Mục lục
Trang
Lời mở đầu.............................................................................................. 0
Chương 1. Cơ sở khoa học về kinh tế trang trại.........
1
1.1. Khái niệm về kinh tế trang trại.....................................................
1
1.2. Tiêu chí Để nhận dạng trang trại...................................................
2
1.2.1. Giá trị sản phẩm hàng hoá tạo ra trong một năm.....................
2
1.2.2. Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở ngoại thành HN và vận dụng vào nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trội so với kinh tế hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế........................
2
1.2.3. Quy mô đầu tư cho sản xuất kinh doanh..................................
3
1.3. Điều kiện ra đời và phát triển kinh tế trang trại .........................
4
1.3.1 Điều kiện về cơ chế chính sách ................................................
4
1.3.1.1. Có sự tác động tích cực của Nhà Nước. ................................
4
1.3.1.2 Có quỹ đất cần thiết và các chính sách để tập trung, tích tụ ruộng đất...................................................................................................
5
1.3.1.3 Có sự phát triển nhất định của kết cấu hạ tầng trước hết là hạ tầng phục vụ cho nông nghiệp.............................................................
7
1.3.1.4. Có sự hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên môn hoá....................................................................................................
8
1.3.1.5. Có sự hỗ trợ của công nghiệp chế biến nông sản sau thu hoạch........................................................................................................
9
1.3.1.6. Có môi trường pháp lý thuận lợi cho trang trại ra đời và phát triển...................................................................................................
9
1.3.2. Các điều kiện về chủ trang trại........................................
10
1.3.2.1 Các chủ trang trại phải là những người có ý chí và quyết tâm làm giầu từ nhà nông.........................................................................
10
1.3.2.2. Chủ trang trại phải có sự tích luỹ nhất định về kinh nghiệm, về tri thức và năng lực sản xuất kinh doanh.............................................
11
1.3.2.3. Chủ trang trại phải là người biết tổ chức sản xuất hoạch toán kinh doanh........................................................................................
11
1.3.3. Điều kiện về các yếu tố sản xuất .............................................
12
1.4. Vai trò và vị trí của kinh tế trang trại trong phát triển nông nghiêp .....................................................................................................
12
1.5. Hệ thống các chỉ tiêu phân tích .....................................................
13
1.5.1. Các chỉ tiêu phản ánh các yếu tố sản xuất................................
13
1.5.2. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại.............................................................................................................
14
1.5.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế .....................................
15
1.6. Khái quát quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam ......................................................................................
15
Chương 2. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở ngoại thành Hà Nội .....................................................
19
2.1. Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng ngoại thành Hà Nội ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế trang trại .............
19
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên....................................................................
19
2.1.1.1. Vị trí địa lý...........................................................................
19
2.1.1.2. Đất đai và địa hình................................................................
19
2.1.1.3. Thời tiết, khí hậu, thuỷ văn...................................................
20
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội...................................................
21
2.1.2.1. Dân số và nguồn lao động.....................................................
21
2.1.2.2. Cơ sở hạ tầng.........................................................................
21
2.1.2.3. Đặc điểm về kinh tế vùng ngoại thành..................................
23
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở ngoại thành Hà Nội..
25
2.2.1. Thực trạng về nguồn lực của các trang trại..............................
27
2.2.1.1. Chủ trang trại ........................................................................
28
2.2.1.2. Đất đai ..................................................................................
29
2.2.1.3. Vốn và nguồn vốn.................................................................
34
2.2.1.4. Lao động................................................................................
38
2.2.2. Tổ chức hoạt động sản xuất của các trang trại........................
39
2.3. Kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại ở ngoại thành Hà Nội ...............................................................................
43
2.3.1. Giá trị sản phẩm hàng hoá của các trang trại ..........................
43
2.3.2. Tổng thu và mức đầu tư chi phí sản xuất của các trang trại.....
44
2.3.3. Tổng thu nhập và chi đời sống của các trang trại....................
45
2.4. Nhận xét, đánh giá những vấn đề về kinh tế trang trại ở ngoại thành Hà Nội và vận dụng vào đánh giá kinh tế trang trại ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào (CHDCND Lào). ......................................
48
2.4.1. Về các loại hình kinh tế trang trại ...........................................
48
2.4.2. Về Quy mô sản xuất của kinh tế trang trại ..............................
49
2.4.3. Về Thị trường tiêu thụ sản phẩm..............................................
50
2.4.4. Về Trình độ kỹ thuật sản xuất và tổ chức quản lý sản xuất......
52
2.4.5. Về đất đai ................................................................................
52
2.4.6. Về hệ thống cơ sở hạ tầng........................................................
53
2.4.7. Về vay vốn................................................................................
53
Chương 3. Vận dụng kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại của Hà Nội vào nước cộng hoà dân chủ nhân dân lào ........................................................................
55
3.1. Phương hướng phát triển kinh tế trang trạI ở CHDCND Lào....
55
3.1.1. Một số đặc điểm khó khăn và thuận lợi trong phát triển kinh tế trang trại nói riêng và kinh tế xã hội nói chung của CHDCND Lào ...
55
3.1.2. Những quan điểm về phát triển kinh tế trang trại ...................
60
3.1.3. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở CHDCND Lào...
61
3.1.3.1. Phương hướng chung về phát triển nông nghiệp CHDCND Lào .........................................................................................
61
3.1.3.2. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở CHDCND Lào
62
3.2. Các giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế trang trại ở CHDCND Lào.........................................................................................
65
3.2.1. Đất đai......................................................................................
67
3.2.2. Vốn ..........................................................................................
69
3.2.3. Nhân lực...................................................................................
71
3.2.4. Thị trường.................................................................................
71
3.2.5. Khoa học - công nghệ - môi trường........................................
74
3.2.6. Thuế..........................................................................................
75
3.2.7. Cơ sở hạ tầng ...........................................................................
75
3.2.8. Công nghệp chế biến................................................................
76
3.2.9. Quản lý Nhà nước.....................................................................
77
Kết luận..............................................................................................
79
Tài liệu tham khảo........................................................................
83
Lời mở đầu
Trong điều kiện phát triển kinh tế theo định hướng thị trường có sự quản lý của Nhà nước, ngành nông nghiệp Việt Nam có vị trí và vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Nông nghiệp là một ngành sản xuất tạo ra hàng hoá nông sản cung cấp và phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Sau hơn 15 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã tiến một bước dài và phát triển mạnh, thu được nhiều thành tựu to lớn góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quá trình đổi mới này đã xuất hiện nhiều mô hình tổ chức sản xuất mới có hiệu quả hơn mô hình tổ chức sản xuất cũ, trong đó có kinh tế trang trại.
Kinh tế trang trại đã xuất hiện như một sản phẩm tất yếu trong cơ chế thị trường ở Việt nam, đang cùng với các hình thức kinh tế khác hàng ngày, hàng giờ làm thay đổi đời sống kinh tế - xã hội nông thôn. Thành quả mà các trang trại đạt được là không thể phủ nhận.
Để thấy rõ những ưu việt của kinh tế trang trại cũng như những mặt hạn chế cần khắc phục làm cơ sở cho nghiên cứu và vận dụng vào điều kiện của nước CHDCND Lào em xin nghiên cứu và tìm hiểu một vài vấn đề về kinh nghiệm đạt được trong thực hiện phát triển kinh tế trang trại ở ngoại thành Hà Nội thông qua đề tài: “Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở ngoại thành Hà Nội ”.
Đề tài này em xin đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểu theo mục đích như sau:
Xem xét sự phát triển các mô hình kinh tế trang trại ở ngoại thành Hà Nội, trên cơ sở đó rút ra một số kinh nghiệm để vận dụng phát triển kinh tế trang trại ở các vùng, các lãnh thổ của nước CHDCND Lào.
Nội dung của đề tài bao gồm:
+ Chưong 1: Cơ sở khoa học về kinh tế trang trại.
+ Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở ngoại thành Hà Nội .
+ Chương 3: Vận dụng kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở ngoại thành Hà Nội vào CHDCND Lào.
Do thời gian và trình độ còn có hạn trong việc nghiên cứu và tìm hiểu đề tài này chưa đầy đủ và còn thiếu sót. Mong thầy, cô bổ sung, góp ý cho đề tài của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn !
Chương 1
Cơ sở khoa học về kinh tế trang trại
1. 1. khái niệm về kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại có nhiều loại hình thức tổ chức, trong đó chủ yếu là trang trại gia đình. Hầu hết chủ trang trại là những người có ý chí làm giầu, có điều kiện làm giầu và biết làm giầu, có vốn, có trình độ kỹ thuật và khả năng quản lý, có hiểu biết nhất định về thị trường, bản thân và gia đình trực tiếp lao động và quản lý sản xuất trang trại, đồng thời có thuê mướn thêm lao động để sản xuất kinh doanh. Kinh tế trang trại mang tính chất sản xuất hàng hoá, gắn liền với thị trường, nên có nhu cầu cao hơn hẳn kinh tế hộ sản xuất tự cung, tự cấp về công tác tiếp thị, ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Sự phát triển của công nghiêp, mà trước hết là công nghiệp bảo quản chế biến nông, lâm, hải sản, chế tạo nông cụ, nhằm tăng năng lực lao động, hạ giá thành sản xuất, để đáp được đòi hỏi của khách hàng về quy cách, chất lượng sản phẩm, đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở, là đơn vị trong nông, lâm, ngư nghiệp. Ngoài trang trại còn có những hình thức sản xuất khác như nông, lâm trường quốc doanh, kinh tế hợp tác và kinh tế hộ nông dân. Kinh tế trang trại không phải là thành phần kinh tế mà chỉ là một hình thức tổ chức sản xuất. Những đặc điểm của kinh tế trang trại trong nông, lâm, ngư nghiệp theo điều kiện kinh tế thị trường thể hiện trên các mặt sau:
- Mục đích sản xuất của kinh tế trang trại là sản xuất hàng hoá, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Đây là đặc điểm cơ bản của trang trại trong nền kinh tế thị trường.
- Các yếu tố vật chất của sản xuất nhất là ruộng đất, tiền, vốn trong trang trại được tập trung với quy mô nhất định cho yêu cầu của sản xuất hàng hoá.
- Tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập. Các trang trại hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất - kinh doanh, từ lựa chọn phương hướng sản xuất, quyết định kỹ thuật và công nghệ... đến tiếp cận thị trường tiêu thụ sản phẩm.
- Chủ trang trại là người có ý chí, có năng lực quản lý, có kinh nghiệm và kiến thức nhất định về sản xuất kinh doanh nông nghiệp và thường là người trực tiếp quản lý trang trại.
- Tổ chức quản lý cuả trang trại tiến bộ hơn, có nhu cầu cao hơn nông hộ về ứng dụng khoa học - kỹ thuật và thường xuyên tiếp cận thị trường.
- Trang trại phần lớn có thuê mướn lao động.
- Các trang trại có thu nhập cao hơn các hộ nông dân trong vùng.
Từ những nhận thức trên cùng với việc tìm hiểu kinh nghiệm về trang trại ở Việt Nam, khái niệm về kinh tế trang trại có thể hiểu như sau:
Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất trong nông, lâm, ngư nghiệp. Có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với các cách thức tổ chức quản lý sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường.
1.2. Tiêu chí Để nhận dạng trang trại.
Tiêu chí nhận dạng trang trại bao gồm hai mặt: mặt định tính và mặt định lượng. Mặt định tính gồm: trình độ, năng lực sản xuất của trang trại. Mặt định lượng bao gồm: quy mô sản lượng, sản phẩm hàng hoá, doanh thu và quy mô vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
ở Việt Nam hiện nay, một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nnghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được xác định là trang trại phải đạt được cả 3 tiêu chí định lượng sau đây:
1. 2. 1. Giá trị sản phẩm hàng hoá tạo ra trong một năm.
- Đối với các trang trại thuộc các tỉnh phía Bắc và duyên hải miền Trung phải đạt từ 40 triệu đồng trở lên.
- Đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên từ 50 triệu đồng trở lên.
1.2.2. Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế.
Đối với trang trại trồng trọt.
* Trang trại trồng cây hàng năm:
- Từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung.
- Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên.
* Trang trại trồng cây lâu năm:
- Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung.
- Từ 5 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên.
- Trang trại trồng hồ tiêu 0,5 ha trở lên.
* Trang trại lâm nghiệp:
Từ 10 ha trở lên đối với tất cả các vùng trong cả nước.
Đối với trang trại chăn nuôi.
* Chăn nuôi đai gia súc: trâu, bò,...
- Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên.
- Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên.
* Chăn nuôi gia súc: lợn, dê,...
- Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn 20 con trở lên, đối với dê, cừu là 100 con trở lên.
- Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên. Dê thịt 200 con trở lên.
* Chăn nuôi gia cầm: Gà, vịt, ngan,... có thường xuyên từ 2.000 con trở lên.
Trang trại nuôi trồng thuỷ sản.
Diện tích mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản có từ 2 ha trở lên.
1.2.3. Quy mô đầu tư cho sản xuất kinh doanh, trong đó cần lưu ý đến 2 yếu tố là vốn và lao động. Hiện nay, người ta quy định vốn đầu tư trên 20 triệu đồng và thuê từ 2 lao động trở lên.
1.3. Điều kiện ra đời và phát triển kinh tế trang trại ở VIệT NAM.
1.3.1 Điều kiện về cơ chế chính sách.
1.3.1.1. Có sự tác động tích cực của Nhà Nước.
Sự tác động của Nhà nước có vai trò to lớn trong việc tạo môi trường kinh tế và pháp lý để kinh tế trang trại hình thành và phát triển.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn hình thành và phát triển trong thời gian qua và căn cứ vào chủ trương đối với kinh tế trang trại đã được nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV của Ban chấp hành trung ương Đảng (12/1997) và Nghị quyết 06 ngày 10 tháng 11 năm 1998 của Bộ chính trị về phát triển nông nghiệp và nông thôn. Sự tác động mang tính vĩ mô của Nhà nước được thông qua như sau:
- Nhà nước khuyến khích phát triển và bảo hộ kinh tế trang trại. Các hộ gia đình, cá nhân bước đầu phát triển kinh tế trang trại được Nhà nước giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài theo pháp luật để họ có điều kiện sản xuất kinh doanh.
- Nhà nước đặc biệt khuyến khích việc đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu quả đất trống, đồi núi trọc ở vùng trung du, miền núi, biên giới, hải đảo, tận dụng khai thác các loại đất còn hoang hoá, ao, hồ, đầm, bãi bồi ven sông, ven biển, mặt nước eo vịnh, đầm phá để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng chuyên canh với tỷ suất hàng hoá cao. Đối với vùng đất hẹp, người đông, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại sử dụng ít đất, sử dụng nhiều lao động, thâm canh cao gắn với chế biến và thương mại, dịch vụ làm ra nông sản có giá trị kinh tế lớn, ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với những hộ nông dân có vốn, có kinh nghiệm sản xuất, quản lý, có yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp hàng hoá và những hộ có đất sản xuất nông nghiệp và có nguyện vọng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài trong nông nghiệp.
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát huy kinh tế tự chủ của hộ nông dân, phát triển kinh tế trang trại đi đôi với chuyển đổi hợp tác xã cũ, mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất - kinh doanh giữa các hộ nông dân, các trang trại, các nông, lâm trường quốc doanh, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để tạo động lực sức mạnh tổng hợp cho nông nghiệp, nông thôn phát triển.
Nhà Nước hỗ trợ về vốn, khoa học - công nghệ, chế biến tiêu thụ sản phẩm, xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại phát triển bền vững.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước để các trang trại phát triển lành mạnh, có hiệu quả.
1.3.1.2. Có quỹ đất cần thiết và các chính sách để tập trung, tích tụ ruộng đất.
Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản xuất. Nó tham gia mọi quá trình sản xuất xã hội nhưng tuỳ thuộc vào từng ngành cụ thể mà vai trò của đất đai có sự khác nhau. Trong nông nghiệp ruộng đất không chỉ tham gia với tư cách là yếu tố thông thường mà là yếu tố tích cực của sản xuất, là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được.
Không phải tất cả các diện tích tự nhiên đều đưa vào canh tác được mà tuỳ thuộc vào điều kiện đất đai, địa hình và trình độ phát triển của từng nước mà có tỷ lệ phần trăm thích hợp. Như vậy, diện tích ruộng đất là rất có hạn, nhất là ở Việt Nam - một nước đất chật người đông, bình quân ruộng đất đầu người quá thấp so với thế giới thì quỹ ruộng đất vô cùng quý giá. Vì thế cần phải biết quý trọng và sử dụng hợp lý ruộng đất.
Cùng với quy mô ruộng đất thì sự tập trung ruộng đất cũng có ý nghĩa quan trọng, nói chung sự tập trung ruộng đất càng cao thì càng có điều kiện để hình thành và phát triển kinh tế trang trại và ngược lại đất đai càng manh mún thì càng cản trở quá trình hình thành và phát triển trang trại.
Sự tập trung ruộng đất phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, pháp lý, kết hợp với ruộng đất, người lao động và tư liệu sản xuất khác để sử dụng đất đai hợp lý và có hiệu quả. Một mặt, phải quy hoạch các khu canh tác, bố trí các trung tâm dịch vụ và phân bố các điểm dân cư hợp lý. Mặt khác, phải cải thiện điều kiện tự nhiên, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng nhằm tạo điều kiện sử dụng đất đai có hiệu quả, nâng cao đời sống của người dân và từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn.
Để thực hiện vấn đề đó thì Nhà nước phải có sự can thiệp trong việc tập trung ruộng đất, nhất là phải có chính sách hợp lý để đảm bảo quá trình này diễn ra thuận lợi gắn với quyền sở hữu, quyền sử dụng, để biến người sở hữu gắn trách nhiệm của mình khi sử dụng đất.
Trong Nghị quyết số 03/2000/NQ - CP ngày 2 - 2000 của chính phủ về kinh tế trang trại, trong đó có chính sách đất đai để phát triển kinh tế trang trại có nội dung như sau:
- Hộ gia đình có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để phát triển trang trại được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất được áp dụng theo quy định tại Nghị định số 85/1999/NĐ - CP ngày 28 tháng 8 năm 1999 của chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài và Nghị định số 163/1999/NĐ - CP ngày 16 tháng 11 năm 1999 của chính phủ về giao đất cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
- Hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản sống tại địa phương có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để mở rộng sản xuất thì ngoài phần đất đã được giao trong hạn mức của địa phương còn được Uỷ ban Nhân dân (UBND) xã xét cho thuê đất để phát triển trang trại .
- Hộ gia đình phi nông nghiệp có nguyện vọng và khả năng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài từ sản xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản được UBND xã cho thuê đất để làm kinh tế trang trại .
- Hộ gia đình, cá nhân ở địa phương khác nếu có nguyện vọng lập nghiệp lâu dài, có vốn đầu tư để phát triển trang trại, được UBND xã sở tại cho thuê đất.
- Diện tích đất được giao, được thuê phụ thuộc vào quỹ đất của địa phương và khả năng sản xuất kinh doanh của chủ trang trại.
- Hộ gia đình, cá nhân được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thuê đất hoặc thuê lại quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia dình, cá nhân khác để phát triển trang trại theo quy định của pháp luật. Người nhận chuyển nhượng hoặc thuê quyền sử dụng đất hợp pháp có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về đất đai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Hộ gia đình cá nhân đã được giao hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai vượt quá hạn mức sử dụng đất trước ngày 01tháng 01 năm 1999 để phát triển trang trại, thì được tiếp tục sử dụng và chuyển sang thuê phần diện tích đất vượt hạn mức, theo quy định của pháp luật về đất đai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nhưng chưa được giao, chưa được thuê, hoặc đã nhận quyền chuyển nhượng, quyền sử dụng đất nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận trước ngày ban hành Nghị quyết này, nếu không có tranh chấp sử dụng đất đúng mục đích thì được xem xét để giao hoặc cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan địa chính khẩn trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất.
Đây là điều kiện tiền đề để thúc đẩy kinh tế trang trại ra đời và phát triển một cách thuận lợi trong thời đại hiện nay.
1.3.1.3. Có sự phát triển nhất định của kết cấu hạ tầng trước hết là hạ tầng phục vụ cho nông nghiệp.
Kết cấu hạ tầng nông thôn nói chung, nó có vai trò quyết định đối với việc phát triển kinh tế, xã hội nông thôn, thúc đẩy sản xuất và giao lưu hàng hoá phát triển, tạo ra bộ mặt mới cho nông thôn và nông nghiệp bao gồm các lĩnh vực phát triển giao thông nông thôn, đổi mới quy hoạch và xây dựng nông thôn mới gắn với cơ chế thị trường nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội của vùng và nước sạch cho nông thôn, cung cấp điện cho phát triển sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, từng bước xây dựng hệ thống thông tin liên lạc phục vụ sản xuất và đời sống.
Kết cấu hạ tầng trong sản xuất nông nghiệp bao gồm: hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi, điện...là những điều kiện vất chất kỹ thuật rất cần thiết đối với sản xuất nông nghiệp. Nó góp phần quan trọng để người sản xuất khắc phục những tác động tiêu cực của tự nhiên, đáp ứng yêu cầu sinh học của sản xuất, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường.
Kết cấu hạ tầng phục vụ cho nông nghiệp nói riêng, đặc biệt là phục vụ cho sản xuất như mô hình kinh tế trang trại thì cần phải xây dựng và phát triển có sự kết hợp đồng bộ, không thể xây dựng một cách biệt lập. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của trang trại phải gắn liền với kết cấu hạ tầng kỹ thuật của vùng. Với sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại có quy mô ngày càng lớn thì cơ sở hạ tầng rất cần thiết trong đó bao gồm: kết cấu hạ tầng vùng và kết cấu hạ tầng kỹ thuật vào sản xuất.
Việc xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng đòi hỏi vốn đầu tư tương đối lớn. Vì vậy cần phải sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng là rất quan trọng đối với việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại và kinh tế vùng.
1.3.1.4. Có sự hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên môn hoá.
Chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp là hình thức biểu hiện sự phân công lao động để sản xuất ra nông sản phẩm theo yêu cầu của xã hội. Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và nhu cầu của xã hội rõ ràng sản phẩm ngày càng tăng lên thì phân công lao động ngày càng đi sâu, do đó, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao. Do phân công lao động có nhiều hình thức khác nhau, chuyên môn hoá cũng có nhiều hình thức khác nhau, trong đó có chuyên môn sản xuất theo vùng - là hình thức biểu hiện phân công lao động theo vùng (hay lãnh thổ) là quá trình tập trung sản xuất một loại nông sản phẩm ở những vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội thuận lợi nhất cho việc phát triển nông sản phẩm đó. Như vậy, mô hình kinh tế trang trại là một hình thức sản xuất đang nổi bật và rất phổ biến trong phạm vi cả nước và trên thế giới.
Chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp là điều kiện cần thiết để hình thành và phát triển kinh tế trang trại. Chuyên môn hoá góp phần khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, thúc đẩy quá trình phân công lao động và hiệp tác lao động. Trong các chủ thể sản xuất, kinh doanh nông nghiệp thì trang trại là một trong những chủ thể chủ yếu vì vậy trong điều kiện nền kinh tế thị trường sự hình thành các vùng chuyên môn hoá và các trang trại có mối quan hệ với nhau.
Sự phát triển của các vùng chuyên môn hoá đòi hỏi phải có sự tác động đồng bộ của cơ cấu yếu tố khác nhất là cơ sở hạ tầng như: mạng lưới giao thông, điện, thuỷ lợi, công nghiệp chế biến...
Để hình thành các vùng chuyên môn hoá đòi hỏi phải có sự bố trí cây trồng, vật nuôi hợp lý, đối với từng vùng từng địa phương. Điều này rất quan trọng có thể nói sự hình thành các vùng chuyên môn hoá là tiền đề để hình thành và phát triển kinh tế trang trại, chẳng hạn các vùng chuyên môn hoá sản xuất chè, cà phê, cao su...là các cơ sở hình thành các trang trại ở Việt Nam.
1.3.1.5. Có sự hỗ trợ của công nghiệp chế biến nông sản sau thu hoạch.
Bắt nguồn từ các đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp như cồng kềnh, mau hỏng... thì công nghiệp chế biến có vai trò vô cùng quan trọng. Sau khi kết thúc quá trình nông nghiệp các sản phẩm này vẫn còn duy trì và giữ được quá trình sinh học nhưng chỉ trong một thời gian ngắn và rất dễ bị hư hỏng, do vậy hoạt động của công nghiệp chế biến là không những hỗ trợ cho quá trình sinh học tồn tại lâu hơn mà còn làm tăng giá trị sản phẩm. Điều này rất cần đối với các trang trại. Vì trang trại là nơi sản xuất hàng hoá có khối lượng lớn, sự phát triển của công nghiệp chế biến là yếu tố kích cung của các trang trại vì công nghiệp chế biến phát triển sẽ tạo ra thị trường ổn định cho các trang trại.
Phát triển công nghiệp chế biến phải xuất phát từ yêu cầu phát triển nông nghiệp, nhu cầu thị trường và phát triển kinh tế trang trại phải dựa vào công nghiệp chế biến. Như vậy, để tạo môi trường cho các trang trại phát triển, tăng nhanh khối lượng, chất lượng sản phẩm hàng hoá, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có khả năng cạnh tranh với thị trường thế giới thì cần có sự hỗ trợ của Nhà nước:
Trước hết, Nhà nước cần phải có chính sách đầu tư đổi mới công nghệ và trang bị công nghệ mới đối với cơ sở chế biến hiện có và đang hoạt động có khả năng phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm chế biến.
Tiếp đến là phải có chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến vừa và nhỏ với nhiều hình thức đa dạng phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu và đời sống.
1.3.1.6. Có môi trường pháp lý thuận lợi cho trang trại ra đời và phát triển.
Kinh tế trang trại hình thành và phát triển khi có môi trường pháp lý phù hợp và thuận lợi dựa trên những cơ sở nhất định như sau:
Trước hết, là trên phương diện vĩ mô, sự công nhận của Nhà Nước đối với kinh tế trang trại để trang trại có tư cách pháp nhân, tạo điều kiện cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh của trang trại cũng như các chủ thể kinh tế khác.
Thứ hai: sự công nhận về mặt pháp lý sẽ tạo điều kiện cho các trang trại yên tâm đầu tư phát triển vào sản xuất kinh doanh theo mô hình kinh tế trang trại, do gắn liền với đặc điểm về chu kỳ kinh doanh nông nghiệp, nếu môi trường pháp lý không ổn định, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại.
Thứ ba: Với việc công nhận địa vị pháp lý của kinh tế trang trại, Nhà nước còn tạo điều kiện cần thiết cho kinh tế trang trại ra đời và phát triển thuận lợi bằng văn bản pháp quy phù hợp nhằm khuyến khích kinh tế trang trại phát triển.
1.3.2. Các điều kiện về chủ trang trại.
1.3.2.1. Các chủ trang trại phải là những người có ý chí và quyết tâm làm giầu từ nhà nông.
Chủ trang trại đa dạng có thể là chủ hộ nông dân, chủ hộ gia đình vừa trực tiếp quản lý, điều hành trang trại, vừa lao động trực tiếp; một số không nhỏ là cán bộ hưu trí, bộ đội xuất ngũ, sử dụng kinh nghiệm quản lý thời kỳ tại chức trong vị trí tại gia đình; một bộ phận khác là các viên chức trong các cơ quan Đảng, chính quyền, doanh nghiệp Nhà nước, do có vốn, có đầu óc làm ăn, nên họ chủ động lập trang trại với lao động thuê ngoài là chính. ở các vùng dân tộc, chủ trang trại đại bộ phận là người Kinh.
Chủ trang trại là người có ý chí làm giầu, có kỹ thuật, khả năng quản lý, có vốn và quan trọng là có lao động trực tiếp là bản thân và người trong gia đình kết hợp với thuê mướn thêm lao động sản xuất, kinh doanh. Tuyệt đại bộ phận chủ trang trại đều là những người có đầu óc làm ăn, có ít nhiều kiến thức về kinh tế thị trường. Mặc dù, chủ trang trại vẫn là những người chủ hộ nông dân sản xuất thông thường, nhưng họ là những người sản xuất giỏi, biết cách lựa chọn phương hướng đầu tư, biết cách quản lý sản xuất - nắm bắt được thị trường. Những phẩm chất đó không thể có, hoặc nếu có thì rất hạn chế ở những chủ hộ tiểu nông.
Đây là điều kiện tiền đề đối với các chủ trang trại vì đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mang tính nặng nhọc, rủi ro cao, tỷ lệ sinh lời thấp. Do vậy, sức hút về đầu tư kém hơn so với ngàn._.h khác, nếu không có ý chí làm giầu từ nhà nông ắt sẽ khó vượt qua những trở ngại dẫn đến nản lòng. Trong xu hướng biến động về nguồn nhân lực nó mang tính quy luật từ lao động cơ bắp sẽ chuyển sang lao động trí tuệ, do vậy lao động chất lượng cao sẽ dần chuyển sang các ngành khác. Trong điều kiện chất lượng nguồn lao động nông nghiệp nói chung còn thấp việc chuyển dịch này sẽ cản trở sự phát triển của nông nghiệp, vì vậy nông nghiệp chịu sức ép rất lớn cả về số lượng lẫn chất lượng. Sự giúp đỡ của Nhà nước về phân bố nguồn nhân lực giữa các vùng, các ngành sẽ khuyến khích ý chí quyết tâm làm giầu từ nông nghiệp.
1.3.2.2. Chủ trang trại phải có sự tích luỹ nhất định về kinh nghiệm, về tri thức và năng lực sản xuất kinh doanh.
Kinh tế trang trại bắt nguồn từ kinh tế hộ gia đình phát triển, trong quá trình chuyển đổi này bắt nguồn từ kinh nghiệm, trình độ, sự tích luỹ các yếu tố sản xuất và muốn trang trại tồn tại và phát triển thì các yếu tố trên là rất quan trọng đối với chủ trang trại. Vai trò Nhà nước trong việc phổ biến rộng rãi trong lớp học về khoa học canh tác, phương thức về tổ chức sản xuất kinh doanh, hoạch toán kinh doanh trong nông nghiệp, mở rộng các trung tâm khuyến nông cho chủ trang trại và chủ hộ có ý nghĩa rất lớn.
Ngoài sự tích luỹ của bản thân chủ trang trại cần có sự hỗ trợ của Nhà nước về nguồn lực và tổ chức:
- Về nguồn lực, Nhà nước cần coi việc hỗ trợ truyền tải các tiến bộ khoa học - kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân là một trong những nội dung chủ yếu của việc Nhà nước hỗ trợ nông nghiệp.
- Về tổ chức, cần đa dạng hoá các phương thức chuyển giao khoa học - kỹ thuật cho nông dân với phương thức phù hợp với trình độ, thời gian và tâm lý của người nông dân. Hình thức chuyển giao thích hợp và phổ biến là chuyển giao thông qua hoạt động của các tổ chức dịch vụ khoa học - kỹ thuật, khuyến nông và thông qua các phương tiện thông tin đại chúng...
1.3.2.3. Chủ trang trại phải là người biết tổ chức sản xuất hoạch toán kinh doanh.
Trang trại đơn vị sản xuất hàng hoá với mục tiêu tối cao là lợi nhuận do vậy việc tổ chức sản xuất làm sao cho doanh thu lớn nhất và chi phí nhỏ nhất là yêu cầu cần thiết. Muốn vậy, chủ trang trại phải có cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh hợp lý khai thác được lợi thế so sánh, kết hợp giữa chuyên môn hoá với phát triển tổng hợp, biết phân tích đánh giá hiệu quả kinh doanh để biết được tình hình lỗ, lãi. Hoạch toán kinh doanh giúp chủ trang trại đánh giá được chi phí sản xuất, tìm ra các khâu chưa hợp lý để giảm bớt và hạ giá thành, tăng năng suất và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.3.3. Điều kiện về các yếu tố sản xuất
Muốn trang trại hình thành và phát triển cần phải có sự tập trung với quy mô nhất định về các yếu tố sản xuất, trước mắt về ruộng đất và tiền vốn, vì mục đích của trang trại khác hẳn với sản xuất nông nghiệp truyền thống, đòi hỏi phải có quy mô lớn về các yếu tố sản xuất đủ lớn để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Sự tập trung về lao động là rất cần thiết do các điều kiện về lao động rất dồi dào cho nông nghiệp ở Việt Nam. Trong trường hợp thiếu sức lao động các trang trại có thể thuê lao động ở ngoài dưới hình thức thường xuyên hoặc theo thời vụ.
Sự tập trung về các yếu tố sản xuất và vốn bắt nguồn từ nhiều nguồn khác nhau, có thể đất đai do chủ trang trại sở hữu hoặc Nhà nước sở hữu cũng có thể trang trại đi thuê mướn, còn vốn có thể là vốn tự có, vốn đi vay. Nhà nước nên tạo điều kiện cho sự tích tụ và tập trung các yếu tố sản xuất diễn ra thuận lợi và cần lưu ý là quy mô của sự tập trung này không phải là vô hạn mà có giới hạn bởi các đặc điểm về sinh học và giới hạn tối ưu các yếu tố sản xuất để đạt được hiệu quả kinh tế cao.
Quá trình tập trung các yếu tố này ngoài việc tập trung từ nội lực của nông nghiệp còn được tập trung từ các nguồn lực ở bên ngoài. Đó là sự tập trung vốn từ thành thị, là các khoản trợ giúp cho người lao động từ các ngành khác trở về làm nông nghiệp như công nhân viên chức, cán bộ hưu trí, bộ đội xuất ngũ và của khoản viện trợ, những yếu tố này cần được khai thác tối đa để tập trung.
1.4. vai trò và vị trí của kinh tế trang trại trong phát triển nông nghiệp
Trạng trại là hình thức sản xuất nông nghiệp chủ yếu của nền sản xuất hàng hoá, vì vậy trang trại có vai trò hết sức to lớn trong việc sản xuất lương thực, thực phẩm cung cấp cho xã hội. Trang trại là tế bào kinh tế quan trọng để phát triển nông nghiệp, nông thôn, thực hiện sự phân công lao động xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam chuyển từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá, sự hình thành và phát triển các trang trại có vai trò cực kỳ quan trọng. Biểu hiện trên các mặt như sau:
* Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất lấy vệc khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh phục vụ nhu cầu xã hội làm phương thức sản xuất chủ yếu, vì vậy nó cho phép huy động, khai thác đất đai, sức lao động và nguồn lực khác một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả. Nhờ vậy, nó góp phần tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
* Trang trại với kết qủa và hiệu quả sản xuất cao góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao, khắc phục dần tình trạng manh mún, tạo vùng chuyên môn hoá cao, đẩy nhanh nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá.
Qua thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trang trại tạo ra nhiều nông sản, nhất là nông sản phục vụ nguyên liệu cho công nghiệp chê biến, vì vậy trang trại góp phần thúc đẩy công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn phát triển.
* Trang trại là đơn vị sản xuất có quy mô lớn hơn kinh tế hộ, vì vậy có khả năng áp dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Với cách thức tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh tiên tiến, trang trại là nơi tiếp nhận và truyền tải các tiến bộ khoa học và công nghệ đến hộ thông qua chính hoạt động sản xuất của mình.
* Về mặt xã hội: phát triển kinh tế trang trại làm tăng hộ giầu trong nông thôn, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập, góp phần thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, là tấm gương cho các hộ nông dân về cách thức tổ chức kinh doanh tiên tiến và có hiệu quả... Tất cả những điều đó góp phần quan trọng giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội ở nông thôn.
* Về môi trường: do gắn liền với quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh muốn quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi và bền vững các chủ trang trại bắt buộc phải quan tâm tới việc bảo vệ môi trường sinh thái trước hết là trong phạm vi không gian sinh thái của từng trang trại sau đó đến quy mô vùng.
1.5. Hệ thống các chỉ tiêu phân tích
1.5.1. Các chỉ tiêu phản ánh các yếu tố sản xuất.
- Đất đai bình quân của một trang trại.
- Vốn sản xuất bình quân một trang trại.
- Lao động bình quân của một trang trại.
1.5.2. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại.
- Tổng doanh thu của trang trại: là tổng giá trị tính bằng tiền của các loại sản phẩm sản xuất ra ở các trang trại bao gồm cả phần giá trị để lại tiêu dùng và phần giá trị sản phẩm bán ra trên thị trường.
- Tổng chi phí: là toàn bộ các khoản chi phí vật chất, bao gồm các khoản chi phí nguyên vật liệu: giống, phân bón, thuốc trừ sâu, lao động thuê và các khoản chi phí dịch vụ thuê ngoài: điện, nước...
- Thu nhập: Là giá trị sản phẩm vật chất và do các ngành sản xuất sáng tạo ra trong một năm hay một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận được tính theo công thức: P = TR - TC.
Trong đó: + P là lợi nhuận.
+ TR là tổng doanh thu.
+ TC tổng chi phí.
1.5.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế
TR
* Doanh thu/chi phí =
TC
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi phí bỏ ra cho sản xuất kinh doanh thì trang trại thu được bao nhiêu doanh thu.
P
* Lợi nhuận/Tổng chi phí =
TC
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi phí bỏ ra cho sản xuất kinh doanh thì trang trại thu được bao nhiêu lợi nhuận.
Tổng doanh thu.
* Tổng doanh thu / Lao động =
Lao động.
Trong đó tổng lao động bao gồm: lao động gia đình và lao động thuê ngoài.
Chỉ tiêu này cho biết cứ một lao động tham gia sản xuất kinh doanh thì trang trại thu được bao nhiêu đồng thu nhập.
Tổng doanh thu(TR)
* Doanh thu / diện tích =
Tổng diện tích canh tác
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đơn vị diện tích canh tác thì trang trại thu được bao nhiêu đồng thu nhập.
1.6. khái quát quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam.
Từ những năm đầu thập kỷ 80 đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thực hiện những chủ trương, biện pháp nhất quán theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế thị trường ra đời và phát triển. Qua các kỳ đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII thừa nhận sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và khẳng định chính sách khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần. Trong đó có kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, không tư nhân hoá, đồng thời chủ trương giao quyền sử dụng lâu dài cho hộ nông dân là bước đột phá đầu tiên để kinh tế hộ và kinh tế trang trại phát triển. Điều đó đã tạo điều kiện cho kinh tế trang trại hình thành và phát triển ở Việt Nam trong những năm qua với các biểu hiện chủ yếu như sau:
* Các chủ trương và biện pháp thích hợp của Nhà nước, đã đổi mới về sở hữu và sử dụng ruộng đất.
+ Chỉ thị 100/CT -TW của Ban Bí thư ra đời năm 1981 về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động cho phép hộ gia đình chủ động sử dụng một phần lao động và thu nhập, song chưa thay đổi gì về quan hệ quyền sở hữu tư liệu sản xuất, vẫn giữ chế độ theo ngày công. Chỉ thị này đã khắc phục những tiêu cực trước kia và khôi phục lại quyền tự chủ đối với sản xuất cho của hộ gia đình trong các việc sử dụng ruộng đất và lao động cho bản thân họ.
+ Theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (ra đời năm 1988) và Nghị quyết hội nghị lần thứ VI ban chấp hành Trung ương khoá VI tháng 3 -1989 thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn đồng thời khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân. Đây là những bước khởi đầu cho kinh tế trang trại phát triển như Nghị định 170/HĐBT năm 1988 ngày 14 - 11 - 1988 của Hội đồng Bộ trưởng ( này là Chính phủ ) về khuyến khích các hộ cá thể, tư nhân phát triển sản xuất, kinh doanh trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp. Có những nội dung chủ yếu của Văn kiện trên liên quan đến tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ kinh tế trang trại, bao gồm :
Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài, tác dụng tích cực của các hộ kinh tế cá thể, tư nhân, thừa nhận tư cách pháp nhân và bảo đảm bình đẳng về quyền làm ăn của họ trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp .
Nhà nước tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho kinh tế cá thể, tư nhân phát triển trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi trồng - khai thác thuỷ sản, kinh doanh dịch vụ và mở mang ngành nghề ở nông thôn .
Nhà nước bảo hộ các quyền về tài sản và thu nhập hợp pháp của các hộ gia đình cá thể, tư nhân. Mọi hành vi vi phạm các quyền nói trên đều phải xử lý theo pháp luật, các định kiến hẹp hòi đối với kinh tế cá thể, tư nhân phải được xoá bỏ.
Nhà nước cho thuê đất hoặc giao quyền sử dụng đất lâu dài ổn định để cho các hộ kinh tế cá thể, tư nhân có điều kiện tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông lâm nghiệp. Các hộ tư nhân và công ty tư nhân được thuê mướn lao động theo yêu cầu phát triển sản xuất; được quyền tự do tiêu thụ sản phẩm ở nơi có lợi theo đúng nguyên tắc thuận mua và bán; được quyền uỷ thác xuất nhập khẩu cho các cơ quan xuất nhập khẩu của Nhà nước, khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài và tổ chức kinh tế tư nhân nước ngoài gửi máy móc, thiết bị hùn vốn kinh doanh hoặc đứng ra tổ chức kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp.
+ Nghị quyết Trung ương V (khoá VII) tháng 6 năm 1993 về vấn đề sử dụng ruộng đất, công nhận 5 quyền cho người sử dụng đất đai: quyền chuyển đổi, quyền chuyển nhượng, quyền cho thuê, quyền thừa kế và thế chấp. Đây là bước phát triển hoàn thiện nhằm hoàn thiện thêm chế độ sử dụng đất nông, lâm nghiệp, có tác dụng thúc đẩy sự tập trung ruộng đất để hình thành các trang trại. Đồng thời Nghị quyết này đã nhấn mạnh lại một cách rõ ràng hơn về việc khuyến khích phát triển các trang trại như: “ Khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, tư nhân trong nông, lâm, ngư nghiệp và dịch vụ nông thôn. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư khai thác đồi núi trọc, bãi bồi ven biển, nuôi trồng thuỷ sản, đánh bắt ngoài khơi. Xây dựng các nông, lâm, ngư nghiệp với quy mô thích hợp ...Khuyến khích các nhà kinh doanh từ thành phố, thị xã về nông thôn sản xuất - kinh doanh nông nghiệp ”.
+ Về mặt pháp lý, luật đất đai của Quốc hội thông qua ngày 14 -7 -1993 là cơ sở pháp lý toàn diện về sở hữu và sử dụng đất đai cho mọi lĩnh vực kinh tế xã hội nói chung, trong đó có các trang trại nông, lâm, ngư nghiệp. Sau luật đất đai 1993, nhiều văn bản pháp luật liên quan đến việc giao quyền sử dụng đất, thuế và chuyển quyền sử dụng ruộng đất được ban hành như Nghị quyết 64 /CP ngày 27- 9 1993 về giao đất nông nghiệp và Nghị định số 02/CP ngày 5 -7 - 1994 về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài về mục đích sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp.
* Nhà nước đổi mới cách phân phối sản phẩm đầu ra phù hợp với quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất .
+ Việc thực hiện khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo chỉ thị 100/CT - TW bước đầu là động lực thúc đẩy các hộ gia đình phát triển sản xuất tăng phần vượt khoán.
+ Sau Nghị quyết 10, người nông dân hoàn toàn chủ động trong việc phân phối sản phẩm đầu ra. Họ chủ động trong sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường, tự tìm kiếm các nguồn lực cho sản xuất nhất là ở vùng trung du miền núi, ven biển... Quá trình này đã được diễn ra mạnh mẽ và dần dần hình thành kinh tế trang trại. Tháng 3 - 1989 Nhà nước thi hành chính sách một giá, bỏ hoàn toàn việc bù giá thực hiện bao cấp qua giá các mặt hàng thiết yếu cho tiêu dùng, kể cả gạo. Từ đó những người chủ hộ có chí hướng và năng lực làm giàu bằng kinh doanh nông nghiệp đã vươn lên phát triển theo hướng kinh tế trang trại.
* Các chính sách tác động theo hướng phục vụ trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp.
+ Ngày 23 - 3 - 1993, chính phủ ban hành Nghị định số 14/CP về chính sách cho hộ nông dân vay vốn sản xuất trong nông, lâm, ngư nghiệp. Theo Nghị định này, đối tượng được ưu tiên vay vốn là các hộ gia đình nông dân tự chủ.
+ Quyết định 327/CP của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ngày 15/9/1992 về vấn đề cho vay vốn nhằm sử dụng đất trống, đồi núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước đã tạo điều kiện vật chất cho sự ra đời của các trang trại lâm nghiệp, trồng cây dài ngày hoặc nuôi trồng thuỷ sản ở vùng đất còn hoang hoá. Đối tượng của chương trình này không chỉ là nông dân mà là mọi đối tượng cá nhân, tổ chức trong thành phần kinh tế đã tạo nên tính đa dạng về nguồn gốc hình thành các loại hình trang trại nông, lâm, ngư nghiệp.
Bước sang những năm đầu của thập kỷ, kinh tế trang trại càng được khẳng định là đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cho nông nghiệp và nông thôn. Nhận thức đúng đắn hơn nữa về vấn đề này Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có chủ trương chính sách cụ thể đề cập đến phát triển kinh tế trang trại như sau:
- Nghị quyết trung ưong IV (tháng 12/ 1997) đã xác định kinh tế trang trại với nhiều hình thức sở hữu khác nhau (Nhà nước, tập thể, tư nhân ) được phát triển chủ yếu để trồng cây dài ngày, chăn nuôi đại gia súc ở những nơi có nhiều ruộng đất, khuyến khích việc khai phá đất hoang hoá vào mục đích này.
- Nghị quyết Trung ương VI lần 1 (10 / 1998) đã chỉ rõ sớm kết luận hình thức kinh tế trang trại ở các vùng nhằm phát huy hiệu quả sản xuất.
- Nghị quyết VI của Bộ chính trị phát triển sâu hơn quan điểm của Đảng về cơ sở của kinh tế hộ, tính tự chủ của nó trong nền kinh tế - khuyến khích phát triển hình thức trang trại gia đình như các loại hình sản xuất khác của kinh tế hộ gia đình.
Mới đây là Nghị quyết 03 của chính phủ (tháng 2/ 2000) về kinh tế trang trại. Nghị quyết đã đề cập tương đối cụ thể về hình thức phát triển kinh tế trang trại đề ra những quan điểm và chính sách cụ thể phát triển kinh tế trang trại như chính sách thuế, khuyến khích đầu tư, hỗ trợ vốn, kỹ thuật.
Chương 2
thực trạng phát triển kinh tế trang trại
ở ngoại thành Hà Nội
2.1. đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng ngoại thành Hà Nội ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế trang trại.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên.
2.1.1.1. Vị trí địa lý.
Ngoại thành Hà Nội gồm có 5 huyện đó là: Đông Anh, Từ Liêm, Gia Lâm, Thanh Trì và Sóc Sơn. Về vị trí địa lý Hà Nội nằm ở trung tâm vùng Đồng bằng sông Hồng trong phạm vi từ 200 53’ đến 500 23’ vĩ độ Bắc, và từ 1050 44’ đến 1060 2’ kinh độ Đông. Hà Nội tiếp giáp với Thái Nguyên ở phía Bắc, Hà Nam và Hà Tây ở phía Nam và Tây Nam.
2.1.1.2. Đất đai và địa hình.
Ngoại thành Hà Nội có địa bàn rộng lớn với tổng diện tích đất đai 844,61 km2 chiếm 91,07% đất đai toàn Thành phố. Riêng đất nông nghiệp ngoại thành có khoảng 43.465 ha chiếm 4,7 %, 6.717 ha là đất lâm nghiệp, chiếm 7,3%, còn lại là đất chuyên dùng. Ngoại thành Hà Nội có 3 loại đất chủ yếu, đất phù sa chiếm khoảng 46%, đất gò đồi bán sơn địa chiếm khoảng 31% và đất trũng chiếm 23%. Ngoại thành Hà Nội được chia làm 2 vùng đồi núi thấp và trung bình với dãy núi Sóc Sơn có đỉnh cao nhất là đỉnh Chân chim với độ cao là 462 m vùng đồi núi của Hà Nội có thể kết hợp sản xuất nông nghiệp với phát triển du lịch. Với địa bàn đồi núi thấp nơi đây phù hợp với cây ăn quả, và chăn nuôi đại gia súc. Vùng đồng bằng của Hà Nội là vùng Châu thổ của Sông Hồng đã được khai phá từ lâu đời. Vùng này đặc trưng dân cư đông đúc với tập quán canh tác của các vùng nông nghiệp truyền thống ngoại thành Hà Nội. Vùng Đồng bằng ngoại thành Hà Nội phù hợp với phát triển nhiều loại cây trồng ngắn ngày đòi hỏi đầu tư lớn, có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là các loại cây trồng như: hoa, cây cảnh,... ở đây cũng phù hợp với việc phát triển các ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản. Trong đất nông nghiệp, diện tích đất canh tác là 38.885 ha, chiếm 98,48%, đất vườn là 97,3 ha, chiếm 1,09%, đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 2.820 ha, chiếm 6,49%, đất trồng cây cây lâu năm là 1.200 ha chiếm 2,76 % và đất trồng cây thức ăn chăn nuôi là 78 ha chiếm 0,18%. Hà Nội có nhiều diện tích ao hồ, ruộng một lúa một cá, đất canh tác hàng năm, đất trồng cây lâu năm, nhất là các vùng xa Sóc Sơn, một số xã của huyện Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm, Đông Anh, có nhiều khả năng phát triển kinh tế trang trại. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại trồng cây hàng năm, cây lâu năm và phục vụ chăn nuôi.
Khoảng 5.000 ha rừng tập trung ( rừng phòng hộ, rừng đặc thù..). Đây cũng là điều kiện phát triển kinh tế trang trại và cải thiện môi trường cảnh quan.
2.1.1.3. Thời tiết, khí hậu, thuỷ văn.
Khí hậu của Hà Nội mang đặc trưng của khí hậu đồng bằng Sồng Hồng. Đó là nền khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới ẩm, có pha trộn ít nhiều tính chất ôn đới. Tuy nhiên, do ngoại thành Hà Nội còn có các tiểu vùng sinh thái đặc thù như vùng đồi gò Sóc Sơn, vùng trũng Thanh Trì... nên cũng có một số nét đặc trưng. Nhiệt độ trung bình năm là 240 C, tối đa là 42,80C và tối thiểu là 5,60 C. Lượng mưa cả năm giao động trong khoảng 1.300 - 1.700 mm, với năm cao nhất là 2.714 mm và năm thấp nhất là 1.175 mm. Độ ẩm không khí trung bình là 84% và thấp nhất là 25%, bão ảnh hưởng đến Hà Nội từ tháng 7 đến tháng 10, tỷ suất giao động từ 2,5 - 32,5%, số giờ nóng dao động từ 1.500 - 1.700 giờ, tổng bức xạ quang hợp từ 55 đến 62 kcal/cm2/năm.
Nguồn nước ở ngoại thành Hà Nội đa dạng có thể thoả mãn nhu cầu phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiêp, dịch vụ và nhu cầu sinh hoạt. Bao gồm nguồn nước của các sông Hồng, Sông Đuống, Sông Cà Lồ và Sông Cầu với tổng chiều dài là 36,5 km2, nước của các ao hồ và nguồn nước ngầm có thể khai thác 1.000.000 m3/ngày đêm, lượng mưa trung bình trên địa bàn khoảng 1.500 mm. Với nguồn nước đa dạng và phong phú như vậy cho phép đáp ứng đủ nhu cầu của sản xuất nông nghiệp ngoại thành. Tuy nhiên, nó cũng tồn tại một số khó khăn cơ bản là nước một số nơi đang bị ô nhiễm nặng nề, nguy cơ ô nhiễm ngày càng cao đặc biệt là các xã ven nội của Thanh Trì, Từ Liêm.
Tóm lại, Thời tiết khí hậu cũng là một lợi thế tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung ở ngoại thành Hà Nội. Khí hậu, thuỷ văn của Hà Nội thích hợp với nhiều loại cây trồng, vật nuôi và du nhập những giống cây trồng vật nuôi mới. Nông nghiệp Hà Nội ít gặp thiên tai nặng nề như nhiều tỉnh khác tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển thuận lợi, đặc biệt là kinh tế trang trại.
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội.
2.1.2.1. Dân số và nguồn lao động.
Ngoại thành Hà Nội có 5 Huyện với 118 xã và 8 thị trấn. Về dân số tính đến năm 2000 Hà Nội có 2.666,5 nghìn người, trong đó ngoại thành 1.225,9 ngàn người chiếm 5,4% dân số thành phố Hà Nội. Tỷ lệ tăng dân số ngoại thành Hà Nội hiện nay vẫn là 1,96% (riêng ở Sóc Sơn 2,2%) trong đó nhân khẩu trong nông nghiệp 751.512 người và lao động nông nghiệp trong độ tuổi là 320.064 người, chiếm 43,65% số nhân khẩu nông nghiệp.
Đất nông nghiệp canh tác bình quân một nhân khẩu thấp (khoảng 514m2/người), trong điều kiện dân số nông nghiệp nói riêng, nông thôn nói chung tăng nhanh và đất bị thu hẹp dần do quá trình đô thị hoá cho nên xu thế đất canh tác ngày càng giảm, trong khi có yêu cầu giải quyết việc làm trong nông nghiệp ngoại thành vừa mang tính bức bách lại càng gay gắt hơn.
Trong tổng số lao động nông nghiệp. Số lao động trong ngành chăn nuôi chiếm khoảng 12,5%, lao động thuỷ sản chiếm 0,5%, lao động làm nghề xây dựng theo mùa vụ 0,5% và còn lại 86,5 % làm nghề trồng trọt.
Nông dân ngoaị thành nhạy bén với kỹ thuật và thị trường, đây là một điều kiện thuận lợi nhưng theo kết quả điều tra cho thấy 100 lao động thì cho thấy 13 người chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở, số người tốt nghiệp cao đẳng trở lên ít (có khoảng 2 người). Do đó chưa tiếp nhận và vận dụng được những kỹ thuật và thông tin một cách có hiệu quả. Cho nên yêu cầu đào tạo và đào tạo lại lao động phù hợp với yêu cầu mới là một điều hết sức cấp bách hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế trang trại.
2.1.2.2. Cơ sở hạ tầng.
Về cơ cấu hạ tầng cho nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay đã có 80% đường giao thông nông thôn được trải nhựa, bê tông, đá cấp phối và trải gạch, tuy nhiên đường còn hẹp, chất lượng chưa cao.
Cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nông thôn ngoại thành được Nhà nước quan tâm đầu tư. Nguồn vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn ngoại thành trong giai đoạn 1995 - 2001 với tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là 382,193 tỷ đồng. Trong đó: nông nghiệp là 43,204 tỷ đồng, thuỷ lợi là 142,365 tỷ đồng, giao thông nông thôn là 76,889 tỷ đồng, nước sinh hoạt là 10,599 tỷ đồng, điện nông thôn là 51,552 tỷ đồng.
* Hệ thống thuỷ lợi.
Hệ thống thuỷ lợi đã được cải tạo, xây dựng mới hơn 107 km2 kênh mương bê tông. Với tổng số vốn 142,365 tỷ đồng để cải tạo và xây dựng mới các công trình thuỷ lợi, cho đến nay hệ thống thuỷ nông của toàn Thành phố đã đảm bảo chủ động tưới cho 76% diện tích cây trồng hàng năm, tiêu chủ động cho 73,9% diện tích cây hàng năm, có khoảng 15% số kênh mương tưới dẫn nước cứng hoá.
* Về xây dựng điện nông thôn.
Đến này ở ngoại thành Hà Nội đã có 100% số xã có điện, số hộ dùng điện ở ngoại thanh Hà Nội là 98,44%, hầu hết các xã bán điện cho nông dân với giá ổn định dưới 700 đồng / Kwh (có 87% xã).
* Giao thông nông thôn.
Ngoại thành Hà Nội có khoảng 99,2% đường giao thông nông thôn xã được trải nhựa, đã cấp phối hoặc lát gạch. Giao thông nông thôn phát triển đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn, tạo điều kiện cho người dân đi lại và trao đổi buôn bán nông sản, cung ứng vật tư phục vụ sản xuất.
* Nước sạch và môi tường.
Tỷ lệ dân được dùng nước sạch hiện nay có khoảng 70%, hàng chục giếng khoan của hộ nông dân đáp ứng được nhu cầu nước sạch hàng ngày. Các hình thức hợp tác xã dịch vụ cung cấp nước sạch sinh hoạt cho hộ nông dân bước đầu phát triển và có kết quả tích cực, tạo nguồn nước sạch cho nông dân sử dụng. Vấn đề môi trường đã được một số địa phương quan tâm giải quyết, một số xã đã thành lập tổ vệ sinh môi trường do dân tự đóng góp kinh phí và hoạt động có kết quả như xã Tây Tựu, Chung Văn (Từ Liêm).
* Về giáo dục
Được thành phố đầu tư cho xây dựng sửa chữa nâng cấp trường lớp, đến này 100% xã có trường tiểu học và phổ thông cơ sở được xây dựng kiên cố, bán kiên cố. Đã xoá bỏ được tình trạng học 3 ca như trước đây. Cơ sở vật chất được nâng cấp phục vụ tốt hơn cho việc học tập, 100% xã trong huyện đã phổ cập cấp II. Hà Nội là địa phương đầu tiên trong cả nước được công nhận đã phổ cập cấp II, 68,5% cháu được học trong độ tuổi được theo học lớp giáo dục mầm non, 99,7 % số cháu trong độ tuổi được vào học phổ thông cơ sở, 8,87% số cháu trong độ tuổi được học phổ thông trung học.
* Văn hoá thông tin.
100% xã có trạm truyền thanh, 51% xã có nhà văn hoá. Thông tin liên lạc ở ngoại thành ngày càng phát triển, 100% số xã có máy điện thoại.
* Về y tế.
Hiện nay 100% số xã có trạm y tế phục vụ cho nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân tại cơ sở, 100% số trạm y tế đã có bác sỹ, y sỹ,... Trung bình 1.000 người dân ngoại thành có 0,26 bác sỹ, 0,46 giường bệnh, nhiều trạm y tế xã. Trung tâm y tế huyện được nâng cấp trang bị những dụng cụ chữa bệnh cần thiết.
2.1.2.3. Đặc điểm về kinh tế vùng ngoại thành.
Địa bàn ngoại thành Hà Nội có hệ thống giao thông thuận lợi đến thôn xã, gần thị trường thủ đô, là đầu mối giao thông, lưu thông hàng hoá với các tỉnh xuất khẩu. Cơ sở vật chất thuỷ lợi, tuy chưa hoàn chỉnh, nâng cấp xong, nhưng đã phục vụ tưới tiêu 70% diện tích không bị hạn và một phần diện tích không ngập úng.
Trong những năm gần đây cùng với cả nước kinh tế ngoại thành Hà Nội vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Những kết quả nổi bật của kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội trong hơn 10 năm qua là:
- Nông nghiệp bước đầu phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, với nhiều loại sản phẩm chất lượng cao, giá trị lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, và đòi hỏi của đời sống ngày càng cao của nhân dân thủ đô. Trong đó, lương thực đáp ứng trên 42%, hoa quả 20%, rau 83%, cá 47%, sữa 62%, trứng 50%, thịt gia cầm 60%, thịt lợn 61%, thịt bò 50%,...
- Sản xuất nông nghiệp ở ngoại thành Hà Nội do áp dụng khá rộng rãi kỹ thuật thâm canh, các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, công nghệ mới, nhất là về giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt, biện pháp canh tắc tiên tiến, nên đã tạo ra sự tăng trưởng tương đối cao và đem lại giá trị thu nhập khá lớn. Trong đó, giá trị sản lượng nông nghiệp bình quân tăng 3,9 %/năm. Giá trị sản phẩm trên một ha đất canh tác tăng 14,6%/ năm. Năm 1991 giá trị sản phẩm đạt 13,5 triệu/ha đến năm 1999 đã đạt 39,0 triệu đồng/ ha.
- Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Trong đó, tỷ trọng ngành chăn nuôi ngày càng tăng: Năm 1991 đạt 30,6% thì năm 1999 đạt 38,0%; tỷ trọng ngành trồng trọt giảm còn 62%, cơ cấu kinh tế nông thôn ngoại thành trước 1990: nông nghiệp chiếm 90%; đến năm 1999 tỷ trọng nông - lâm nghiệp chỉ con 36,3% và công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp - Thương mại - Dịch vụ đạt 63,7%.
- Nông thôn Hà Nội từng bước được đổi mới, đời sống nông dân càng ngày càng được nâng cao. Trong đó, có 80% là đường giao thông nông thôn đã được trải nhựa, bê tông; 100% số xã có điện thoại, có đài truyền thanh và có trạm y tế xã, có đủ trường cho con em theo học. Trên 95% hộ nông dân được sử dụng điện thắp sáng, 70% số dân đã được dùng nước sạch, số hộ nghèo giảm còn 3,0% và số hộ giầu tăng lên 24%, thu nhập bình quân nhân khẩu ngoại thành đạt 256.000 đ/tháng.
- Quan hệ sản xuất trong nông thôn ngày càng được củng cố, 95,17% số HTX nông nghiệp đã chuyển đổi theo luật HTX, tạo ra bước phát triển mới vê xây dựng quan hệ sản xuất trong nông thôn cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất hiện nay.
Trên thực tế, qua khảo sát về đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội vùng ngoai thành Hà Nội cho thấy, mặc dù có nhiều thuận lợi hơn các nơi khác về điều kiện tự nhiện, cơ sở hạ tầng nhưng nhìn chung vẫn còn một số tồn tại:
- Sản xuất hàng hoá vẫn kém phát triển, ế đọng nông sản và sản phẩm công nghiệp, trong khi một số nông sản thiếu như hoa quả, sữa... do chuyển đổi cơ cấu kinh tế còn chậm cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ hầng nông thôn đã được đầu tư hàng năm song vẫn lạc hậu, xuống cấp so với yêu cầu đổi mới. Nhiều xã miền xa, vùng núi gặp nhiều khó khăn về giao thông, điện, thuỷ lợi...
- Tệ nạn xã hội còn nhiều: cơ bạc, ma tuý, cưới xin tốn kém vẫn diễn ra. Hàng vạn người còn thiếu việc làm thường xuyên, công tác đào tạo nghề gặp khó khăn.
2.2. thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở ngoại thành Hà Nội.
Cùng với cả nước, Hà Nội đã tích cực triển khai các Nghị quyết của chính phủ như Nghị quyết 10/BCT ngày 5/4/1988, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VI/BCH - TW khoá VI tháng 3 - 1989 và chỉ thị 100/CT - TW của Ban Bí thư Trung ương ngày 13-1-1981. Thành uỷ Hà Nội đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành như chỉ thị 12/CT-TW, đối với từng đơn vị sản xuất nông nghiệp. Các chính sách này đã đáp ứng nhu cầu trực tiếp, tạo ra động lực mới thúc đẩy mạnh mẽ nông nghiệp, nông thôn phát triển trong đó có kinh tế trang trại.
Năm 1992 Thành uỷ đã xây dựng chương trình 06 về phát triển kinh tế trang trại xây dựng nông thôn mới, trong đó tập trung chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn, đổi mới tổ chức, quy hoạch và quản lý đất đai theo hướng xây dựng vùng chuyên môn canh tác gắn với cơ sở chế biến, khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển, phát triển ngành nghề nông thôn.
Đến năm 2001, Hà Nội vẫn tiếp tục thực hiện Nghị quyết 03/2000/NQ - CP của Chính phủ về phát triển trang trại, Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội đã có công văn số 33/UB - NN giao cho sở nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì cùng các huyện, các ngành liên quan tổ chức khảo sát, xây dựng chính sách ph._.uyện và phải có phương pháp làm đúng đắn và thích hợp. Cần khuyến khích các hộ chuyển đổi ruộng đất trước khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai.
Có sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước. Trước hết, phải có kế hoạch lâu dài đất đai phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của từng vùng, lãnh thổ.. , Từ đó có kế hoạch chuyển đổi đất đai thích hợp khắc phục tình trạng đất đai manh mún.
Thứ năm là: Thừa nhận về mặt pháp lý đất đai là một hàng hoá đặc biệt để quản lý và sử dụng đất đai có hiệu quả.
3.2.2. Vốn.
Vốn là nguồn lực hết sức quan trọng đối với kinh tế trang trại. Nó là chìa khoá ban đầu là khâu then chốt để hình thành và phát triển kinh tế trang trại. Thưc tế vốn đầu tư của các trang trại ở CHDCND Lào nhìn chung là chưa lớn, nguồn vốn hầu hết là vốn tự có chiếm tỷ lệ lớn hơn vốn vay khác.
Việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại đòi hỏi phải có số vốn lớn hơn kinh tế hộ. Hầu hết các trang trại đang có nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Nhưng một số trang trại ở CHDCND Lào thật sự là chưa tha thiết lắm với việc vay vốn của ngân hàng vì thủ tục vay còn rờm rà, thời điểm, thời hạn vay chưa hợp lý với chu kỳ sản xuất nông nghiệp và còn ngắn. Còn một số trang trại thì rất lo ngại đến việc vay vốn, không dám vay mượn thì sợ là đến lúc trả không đủ khả năng để bù lại những khoản đó, bởi vì độ rủi ro trang trại sản xuất nông nghiệp nói chung, trong trang trại nói riêng là khá cao. Nhiều khi thắng lợi đã nhìn thấy trước mắt bỗng nhiên bị mất trắng chỉ vì cơn bão trái mùa, hạn hán, mưa lũ, bão lụt, sâu bệnh vv... có thể ập đến bất cứ lúc nào. Sự bấp bênh trao đảo của thị trường, giá cả cũng vượt quá tầm trống của các chủ trang trại làm họ có thể bị khánh kiệt, trắng tay trong thời gian ngắn (thường là những trang trại ở vùng sâu vùng xa, trung du, miên núi... ở phía bắc Lào). Do vậy cần giải quyết những vấn sau:
- Việc xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp ở khu vực có trang trại đòi hỏi chi phí lớn, cần phải có sự hỗ trợ từ vốn ngân sách của địa phương và Nhà nước một phần nào đó, như là hỗ trợ kỹ thuật, huy động nguồn lực các trang trại với phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm ”.
- Nhà nước cần phải thực hiện các cơ chế cho các chủ trang trại vay theo nhiều hình thức: Thời hạn cho vay phải phù hợp với đất và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp tức là cho vay theo chu kỳ sản xuất kinh doanh của từng loại sản phẩm, thậm chí có thể thời hạn cho vay vốn lớn hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh, vì chủ trang trại phải mua sắm vật tư trước. Lựa chọn thời điểm thích hợp bán sản phẩm, về lãi suất vốn vay cần được ưu đãi.
Tăng quỹ cho vay của ngân hàng để các chủ trang trại vay vốn, lượng vốn cho vay của từng trang trại phụ thuộc vào quy mô, yêu cầu của từng loại cây trồng, vật nuôi, nhu cầu sử dụng vốn và lượng vốn hiện có.
Công nhận có tư cách pháp nhân một cách thông thoáng hơn, để chủ trang trại huy động vốn công khai bình đẳng hợp pháp và có thế chấp tại ngân hàng.
Khuyến khích những người có vốn ở thành thị và địa phương đầu tư làm kinh tế trang trại.
- Nhà nước cần phải sớm chính sách và biện pháp về bảo hiểm đối với vật nuôi cây trồng. Để giúp các trang trại hạn chế, khắc phục rủi ro, sớm ổn định sản xuất sau thiệt hại.
* Tóm lại: Muốn có vốn đến với từng vùng, từng hộ nông dân để phát triển kinh tế trang trại cần có sự đồng bộ từ Nhà nước đến địa phương và các cấp các ngành, các ngân hàng nhất là ngân hàng nông nghiệp phải tăng cường hoạt động với cơ chế cho vay thuận lợi hình thành và tổ chức tín dụng hợp tác xã ưu tiên cho kinh tế trang trại.
Vốn đầu tư cân tập trung cho các vùng trọng điểm phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và quy hoạch các vùng sản xuất chuyên môn hoá. Tập trung đầu tư cho kinh tế trang trại nuôi trồng thuỷ sản của các huyện, cho vùng chuyên canh chè, cho vùng cây ăn quả, cây lâm nghiệp.
Nhà nước cần phải thực hiện cơ chế chính sách cho chủ trang trại vay theo dự án đầu tư đã dược cấp có thẩm quyền phê duyệt, lãi suất vốn vay đầu tư 0,81%/tháng, thời hạn vay theo chu kỳ sản xuất kinh doanh theo loại sản phẩm như cơ chế tín dụng đầu tư áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước. Vay đầu tư theo hình thức này sẽ có điều kiện ràng buộc chủ trang trại có nghĩa vụ tạo ra vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tạo được nhiều việc làm cho người lao động.
Đối với vung sâu, vùng cao, những hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc có ý trí và khả năng sản xuất có quy mô lớn, ngoài việc ưu tiên giao đất ở những địa bàn thuận lợi, đề nghị Nhà nước giao cho ngân hàng người nghèo ưu tiên cho những hộ này vay đầu tư lập trang trại, tạo mô hình và hường dẫn nông dân trong vùng phát triển nông, lâm, ngư nghiệp
3.2.3. nhân lực.
CHDCND Lào có dân số là 5.218.000 người (năm 2000), tốc độ tăng dân số 2,3%, tong đó sức lao động là 2.350.000 người với tốc độ tăng là 3,0%. Lao động nông nghiệp chiếm 80,0%, tỷ lệ người biết chữ là 70%. Số nhân khẩu và số lao động bình quân của một trang trại là chưa biết vì chưa được điều tra tổng kết lại các trang trại trên phạm vi cả nước.
Nguồn nhân lực của trang trại bao gồm 2 vấn đề: Số lượng và chất lượng. Để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại, nguồn nhân lực có vai trò to lớn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh cùng với xu hướng phát triển sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế thị trường, lực lượng lao động của trang trại bao gồm cả số lượng và chất lượng các thành viên trong trang trại và lao động làm thuê. Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng lao động cần có các biện pháp cơ bản như sau:
- Nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý và khoa học - kỹ thuật của chủ trang trại, đây là giải pháp rất quan trọng cho phát triển kinh tế trang trại. Cần thực hiện việc bồi dưỡng nâng cao năng lực của chủ trang trại thông qua hệ thống khuyến nông. Cần xác định chủ trang trại là những mắt xích quan trọng trong hệ thống khuyến nông này, vừa là tấm gương vừa là đi trước trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, vừa có thể truyền bá kiến thức cho các chủ trang trại khác và hộ nông dân, vì vậy chính quyền lên đứng ra gắn kết giữa các trang trại với các hộ nông dân và các trang trại với nhau, giúp nhau phát triển kinh tế. Hiện nay, cả nước của CHDCND Lào chưa có kế hoạch và chương trình đào tạo các chủ trang trại và các hộ nông dân, vì vậy Nhà nước nên hỗ trợ tích cực đối với vấn đề này.
- Phát triển nguồn nhân lực làm thuê cho các trang trại trên cơ sở thực hiện chính sách bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Đồng thời cần có những chương trình và hỗ trợ tốt việc đào tạo cho phù hợp với bộ phận lao động làm thuê nhất là bộ phận lao động kỹ thuật
- Nghiên cứu phổ biến quy trình tuyển dụng lao động làm thuê với kinh tế trang trại theo dúng luật hiện hành. Hợp pháp hoá hoạt động kinh doanh của trang trại. Kể cả Đảng viên có tham gia phát triển kinh tế trang trại, hướng dẫn chủ trang trại ký hợp đồng thoả thuận với người lao động, một mặt đảm bảo hoạt động của chủ trang trại được thuận lợi. Mặt khác đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và tiền công lao động.
3.2.4. thị trường.
Không có thị trường tự do, kinh tế trang trại không thể phát triển. Tình trạng cấm chợ, ngăn sông, chia cắt thị trường đã được bãi bỏ nhưng đối với chủ trang trại vẫn gặp nhiều khó khăn ách tắc như: Thiếu những dự báo thông tin thị trường kịp thời, chính xác để ra quyết định đúng đắn và hầu hết các trang trại đều gặp phải khó khăn trong vấn đề tiêu thụ sản phẩm.
Lập nghiệp bằng phát triển kinh tế trang trại ở CHDCND Lào một số nơi còn cách biệt với bên ngoài do điều kiện vị trí địa lý, địa hình hiểm trở, giao tthông khó khăn, lại chưa dày dạn, từng trải trên thương trường, mối quan hệ giao lưu hiểu biết tình hình thị trường trong nước và ngoài nước còn hạn chế.
Để khắc phục mâu thuẫn này, Nhà nước phải sớm hình thành hệ thống tổ chức dự báo thị trường, thông qua các trung tâm khuyến nông, các cơ quan chức năng, các phương tiện thông tin đại chúng, cung cấp kịp thời đầy đủ, chính xác tình hình thị trường trong nước và ngoài nước cho nông dân một cách công khai, rộng rãi.
Nhà nước có vai trò quan trọng đối với thị trường cung cấp, cung ứng các yếu tố đầu vào như: Giống, vốn, kỹ thuật sản xuất ...Cần củng cố vị thế của Nhà nước thông qua hệ thống tín dụng, ngân hàng, hệ thống kinh doanh xuất khẩu vật tư nông nghiệp. Mục đích chủ yếu của củng cố này là chống lũng đoạn thị trường của một số yếu tố vào sản xuất chủ yếu cho các trang trại.
Đối với thị trường nông sản đầu ra, Nhà nước tạo điều kiện cho kinh tế trang trại theo:
- Tập trung sức phát triển các doanh nghiệp chế biến ở các vùng chuyên môn hoá lớn. Phát triển công nghiệp chế biến ở vùng trọng điểm để tiêu thụ sản phẩm tại chỗ, làm tăng giá trị sản phẩm, đồng thời kéo dài thời gian bảo quản, tiêu thụ sản phẩm. Đẩy mạnh hoạt động chế biến ngay tại gia đình để cung cấp ngyuên liệu sơ chế cho nông nghiệp và dễ bảo quản, vận chuyển dễ hơn trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, đầu tư phương tiện vận tải, kho chứa để nhanh chóng giải quyết tình trạng sản phẩm ứ đọng tại nơi sản xuất trong mùa vụ thu hoạch.
Khuyến khích các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp hoạt động dịch vụ thương mại ở nông thôn để tạo nhiều luồng hàng phân phối tiêu thụ sản phẩm ra khắp thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Nhà nước cần tăng cường có chính sách, biện pháp giúp đỡ hỗ trợ các trang trại mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước vầ khuyến khích xuất khẩu hàng nông sản; hướng dẫn các trang trại đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, tích cực chủ động thâm nhập, mở rộng thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu v.v...là những giải pháp tích cực để giúp các trang trại tháo gỡ những khó khăn về tiêu thụ sản phẩm.
Khuyến khích và tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các lực lượng tham gia vào hoạt động dịch vụ thương mại, cung cấp vật tư máy móc, công cụ cho sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá nông nghiệp.
Đối với các trang trại nuôi trồng thuỷ sản cần coi trọng nâng cao chất lượng thuỷ sản và công nghệ chế, bảo quản để sử dụng sản phẩm tươi. Đa dạng hoá các loại sản phẩm thuỷ sản để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thường xuyên và rộng lớn của thành phố và các vùng lân cận.
3.2.5. khoa học - công nghệ - môi trường.
Đây là một trong những vấn đề tiếp xúc nhất đối với kinh tế trang trại ở CHDCND Lào, là giải pháp vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa có ý nghĩa lâu dài để đảm bảo cho kinh tế trang trại phát triển ổn định, đạt hiệu quả cao. Do vậy, Nhà nước cần phải đầu tư cho việc nghiên cứu khoa học - công nghệ, ứng dụng và gắn bó với thực hiện các chính sách giải pháp về khoa học, công nghệ, môi trường là chính sách đầu tư cho nghiên cứu, bố trí, quy hoạch phân vùng sản xuất, cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, cho phát triển công nghiệp thương mại. Để đạt được điều đó, thì phải lưu ý và giải quyết những vấn đề sau đây:
- Đầu tư thoả đáng từ ngân sách cho phát triển công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi có phẩm chất tốt, sản phẩm có chất lượng cao, tìm ra và áp dụng công nghệ mới tronng canh tác, chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp. Trước hết là các loại rau, hoa quả, thuỷ sản tươi sống trên các vùng chuyên canh.
- Khuyến khích các hình thức liên kết, hợp tác trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, đồng thời có lực lượng chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ cho các trang trại một cách hợp lý.
- Khuyến cáo cho các trang trại biết có thể bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên và sinh thái từng vùng và phù hợp với quy hoạch các vùng kinh tế.
- Nhà nước cần đầu tư các vườn ươm, nhân giống các loại cây con, các giống cá... gắn với các vùng để cung cấp về giống tốt cho nhân dân. Tổ chức các dịch vụ kỹ thuật như: dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y, thuỷ lợi, giống...cho các trang trại theo nhiều hình thức.
- Bên cạnh đó cần xây dựng, củng cố và hoàn thiện hệ thống khuyến nông cơ sở, khuyến nghề đến các vùng, lãnh thổ, các xã. Đây một vấn đề không thể thiếu được đối với sự phát triển của kinh tế trang trại ở CHDCND Lào.
- Có quy hoạch các khu chăn nuôi, khu giết mổ gia súc và quy định cụ thể vệ sinh môi trường, đồng thời hướng dẫn các trang trại kết hợp phát triển sản xuất kinh doanh với thực hiện các quy định bảo vệ môi trường sinh thái. Có biện pháp xử lý đối với doanh nghiệp và trang trại vi phạm. Đối với các trang trại vừa mới thành lập hoặc đang chuẩn bị thành lập trang trại thì cần phải có phương hướng cụ thể để bảo vệ môi trường sinh thái tươi xanh, sạch đệp.
3.2.6. thuế.
Chính sách thuế đối với lĩnh vực nông nghiệp nói chung, kinh tế trang trại nói riêng nếu được quy định hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển và khuyến khích trang trại phát triển sản xuất hàng hoá trong điều kiện kinh tế thị trường.
Chính sách thuế đối với kinh tế trang trại ở CHDCND Lào nói chung, và ở các lĩnh vực nông nghiệp nói riêng đang tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết những vấn đề sau:
+ Có chính sách miễn giảm thuế trong mức hạn điền.
+ Phần diện tích vượt quá hạn điền, Nhà nước tính thuế phải nộp ở mức phù hợp với điều kiện của từng khu vực, từng vùng để tạo thêm thuận lợi cho phát triển trang trại. Mặt khác Nhà nước nên tăng mức hạn điền trồng cây lâu năm và có thể miễn nộp thuế đối với chủ trang trại trong một số năm kể cả từ khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai.
3.2.7. cơ sở hạ tầng.
Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn có ý nghĩa quan trọng, to lớn đối với việc phát triển kinh tế nói chung và trang trại sản xuất nông sản hàng hoá nói riêng. Các yếu tố quan trọng nhất là hệ thống giao thông nông thôn, thuỷ lợi, điện và cơ sở nông thôn. Thực trạng về cơ sở hạ tầng về nông nghiệp, nông thôn ở HDCND Lào còn yếu kém và lậc hậu, các công trình được xây dựng lâu nay đã xuống cấp hư hỏng cần phải nâng cấp và tu bổ.
Để tạo điều kiện cho các trang trại phát triển sản xuất đạt năng suất cao nhất thuận lợi cho tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, đồng thời chủ trang trại có trách nhiệm, nghĩa vụ việc xây dựng cơ sở hạ tầng đối với địa bàn, Nhà nước cần có chính sách:
Nhà nước đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi đầu mối cùng với vốn đầu tư của các trang trại xây dựng hệ thống kênh mương, đường dẫn nước, đáp ứng cho yêu cầu thâm canh, của trang trại và hộ gia đình trong vùng.
Nhà nước hỗ trợ một phần, chủ yếu là trợ giúp kỹ thuật, huy động nguồn lực đóng góp của các trang trại, theo phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” đễ xây dựng các công trình hạ tầng nông thôn: Giao thông, điện lưới, nước sinh hoạt,..
Riêng với các vùng đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá vùng biên cương. ...nhằm khuyến khích các hộ có vốn lập trang trại sản xuất nông, lâm nghiệp hàng hoá tập trung theo quy hoạch, Nhà nước có chính sách ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn.
3..2.8. công nghệp chế biến.
Công nghiệp chế biến sau khi thu hoạch có ảnh hưởng rất lớn đến giá trị và chất lượng sản phẩm, nông nghiệp, thuỷ sản. Để công nghiệp chế biến đáp ứng tốt các yêu cầu phát triển của trang trại trong những năm trước mắt cũng như lâu dài, cần giải quyết các công việc liên quan đến bản thân các trang trại
Do nhu cầu thường xuyên đa dạng của các thị trường thành thị, ngoại thành... trong nước và ngoài nước thì công nghiệp chế biến có vai trò rất quan trọng trong viẹc bảo quản (chất lượng an ninh lương thực, thực phẩm, giữ được lâu các sản phẩm nông sản,...), đóng gói (bao bì, mầu mã và tính đa dạng của sản phẩm ). Để đáp ứng nhu cầu đó thì trước hết là:
Nhà nước và chính quyền thành phố cần thực hiện việc quy hoạch phát triển vùng chuyên canh, đầu tư kinh phí xây dựng các cơ sở chế biến, và tu bổ những nhà máy đã có và phải có chính sách đầu tư đổi mới công nghệ và trang bị công nghệ mới đối với những cơ sở chế biến hiện có đanng hoạt động và có khả năng phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm chế biên nhằm tăng nhanh khối lượng, chất lượng sản phẩm hàng hoá, tạo điều kiện để các doanh nghiệp của mình cạnh tranh với thị trường thế giới.
Thứ hai là: chính sách khuyến khích phát triển cônng nghiệp chế biến nhỏ và vừa ở nông thôn với nhiều hình thức đa dạng, Nhà nước hỗ trợ, giúp đỡ nông dân khôi phục và hiện đại hoá các ngành truyền thống, mở mang nghề mới, phục vụ thiết thực cho sản xuất, xuất khẩu và đời sống.
Hướng phát triển công nghiệp chế biến ở nông thôn bao gồm: các ngành chính như xay xát gạo, chế biến màu thành bột; chế biến thức ăn chăn nuôi; sơ chế chè để cung cấp cho nhà máy chè và chế biến chè xanh tiêu dùng nội địa; thu hái, xát tươi, phơi khô cà phê, sơ chế, bảo quản tạm thời rau, quả; chế biến bằng cơ giới nấu thủ công để cung cấp cho nhà máy tinh luyện đường; chế biến lâm sản, chế biến thuỷ sản - hải sản.
3.2.9. QUảN lý Nhà nước.
Kinh tế trang trại là một tất yếu khách quan thể hiện xu hướng mới của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn ở CHDCND Lào theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá gắn với nhu cầu thị trường. Thực tế kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất mới hình thành nhất ở CHDCND Lào nhưng đã có những tác động tích cực về kinh tế - xã hội nông thôn, vùng xa, vùng cao,.. như nâng cao thu nhập, giải quyết công ăn việc làm.
Phát triển kinh tế trang trại phải có sự tham gia quản lý của Nhà nước trong việc chỉ đảo đối với kinh tế trang trại như sau:
* Hướng dẫn các xây dựng quy hoạch các vùng phát triển kinh tế trang trại. Trên cơ sở quy hoạch chung xác định phương hướng phát triển các cây trồng, vật nuôi có lợi thế phù hhợp với điều kiện đất đai, khí hậu thời tiết, có thị trường tiêu thụ và có khả năng cạnh tranh. Quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống thuỷ lợi, giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước cho cơ sở công nghiệp chế biến, cơ sở sản xuất cung ứng cây con,v..v..đảm bảo tốt các yêu cầu phát triển sản xuất của trang trại.
* Hỗ trợ các trang trại tiếp cận thị trường, tiêu thụ nông sản hàng hoá; tổ chức các hợp tác xã trang trại, thực hiện tốt việc liên doanh, liên kết giữa các thị trường và doanh nghiệp Nhà nước trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Nâng cao năng lực quản lý - kinh doanh đối vơi chủ trang trại và nâng cao tay nghề của người lao động.
* Tăng cường công tác đào tạo các chủ trang trại thông qua mở các lớp huấn luyện về quản lý và chuyển giao công nghệ, tổ chức thực hiện tốt công tác khuyến nông, lâm, ngư nghiệp tạo điều kiện cho các chủ trang trại tham quan học tập tiếp cận kỹ thuật tiên tiến của thế giới. Khuyến khích trang trại đổi mới công nghệ sản xuất hàng hoá có sự cạnh tranh trên thị trường .
- Các địa phương hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thi hành phát luật lao động ở các trang trại. Địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, ưu tiên cho các chủ trang trại vay vốn thuộc các chương trình giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, tham gia các dự án phát triển nông, lâm, ngư nghiệp...để mở rộng quy mô sản xuất thu hút lao động nghèo trong vùng.
- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với trang trại: các Bộ, ngành cần có các hướng dẫn với kinh tế trang trại theo chức năng nhiệm vụ của ngành mình. Uỷ ban nhân dân các địa phương tăng cường công tác điều tra, kiểm soát, tổ chức tổng kết đúc rút khinh nghiệm các mô hình trang trại tiên tiến để tuyên truyền phổ biến rộng; tạo điều kiện cho chủ trang trại tham quan học tập lẫn nau. Biểu dương, khen thưởng kịp thời những trang trại sản xuất kinh doanh giỏi, tạo được nhiều việc làm, hỗ trợ nhiều hộ nghèo đói, khó khăn vươn lên sản xuất ổn định.
Kết luận.
Qua nghiên cứu đề tài về “ Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở ngoại thành Hà Nội ”, trong những năm gần đây đã phát triển khá mạnh mang lại hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt là tạo công ăn, việc làm cho người lao động nông thôn, thu hút được nhiều những người ở thành thị ra nông thôn để tiến hành sản xuất kinh doanh theo mô hình trang trại. Kinh tế trang trại đã làm tăng thêm thu nhập cho ngân sách của Nhà nước nói chung và làm tăng thêm thu nhập cho người nông dân nói riêng, cuộc sống của người lao động nông dân được nâng cao và cải thiện từng bước.
Kinh tế trang trại ở Việt Nam nói chung và ngoại thành Hà Nội nói riêng đã được hình thành và phát triển trên tất cả các vùng, các lãnh thổ,...với nhiều loại hình và quy mô khác nhau, đang tỏ ra là đơn vị tổ chức kinh doanh trong nông nghiệp phù hợp với thời kỳ này và có hiệu quả.
Kinh tế trang trại đã tham gia tích cực vào việc khai hoang, phục hoá vùng đất đai trống, đồi núi trọc, vùng đất đồng bằng, ven sông,...trở thành lực lượng xung kích trong sản xuất hàng hoá, cung cấp nguyên liệu cho công nghiêp chế biến.
Các trang trại trên đã tập trung sản xuất chuyên môn hoá trên cơ sở phát triển tổng hợp, đa dạng vừa tận dụng tối đa các nguồn lực sản xuất, vừa bảo vệ môi trường sinh thái. Các mô hình trang trại trên đã tỏ rõ hiệu quả kinh tế - xã hội và sinh thái cao hơn kinh tế hộ sản xuất chuyên môn hoá độc canh.
Quy mô kinh doanh và quy mô đất đai của các trang trại ở Việt Nam bị giới hạn bởi khả năng kiểm soát, các quá trình sản xuất - sinh học của người lao động trong các trang trại mà trước hết là chủ trang trại. Do vậy, sự phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam nói chung và ngoại thành Hà Nội nói riêng còn ở mức nhỏ bé, nhất là do đất chật, người đông.
Ngay cả ở nước CHDCND Lào hiện nay, trong thời kỳ bắt đầu công nghiêp hoá, sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại là phù hợp với yêu cầu của công nghiêp hoá. Nông nghiệp phải sản xuất nhiều nông sản hàng hoá để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu, phù hợp với quy luật phát triển kinh tế của thời kỳ công nghiêp hoá.
Qua đó, kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam cho thấy, kinh tế trang trại có nhu cầu và khả năng phát triển ở tất cả các vùng kinh tế và các ngành sản xuất trong nông - lâm - ngư nghiệp. CHDCND Lào có nền kinh tế thị trường chưa phát triển, nền nông nghiệp vẫn tồn tại một bộ phận nhỏ các kinh doanh nông nghiệp có quy mô vừa, nhỏ bé và lớn dưới các hình thức tổ chức khác nhau như đã trình bày và đánh giá ở trên. Trong quá trình sản xuất - sinh học trong nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản được thực hiện bởi các trang trại gia đình và doanh nghiệp cá nhân kinh doanh nông nghiệp có quy mô vừa và nhỏ trong khuôn khổ khả năng kiểm soát, điều kiện thực tế của người chủ trang trại. Còn các quá trình chế biến, tiêu thụ nông sản phẩm, cung ứng dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp được các doanh nghiệp và các tổ chức dịch vụ - tiêu thụ khác,... đảm nhiệm. Những địa điểm tiêu thụ đó hiện là điển hình xuất sắc của mô hình liên kết kinh tế này. Sự liên kết kinh tế theo mô hình này tạo ra các tập đoàn kinh tế lớn đích thực trong nông nghiệp có sự cạnh tranh cao. Chúng hoàn toàn xa lạ với mô hình sản xuất tự cung tự túc trước đây.
Các giải pháp trên đây nằm trong tổng thể của hệ thống giải pháp có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, nhằm phát triển kinh tế trang trại theo hướng công nghiêp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH). Tuy nhiên để phát huy hiệu quả của các giải pháp đối với việc phát triển nói trên thì cần phải thực hiện một số kiến nghị như sau:
- Đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đối việc phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng phải dựa vào cơ sở thực tiễn của đất nước trong mối quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực và quốc tế. Chú ý việc phát triển kinh tế đối ngoại vừa tranh thủ nhập thiết bị khoa học - kỹ thuật, vừa mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá.
- Nhà nước phải sớm nghiên cứu quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm, trọng tâm theo hướng chuyên canh, phát huy thế mạnh của từng vùng, tạo điều kiện tiền đề xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiêp chế biến và đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ khoa học - kỹ thuật.
- Có chính sách đầu tư hợp lý nhằm phát triển cơ sở hạ tầng hướng vào phát triển kinh tế trang trại có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, phải có chính sách khuyến khích người nông dân phát triển sản xuất hàng hoá theo các ngành có lợi thế so sánh với quy mô khác nhau. Trước mắt, phải nghiên cứu phương án bảo đảm lương thực cho những vùng trồng cây công nhiệp, trồng rừng, trồng các loại cây khác...để người dân yên đầu tư tâm sản xuất.
- Từng bước hình thành môi trường thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là đối với công nghiêp chế biến nông sản, sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, dịch vụ khoa học kỹ thuật khác bảo đảm các yếu tố cần thiết cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng.
- Nhà nước cần xác định và thực hiện chiến lược đào tạo một đội ngũ chủ trang trại trẻ có văn hoá cho nền nông nghiệp trong tương lai cần song song với hoạt động khuyến nông. Cơ cấu kiến thức đào tạo có thể là 60% kỹ thuật thực hành về nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản thích hợp với từng vùng nông nghiệp sinh thái cụ thể và 40% kỹ sư kinh tế - xã hội và quản lý kinh doanh nông nghiệp trong cơ chế thị trường. Các trường giáo dục cộng đồng phải mở rộng ra ở từng vùng nông nghiệp sinh thái hình thành trên cơ sở các trường trung học trong vùng thuộc các tỉnh để họ có thể trở thành những cán bộ khuyến nông cơ sở, phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn có uy tín trong mạng lưới khuyến nông tự nguyện. Trong vai trò vừa là chủ trang trại giỏi vừa là các cán bộ khuyến nông có uy tín, họ mới thực sự là người sáng lập và quản lý có hiệu quả các trang trại theo hướng đúng nghĩa của nó.
- Về đất đai, muốn kinh tế trang trại phát triển trang trại sản xuất hàng hoá, trước hết phải thực hiện tốt chính sách đất đai, trong đó nhanh chóng giao đất ổn định lâu dài cho người nông dân, khuyến khích người nông dân tập trung tích tụ ruộng đất để thúc đẩy từ sản xuất tự cung, tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá thực hiện phương châm “Ai giỏi nghề gì thì làm nghề đó ” để nâng cao hiệu quả lao động.
Đối với vùng đất đai hoang hoá, đồi núi trọc, bãi bồi ven sông cần nhiều vốn đầu tư để xây dựng kết cấu hạ tầng mới trở thành đất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, Nhà nước có thể cho thuê đất với giá bằng 0 trong 30 năm hoặc 50 năm, không giới hạn diện tích sau khi đã thẩm định dự án đầu tư tạo lập trang trại dưới bất kỳ các loại hình doanh nghiệp nào.
- Về cơ quan quản lý hành chính Nhà nước cấp trung ưng là cơ quan ban hành kiểm tra và thực hiện pháp luật, chính sách của cấp dưới. Vậy cần phân cấp quyền thực thi pháp luật, chính sách cho cơ quan quản lý hành chính Nhà nước cấp tỉnh và huyện. Trong những năm qua việc xét duyệt dự án đầu tư, giao đất, tài trợ ...do cơ quan quản lý hành chính cấp trung ưng trực tiếp xét duyệt nên không có cơ quan nào kiển tra việc làm đúng sai của họ. Hơn nữa việc xét duyệt quá lâu và tốn kém làm cho nhà đầu tư mệt mỏi, chán nản. Vậy, việc thẩm định, phê duyệt dự án, hoặc giao đất, giá thuê đất, áp dụng chính sách tài chợ ..., cần giao cho sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh đối với dự án lớn, và cho uỷ ban nhân dân (UBND) huyện đối với dự án vừa và nhỏ (như: 1tỷ Kíp tiền Lào). Các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước cấp trung ưng (TW) chỉ thực hiện quyền ban hành pháp luật, chính sách và kiểm tra thực hiện của cấp tỉnh và cấp huyện.
Tài liệu tham khảo.
1) Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH, HĐH) ở Việt Nam. NXB chính trị Quốc gia Hà Nội năm 2000.
2) Giáo trình kinh tế nông nghiệp (TĐHKTQD Hà Nội). NXB nông nghiệp Hà Nội năm 1996.
3) Giáo trình kinh tế phát triển nông thôn (Hội khoa học kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp). NXB nông nghiệp năm 1995.
4) Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn. NXB nông nghiệp Hà Nội năm 1993.
5) Một số vấn đề về phát triển nông nghiệp và nông thôn (Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ưng, trung tâm thông tin - tư liệu ). NXB thống kê Hà Nội năm 2002.
6) Trang trại gia đình ở Việt Nam và thế giới. NXB chính trị Quốc gia Hà Nội năm 1995.
7) Giáo trình quản trị doanh nghiệp nông nghiệp (TĐHKTQD Hà Nội). NXB thống kê Hà Nội năm 2001.
8) Các văn bản pháp luật về kinh tế trang trại. NXB chính trị Quốc gia Hà Nội năm 2001.
9) Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam bước vào thế kỷ XXI. NXB nông nghiệp Hà Nội năm 2001.
10) Chyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá từ thế kỷ XX đến thế kỷ XXI trong “ Thời đại kinh tế tri thức ”(Nghiên cứu viện cao cấp bậc 4 của trung tâm kinh tế học và phát triển thuộc viện khoa học xã hội tại TP. Hồ Chí Minh). NXB thống kê năm 2001.
11) Kinh tế trang trại các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc. Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà nội năm 2001.
12) Báo cáo đánh giá tình hình sau một năm thực hiện Nghị quyết số 03/NQ - CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại. Bộ nông nghiệp & phát triển nông thôn, Hà Nội ngày 14/7/2001.
13) Báo cáo bước đầu tình hình và chủ trương, giải pháp phát triển trang trại các tỉnh phía Bắc. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Hà Nội ngày 25/5/1999.
14) Báo cáo thực trạng kinh tế và giải pháp phát triển trang trại ở ngoại thành Hà Nội của sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, ngày 13/3/2001.
15) Tạp chí kinh tế nông nghiệp của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn TP. Hà Nội. Số 3(21)/2000 và số 7 (25)/2000.
16) Một số tiền đề thúc đẩy phát triển nghiệp CHDCND Lào theo hướng sản xuất hàng hoá, “ Tạp chí kinh tế nông nghiệp" (Tạp chí của Lào) Số 6(24). Viêng Chăn - năm 2000.
17) Kinh tế hộ với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp CHDCND Lào,“ Tạp chí kinh tế nông nghiệp" (Tap chí Lào), Số 4(22). Viêng Chăn - năm 2000.
18) Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2010, 2020 và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005) lần thứ V.
19) Kinh tế Lào và quá trình chuyển dịch cơ cấu. NXB khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội năm 1999.
20) Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2000-2001 của Quốc Hội lần thứ VI (khoá IV). Viêng Chăn năm 2000.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29835.doc