Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá,nền kinh tế Việt Nam đang từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới nói chung và hội nhập vào tổ chức thương mại thế giới nói riêng là một tất yếu khác quan.
Vì vậy, mỗi nền kinh tế quốc gia đều phải tích cực hội nhập để có thể đẩy mạnh nền sản xuất hàng hoá trong nước, tăng cường quan hệ ngoại thương với các nước trong khu vực và trên thế giới.Từ đó để củng cố và nâng cao vị thế của mình t
51 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1163 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng phát triển của Thuỷ sản Việt Nam và tiến trình hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rên trường quốc tế.
Đảng ta đã khẳng định: "tiếp tục mở cửa nền, thực hiện đa dạng hoá thị trưòng, đa phương hoá quan hệ kinnh tế với các nước trên thế giớ".
Cùng với xu thế đó, Việt Nam trong quá trình để đi đến hội nhập vào Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) . do thời gian có hạn nên em chỉ xin đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào quá trình nghiên cứu chung với đề tài: Thuỷ Sản Việt Nam Với Tiến Trình Ra Nhập tổ Chức Thưong Mại Thế Giới (WTO)
Như ta đã biết,Thuỷ Sản là nghành hàng có vị trí quan trọngtrong nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Đối với nước ta, Thuỷ Sản hiện đang cung cấp một nguồn thực phẩm quan trọng cho chi tiêu dùng trong nước và góp phần không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước nhà.
Với tiềm năng to lớn để phát triển Thuỷ Sản, cùng với việc chủ động tiếp cận thị trường, thực hiện công cuộc " đổi mới" trong quản lý và kinh doanh Thuỷ Sản, chúng ta đã đạt được những thành tựu đánh khích lệ, giá trị kim ngạch xuất Thuỷ Sản đã vượt qua ngưỡng 2 tỷ đô la vào cuối năm 2002, tiếp tục đứng vị trí thứ 3 về giá trị kim ngạch xuất khẩu của đất nước, ngày càng tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, góp phần tạo bộ mặt cho nông thôn ven biển Việt Nam. Tuy nhiên, những kết quả đạt được chưa tương xứng với với tiềm năng phát triển của nó. Đối với thị trường quốc tế Thuỷ Sản đang từng bước khẳng định Hàng Thuỷ Sản Việt Nam ngày càng có vị thế trên trường quốc tế.
Theo công bố của FAO, xuất khẩu Thuỷ Sản của Việt Nam đạt mức tăng trưởng kỷ lục tới 64,4%, từ vị trí thứ 19 năm 1999, đã vượt qua 8 bậc lên vị trí thứ 11 trên thế giới vào năm 2000.
Đặc biệt là trong bối cảnh thương mại quốc tế hiện nay, thương mại Thuỷ Sản đang phải cạnh tranh ngày càng gay gắt và là một trong những ngành hàng luôn phải đối mặt với những rào cản thương mại, kể cả những rào cản trá hình.
Vì vậy, để Thuỷ Sản ngày càng phát triển trong xu thế hội nhập, nhất là khi Việt Nam ra nhập WTO, đòi hỏi phải có những biện pháp và bước đi thích hợp.
2. Mục nghiên cứu của đề tài
-Nghiên cứu về tổ chức thương mại thế giới
- Nghiên cứu về quá trình xuất khẩu Thuỷ Sản và tiến trình gia nhập WTO
-Đề xuất các giải pháp để đẩy nhanh xuất khẩu Thuỷ Sản và nhanh chóng cùng nền kinh tế nước nhà hội nhập.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng
nghiên cứu về thực tiễn liên quan đến việc tăng cường xuất khẩu để nhanh chóng gia nhập WTO .
3.2.Phạm vi nghiên cứu của đề tài
-Nghiên cứu sơ lược về WTO
-Nghiên cứu mặt hàng Thuỷ Sản chủ yếu xuất khẩu
-Nghiên cứu thị trường xuất khẩu
4. phương pháp nghiên cứu
Phân tích thống kê, đánh giá tổng hợp, so sánh, phương pháp tham khảo tài liệu kiểm tra và phân tích theo mục đích của đề tài
5. Kết cấu đề tài
Đề tài bao gồm 3 chương như sau:
Chương một:
Lý luận chung về WTO
Chương hai:
Thực trạng phát triển của Thuỷ Sản Việt Nam và tiến trình hội nhập WTO
Chương ba:
Định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến trình gia nhập WTO
Chương một:
Lý luận chung về tổ chức thương mại thế giới (WTO)
I- Khái quát chung về WTO
1. Quá trình hình thành WTO
1.1. GATT
Giờ đây chúng ta có WTO như một định chế chủ đạo trong thương mại quốc tế, thế nhưng để hiểu được định chế này, nhất thiết chúng ta cũng phải hiểu rõ đôi điều về " tiền thân" của nó, tức là GATT
Đầu thập kỷ 30 của thế kỷ xx, lịc sử đã chứng kiến cuộc khủng hoảng, trì trệ nghiêm trọng của nền thương mại thế giới. Người ta nhận thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng trên là chính sách bảo hộ thái quá của mỗi quốc gia, vì những lợi ích riêng đã cố thi hành bất chấp ảnh hưởng đến thương mại chung. Điều này cản trở nghiêm trọng sự phát triển của thương mại hàng hoá, tác động xấu đến nền kinh tế toàn cầu và do đó kìm hãm sự phát triển kinh tế của từng quốc gia.
Nhằm nhanh chóng khắc phục những thiếu sót lớn của các chính sách bảo hộ đã góp phần đẩy nền kinh tế thế giới vào cuộc suy thoái trầm trọng trong thời gian đó, 23 nước thành viên thuộc hội đồng kinh tế và xã hội Liên Hiệp Quốc (ECOSOC) đã tiến hành các cuộc đàm phán thương lượng về thếu vào năm 1946.
Các cuộc thương lượng này đã dẫn đến 45.000 sự nhượng bộ về thếu gắn với 10 tỷ USD giá trị hàng hoá, chiếm khoảng 1/5 tổng giá trị thương mại toàn cầu tại thời điểm đó. Nhận thấy lợi ích to lớn mà các cuộc nhượng bộ về thuế này đem lại cho nền kinh tế thế giới.
Ngày 30 tháng 10 năm 1947, 23 nước này đã đi đến quyết định ký kết hiệp địn chung về thuế quan và mậu dịch (gọi tắt là GATT). GATT được ký tại Gêneva và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1948.
Hoạt động của GATT chủ yếu thông qua các vòng đàm phán lớn, mỗi vòng kéo dài qua nhiều năm, vòng đàm phán sau có nội dung phong phú và kéo dài hơn vòng đàm phán trước. Có thể nói trong lịch sử 50 năm tồn tại của mình, thành quả của GATT đạt được mà không ai có thể phủ nhận được đó là việc cắt giảm thuế quan đối với hàng hoá nhập khẩu. Mức độ cắt giảm nhiều tới mức các nhà kinh tế học cảm thấy rằng thuế quan dường như không còn là hàng rào bảo hộ có ý nghĩa nữa. Mặc dù các vòng đàm phán của GATT diễn ra trong bối cảnh lịch sử, kinh tế và chính trị khác nhau nhưng đều nhằm vào những mục đích chung là tạo ra môi trường quốc tế an toàn và thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại trên toàn thế giới.
GATT đã trở thành " nôi đàm phán" của mậu dịch quốc tế, phát động và thúc đẩy tiến trình tự do hoá mậu dịch giữa các nước; GATT cũng trở thành nơi giải quyết các tranh chấp mậu dịch quốc tế, điều hoà những mâu thuẫn và va chạm về mậu dịch quốc tế giữa các nứơc.
Đồng thời, GATT cũng thông qua những chế độ và cơ chế về mậu dịch của các nước đang phát triển, có tác dụng nhất định trong việc thúc sự phát triển về kinh tế và mậu dịch của các nước đang phát triển.
1.2. Tổ chức thương mại thế giới và vòng Uruguay(vòng đàm phán cuối cùng của GATT).
Vòng Uruguay được bắt đầu từ năm 1986, tuy nhiên đến đầu những năm 1990, nhiều vấn đề vẫn được bàn luận vì Mỹ và một số nước có nền kinh tế phát triển muốn đưa thêm vào chương trình nghị sự những vấn đề mới như: trao đổi dịch vụ quốc tế, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư, lao động,..
Bên cạnh đó, thắng lợi của GATT trong việc cắt giảm thuế cùng một loại nhân nhượng kinh tế trong những năm 70, 80 của thế kỷ xx đã khiến chính phủ các nước đưa ra một loạt những hình thức bảo hộ khác như: tự nguyện hạn chế xuất khẩu, tăng cường các biện pháp kiểm dịch, nâng cao tiêu chuẩn nhập khẩu… chính vì vậy mà thương mại thế giới đã trở nên phức tạp hơn nhiều so với những năm GATT mới hình thành. Ngay cả đối với thương mại hàng hoá, nhiềub lĩnh vực tuy đã được GATT xem xét nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng, chưa hợp lý, đặc biệt như hiệp định về thương mại hàng nông sản và hàng dệt may chủ yếu chỉ mang lại lợi ích cho các nước phát triển. Thể chế của GATT và hệ thống giải quyết tranh chấp cũng bị một số nước thành viên chỉ trích.
Hơn nữa thế giới đã chuyển từ xu thế " đối đầu" sang " đối thoại", thực hiện mở cửa và hội nhập quốc tế.
Tình hình kinh tế, thương mại thế giới có những biến đổi nhanh chóng và sâu sắc dưới tác động của toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và sự phát triển vượt bậc của thông tin liên lạc.
Do đó, nhiều vấn đề mới trong quan hệ kinh tế quốc tế phát sinh vượt xa khuôn khổ của GATT, đòi hỏi các quốc gia thành viên phải xem xét lại xứ mạng của GATT.
Cuối cùng để khắc phục những hạn chế nội tại không thể giải quết của GATT và đáp ứng nhu cầu phát triển toàn cầu hóa mậu dịch và kinh tế quốc tế ngày càng phức tạp, các bên tham gia vòng đàm phán Uruguay đã quyết định thiết lập một thể chế mậu dịch đa phương mới tiếp tục GATT và thay thế cho GATT, đó là Tổ Thương mại thế giới (WTO) vào ngày 1 tháng 1 năm 1995.
RA đời vào ngày 1/1/1995, WTO là tổ chức quốc tế lớn nhất đầu tiên trong việc thiết lập các thoả thuận và cam kết chung trên quy mô toàn cầu trong lĩnh vực thương mại và phát triển kinh tế nói chung.
WTO hoạt động dựa trên 3 mục tiêu chính sau:
-Thúc đẩy tăng trưởng thưong mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới, phục vụ cho sự phát triểnn ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường;
-Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng tranh chấp thương mại giữa các thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế, đảm bảo cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế và khuyến khích các nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới;
-Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làmcho người dân các nước thành viên, đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng;
Tóm lại, Tổ chức thế giới ra đời đã đánh dấu sự ra đời của một thể chế mậu dịch quốc tế đã bước vào một thời đại mới - thời đại của WTO.
2. Những lợi ích và nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là thành viên của WTO
- Việt Nam trở thành viên WTO sẽ đẩy mạnh thương mạivà các quan hệ Việt Nam với các thành viên khác trong WTO
-Bãi bỏ Hiệp định đa sợi MFA sẽ tạo điều kiện cho việc xuất khẩu
- Tìm kiếm được nhiều thị trường hơn
-Việt Nam sẽ có lợi do việc cắt giảm thuế đối với các sản phẩm cần nhiều nhân công
- Việt Nam sẽ nhận được một số ưu đãi đặc biệt với những nguyên tắc của WTO đối với các nước đang phát triển
Bên cạnh những lợi ích mà Việt Nam sẽ có khi là thành viên của WTO, Việt Nam cũng sẽ được cam kết thực hiện một loạt các nghĩa vụ bao gồm :
thuế thấp cho các mặt hàng nhập khẩu, mở cửa thị trường dịch vụ, cung cấp sự bảo vệ phù hợp và hiệu quả cho sử hữu trí tuệ, thiết lập chính sách cho đầu tư nước ngoài và tiếp tục cải cách kinh tế theo yêu cầu của WTO,…
3.- Những yêu cầu và lộ trình cam kết trong hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến kinh tế Thuỷ Sản
3.1Thuếu quan
Ngay khi tham gia hội nhập kinh tế khu vực, Thuỷ Sản đã chủ động xác định lộ trình cắt giảm thuế theo yêu cầu của CEPT như sau:
Năm
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Thuỷ Sản tươi sống
15
15
10
10
10
5
5
5
5
Thuỷ Sản chế biến
40
40
35
20
20
20
15
10
5
Do thực tế nhập khẩu Thuỷ Sản của ta thấp, trong đó có nhập khẩu nguyên liệu để chế biến tái xuất do năng lực chế biến mặt hàng có giá trị cao của ta ngày càng tăng và trình độ công nghệ ngày một tiếp cận được trình độ khu vực và thế giới, đáp ứng được yêu cầu của thị trường thế giới kể cả thị trường khó tính như ( Mỹ, EU) và để phần nào điều hoà nguyên do tác động của tính màu vụ cao trong nuôi trồng và khai thác hải sản.
Tuy nhiên, khi thu nhập của người dân Việt Nam tăng lên thì nhu cầu về hàng thuỷ hải sản giá trị cao đa dạng nhất là những loại mà việt Nam chưa có sẽ tăng lên. Vì vậy, Bộ Thuỷ Sản đã lựa chọn phương án cắt giảm thuế như trên, trong đó cắt giảm nhanh thuế nhập khẩu nguyên vật liệu nhằm khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu để chế biến tái xuất và hạn chế nhập khẩu thành phẩm để bảo hộ sản xuất trong nước.
Đối với WTO: cũng giống quan điểm cắt giảm thuế quan như đối với CEPT là bảo hộ sản xuất trong nước đối với sản phẩm Thuỷ Sản chế biến và khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu để chế biến tái xuất. Vì vậy phương án cắt giảm thuế trong cam kết gia nhập WTO thể hiện thuế nhập khẩu cắt giảm thuế với mức cao hơn và nhanh chóng hơn Thuỷ Sản chế.
3.2. Phi thuế quan
3.2.1. Trợ cấp nhà nước
Theo quy định của WTO đối với ngành Thuỷ Sản, các hỗ trợ của nhà nước nhằm tăng cường quản lý nghề cá và phát triển bền vững ở mức độ quốc gia bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng, nghiên cứu, đào tạo, khuyến ngư và phát triển thị trường không bị coi là trợ cấp của nhà nước . Hoặc các hỗ trợ của nhà nước nhưng không vì mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước hoặc bóm méo thương mại thì không được coi là trợ cấp.
Thực tế tài trợ tài chính cho nghề cá của nước ta trong thời gian qua chủ yếu tập chung vào cơ sở hạ tầng nghề cá: cảng cá, khu neo đậu trú bão; đầu tư giống quốc gia phục vụ cho nghiên cứu và bảo tồn giống gốc; khuyến ngư; … Tuy nhiên, mức độ tài trợ hàng năm cho những dự án trên còn thấp, không phù hợp với tiềm năng phát triển của ngành. chẳng hạn, để thực hiện chương trình phát triển nuôi trồng Thuỷ Sản , những năm qua cần đầu tư 500-700 tỷ đồng mỗi năm cho thuỷ lợi phục vụ nuôi trồn, nhưng thực tế nhà nước chỉ cân đối đựoc 150-180 tỷ.
Bên cạnh những nội dung tài trợ từ nguồn ngân sách nhà nước nói trên, từ năm 1997 chính phủ có chương trình cho vay vốn tín dụng ưu đãi đóng và cải hoán tàu đánh cá xa bờ và từ năm 2000 có cơ chế cho vay vốn ưu đãi nuôi trồng Thuỷ Sản theo chương trình phát triển nuôi trồng Thuỷ Sản, nhằm chuyển đổi cơ cấu sản xuất nghề cá theo hướng phát triển bền vững: chuyển dịch hợp lý khai thác gần bờ sang khai thác xa bờ, chuyển một bộ phận lao động từ khai thác hải sản ven bờ sang nuôi trồng Thuỷ Sản , chế biến và dịch vụ hậu cần cho nghề cá, góp phần tạo việc làm và bảo vệ nguồn lợi hải sản. Với những mục đích như vậy, hoàn toàn không làm bóp méo thương mại, phù hợp với quy định.
Tuy nhiên, việc cho vay tín dụng ưu đãi để đóng góp cải hoán tàu đánh cá xa bờ trong vài năm gần đây không được tiếp tục thực hiện do hiệu quả của một số dự án đầu tư loại này, mặt khác do người vay không chịu trả vốn vay ảnh hưởng đến việc thu hồi công nợcủa đơn vị cho vay nên hầu hết các địa phương không được tiếp tục vay vốn theo chương trình này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất và khả năng cạnh tranh của hàng Thuỷ Sản Việt Nam.
Trong khi đó các nước phát triển thường sử dụng trợ cấp như một biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước. Chẳn hạn, trợ giúp của EU với nghề cá cua rtoàn khối như sau:
-Tài trợ trong lĩnh vực khai thác Thuỷ Sản thời kỳ 1994-1999 là 1,84 tỷ USD, tập trung vào tối ưu hoá tăng cường độ khai thác 837,1 triệu USD chiếm 26,7%, đổi mới hiện đại hoá hạm tàu , bảo vệ nguồn Thuỷ Sản, cảng cá.
- tài trợ cho nuôi trồng Thuỷ Sản , tập trung vào quy hoạch mặt nước nuôi, sản xuất con giống, marketing, môi trường…
TRong kỳ tới EU quyết định sẽ tăng mức tài chính lên cao hơn. từ năm2001, hàng năm sẽ trợ cấp 1 tỷ USD, tăng gần 2 lần so với trước…
Ngay trong khu vực, một số nước cũng có những chương trình trợ cấp cho nhề cá, theo tài liệu do các nước cung cấp tại hội nghị" cá cho mọi người" tổ chức tại Thái Lan năm 2001 cho thấy: Malayxi, trợ cấp gia nguyên liệu cho nghề cá năm 1999-2000 với mức trợ giá khoảng 11,3 triệu USD, trợ cấp hỗ trợ khoản vay theo tỷ giá thị trường cho hợp tác khai thác cá ngừ biển sâu, khoảng 1,3 triệu USD…
Chính do trợ cấp của các nước phát triển cho nghề cá quá lớn đã tạo cạnh tranh không bình đẳng trên trường quốc tế, và người khó khăn vẫn là các nước chậm phát triển và các nứơc đang phát triển. Tuy nhiên, thực tế lại hay trái ngược các nước đang phát triển lại hay bị kiệ là bán phá giá hoặc trợ giá khi sản phẩm của họ xuất nhiều vào các nước mạnh.
Vụ kiện doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá da trơn là một ví dụ.
3.2.2. thương mại Thuỷ Sản với vấn đề nguồn lợi, môi trường
Nhận thức rõ phát triển Thuỷ Sản phải đi đôi với công tác quản lý, bảo vệ nguồn lợi và bảo vệ môi trường sinh thái mới đảm bảo phát triển bền vững, Bộ Thuỷ Sản đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luậtliên quan đến việc bảo vệ nguồn lợi, môi trường. Đồng thời trong quá trình chỉ đạo, điều hành sản xuất, vấn đề này luôn được quan tâm. cụ thể trong các lĩnh vực sau:
-Trong khai thác hải sản: đã có các quy định cấm khai thác hải sản bằng các nghề có tính huỷ diệt nguồn lợi; đăng ký và cấp phép hoạt động cho tàu cá trong đó quy định loại ngư cụ được sử dụng, khu vực và thời gian đánh bắt để tránh khai thác hải sản vào mùa sinh sản, cấm sử dụng chất nổ, súng điện để khai thác hải sản,,… Đồng thời tổ chức thả giống tôm, cá ra biển để tái tạo nguồn lợi, tuyên truyền cho nông ngư dân hiểu rõ việc cần thiết phải bảo vệ và tái tạo nguồn lợi. Thực hiện quy chế khai thác hải sản có trách nhiệm của FAO và ký thoả thuận bảo vệ Rùa biển với các nước trong khối Asean.
Tuy nhiên, các biện pháp về quản lý, bảo vệ tái tạo nguồn lợi hải sản hiện nay chưa thu được hiệu quả cao, một mặt do trình độ dân trí của ngư dân còn thấp, thu nhập và đời sống của họ còn khó khăn nên họ thiếu tự giác trong việc thực thi các quy định về bảo vệ nguồn Thuỷ Sản . Mặt khác, do hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, phương pháp quản lý còn bất cập trong khi kinh phí cho công tác còn hạn hẹp, thiếu trang thiết bị tiên tiến phục vụ cho công tác quản lý cũng như điều hành sản xuất.
Đối với nuôi trồng Thuỷ Sản , bên cạnh việc phát triển nuôi Thuỷ Sản theo phương thức thâm canh, bán thâm canh, còn quan tâm đến việc phát triển nuôi sinh thái kết hợp tôm-rừng ngập mặn, tôm -lúa.từng bước thực hiện quy phạm nuôi Thuỷ Sản của FAO.
Đối với Thuỷ Sản lồng bè, Bộ Thuỷ Sản đã ban hành tiêu chuẩn quy định khoảng cách, kích cỡ lồng bè và các quy định liên quan đến vệ sinh, môi trường.
-Việt Nam đã tham gia công ước quốc tế về bảo vệ động vật hoang dã trong đó có các loại Thuỷ Sản quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng. Ban hành danh mục những loài Thuỷ Sản phải đáp ứng về điều kiện kích cỡ mới được khai thác và xuất khẩu .
3.2.3.Vệ sinh an toàn thực phẩm
Ngay từ những năm đầu thập kỷ 90 ngành Thuỷ Sản đã quan tâm đến việc đáp ứng yêu cầu của thị trường về vệ sinh an toàn thực phẩm. năm 1990 cử người đi học HACCP ở ấn Độ, năm 1991 học ở THái Lan…
Từ năm 1994 đã nghiên cứu các quy định của EU để điều chỉnh, bổ sung các quy định về kiểm soát an toàn vệ sinh Thuỷ Sản của Việt nam cho phù hợpvới yêu cầu của EU. năm 1997 tiép tục điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của Mỹ.
Để theo kịp xu thế của thế giới quản lý an toàn vệ sinh "từ ao nuôi đến bàn ăn", Bộ Thuỷ Sản đã ban hành hàng loạt các tiêu chuẩn ngành về điều kiện đảm bảo về sinh an toàn của các cơ sở sản xuất và cơ sở dịch vụ nghề cá như: tàu cá, cảng cá, chợ cá,,.. Đã ban hành quy chế và thực hiện chương trình kiểm soát chất độc tố sinh học của vùng thu hoạch nhuyễn thể..
Ngoài ra nhiều tiêu chuẩn ngành nghề về phụ gia, ghi nhãn, bao gói và phương pháp kiểm nghiệm đã và đang được ban hành như tiêu chuẩn về hàm lượng các chất độc tố, tiêu chuẩn về kim loại nặng, quy định sử dụng chất phụ gia thực pham trong chế biến… Bước đầu thực hiện phương pháp kiểm soát hệ thống mà các nước tiên tiến đang áp dụng.
Mặt khác, hướng dẫn các doanh nghiệp được hướng dẫn nâng cấp nhà xưởng, đầu tư chiều sâu trang thiết bị, công nghệ và áp dụng HACCP. Nhiều lớp đào tạo về HACCP đã được tổ chức cho cán bộ quản lý nhà nước cũng như cán bộ quản lý và cán bộ thực hành của doanh nghiệp.
Nhờ sự tích cực chuẩn bị các điều kiện tương đương, năm 1999 Việt Nam đã được vào danh sách I xuất khẩu Thuỷ Sản vào EU. Đồng thời EU cũng công nhận chương trình kiểm soát an toàn vệ sinh đối với nhuyễn thể và Thuỷ Sản nuôi.
Tuy nhiên, ta lại chưa có kinh nghiệm về thiết lập cơ chế cũng như điều kiện để xây dựng hệ thống kiểm tra, kiểm soát về an toàn vệ sinh thực phẩm đối với Thuỷ Sản nhập khẩu theo SPS, nên hiện nay hàng Thuỷ Sản nhập khẩu đang thả nổi, không có sự kiểm soát. Một mặt do phân công thực hiện giữa các Bộ, ngành còn trồng chéo vừa có chỗ trống. Mặt khác, còn thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý liên quan.
3.2.4. Cạnh tranh thương mại bình đẳng
Nguyên tắc của WTO là cạnh tranh bình đẳng thương mại hàng hoá cũng như thương mại dịch vụ. Các cơ chế chính sách của Thuỷ Sản đến nay đầy đủ yêu cầu này.
Tuy nhiên, trong thực tế do xuất khẩu hàng Thuỷ Sản của ta tăng nhanh trong thời gian qua, nên các nước lớn đưa ra cac hàng rào nhằm hạn chế xuất khẩu của Thuỷ Sản Việt Nam. Nổi bật là những quy chế dư lượng kháng sinh quá mức cần thiết và không có cơ sở khoa học. Hơn nữa EU còn đốt các lô hàng bị nhiễm kháng sinh của ta dù mức độ nhiễm rất nhỏ. Tương tự các nước Mỹ, Canada cũng đã áp dụng quy chế của EU. Điều này gây khó khăn lớn cho xuất khẩu Thuỷ Sản Việt Nam.
Việc gây khó khưn đối với việc xuất cá tra, ba sa sang Mỹ cũng là một ví dụ điển hình. Khi cá da trơn của ta xuất vào Mỹ tăng lên Hiệp hội cá nheo của Mỹ (CFA) tìm mọi cách để hạn chế xuất khẩu của ta.
Với những động thái trên, các doanh nghiệp Thuỷ Sản của ta không khỏi lo lắng, ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng sản xuất, công ăn việc làm của người lao động. Vì thực tế Thuỷ Sản không được trợ cấp, các doanh nghiệp không bán phá giá, chất lượng hàng của ta tốt, chúng ta đã thực hiện tốt những quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng ta vẫn bị đối xử không bình đẳng.
II- Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1. Bài học của Trung Quốc
-Trung Quốc gia nhập Tổ chức thơng mại thế giới là những kinh nghiệm gợi mở đáng tham khảo trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới của các nớc có trình độ phát triển gần nhau trong khối ASEAN nh Việt Nam
-Đúng như ngài Magorinot, người đứng đầu tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc tại lễ khai mạc " diễn đàn phát triển công nghiệp khu vực Châu á- Thái Bình Dơng tại Thượng Hải năm 2002" Việc Trung Quốc gia nhập WTO không những làm thay đổi Trung Quốc, mà còn làm thay đổi cả tổ chức thơng mại thế giới , có ý nghĩa sâu xa với các nớc đang phát triển…
chương II:
Thực trạng phát triển của Thuỷ Sản Việt Nam với
tiến trình gia nhập WTO
I- Tình hình phát triển của Thuỷ Sản Việt Nam
Hơn 20 năm qua, kể từ khi nhà nước cho ngành Thuỷ Sản thử nghiệm cơ chế "tự cân đối, tự trang trải" đến thực hiện cơ chế thị trường nhiều thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn và chuyển dịch cơ cấu bản thân bộ ngành, ngành Thuỷ Sản đã khảng định bằng các chỉ số liên tục phát triển với tốc độ khá cao, liên tục trong 2 thập kỷ thể hiện qua số liệu sau:
Bảng 1: Tình hình phát triển năng lực, sản xuất và xuất khẩu Thuỷ Sản
Năm
So sánh
1998
1990
2000
2002
2000/98
2002/2000
1.sản lượng Thuỷ Sản (tấn)
trong đó:
-khai thác hải sản
-nuôi trồng Thuỷ Sản
558.600
402.300
156.360
978.880
672.130
306.750
2.003.700
1.280.590
723.110
2.410.900
1.434.800
976.100
358,7
318,3
562,3
120,3
112,0
135,0
2.xuất khẩu:
-giá trị(triệu USD)
-sản phẩm xuất khẩu (tấn)
11,3
2.720
205
49.332
1,475
291.922
2.014
444.034
13.053
10.732,4
136,5
152,1
3.số lượng tàu thuyền(ch)
công suất(cv)
48.844
453.871
72.328
727.585
79.017
3.204.998
81.800
4.038.365
161,7
706,14
103,5
126,0
4.số nhà máy chế biến đông lạnh(chiếc)
công suất(tấn/ngày)
30
180
99
580
240
2780
235
3.147
800
1.544,4
97.92
113,2
Nguồn :Bộ Thuỷ Sản
Nhận xét:
Qua số liệu về tình hình phát triển năng lực.xuất khẩu và xuất khẩu Thuỷ Sản ta thấy :
Ngành Thuỷ Sản qua 2 thập kỷ hình thành và phát triển đã tự khảng định mình. bằng chứng được chứng minh bằng những con số cụ thể ở bảng trên: sản lượng Thuỷ Sản tăng lên rõ rằng ,tăng 358,7% từ năm 2000 so với năm 1980, và đến năm 2002 tăng 120,3% so với năm 2000
Về xuất khẩu cũng tăng nhanh năm 1980 giá trị xuất khẩu chỉ đạt 11,3 triệu USD đến năm 2000 đã lên tới 1.475 triệu USD và đến năm 2002 ;ên tới 2.014 triệu USD
Số lượng tàu thuyền, số nhà máy chế biến đông lạnh cũng tăng nhanh
$ Cụ thể các lĩnh vực sản xuất như sau:
1. Về khai thác và bảo vệ nguồn lợi Thuỷ Sản:
-Nguồn Thuỷ Sản nước ta mặc dù rất phong phú song nếu không kết hợp giữa khai thác và bảo vệ nguồn này thì tương lai giá trị của nó sẽ mất dần đi.
Vì vậy, cần phải đầu tư để ngư dân có thể có điều kiện đánh bắt xa bờ và phát triển nghề nuôi trồng Thuỷ Sản nâng cao đời sống của họ.
Cụ thể là:
Thực hiện chủ trương hạn chế khai thác hải sản ven bờ, mở rộng khai thác hải sản xa bờ nhằm bảo vệ và tái tạo nguồn lợi hải sản vùng ven bờ do khai thác quá mức, nên số lượng tàu thuyền nhỏ, dưới 90CV không đủ khả năng khai thác xã bờ giảm mạnh,trong khi đó số tàu thuyền có công suất trên 90 CV dần dần tăng lên nhưng chủ yếu là do đầu tư của các hộ gia đình, các hợp tác xã.
Sản lượng khai thác hải sản tuy không tăng nhiều qua các năm, nhưng theo yêu cầu và lợi ích từ thị trường nhất là cho xuất khẩu , ngư dân đã chuyển dần từ việc khai thác theo số lượng, khai thác ven bờ, hướng sang khai thác những đối tượng có giá trị xuất khẩu , có thị trường tiêu thụ và kkhai thác xa bờ.
-Năng suất ngày càng tăng lên, dịch vụ nuôi trồng Thuỷ Sản phát triển trong vài năm gần đây
2. Phát triển nuôi trồng Thuỷ Sản :
Nước ta thuộc một trong số các quốc gia giàu đa dạng sinh học, nơi có nhiều tiềm năng môi trường phát triển và nuôi trồng thuỷ sản. theo thống kê của tổ chức nông nghiệp và Lương thực thế giới (FAO) hiện nay Việt Nam là một trong số 20 nước có sản lượng đánh bắt thủy sản lớn và đứng trong hàng ngũ 25 nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới.
Với 3260km bờ biển,112 cửa sông, lạch, vùng đặc quyền kinh tế, khoảng 1 triệu km2 và 4000 hòn đảo lớn nhỏ đã tạo nên nhiều vùng triều, vịnh, eo biển và đầm phá nông ven biển . C ó thể nói Việt Nam có một tiềm năng về nguồn lợi tài nguyên sinh vật biển hết sức phong phú, đa dạng, vừa có nhiều thuỷ đặc sản quý giá được thế giới ưa chuộng, vừa có điều kiện phát triển hầu hết các đối tượng chủ lực mà thế giới cần.
Nhìn chung, với điều kiện địa lý hết sức thuận lợi Việt Nam có thế phát triển thuỷ sản khắp nơi trên toàn đất nước, ở mỗi vùng có một tiềm năng, đặc thù và sản vật đặc sắc riêng: Bắc Bộ có tôm he, cá; Trung Bộ có tôm hùm, cá; Nam Bộ có mực. Đặc biệt đồng bằng sông Cửu Long là vùng sinh thái đất thấp vì vậy có thể đưa nước mặn vào rất sâu tạo thành vùng nuôi nước lợ chuyên nuôi trồng thuỷ hải sản. Đây là những lợi thế rất lớn mà tự nhiên đã ưu đãi chúng ta, nhờ tận dụng được những lợi thế về địa lý khí hậu này mà chúng ta có thể giảm được chi phí sản xuất, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu thuỷ sản nước ta với các nước khác.
Diện tích nuôi trồng Thuỷ Sản tính đến năm 2002 khoảng 1.700.000 ha. Diện tích các loại mặt nước đã sử dụng năm 2002 là 955.000 ha, chiếm 56,2% so với diện tích các loại nước có khả năng nuôi trồng Thuỷ Sản , tăng 52,8% so với năm 1998.
Nhiều hình thức nuôi trồng Thuỷ Sản được áp dụng như nuôi thâm canh, nuôi lồng bè, nuôi xen canh tôm-lúa, tôm-vườn, tôm-rừng, nuôi tôm trên cát,nuôi biển đưa sản lượng nuôi trồng Thuỷ Sản và khai thác Thuỷ Sản và khai thác nội địa năm 2002 lê 976.100 tấn, tăng 67,5% so với năm 1998
Với đặc thù của vùng biển Việt Nam là vùng biển nhiệt đới , có nguồn thủy sản đa dạng và phong phú và nhu cầu của thị trưởng thế giới ngày càng tăng mạnh mà ngành thủy sản của nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ và là ngành kinh tế then chốt.
Nhìn chung , nguồn hải sản đánh bắt có xu hướng tăng mạnh, bình quân hàng năm tăng khoảng 7,8%. Điều này cũng cho thấy trữ lượng ở
bờ biển nước ta vẫn còn là một tiềm năng lớn, đáp ứng cho nhu cầu trong nước và nguồn nguyên liệu để xuất khẩu ra thị trường các nước. Mặt khác theo chủ trương của Chính phủ về chính sách chuyển dịch cơ cấukinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nhân dân hầu hết các tỉnh ven biển đã tiến hành chuyển đổi các vùng đất nhiễm mặn trồng lúa, trồng cói, làm muối và vùng đất cát khô cằn sang nuôi trồng thủy sản, mà chủ yếu là nuôi tôm. Tổng diện tích chuyển đổi ở vùng ven biển đã lên tới trên 220.000 ha, diện tích chuyển đổi này góp phàn quan trọng trong tổng số xấp xỉ 60 nghìn tấn tôm nuôi tăng thêm, nâng tổng sản lượng tôm lên gần 160 nghìn tấn,cao gấp rưỡi so với năm 2000.
Kết quả thực hiện kế hoạch hàng năm ngành thuỷ sản.
Năm
Tổng sản lượng thuỷ sản
(tấn)
Trong đó
Giá trị xuất khẩu (1.000USD)
Tổng số tàu thuyền
(chiếc)
Diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản
(ha)
Sản lượng khai thác
(tấn)
Sản lượng nuôi trồng
(tấn)
1990
978880
672130
306.750
205000
72328
491723
1991
1062163
714253
347910
262234
72043
489833
1992
1097830
746570
351260
305360
83972
577538
1993
1116169
793324
322845
368435
93147
600000
1994
1211496
878474
333022
458200
93672
576000
1995
1344140
928860
415280
550100
95700
581000
1996
1373500
962500
411000
670000
97700
585000
1997
1570000
1062000
508000
776000
71500
600000
1998
1668530
1130660
537870
858600
71799
626330
1999
1827310
1212800
614510
971120
73397
630000
2000
2003.700
1280590
723.110
1475000
79.017
652000
2001
2310000
1490000
820000
1700000
74900
887500
2002
2410900
1434800
976100
2014000
81.800
955000
Nguồn: Bộ thủy sản
Như vậy , nuôi trồng thủy sản đã thực sự trở thành một công cụ quan trọng để tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động cũng có nghĩa là góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho nhân dân.
2.1. các mặt hàng xuất khẩu Thuỷ Sản chủ yếu của Việt Nam
Nguyên liệu của thuỷ sản chủ yếu dựa vào đánh bắt, khai thác tự nhiên, mà khai thác tự nhiên phụ thuộc rất lớn vào những yếu tố khách quan. Hơn nữa, số lượng ngoài tự nhiên cũng chỉ có hạn , không thể coi khai thác tự nhiên là nguồn cung cấp nguyên liệu chính được. Giai đoạn từ năm 1990 đến nay sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đang tăng lên và dần bắt kịp với sản lượng đánh bắt tự nhiên. Mục tiêu của ngành thuỷ sản Việt Nam trong giai đoạn tới là nâng cao diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản và tiến tới tăng sản lượng nuôi trồng cao hơn sản lượng khai thác ngoài tự nhiên.
Đối tượng nuôi được mở rộng, ngoài các loại Thuỷ Sản truyền thông như:cua biển, cá ngừ, cá nước lợ,… trong đó đã chú ý nuôi các đối tượng có giá trị xuất khẩu như: tôm sú, tôm hùm, tôm cành xanh, cá tra, ba sa, cá hồng,ca song,…tuy nhiên đối tượng chính để xuất khẩu vẫn tập trung vào tôm sú, cá tra, ba sa. các đối tượng khác chỉ nuôi ở mức sản lượng thấp cho tiêu dùng trong nước, giá thành sản xuất cao.
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhằm đảm bảo an ninh thực phẩm và tạo nguồn nguyên liệu chu yếu cho xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2010 tổng sẩn lượng Nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 2triệu tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 2,5 tỷ USD, tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 2 triệu người; góp phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội đất nước và an ninh ven biển.
2.2 Mục tiêu cụ thể như sau:
Phấn đấu đến năm 2010 đạt các chỉ tiêu sau:
Về kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ trung bình khoảng 10-15%/năm, trong giai đoạn 2000-2005 tăng khoảng 12-15%/năm, giai đoạn 2005-2010 là 10-12%/năm, giá trị xuát khẩu tương ứng là 3-3,5 tỷ USD năm 2005 và 4,5-5 tỷ USD năm 2010.
Số lao động trực tiếp và p._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34345.doc