanh thu và giữ được thị trường và khách hàng của mình đồng thời các trường học trở thành đại lý cho Bảo Việt và được hưởng hoa hồng dựa trên số hợp đồng tham gia. Hiện nay chi nhánh Bảo Việt Thanh Xuân kết hợp với 57 trường trong đó có 20 trường mần non,10 trường tiểu học,10 trường THCS, 13 trường đại học và trung cấp chuyên nghiệp, 4 trường THPT.
Với chính sách trên, chi nhánh Bảo Việt Thanh Xuân đã có được kết quả tốt trong các năm qua. Ta có thể kể đến nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người. Đây là loại hình nghiệp vụ có đối tượng bảo hiểm rộng từ 1 tuổi đến 65 tuổi, phạm vi bảo hiểm rộng bao gồm: tai nạn, sinh mạng, trợ cấp nằm viện. Tiếp đến là bảo hiểm học sinh cũng chiếm tỷ trọng lớn, đây là loại hình bảo hiểm giành cho những đối tượng đang được ngồi trên ghế nhà trường, là nghiệp vụ mà từ khi bắt đầu ra đời đến nay được triển khai có hiệu quả nhất, loại hình này tuy có đối tượng hạn hẹp nhưng có phạm vi rộng bao gồm: bị chết trong mọi trường hợp; bị tai nạn thương tật; ốm đau bệnh tật phải nằm viện chữa trị và phẫu thuật.
Biểu đồ 4: Doanh thu các nghiệp vụ BHCN phi nhân thọ
năm 2006-2007
(Nguồn: Phòng bảo hiểm Thanh Xuân của Bảo Việt Hà Nội)
Ghi chú:
B1: BHCN bồi thường cho người lao động
B2: Bảo hiểm kết hợp con người
B3: BHCN khách du lịch
B4: BHCN người Việt Nam du lịch nước ngoài ngắn hạn
B5: Bảo hiểm sinh mạng cá nhân
B6: Bảo hiểm sức khỏe con người ở mức cao
B7: Bảo hiểm tai nạn con người 24/24
B8: Bảo hiểm tai nạn con người theo mẫu đơn
B9: Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe và người ngồi
B10: Bảo hiểm tai nạn người ngồi trên môtô
B11: Bảo hiểm tai nạn thủy thủ thuyền viên
B12: Bảo hiểm toàn diện học sinh.
d. Những thuận lợi và khó khăn của phòng bảo hiểm Thanh Xuân để có được kết quả kinh doanh trên.
* Phòng bảo hiểm Thanh Xuân đã có những thuận lợi sau:
- Tạo được mối quan hệ tốt đối với chính quyền địa phương , các ban ngành trong địa bàn đều ủng hộ nhiệt tình đối với công tác bảo hiểm, đặc biệt là ngành GD-ĐT quận Thanh Xuân và BGH các trường ĐH – CĐ -THCN do vậy năm học 2006-2007 đã thu được kết quả đáng khích lệ doanh thu phí bảo hiểm tăng 20% so với doanh thu cùng kỳ năm ngoái .
- Nhiều năm qua phòng Thanh Xuân đã phục vụ khách hàng nhiệt tình chu đáo, do đó uy tín ngày càng ảnh hưởng sâu rộng trên địa bàn , 10 năm qua phòng đã bám giữ được khách hàng truyền thống và mở rộng khách hàng mới thông qua công việc phục vụ sau bán hàng .
- Được sự động viên của ban lãnh đạo công ty, đã giúp cho phòng hoàn thành bằng được kế hoạch công ty giao,với ý chí quyết tâm cao của lãnh đạo phòng cùng đội ngũ cán bộ giúp việc gắng sức vượt mọi khó khăn để đi đến đích.
-Trong công tác quản lý, phòng thực hiện đúng quy định của công ty, không vi phạm chế độ quản lý tài chính, tuy nhiên năm 2006 lần đầu tiên có đại lý mới vào chưa nắm rõ quy định nên có ghi hóa đơn chưa chuẩn trường hợp này đại lý đã làm tờ trình lãnh đạo để được giải quyết.
- Tuy công việc rất khó khăn vất vả nhưng nhân viên trong phòng đoàn kết, công tác chăm lo đến tinh thần và vật chất vẫn duy trì tốt hàng năm nhằm động viên khích lệ nhân viên trong phòng , hàng năm phòng trích nguồn dự trữ của phòng để khen thưởng cho cán bộ và đại lý ( Trích từ quỹ lương doanh thu của TP khai thác mới).
* Bên cạnh đó cũng có những khó khăn trong việc thực hiện kinh doanh để đạt chỉ tiêu đề ra của công ty:
- Phòng bảo hiểm Thanh Xuân gặp rất nhiều khó khăn do khách quan tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của phòng vì vậy ngay từ đầu năm đã cho thấy khả năng hoàn thành kế hoạch công ty giao là rất khó . Tuy nhiên với uy tín của phòng bảo hiểm Thanh Xuân - Bảo Việt Hà Nội trên địa bàn quận Thanh Xuân qua 11 năm xây dựng và phát triển đã thúc đẩy mạnh mẽ ý chí quyết tâm cao của các nhân viên phòng bảo hiểm Thanh Xuân trong việc hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh 2007 .
-Trong tình hình có nhiều các đối thủ cạnh tranh mạnh về chính sách với khách hàng như chi hoa hồng cao hơn so với quy định , tăng chi phí kinh doanh và đặc biệt là giảm phí bảo hiểm cho khách hàng trong khi đó nguồn năng lực tài chính có hạn nên rất khó khăn trong việc đầu tư giành dịch vụ có doanh thu lớn.
-Phòng chưa có cán bộ khai thác chủ lực, doanh thu chủ yếu vẫn là doanh thu chung do lãnh đạo giao dịch khai thác và phát triển doanh thu từ học sinh, sinh viên, giáo viên… Kế hoạch giao cho cán bộ thực hiện 2007 vẫn chưa đạt yêu cầu của công ty đề ra, cán bộ đáp ứng được nhiệm vụ ngày càng cảm thấy khó khăn trong việc hoàn thành về cả chất lượng và số lượng. Chính vì 2 yếu tố nêu trên cho nên công việc khai thác văn phòng ngày càng khó khăn.
- Do ý thức và trách nhiệm của mỗi cán bộ - đại lý chưa cao đối với công việc được giao , Cán bộ chưa mạnh dạn dám nghĩ , dám làm và chịu trách nhiệm trước lãnh đạo về công việc được giao để nâng cao trình độ nhằm xây dựng văn phòng uy tín hơn ,kinh doanh ngày càng có hiệu quả cao.
Lực lượng đại lý chuyên nghiệp 2007 trở lại đến cuối năm xét điều kiện chỉ còn 01 đại lý chuyên nghiệp chính thức còn lại chuyển sang bán chuyên nghiệp.
Cán bộ chưa chủ động tìm kiếm khách hàng mới và chưa tự lập được kế hoạch để triển khai công việc.
Do ý thức của cán bộ chưa cao trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao về cuối năm, nghiệp vụ còn yếu kém, chưa chủ động thực hiện các quy trình khai thác về các nghiệp vụ có tính kỹ thuật cao. Hơn nữa cán bộ chưa tự nâng cao kiến thức, còn thiếu tự tin khi thực thi nghiệp vụ, còn thụ động trong việc tư vấn cho khách hàng về nghiệp vụ BH.
Tác phong làm việc còn chậm chưa linh hoạt để đẩy năng suất lao động lên cao nên chưa đáp ứng được công việc đòi hỏi ngày càng nhiều, cán bộ vẫn còn để tình trạng phải nhắc nhở, đôn đốc công việc, bộ phận làm gián tiếp vẫn còn xem nhẹ các công việc kiêm nhiệm, không khai thác nhiệm vụ chính nên đây cũng là một trong những ng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 27936.doc