Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân

A – phần mở đầu Trước những năm 1980 ở nước ta kinh tế tư nhân không được khuyến khích phát triển và là đối tượng cải tạo XHCN theo kiểu mệnh lệnh hành chính . Trong thời gian này , nền kinh tế nước ta chỉ có hai thành phần chính : kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể , kinh tế cá thể , kinh tế gia đình và kinh tế tiểu chủ tồn tại chủ yếu dưới dạng phụ thuộc vào kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước . Còn kinh tế tư bản tư nhân hoặc đã chuyển thành kinh tế tập thể hoặc kinh tế nhà nước , công ti

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1435 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hợp doanh . Kể từ khi thực hiện các sách chính đổi mới kinh tế nhất là từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) , kinh tế tư nhan đã được hồi sinh trở lại và mở rộng quy mô , phạm vi hoạt động khá nhanh chóng . Trong bài này sẽ làm rõ thực trạng phát triển , vai trò vị trí của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước ta trong thời kì đổi mới kinh tế – xã hội của đất nước trong thời gian qua . Đồng thời đưa ra các quan điểm và chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân . B - Nội dung I. Những vấn đề lí luận về kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần . 1> Kinh tế tư nhân là gì ? Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm ban chấp hành TW Đảng về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách , khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân đã chỉ rõ “ Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân , hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân” . Kinh tế tư nhân trong nước có thể hiểu bao gồm các hộ kinh doanh cá thể , các loại hình doanh nghiệp của tư nhân ( công ti hợp doanh , công ti tư nhân , công ti trách nhiệm hữu hạn , công ti cổ phần ) ngoài ra còn gồm cả đầu tư của tư nhân vào khu vực kinh tế nhà nước , kinh tế tập thể , kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài . Kinh tế tư nhân phát triển theo đường lối chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước phù hợp với nhu cầu tất yếu khách quan và nguyện vọng của nhân dân vì mục tiêu “ độc lập dân tộc gắn liền với CNXH , dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ văn minh ” . Kinh tế cá thể , tiểu chủ . • Kinh tế cá thể là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình . • Kinh tế tiểu chủ là hình thức kinh tế dựa tren tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mưóưn lao động tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân gia đình . Kinh tế cá thể và tiểu chủ hiện đang có vai trò rất quan trọng trong nhiều ngành kinh tế ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do đó, việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể và tiểu chủ cần được khuyến khích. Hiện nay ở nước ta thành phần kinh tế này phần lớn hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, đang là một bộ phận đông đảo, có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng và lâu dài. Đối với nước ta cần phát triển mạnh mẽ thành phần kinh tế này để vừa góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, vừa giải quyết việc làm cho người lao động – là một vấn đề bức bách hiện nay của toàn dân tộc. Trong những năm qua thành phần kinh tế này phát triển nhanh chóng trong nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Nó góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế – xã hội. Tuy nhiên cũng thấy rằng kinh tế cá thể, tiểu chủ dù có cố gắng đến đâu cũng không thể loại bỏ được những hạn chế vốn có như : tính tự phát, hạn chế và kĩ thuật. Do đó, có thể phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ đòi hỏi cá sự giúp đỡ và hỗ trợ của Nhà nước về vốn, kĩ thuật công nghệ, và đặc biệt là ở thị trường tiêu thụ sản phẩm ở đầu ra. 1.2. Kinh tế tư bản tư nhân Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản công nghiệp về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay, thành phần kinh tế này có vai trò đáng kể xét về phương diện giải quyết các vấn đề. Đây cũng là thành phần kinh tế rất năng động, nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó cá những đóng góp không nhỏ. Hiện nay kinh tế tư bản tư nhân bước đầu có sự phát triển, phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản, đầu tư vào sản xuất còn ít và chủ yếu là quy mô vừa và nhỏ. Kinh tế tư bản tư nhân gồm các công ti trách nhiệm hữu hạn, các công ti cổ phần được thành lập theo Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ti. Tuy nhiên thành phần kinh tế tư bản tư nhân hoạt động vì mục tiêu thu lợi nhuận nên tính tự phát rất cao đòi hỏi Nhà nước phảicó sự quản lí và điều tiết bằng các chính sách kinh tế và và công cụ quản lí vĩ mô. 2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam ở nước ta trong gần 30 năm ở miền Bắc và gần 10 năm ở miền Nam kinh tế tư nhân không được chấp nhận tồn tại, là đối tượng phải cải tạo xoá bỏ. Từ sau Đại hội Đảng VI (1986), khu vực kinh tế này được thừa nhận tồn tại lâu dài : là tất yếu khách quan trong thời kì quá độ lên CNXH và được hoạt động trong tất cả các nghành nghề, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô, địa bàn và hình thức tổ chức sản xuất. Đến nay khu vực kinh tế này chiếm tỉ trọng đáng kể trong GDP, thu vốn, tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân có vai trò rất quan trọng trong việc tạo một nền kinh tế năng động có hiệu quả. Nói đến kinh tế thị trường không thể không nói đến cạnh tranh. Nó là yếu tố thúc đẩy, kích thích phát triển kinh tế – xã hội. Thực tế hơn nửa thế kỉ qua ở các nước XHCN cho thấy, mặc dù chiến lược và các mục tiêu kinh tế đưa ra rất đúng đắn, song sự độc quyền của Nhà nước về kinh tế đã kìm hãm sự phát triển, nền kinh tế thiếu sức sống dẫn đến sự sụp đổ khi hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực kinh tế tư nhân được phát triển mạnh. Công cuộc đổi mới trong gần 10 năm qua ở Việt Nam đã chứng minh rằng phát triển kinh tế tư nhân chẳng những không làm suy yếu khu vực kinh tế nhà nước, mà ngược lại mức độ tăng trưởng của quốc doanh càng mạnh mẽ hơn, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn. Điều này có phần do sức ép cạnh tranh từ phía các doanh nghiệp tư nhân. Phát triển kinh tế tư nhân còn góp phần tạo ra sự ổn định xã hội nhờ giải quyết việc làm và tăng thêm thu nhập cho người lao động, thu hút mọi thành viên xã hộitham gia vào phát triển đất nước. II. Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian qua Trước đổi mới (1986) khu vực kinh tế tư nhân là đối tượng cải tạo XHCN, không được pháp luật bảo vệ và khuyến khích phát triển. Nhưng về khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể không đủ thoả mãn nhu cầu mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội của đất nước nên khu vực kinh tế tư nhân còn cần thiết cho nền kinh tế vì vậy vẫn âm thầm tồn tại dưới dạng kinh tế phụ gia đình, tổ hợp sản xuất… Nhưng từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và nhất là từ khi ban hành luật Doanh nghiệp tư nhân (1990) thì khu vực kinh tế tư nhân đã có bước ngoặt trong sự hồi sinh và phát triển. 1. Những chuyển biến của khu vực kinh tế tư nhân Theo báo cáo tổng kết thực hiện Luật Doanh nghiệp, từ năm 2000 cho đến hết tháng 5- 2004 cả nước có 93208 doanh nghiệp đăng kí thành lập mới, gấp hơn 2 lần số doanh nghiệp được thành lập trong thời gian trước đó trong 9 năm từ 1991-1999 chỉ có 45000 doanh nghiệp thành lập. Như vậy, cho đến nay cả nước có 138208 doanh nghiệp đăng kí hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Số doanh nghiệp đăng kí trung bình hằng năm gấp 3,75 lần so với trung bình của những năm 2000. 1.1. Về cơ cấu loại hình doanh nghiệp Tỉ trọng doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp đăng kí giảm từ 64% trong giai đoạn 1991-1999 xuống còn 34% giai đoạn 2000- 2004. Trong khi đó, cùng với khoảng thoìư gian trên tỉ trọng công ti trách nhiệm hữu hạn và công ti cổ phần tăng từ 36% lên 66%. trong hơn 4 năm qua, có khoảng 7165 công ti cổ pần đăng kí thành lập, gấp 10 lần so với giai đoạn 1991-1999. Sự thay đổi về tỉ lệ loại hình doanh nghiệp mới thành lập cho thấy các nhà đầu tư trong nước đã nhận thức được những điểm lợi và bất lợi của từng loại hình doanh nghiệp: có xu hướng lựa chọn loại hình doanh nghiệp hiện đại, tạo cơ sở để doanh nghiệp ổn định, phát triển không hạn chế về quy mô và thời hạn hoạt động với quản trị nội bộ ngày càng chính quy và minh bạch hơn. Thực tế nói trên phần nào chứng tỏ các nhà đầu tư đã tin tưởng vào đường lối, luật pháp và cơ chế chính sách, có xu hướng đầu tư dài hạn, công khai hơn và quy mô lớn hơn. Điều đáng quan tâm là số lượng vốn huy động được đăng kí thành lập mới và mở rộng quy mô kinh doanh tăng mạnh mẽ. Trong 4 năm, các doanh nghiệp đã đầu tư ( gồm cả đăng kí mới và đăng kí bổ sung) đạt trên 182715 tỉ đồng ( tương đương khoảng 12,1tỉ USD , cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng kí trong cùng thời kì) ; trong đó năm 2000 là 1,3 tỉ USD, năm 2001 là gần 3 tỉ USD, năm 2003 khoảng 3,6 tỉ USD và hết tháng 5- 2004 khoảng 1,8 tỉ USD . Riêng số vốn mới đăng kí giai đoạn 2000- 2003 đãcao hơn gấp 4 lần so với 9 năm trước đây (1991-1999). Vốn đăng kí mới ở tất cả các tỉnh, thành phố từ năm 2000 đến tháng 7-2003 đều cao hơn số vốn đăng kí thời kì 1991-1999 . Trong đó, có 33 tỉnh, thành phố đạt tốc độ tăng cao hơn 4 lần, có 11 tỉnh đạt tốc độ tăng cao hơn 10 lần; thậm chí có những tỉnh như Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên…đạt tốc độ tăng cao hơn 20 lần. Xét về tỉ lệ gia tăng , vốn đăng kí mới ở các tỉnh , thành phố phía Bắc cũng tăng nhanh và cao hơn nhiều so với các tỉnh khác, nhất là các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung. Kết quả là tỉ trọng đầu tư của dân cư và doanh nghiệp trong tổng đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 25,3% năm 2002; và năm 2003 trên 27%. Tỉ trọng đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân trong nước liên tục tăng và đã vượt lên hơn hẳn tỉ trọng đầu tư của của doanh nghiệp nhà nước , gần bằng tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và tín dụng nhà nước. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phương. Ví dụ, đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh năm 2002 ở thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm 38% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội , cao hơn tỉ trọng vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và ngân sách nhà nước gộp lại(36,5%) . Quy mô doanh nghiệp ngày càng tăng. Thời kì 1991-1999 vốn đăng kí bình quân / doanh nghiệp là gần 0,75 tỉ đồng, năm 2000 là 0,96 tỉ đồng, năm 2001 là 1,3 tỉ đồng, 7 tháng đầu năm 2003 là 2,12 tỉ đồng . Doanh nghiệp đăng kí vốn thấp nhất là 5 tỉ đồng và cao nhất là 200 tỉ đồng (hơn 13 triệu USD). Nhìn chung, số vốn đăng kí cao nhất phổ biến ở các địa phương khoảng 10 tỉ đồng. ở Quảng Nam, mức vốn đăng kí bình quân / doanh nghiệp thấp nhất (422 triệu đồng), tiếp đó là NAm Định 544 triệu đồng; mức vốn đăng kí bình quân /doanh nghiệp cao nhất là ở Hưng Yên, gần 3 tỉ đồng, tiếp đó là Quảng Ninh và Bình Dương gần 2,5 tỉ đồng, mức vốn đăng kí bình quân /doanh nghiệp ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng 1,25 tỉ đồng. Vốn đầu tư thực tế. Đây là một vấn đề khó xác định được chính xác, nhưng qua phản ánh từ nhiều nguồn thông tin đều cho thấy số vốn đầu tư thực tế cao hơn nhiều so với vốn đăng kí. Đánh giá này có thể được khẳng định qua khảo sát thực tế ở một số tỉnh. Ví dụ, ở tỉnh Nam Định số vốn đăng kí ở các doanh nghiệp năm 2004 là 84,5 tỉ đồng, thì số vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp ở khu công nghiệp Hoà Xá đã lên tới 700 tỉ trong cùng thời kì; ở tỉnh Lào Cai, trong khi vốn đăng kí kinh doanh năm 2002 chỉ khoảng 93 tỉ, thì vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp là 422 tỉ, trong đó phần quan trọng là của khu vực kinh tế tư nhân. Tình hình cũng tương tự ở Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Bình và một số nơ khác. Thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, theo thống kê chưa đầy đủ, sau 9 năm thực hiện (1996-2003), cả nước đã có 12638 dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, với tổng số vốn đầu tư thực hiện trên 192484 tỉ đồng ( tương đương trên 12,8 tỉ USD ). Trong đó, giai đoạn 1996-1997 là trên 1,2 tỉ USD , năm 2000 là trên 1,7 tỉ USD, năm 2002 là 2,8 tỉ USD. Đến nay, tỉ trọng đầu tư của khu vực doanh nghiệp dân doanh liên tục tăng và đã vượt lên hẳn tỉ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước tương đương là 62,3% và 37,7%. Các dự án đầu tư theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đã thu hút và tạo việc làm cho 1516456 lao động. Tính bình quân mỗi dự án có số vốn đầu tư khoảng 15,2 tỉ đồngvà thu hút khoảng 120 lao động. Một điểm đáng ghi nhận nữa là sự hưởng ứng của các nhà đầu tư Việt kiều với Luật này và cơ chế, chính sách tạo điều kiện đầu tư về nước : tính đến tháng 12-2003 trên cả nước có trên 1200 dự án với lượng vốn đầu tư khoảng 2500 tỉ đồng. BảNG 1:số LƯợNG Dự áN ĐƯợC HƯởNG ƯU ĐãI ĐầU TƯ THEO NGàNH NGHề, ĐịA BàN(1996-6/2004) Dự án ưu đãi theo ngành nghề và địa bàn Số dự án Vốn đầu tư(tỉ đồng) Lao động (người) Số dự án ưu đãi theo ngành nghề Số dự án được ưu đãi theo địa bàn -Địa bàn kinh tế xã hội khó khăn -Địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn 6496 1863 550 63135 8350 1720 789069 165080 76540 1.2 Tạo nhiều công ăn việc làm mới Nước ta mỗi năm có thêm khoảng 1,4 -1,5 triệu người đến tuổi tham gia thị trường lao động. Ngoài ra, sôs lao động nông nghiệp có nhu cầu chuyển sang làm việc trong các ngành phi nông nghiệp cũng không nhỏ. Nhu cầu hàng năm phải tạo thêm được hàng triệu việc làm đang là một áp lực xã hội mạnh đối với Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương. Thực tế ở nhiều địa phương cho thấy, 1ha trồng lúa chỉ giảI quyết được 5 lao động (gồm 2 thường xuyên và 3 thời vụ) và có doanh thu khoảng 25-30 triệu đồng /năm; 1ha trồng cây lâu năm cho doanh thu khoảng 40-50 triệu đồng . Trong khi 1ha đất phục vụ phát triển công nghiệp có thể sử dụng hàng chục, đến hàng trăm lao động thương xuyên với thu nhập bình quân khoảng gần 10 triệu đồng / năm. Theo điều tra gần đây của Viện nghiên cứu quản lí kinh tế trung ương , các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân đầu tư trung bình khoảng từ 70 triệu đến 100 triệu đồng là đã tạo ra được một chỗ làm việc ; trong khi đó đối với doanh nghiệp nhà nước , thì số tương ứng là từ 210 đến 280 triệu ( cao gấp khoảng 3 lần). Với suất đầu tư cho một chỗ làm việc bình quân chung như vậy, trong 4 năm qua, khu vực kinh tế tư nhân là nơi chủ yếu thu hút lao động ( khoảng 1,6 đến 2 triệu chỗ làm việc mới). Kết quả tổng hợp sơ bộtình hình thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước cho thấy, trong 9 năm thực hiện đã có trên 1,5 triệu lao động được làm việc trong các dự án thực hiện theo Luật. Riêng khu vực kinh tế dân doanh đã tạo ra hơn 1 triệu việc làm trực tiếp và hàng nghìn lao động gián tiếp , đưa tổng số lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp dân doanh của khu vực kinh tế tư nhân lên hơn 7 triệu người. Đây là sự đóng góp tích cực vào ổn định chính trị xã hội, xoá đói giảm nghèo, nâng cao nhận thưc của người lao động ở nông thôn. 1.3 Góp phần cân bằng ngoại tệ thông qua xuất khẩu Nhiều sản phẩm xuất khảu của nước ta hiện nay đều do khu vực kinh tế tư nhân sản xuất, như : hàng may mặc, giầy dép, đồ da, hàng thuỷ hảI sán , cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu…Theo đánh giá của Bộ Thương mại, khu vực kinh tế tư nhân , mà chủ yếu ở các vùng kinh tế trong j điểm và thành phố trực thuộc trun ương , đống góp gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong các năm qua. Với xu thế phát triển này, kinh tế tư nhân sẽ là khu vực tạo nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước trong tương lai. Tuy vậy, xuất khẩu của các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở nhiều địa phương còn nhỏ và có tỉ lệ chênh lệch khá lớn giữa các vùng và các tỉnh. Doanh nghiệp ở các tỉnh phía nam đóng góp nhiều hơn vào kim ngạch xuất khẩu ở địa phương, trong lúc đó ở các tỉnh phía Bắc nhìn chung còn chưa đáng kể. Các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở Hà Nội chỉ chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố, khoảng hơn 7% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước; ở thành phố Hồ Chí Minh là 12,5%) .Nhin chung, tỉ lệ này ở các địa phương là rất thấp, dưới 10% , tuy nhiên cũng có một số cá biệt như Hà Giang chiếm 60% xuất khẩu của địa phương, Quảng NgãI 34%, Bình Thuận45% 1.4 Đóng góp vào nguồn thu ngân sách Đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân vào ngân sách nhà nước đang có xu hướng tăng lên trong mấy năm gần đây, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7,4% năm 2002 (tỉ lệ tương ứng của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 5,2% và 6%, của doanh nghiệp nhà nước là 21,6% và 23,4%. Thu từ thuế công thưpng nghiệp và dịch vị ngoài quốa doanh năm2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Năm 2003, số thu từ doanh nghiệp chiếm khoảng 15% tổng số thu, tăng 29,5% so với cùng kì các năm trước. So với ngân sách trung ương , đóng góp của các doanh nghiệp dân doanh trong nguồn thu của ngân sách địa phương lớn hơn nhiều. Ví dụ, ở thành phố Hồ Chí Minh đóng góp của doanh nghiệp dân doanh trong tổng thu ngân sách địa phương là khoảng 15%, Tiền Giang 24%, Đồng Tháp 16%, Gia Lai 22%, Ninh Bình 19%, Yên báI 16%, Thái Nguyên 17% , Bình Định 33%... Nhìn chung, đóng góp trực tiếp vào nguồn thu ngân sách nhà nước của các doanh nghiệp hộ kinh doanh cá thể theo Luật doanh nghiệp trong mấy năm qua là chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế của khu vực kinh tế này. Ngoài đóng góp trực tiếp vào ngân sách, doanh nghiệp hiệp hội doanh nghiệp còn tích cực tham gia đóng góp xây dựng các công trình văn hoá, trường học, đường giao thông nông thôn, nhà tình nghĩa và những đóng góp phúc lợi xã hội khác ở địa phương trong cả nước. 15. Góp phần phục hồi và tăng trưởng kinh tế Từ năm 2000 đến nay, thực hiện Luật Doanh nghiệp , Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và các cơ chế, chính sách của nhà nước hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng, vốn đàu tư đến quy mô hoạt động, đã góp phần không nhỏ vào phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tác động tích cực này được chuyển tảI thông qua tăng thêm vốn đầu tư, thu hút thêm lao động , phát huy được trí tuệ và sức sáng tạo của người dân, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng cầu thị trường nội địa, tăng hiệu quả kinh tế nhờ tăng thêm cạnh tranh trên thị trường… Về sản xuất công nghiệp, giá trị sản xuất của doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân tăng một cách đột biến, từ 11% năm 1999 lên 18,3% năm 2000 và tiếp tục duy trì ở mức cao 20,3% năm 2001, 19,3% năm 2002, 8 tháng đàu năm 2003 là 18,4% (so với cùng kì năm 2002). trong 8 tháng đầu năm 2004, giá trị sản xuất công nghiệp ở một số địa phương tăng với tốc độ cao như: Hà Nội 25,8%, Hải Phòng 23%, Hà Tây 38,4%, HảI Dương 25,6% , Vĩnh Phúc 27,2%, Cần Thơ 50,3%...Doanh nghiệp tư nhân hiện đang chiếm một phần không nhỏ trong hầu hết các ngành công nghiệp chủ yếu :chiếm 50% giá trị côn nghiệp chế biến thuỷ sản, công nghiệp giấy bìa, 30% công nghiệp may mặc…Đến nay, doanh nghiệp tư nhân trong công nghiệp chiếm 26,5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, tăng 1,35 điểm phần trăm so với số thực hiện ở thời điểm cuối tháng 12-2002, và 4 điểm phần trăm so với kết quả đạt được vào cuối năm 2000, năm đầu tiên thực hiện Luật doanh nghiệp 1.6. Góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ. Trong những năm gần đây , đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp đã có dấu hiệu gia tăng , chủ yếu do sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài . Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam mang theo những công nghệ và kĩ năng quản lí mới , đồng thời tạo ra sức ép mới thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước ứng dụng tién bộ công nghệ tiên tiến để duy trì thị phần của mình trên thị trường . Năm 2002 , ước tính cả nước có khoảng 200 hợp đồng chuyển giao công nghệ , trong đó khoảng 90% số hợp đồng là của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài . Như vậy , mức độ đầu tu đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp so với yêu cầu phát triển . Cho đến nay , mới chỉ có một số doanh nghiệp nhà nước qui mô lớn ( chủ yếu là tổng công ti 90 , 91 )có cơ sở hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ . Bên cạnh đó chi phí đầu tư cho nghiên cứu , triển khai của khối doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam cũng còn ở mức thấp , khoảng 0,2% doanh thu , quá thấp so với tỉ trọng 5-10% của doanh nghiệp các nước phát triển . Trong khi đó , khu vực kinh tế tư nhân hầu như chưa tham gia hoạt động nghiên cứu và triển khai . Trong ba giai đoạn phát triển công nghệ là tiếp thu công nghệ , làm chủ công nghệ và sáng tạo công nghệ , hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chỉ mới dừng ở giai đoạn tiếp thu công nghệ một cách thụ động thông qua nhập khẩu maý móc và thiết bị . Trong công nghệ nhập khẩu , tỉ trọng phần mềm công nghệ chỉ chiếm khoảng 17% tổng giá trị nhập khẩu, còn lại chủ yếu là phần cứng và máy móc , thiết bị . Các doanh nghiệp chưa có hoạt động nghiên cứu đổi mới công nghệ để tiệm cận dần tới khả năng sáng tạo công nghệ . Hàm lượng công nghệ và chất xám trong hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam được làm ra chủ yếu mới dựa vào vốn và lao động . Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân . Ngoài nguyên nhân khách quan là do nền kinh tế Việt Nam có qui mô sản xuất nhỏ và manh mún , trình độ chuyên môn hóa chưa cao , nguồn vốn nhân lựcc hạn chế , cồn có những nguyên nhân khác như môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh hiện tại chưa tạo áp lực đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư đổi mới công nghệ . Chính sách bảo hộ bất hợp lí , môi trường kinh doanh chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh tế cơ chế bao cấp , nhiều đặc quyền còn tồn tại đối với một bộ phận doanh nghiệp Việt Nam có xu hướng muốn tìm kiếm những đặc quyền từ chính sách để có được lợi ích ngắn hạn hơn là xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn … III . Sự đóng góp của kinh tế tư nhân vào quá trình phát triển của nó . 1 . Thành tựu đóng góp . Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đã và đang tiếp tục có những đóng góp tích cực trong việc : * Góp phần quan trọng để tạo ra những thành tựu tăng trưởng kinh tế chung , đổi mới bộ mặt kinh tế xã hội , tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ cho xã hội : Trong GDP , xu hướng chung là tỉ trọng kinh tế nhà nước , kinh tế tập thể , kinh tế cá thể giảm , trong khi tỉ trọng kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên . Tỉ trọng kinh tế tư nhân năm 1995 đạt 7,4% ; năm 2004 đạt 8,4% ; tỉ trọng khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1995 đạt 6.3% và năm 2004 đạt 15,2% . Trong tổng giá trị sản xuất nông , lâm nghiệp – thủy sản , tỉ trọng kinh tế hộ tự chủ và tỉ trọng của kinh tế trang trại tăng lên rõ rệt , tương ứng là sự sút giảm tỉ trọng của kinh tế tập thể và kinh tế quốc doanh . Đây là yếu tố coa tầm quan trọng hàng đầu tạo nên sự chuyển biến thần kì trong sản xuất nông , lâm nghiệp – thủy sản . Lương thực từ chỗ không đủ dùng phải nhập khẩu lớn , từ năm 1989 đến năm 2005 đã xuất khẩu được tren 48 triệu tấn , với tổng kim nghạch lên tới 10,8 tỉ USD . Nhiều sản phẩm cung đã vượt cầu và xuất khẩu với khối lượng lớn , đứng thứ hạng cao trên thế giới ( thứ nhất về hạt tiêu thứ hai về gạo , cà phê , hạt điều , thứ tư về cao su ) . Chính sự phát triển của nông nghiệp đã góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội , chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa , hiện đại hóa từ giữa thạp kỉ 90 của thế kỉ trước . Trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế tỉ trọng của kinh tế tư nhân đã tăng từ 14,2% năm 2000 lên 18,4% năm 2004 . Tỉ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng từ 41,3% năm 2000lên 43,1% năm 2004 . Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng , tỉ trọng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã tăng từ 69,95 năm 1990 ; lên 77,4% trong năm 1995 ; 82,2% trong năm 2000 ; 86.9 trong năm 2005 * Là lĩnh vực chính thu hút lao động . Trong tổng số lao động đang làm việc của toàn bộ nền kinh tế quốc dân , tỉ trọng lao động làm việc của khu vực ngoài nhà nước chiếm khoảng 88,8% , nếu kể cả khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thì chiếm 90,4%. Trong tổng số 5,1 triệu lao động đang làm việc tăng thêm của cả nước trong thời gian 2000 đến 2005 thì khu vực ngoài nhà nước và kc kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng từ 4491,4 nghìn người , chiếm khoảng 88,3% tổng số tăng . * Huy động mọi nguồn lực trong dân cư vào phát triển kinh tế . Trong vốn đầu tư xã hội , tỉ trọng vốn đầu tư của kinh tế ngoài nhà nước đã tăng từ 22,9% năm 2000 lên 32,4% năm 2005 . 2. Hạn chế và yếu kém trong phát triển kinh tế tư nhân . 2.1 . Những mặt hạn chế . - Có thể nói khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam còn yéu kém về đầu tư vốn , trình độ công nghệ , tay nghề của công nhân , năng lực quản lí những yếu tố khác cũng còn gặp khó khăn trong việc duy trì lợi nhuận và đảm bảo sức cạnh tranh cần thiết . - Nhìn chung , tuy các doanh nghiệp tư nhân hiện đang chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế , song quy mô cón quá nhỏ bé , yếu ớt để có thể cạnh tranh được trên thị trường thế giới . - Trình độ và kĩ năng quản lí còn yếu , khó ứng phó được trước những tác động bên ngoài , hạn chế về khả năng ngoại ngữ , thiéu thông tin về thị trường . - Khả năng về tài chính còn rất hạn chế , dãn đến quy mô nhỏ bé , không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế . 2.2 . Những vấn đề bức xúc cần giải quyết . - Mặc dù nhiều giấy phép và các quy định về điều kiện kinh doanh không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường đã bị bãi bỏ song vẫn còn nhiều loại giấy phép đang tồn tại và nhiều loại giấy phép được ban hành dưới những hình thức trá hình giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn . - Một số cơ quan , cá nhân thực thi pháp luật chưa làm đúng chức trách , bổn phận của mình , còn gây sách nhiễu cho hoạt động của doanh nghiệp . - Một số doanh nghiệp đã đăng kí kinh doanh nhưng trên thực tế không hoạt động và được coi là các “ doanh nghiệp ma ” được thành lập với mục tiêu “ kinh doanh tên tuổi ” , “ kinh doanh con dấu” với những hợp đồng ma , buôn bán hóa đơn . - Vấn đề hậu kiểm được quy định trong Luật Doanh nghiệp nhưng trên thực tế vẫn chưa được thực hiện tốt . - Về hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh nhìn chung chất lượng quy hoạch của nhiều địa phương yếu kém , do các chính sách hỗ trợ , do điều kiện cho doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất kinh doanh vẫn là vấn đề bức xúc . Bên cạnh đó , sự phối hợp giữa các cơ quan ( kể cả cấp tỉnh ) trong lĩnh vực đất đai còn rất hạn chế , do quy định về phân cấp quản lí đất đai chưa rõ ràng. - Vấn đề chuyển đổi đất đai , nhất là đất canh tác sang mặt bằng sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp đang là vấn đề phức tạp chưa được tháo gỡ , làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư chung của nhiều tỉnh . - Về phía các doanh nghiệp , lợi dụng chính sách thu hút đầu tư , công tác quản lí chưa chặt chẽ , không thiêú các doanh nghiệp cố gắng bằng mọi cách để có được đất và đầu tư cầm chừng chờ đợi biến động giá để kiếm lời . - Doanh nghiệp khó tiếp cận được tín dụng ưu đãi đầu tư của nhà nước . Đến nay thủ tục , hồ sơ xin cấp tín dụng ưu đãi vẫn còn rườm rà , phức tạp , quy trình xét cấp kéo dài , một số quy định về thủ tục không cần thiết . - Về thành lập qũy bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ mới dừng lại ở đề án chứ chưa đi vào triển khai cụ thể . - Thay đổi chính sách thuế gây rất nhiều khó khăn trong doanh nghiệp . Từ cuối năm 2002 , do tác động của thuế môn bài tăng cao bất hợp lí , hàng trăm doanh nghiệp tư nhân đã giải thể chuyển thành hộ kinh doanh các thể . Thuế môn bài ở mức cao cũng đã hạn chế phần nao việc mở rộng quy mô kinh doanh qua việc giảm mở thêm chi nhánh ccửa hàng mới , giải thể , đóng cửa các chi nhánh , cửa hàng , trạm thu mua , …ở những vùng khó khăn , kinh doanh chưa có lãi . Cải cách hành chính đang còn là vấn đề rất phức tạp . Nguyên nhân chính là nhận thức về nội dung cải cách của cơ quan quản lí của nhà nước ở địa phương còn rất khác nhau , nên thực hiện chưa được tốt , gây khó khăn cho các nhà đầu tư khi giải quyết các thủ tục liên quan đến quá trình đầu thư của họ . Chẳng hạn thủ tục hành chính trong thuê đất , giao đất theo hướng “ một đầu mối ” , đến nay vẫn chỉ là ý tưởng . Nhiều nhà đầu tư phải chờ đợi , chạy vòng vèo với nhiều thủ tục phức tạp , thời gian hoàn tất thủ tục kéo dài hơn một năm , thậm chí có truờng hợp phải chờ đợi tới hai năm , trong khi , theo quy định của nhà nước chỉ là hai tháng . 3. Quan điểm cuẩ Đảng nhằm phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần . Hội nghị TW 5 khóa IX khẳng định kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân , vì vậy cần thống nhất một số quan điểm : 3.1 . Cần quán triệt quan điểm tạo sự bình đẳng thực sự tức là không có bất kì sự phân biệt nào giữa kinh tế tư nhân với các khu vực , các thành phần kinh tế khác trong tiếp cận các yếu tố đầu vao : đất đai , vốn , lao động , công nghệ … và các yếu tố đầu ra , tiếp cạn thị trường cả trong nước và ngoài nước , tổ chức phan phối sản phẩm … Nếu không có sự bình đẳng thực sự sẽ hạn chế , thậm chí có thể dẫn đến triệt tiêu mất động lực phát triển của kinh tế thị trường . Mặt khác kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân , phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN . Để kinh tế tư nhân làm tốt vai trò trên thì không thể không tạo sự bình đẳng thực sự giữa kinh tế tư nhân và các khu vực , các thành phần trong nền kinh tế . 3.2. Tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần , không nên có thái độ định kiến và kì thị đối với bất kì thành phần kinh tế nao . Kinh tế nhà nước giữ vait trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân , là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế . Doanh nghiệp nhà nước phải giữ những vị rí then chốt đi đầu ứng dụng khoa học kĩ thuật và công nghệ . Doanh nghiệp nhà nước cần đẩy mạnh củng cố , sắp xếp , điều chỉnh cơ cấu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động để có lãi . Điều cần lưu ý là doanh nghiệp nhà nước cần cạnh tranh bình đẳng trên thị trường , xóa mọi bao cấp từ phía nhà nước , tạo sân chơi bình đẳng minh bạch trên thương trường . Không nên dựa vào giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế mà lấn át để hưởng nhiều chế độ ưu đãi , làm ảnh hưởng các thành phần kinh tế khác . Cho nên hệ thống pháp luật cần chặt chẽ đồng bộ , tính hết sự chồng chéo , trùng lặp , thậm chí lấn sân , mâu thuẫn có thể có . 3.3 Cần có cái nhìn mới về bóc lột : “ bóc lột” là vấn đề cơ bản trong lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về kinh tế sản xuất hàng hóa trong chế độ TBCN . Tuy nhiên , thực tiến trong mấy năm qua đa._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0364.doc
Tài liệu liên quan