Thực trạng phát triển chăn nuôi trâu và một số đặc điểm sinh học của đàn trâu ở xã Vân Hòa, huyện Ba Vì, Hà Nội

Bộ giáo dục và đào tạo Trường đại học dân lập Hải Phòng -------------------------- Đồ án Tốt Nghiệp Ngành: Kỹ thuật nông nghiệp Sinh viên : Vũ Tùng Lâm Người hướng dẫn: TS. Giang Hồng Tuyến TS. Trịnh Văn Trung HảI Phòng - 2009 Bộ giáo dục và đào tạo Trường đại học dân lập Hải Phòng -------------------------- Đề tài: Thực Trạng phát triển chăn nuôi trâu và một số đặc điểm sinh học của đàn trâu ở xã Vân Hoà - huyện Ba Vì - Hà Nội Đồ án tố nghiệp đại học hệ chính quy Ngành: Kỹ thuậ

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1539 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng phát triển chăn nuôi trâu và một số đặc điểm sinh học của đàn trâu ở xã Vân Hòa, huyện Ba Vì, Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t nông nghiệp Sinh viên : Vũ Tùng Lâm Người hướng dẫn: TS. Giang Hồng Tuyến TS. Trịnh Văn Trung Hải Phòng - 2009 Bộ giáo dục và đào tạo Trường đại học dân lập Hải Phòng -------------------------- Nhiệm Vụ đề tài tốt nghiệp Sinh viên: Vũ Tùng Lâm Mã số: 090600 Lớp: Kn901 Ngành: Kỹ thuật nông nghiệp Tên đề tài: Thực trạng phát triển chăn nuôi trâu và một số đặc điểm sinh học của đàn trâu ở xã Vân Hoà - huyện Ba Vì - Hà Nội Nhiệm vụ đề tài Nội dung và các yêu cầu cần giải quyết trong nhiệm vụ đề tài tốt nghiệp ( về lý luận, thực tiễn, các số liệu cần tính toán và các bản vẽ). …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. Các số liệu cần thiết để thiết kế, tính toán. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. Địa điểm thực tập tốt nghiệp. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. Cán bộ hướng dẫn đề tài tốt nghiệp Người hướng dẫn thứ nhất: Họ và tên:............................................................................................. Học hàm, học vị:................................................................................... Cơ quan công tác:................................................................................. Nội dung hướng dẫn:............................................................................ ……………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………….. Người hướng dẫn thứ hai: Họ và tên:............................................................................................. Học hàm, học vị:................................................................................... Cơ quan công tác:................................................................................. Nội dung hướng dẫn:............................................................................ ……………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………….. Đề tài tốt nghiệp được giao ngày .... tháng .... năm 2008 Yêu cầu phải hoàn thành xong trước ngày …. tháng …. năm 2008 Đã nhận nhiệm vụ ĐTTN Đã giao nhiệm vụ ĐTTN Sinh viên Người hướng dẫn Hải Phòng, ngày ......tháng........năm 2009 Hiệu trưởng GS.TS.NGƯT Trần Hữu Nghị Phần nhận xét tóm tắt của cán bộ hướng dẫn Tinh thần thái độ của sinh viên trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp: …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. Đánh giá chất lượng của khóa luận (so với nội dung yêu cầu đã đề ra trong nhiệm vụ Đ.T. T.N trên các mặt lý luận, thực tiễn, tính toán số liệu…): …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. 3. Cho điểm của cán bộ hướng dẫn (ghi cả số và chữ): …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………….. Hải Phòng, ngày … tháng … năm 2008 Cán bộ hướng dẫn (họ tên và chữ ký) Nhận xét đánh giá của người chấm phản biện đề tài tốt nghiệp 1. Họ và tên sinh viên: ………………………………………………………… 2. Tên đề tài tốt nghiệp: ……………………………………………………….. ………………………………………………………………………..……… 3. Đánh giá chất lượng đề tài tốt nghiệp về các mặt: phương pháp nghiên cứu, thu thập và phân tích số liệu, cơ sở lý luận, nội dung của đề tài, giá trị lý luận và thực tiễn đề tài, kết cấu của đồ án…. ……………………………………………………………………………..……………………………………………………………………………..……………………………………………………………………………..………………………………………………………………………………………………………..………………………………………………………………………………..…………………………………………..………………………………………………………………………………………………………..……………………………………………………………………………..……………………………………………………………………………..…………………………………………………………………………………………………………..…………………………… 4. Cho điểm của người chấm phản biện (điểm ghi bằng số và chữ) …………………………………………………………………………..… Ngày …..tháng……năm 2009 Người chấm phản biện Lời cảm ơn Để hoàn thành tốt đề tài tốt nghiệp, ngoài sự lỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được sự quan tâm giúp đỡ quý báu của các tổ chức cá nhân trong và ngoài trường. Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Giang Hồng Tuyến cùng TS Trịnh Văn Trung đã giành nhiều thời gian chỉ dẫn và giúp đỡ tôi tận tình trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong ngành kỹ thuật nông nghiệp của trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng đã trực tiếp giảng dạy và tạo điều kiện giúp dỡ tôi trong suốt quá trình học tập tại trường. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của tập thể cán bộ - bộ môn nghiên cứu Trâu - Viện chăn nuôi quốc gia cùng gia đình chú Đinh Công Kiểm - xã Vân Hòa - huyện Ba Vì - TP Hà Nội đã tạo điều kiện tốt để tôi hoàn thành đề tài của mình. Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới người thân và bạn bè đã giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập. Hải Phòng, ngày 8 tháng 6 năm 2009 Sinh viên Vũ Tùng Lâm MụC LụC Phần thứ nhất: Mở ĐầU 1 Đặt vấn đề 1 1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài 3 1.2.1. Mục đích của đề tài 3 1.2.2. Yêu cầu của Đề tài 3 Phần thứ hai: TổNG QUAN TàI LIệU 4 2.1. Nguồn gốc và sự thuần hóa trâu nhà 4 2.1.1. Trâu sông (River Buffalo) 5 2.1.2. Trâu đầm lầy (Swamp Buffalo) 6 Trâu Việt Nam 7 2.2. Tình hình chăn nuôi trâu 9 2.2.1. Tình hình chăn nuôi trâu trên thế giới 9 2.2.2. Tình hình chăn nuôi trâu ở Việt Nam 11 2.3. Đặc điểm sinh sản của trâu 13 2.3.1. Đặc điểm hệ sinh sản của trâu 13 2.3.2. Hoạt động sinh dục của trâu đực 14 2.3.3. Hoạt động sinh dục của trâu cái 14 2.3.4. Các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất của con trâu 16 2.3.4.1. Tuổi thành thục về tính 16 2.3.4.2. Tuổi đẻ lứa đầu của trâu 17 2.3.4.3. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ 18 2.3.4.4. Số con đẻ ra trong một đời trâu cái 19 2.3.4.5. Nhịp đẻ và tỉ lệ đẻ 20 2.3.4.6. Tình mùa vụ trong sinh sản của trâu 21 Phần thứ ba: ĐốI TƯợNG, NộI DUNG Và PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU 22 3.1. Đối tượng nghiên cứu 22 3.2. Thời gian, địa điểm nghiên cứu 22 3.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 22 3.3.1. Nội dung nghiêu cứu 22 Phương pháp nghiên cứu 22 3.4. Phương pháp xử lý số liệu 23 phần thứ tư: KếT QUả Và THảO LUậN 24 4.1. Đặc điểm tự nhiên-kinh tế, xã hội của xã Vân Hoà 24 4.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm địa hình 24 4.1.2. Khí hậu thuỷ văn 25 4.1.3. Điều kiện kinh tế-Xã hội 28 4.2. Tình hình sản xuất ngành nông nghiệp của xã Vân Hoà 30 4.2.1. Tình hình sử dụng đất ngành trồng trọt 30 4.2.1.1. Tình hình sử dụng đất ở Vân Hoà 30 4.2.1.2. Tình hình sản xuất ngành trồng trọt ở xã Vân Hoà 31 4.2.2. Tình hình sản xuất ngành chăn nuôi 33 4.3. Tình hình phát triển chăn nuôi trâu của xã Vân Hoà 35 4.3.1. Diễn biến đàn trâu qua các năm 35 4.3.2. Cơ cấu đàn trâu ở xã Vân Hoà 37 4.3.3. Quy mô chăn nuôi trâu ở xã Vân Hoà 39 4.3.4. Phương thức chăn nuôi trâu 39 4.3.5. Hiện trạng sử dụng phụ phẩm nông nghiệp cho chăn nuôi trâu tại xã Vân Hoà 41 4.3.5.1. Một số loại phụ phẩm chủ yếu dùng cho chăn nuôi trâu ở Vân Hoà 41 4.3.5.2. Tỷ lệ và những hạn chế trong việc sử dụng phụ phẩm nông nghiệp trong chăn nuôi trâu ở Vân Hoà 42 4.4. Đặc điểm sinh sản của đàn trâu ở xã Vân Hoà 43 4.4.1. Tuổi đẻ lứa đầu của trâu 43 4.4.2. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ 46 4.4.3. Tỷ lệ đẻ 49 4.4.4. Mùa sinh sản 50 4.4.5. Biểu hiện động dục của trâu cái 54 Phần thứ năm: KếT LUậN Và Đề NGHị 56 5.1. Kết luận 56 5.2. Đề nghị 57 Tài Liệu Tham Khảo Phần thứ nhất Mở đầu 1.1. Đặt Vấn Đề “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, câu châm ngôn từ xa xưa đó đã nói lên đầy đủ và phong phú sự gắn bó khăng khít giữa con trâu với đời sống người nông dân Việt Nam trên đồng ruộng cùng với nền văn minh lúa nước ở nước ta. Người nông dân Việt Nam nuôi trâu chủ yếu để cày bừa làm đất nông nghiệp, cung cấp phân bón cho cây trồng và làm sức kéo cho các ngành vận tải khác. Nguồn thức ăn chính của trâu lại là cỏ tươi và các phụ phẩm nông nghiệp như: rơm rạ, thân cây ngô đã thu bắp và dây lang, dây lạc... Vì vậy mà người ta thường nói rằng con trâu “ăn giả, làm thật” Song ngày nay, cùng với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nông nghiệp, vai trò của con trâu trong sản xuất nông nghiệp đã dần dần có sự thay đổi. Mặc dù vậy con trâu vẫn là nguồn sức kéo chính trong nông nghiệp ở một số vùng. Ngoài cung cấp sức kéo con trâu còn cung cấp thịt, sữa cho tiêu dùng hàng ngày của con người, da và sừng cho các nghành thủ công mỹ nghệ. Tác giả Việt Nông 2000 đã viết “Chẳng dễ gì mà một sớm một chiều bỏ được sức kéo của con trâu”. Ngày nay để thích ứng với xu thế phát triển mới trong nông nghiệp là sản xuất hàng hoá, nông dân đã có sự điều chỉnh về phương thức trong sản xuất nói chung và trong chăn nuôi trâu bò nói riêng. Đó là chuyển từ chăn nuôi trâu bò cày kéo sang chăn nuôi trầu bò cày kéo kết hợp với sinh sản, lấy sữa, lấy thịt và phương thức chăn nuôi này đã thể hiện được tính ưu việt của nó. Nó đã tăng nguồn thu nhập đáng kể và góp phần thực hiện chủ trương “xoá đói giảm nghèo” của Đảng và Nhà nước. Theo tài liệu của tổng cục thống kê năm 2009, tổng đàn trâu nước ta là 2966,4 nghìn con, đứng thứ 7 trong 50 nước có nuôi trâu trên thế giới. Sản lượng thịt xuất chuồng là 59,8 nghìn tấn chiếm 42,1% tổng lượng thịt trâu bò tiêu thụ trên thị trường cả nước. Sự phân bố đàn trâu là không đồng đều giữa các vùng, nó tập trung chủ yếu ở miền núi phía Bắc (58,85%) và Bắc trung bộ, đồng thời sự phát triển số lượng của đàn trâu cũng rất khác nhau giữa các vùng. ở các tỉnh miền núi phía Bắc vẫn có sự tăng đều qua các năm, trong khi đó đàn trâu ở các tỉnh đông bằng Nam bộ và đồng bằng Sông Hồng lại có xu hướng giảm về số lượng đàn trâu. Nhiều nhà khoa học cho rằng: có nhiều nguyên nhân làm cho số lượng đàn trâu nước ta không những không tăng trong những năm gần đây mà khối lượng cơ thể còn có xu hướng giảm. Một trong những nguyên nhân quan trọng là tỷ lệ sinh sản của đàn trâu thấp và một số đàn trâu ở một số vùng do tập quán chăn nuôi quảng canh, sinh sản tự nhiên gây nên hiện tượng đồng huyết do đó mà đàn trâu có chiều hướng giảm về tầm vóc và chất lượng. Trong thời gian qua công tác giống của ta làm chưa tốt, đặc biệt là trâu đực giống chưa được chú ý chọn lọc. Tuy nhiên mấy năm trở lại dây ngành chăn nuôi nước ta gặp nhiều rủi ro (dịch cúm ở gia cầm và lở mồm long móng ở lợn thường xuyên xảy ra) do đó thịt trâu bò trên thị trường được tiêu thụ mạnh hơn. Đây chính là cơ hội cho ngành chăn nuôi phát triển. Là một xã phía Nam của huyện Ba Vì, Vân Hoà được đánh giá là có tiềm năng phát triển chăn nuôi đại gia súc, trong đó có con trâu. Để đánh giá sự phát triển của đàn trâu, cũng như nghiên cứu biện pháp thúc đẩy sự tăng trưởng của đàn trâu chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng phát triển chăn nuôi trâu và một số đặc điểm sinh học của đàn trâu ở xã Vân Hoà - huyện Ba Vì - Hà Nội”. 1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài 1.2.1.Mục đích của đề tài - Đánh giá thực trạng phát triển chăn nuôi trâu của xã Vân Hoà - huyện Ba Vì - Hà Nội. - Xác định một số đặc điểm sinh sản của đàn trâu ở xã Vân Hoà từ đó đề xuất một số biện pháp tác động nhằm nâng cao khả năng sinh sản của đàn trâu tại địa phương. 1.2.2. Yêu cầu của đề tài Thực hiện tốt mục đích của đề tài đặt ra. Các số liệu thu được phải chính xác, trung thực và phục vụ tốt cho mục đích của đề tài. Phần thứ hai Tổng quan tài liệu 2.1. Nguồn gốc và sự thuần hoá trâu nhà Đến nay vẫn chưa có ghi chép nào chính xác về thời gian thuần hoá trâu nhà. Tuy nhiên có nhiều ý kiến cho rằng trâu nhà đã được thuần hoá từ lâu. Theo Kenle (1910) thì trâu được thuần hoá từ cách đây 5000 - 5500 năm (trích dẫn bởi Nguyễn Đức Thặc (1983)). Còn theo Agabayli (1977) thì trâu đã được thuần hoá từ cách đây hơn 3000 năm. Nagacenka (1975) lại cho rằng trâu nhà đã được thuần hoá từ 2750 - 3250 năm trước công nguyên, (trích dẫn bởi Tiến Hồng Phúc (2002)). ở Việt Nam, nơi có nền văn minh lúa nước được hình thành và phát triển từ rất sớm thì qua các cổ vật tìm thấy ở các di chỉ khảo cổ như Phú Lộc (Hậu Lộc - Thanh Hoá), Đồng Đậu ( Yên Lạc - Vĩnh Phúc) có niên đại 3330 + 100 năm ta thấy ± 100 năm ta thấy trâu bò đã được thuần hoá từ thời kỳ Hùng Vương. Theo tác giả Nguyễn Đức Thạc (1983) thì ở Việt Nam trâu đã được thuần hoá từ thời đồ đá mới, tức cách đây 4 - 5 nghìn năm. Như vậy Việt Nam là một trong những cái nôi thuần hoá của thế giới. Trên thế giới hiện nay có rất nhiều giống trâu, được nuôi ở nhiều vùng sinh thái khác nhau. Song tất cả chúng đều là trâu nước (Water Buffalo) với tên la tinh là Bubalus Bulalis, chúng được thuần hoá từ loài trâu rừng Châu á (Bulalus Arnee). Loài trâu rừng Châu á (Bulalus Arnee) thuộc Bộ guốc chẵn (Artiodactyla), bộ phụ nhai lại (Ruminantia), họ sừng rỗng (Bovidae), tộc bò (Bovini) và nhóm trâu Châu á (Bubalina). Mặc dù có chung nguồn gốc, song giữa các giống trâu hiện nay có sự khác nhau về đặc điểm ngoại hình, tính năng sản xuất và nhân tố di truyền. Dựa vào sự khác nhau ấy Macgregor (1941) đã chia trâu nhà thành hai loại hình là : loại hình trâu sông (River Buffalo) và loại hình trâu đầm lầy (Swamp Buffalo). 2.1.1. Trâu sông (River Buffalo) Đây là loại hình trâu được thuần hoá và nuôi chủ yếu ở các nước: ấn độ, Pakistan, vùng Cận đông, Địa Trung Hải, vùng Nam Liên Xô cũ. Ngày nay chúng đã được du nhập tới các nước Đông Nam á, Australia, Nam Mỹ… Qua quá trình chọn lọc của con người, loại hình trâu này đã hình thành nên khá nhiều giống khác nhau và nhìn chung chúng đều có năng suất sữa, thịt khá cao. Chỉ tính riêng khu vực Nam á đã có tới 18 giống khác nhau và chúng được tính thành 5 nhóm, đó là: Nhóm trâu Murrah với các giống chính là: Murrah, Nili – Ravi, Kundi. Nhóm trâu Gujarak với các giống chính là: Surti, Mehsana, Jafarabadi. Nhóm trâu Uttar Pradesh có các giống chính là: Bhadawadi, Tarai. Nhóm trâu Trung ấn gồm các giống chính là: Nagpuri, Panhharpuri, Manda, Kalahandi và Samblpur. Nhóm trâu vùng Nam ấn gồm các giống chính là: Toda, South Kanara. Trong các giống trâu sông thì giống trâu Murrah là giống nổi tiếng nhất và được nuôi nhiều nhất trên thế giới. Với giống trâu Murrah nói riêng và loại hình trâu sông nói chung thì đặc trưng về ngoại hình là có thân hình vạm vỡ, khung xương sâu, rộng, chân to và ngắn. Sừng phát triển xuống phía dưới, ra đằng sau, rồi lại cong lên phía trên và thường tạo thành hình xoắn ốc. Chúng có mặt dài, trán lồi, cổ dài mảnh, vòng ngực nhỏ. Đuôi trâu sông thường dài khoảng 20 cm - 30 cm, mảnh, đoạn chót không có xương và thường có một túm lông trắng. Màu sắc đặc trưng của chúng là màu đen, chỉ có số ít con mang màu lông xám, nâu hay nâu nhạt và rất ít trâu sông có lông màu trắng. Mông trâu sông khá phát triển, hai chân sau hơn doãng tạo khoảng không cho bầu vú phát triển. ở trâu cái có bầu vú phát triển, tĩnh mạch vú nổi rõ, các núm vú phát triển và sắp xếp cân đối thuận lợi cho việc khai thác sữa. Chúng có cổ dài mảnh, lưng hơi trúc về phía trước, mông phát triển hơn vai. Nhìn chung ngoại hình của chúng phát triển theo hướng cho sữa. Năng suất sữa của trâu Murrah đạt 1600 - 1800 Kg / chu kỳ 270 - 300 ngày với tỷ lệ mở sữa tới 7% (trích cẩm nang chăn nuôi gia súc - gia cầm, tập III, trang 155). Với tỷ lệ mỡ sữa, vật chất khô cao hơn hẳn sữa bò, sữa trâu là loại sữa có chất lượng cao thích hợp cho việc bồi bổ cơ thể. Khả năng sản xuất sữa của trâu phụ thuộc vào di truyền, chăm sóc. Hiện nay trâu sông được nuôi chủ yếu để lấy sữa và nó được nuôi nhiều nhất ở ấn độ, Pakistan. Chỉ riêng ở hai nước này hàng năm đã sản xuất khoảng 38 triệu tấn sữa, chiếm tới 89% lượng sữa trâu sản xuất hàng năm của thế giới. 2.1.2. Trâu đầm lầy (Swamp Buffalo) Trâu đầm lầy là loại hình trâu được nuôi chủ yếu ở các nước vùng Đông Nam á, nơi có nghề trồng lúa nước phát triển từ lâu đời. Mặc dù đã được thuần hoá từ lâu, song không được chú ý chọn lọc, cải tạo nên hiện nay chúng còn giữ hình dáng nguyên thuỷ và chỉ có một giống duy nhất. Gần đây loại hình trâu này đã được du nhập sang các nước Nam Mỹ, Australia. Đặc trưng về ngoại hình của trâu đầm lầy là có cơ thể rắn chắc, thân nặng, mình ngắn, bụng to, chân ngắn, trán phẳng, mắt lồi, sừng cong hình bán nguyệt và nằm trên mặt phẳng trán. Chúng có mông kém phát triển song lại có vai phát triển vạm vỡ và khoẻ, đuôi trâu ngắn, chót đuôi chỉ chạm tới khoeo. Điển hình nhất là trâu có hai đai trắng (chevron) vắt ngang cổ. Một ở dưới cổ ngang chỗ cuống họng và một ở phía trước ngực. Mầu lông của trâu thường là màu xám tro hay xám đá. Ngoài ra trong các quần thể còn có những con trâu trắng với tỷ lệ khác nhau, thậm chí còn có cả màu “hoa lau”, cỏ nhạt với tỷ lệ rất thấp như đã thấy ở Australia, Lê Xuân Cương (1991) (trích Nguyễn Văn Thanh (2000)). Trâu cái có đầu, cổ thanh, mảnh hơn so với trâu đực, phần mông kém phát triển, bầu vú nhỏ và nằm lùi lại phía sau nên nghé con thường bú mẹ từ đằng sau. Khả năng tiết sữa của trâu cái là rất thấp, nó chỉ đủ để nuôi con. Loại hình trâu này được nuôi chủ yếu để lấy sức kéo phục vụ nông nghiệp, khả năng cho thịt, cho sữa của chúng còn chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều. 2.1.3. Trâu Việt Nam Như trên đã nêu, Việt Nam là một trong những cái nôi thuần hoá trâu sớm nhất trên thế giới. Có nhiều ý kiến về vấn đề này, song tất cả đều thừa nhận rằng ở Việt Nam con trâu đã được thuần hoá từ thời các Vua Hùng dựng nước. Cũng như ở các nước Đông Nam á khác trâu Việt Nam thuộc loại hình trâu đầm lầy (Swamp Buffalo). Tổ tiên của chúng ta là loài trâu rừng Bubalus Arnee, một trong ba loài trâu hoang dại còn tồn tại ở Thái Lan, Miến Điện, Đông Nam ấn Độ, Srilanca…loài trâu này có tầm vóc cao lớn, sừng dài và cong lại phía sau, cao vây tới 200 cm, khối lượng lên tới 1500 kg. Mặc dù có tổ tiên cao lớn như vậy, song trong quá trình thuần hóa với chế độ nuôi dưỡng, sử dụng không phù hợp nên ngày nay tầm vóc của trâu Việt Nam bé hơn tổ tiên nó rất nhiều và chúng cũng rất khác nhau. Căn cứ sự khác nhau về thể vóc đàn trâu nước ta người ta chia thành hai loại hình, đó là: Nhóm thứ nhất - Nhóm trâu to hay còn gọi là trâu ngố. ở nhóm này trâu cái có khối lượng khoảng 400 kg, cao vây khoảng 120 cm, dài thân chéo khoảng 130 cm, vòng ngực khoảng 190 cm. Các con số ấy tương ứng ở trâu đực là 450 kg, 122 cm, 135 cm và 195 cm. Trâu đực thiến có khối lượng cơ thể là trên 500kg. Nhóm thứ hai - Nhóm trâu nhỏ hay còn gọi là trâu gié. Trong nhóm này trâu cái có khối lượng cơ thể vào khoảng 300 - 349 kg, cao vây 115 cm, dài thân chéo 125 cm, vòng ngực 175 cm. Tương ứng trên con đực có các giá trị 350 - 399 kg, 117 cm, 127 cm, 178 cm. Đực thiến có khối lượng cơ thể vào khoảng 400 - 449 kg. Bảng 2.1. Kích thước của trâu trưởng thành ở Việt Nam chỉ tiêu Miền trung Miền Đông Nam Bộ Miền Bắc Đực Cái Đực Cái Đực Cái Cao vây (cm) 129,2 121.3 129,5 126,2 120,6 118,0 Cao khum (cm) 128,3 120,9 129,2 127,0 121,2 119,0 Vòng ngực (cm) 197,6 192,4 197,0 192,9 189,9 179,5 Dài thân chéo (cm) 135,6 128,0 135,2 132,1 133,5 127,7 Theo Mai Văn Sáng và Lê Viết Ly (2004) kích thước một số chiều đo của trâu đầm lầy trưởng thành ở Việt Nam như bảng 2.1 trên. Nhìn chung ở nước ta trâu miền núi lớn hơn trâu đồng bằng, trâu vùng Tây Bắc lớn hơn vùng Đông Bắc, trâu miền Trung và miền Nam tương tư như trâu to phía Bắc. Mặc dù vậy vẫn có sự đan xen các nhóm trâu ở các vùng. Trong một tỉnh có thể có vùng trâu to, nhỏ khác nhau. Đàn trâu nước ta có tỉ lệ sinh sản rất thấp, ở vùng đồng bằng chỉ là 20% thậm chí có nơi chỉ còn là 10%. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng ấy, trước hết phải kể tới là nguyên nhân từ bản chất sinh học của loài như chậm thành thục về tính, động dục thầm lặng, thời gian mang thai dài… Kế tới là nguyên nhân từ phương thức chăn nuôi, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, khai thác, sử dụng… Đây là nguyên nhân chính hạn chế hiệu quả kinh tế và cản trở sự phát triển của đàn trâu. Để nâng cao số lượng đàn trâu, hiệu quả chăn nuôi trâu thì vấn đề cơ bản là phải nâng cao tỉ lệ sinh sản của chúng. Vấn đề này đã và đang được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và đã đạt được một số kết quả khả quan. 2.2. Tình hình chăn nuôi trâu 2.2.1. Tình hình chăn nuôi trâu trên thế giới So với các loài gia súc khác, con trâu được nuôi trên địa bàn hẹp hơn. Chúng được nuôi chủ yếu ở Châu á, nơi có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới với nhiều đầm lầy, ao hồ, sông suối thích hợp cho việc thải nhiệt của trâu. Theo tác giả Mai Văn Sánh (2003) thì trên toàn thế giới có khoảng 171142 nghìn con trâu, trong đó Châu á chiếm 95,9% tổng đàn trâu thế giới. Các nước có nhiều trâu nhất là ấn độ có 97500 nghìn con, Pakistan có 25200 nghìn con, Trung Quốc có 22900 nghìn con. Số trâu còn lại trên thế giới được nuôi ở Nê Pan, Philippin, Indonesia, Ai cập, Thái Lan... Việt Nam là nước có tổng đàn trâu đứng hàng thứ bảy của Thế Giới gần 3 triệu con (số liệu của FAO năm 2005) Bảng 2.2. Sự phát triển và phân bố đàn trâu trên thế giới (1000 con) Năm Châu Lục 2000 2001 2002 2003 Toàn Thế Giới 165000 166447 168861 171142 Châu Phi 3300 3329 3215 3423 Châu Mỹ 1320 1331 1350 1369 Châu á 159225 169622 162951 164153 Châu Âu 115 127 141 120 (Nguồn: theo số liệu của FAO năm 2004) Qua số liệu của bảng 2.2 được trình bày ở trên, chúng tôi thấy đàn trâu thế giới từ năm 2000 - 2003 có mức tăng trung bình hàng năm là 1,13% ( năm 2001 tăng hơn năm 2000 là 0,8%, năm 2002 so với năm 2001 là 1,4% và năm 2003 tăng so với năm 2002 là 1,3%), trong đó chủ yếu là tăng ở các nước Châu á, còn ở các lục địa khác đàn trâu hầu như không tăng. Trong những năm gần đây, sản lượng sữa trâu trên toàn thế giới có xu hướng tăng lên hàng năm, năm 2000 sản lượng sữa đạt 51884 nghìn tấn và năm 2003 sản lượng sữa đạt 59566 nghìn tấn ( FAO, 2004). Sữa trâu được sản xuất chủ yếu tại ấn độ và Pakistan. Năm 2003, ấn Độ sản xuất được 37120 nghìn tấn, Pakistan sản xuất được 18000 tấn. Chiếm hơn 90% tổng sản lượng sũa trâu trên thế giới. Sản lượng thịt trâu cũng có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây. Năm 2000, toàn thế giới đã mổ hơn 20 triệu con trâu, thu được hơn 3 triệu tấn thịt trâu. 2.2.2. Tình hình chăn nuôi trâu ở Việt Nam Con trâu đã được thuần hóa ở Việt Nam từ thời Hùng Vương thuộc loại hình trâu đầm lầy và đã gắn bó với người nông dân ta từ rất lâu rồi. Nó đã có những đóng góp không nhỏ trong sự phát triển của nền văn minh lúa nước ở Việt Nam. Ngày nay nước ta được đánh giá là một nước có nhiều trâu của thế giới, với tổng đàn trâu đứng thứ bảy thế giới. Tuy nhiên trong những năm gần đây với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong nông nghiệp đàn trâu nước ta đã có nhiều biến đổi. Bảng 2.3. Sự phát triển và phân bố trâu ở nước ta (1000 con) Vùng 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Cả Nước 2814,5 2834,9 2869,8 2922,2 2921,1 2996,4 Đồng Bằng Sông Hồng 171,2 165,0 154,6 145,9 120,6 110,8 Đông Bắc 1222,4 1224,1 1213,1 1226,4 1237,8 1277,5 Tây Bắc 390,3 399,4 437,8 453,1 465,1 485,8 Bắc Trung Bộ 689,4 706,9 719,4 743,3 737,6 755,6 Duyên Hải Nam Trung Bộ 129,9 131,9 134,3 139,5 156,6 163,2 Tây Nguyên 62,1 65,8 68,8 71,9 79,0 84,7 Đông Nam Bộ 112,0 106,0 105,4 103,3 85,6 80,7 Đồng Bằng Sông Cửu Long 37,3 35,8 36,4 38,8 38,8 38,1 (Nguồn: tổng cục thống kê tháng 6 năm 2009) Theo số liệu thống kê thì số trong những năm gần đây số lượng trâu trong cả nước tăng lên rất chậm. Dựa trên đặc điểm khí hậu, địa hình, kinh tế xã hội... của từng vùng, nước ta được chia thành 8 vùng sinh thái. Giữa các vung đàn trâu có xu thế phát triển khác nhau. Kết quả được biểu thị ở bảng 2.3 trên. Như vậy trong số 2996,4 nghìn trâu trên toàn quốc vào năm 2007 thì Miền Bắc (Tây bắc bắc bộ và Đông bắc bắc bộ) có 1763,3 nghìn con, chiếm 58,85%, tiếp theo là Bắc Trung Bộ có 755,6 nghìn con chiếm 25,21%. ở những vùng ấy con trâu không chỉ cung cấp sức kéo, phân bón cho sản xuất mà còn là một tài sản lớn, nguồn lợi kinh tế quan trọng của người nông dân. Mặt khác việc áp dụng cơ giới hoá trong sản xuất là rất khó khăn. Chính vì thế mà ở những vùng này đàn trâu tăng dần hàng năm. Năm 2002 Miền Bắc (Tây Bắc Bắc Bộ và Đông Bắc Bắc Bộ) có 1612,7 nghìn con trâu, đến năm 2004 có 1650,9 nghìn con và tới năm 2006 có 1702,2 nghìn con. Vùng Bắc Trung Bộ năm 2002 có 689,4 nghìn con trâu, năm 2004 có 719,4 nghìn con và tới năm 2006 con số ấy là 737,6 nghìn con. Trong khi đó, ở các vùng khác việc áp dụng cơ giới hoá vào sản xuất nông nghiệp thuận lợi hơn. Ngoài ra đồng bãi chăn thả bị hạn chế đã làm cho đàn trâu chịu những ảnh hưởng không tốt. Thực tế là đàn trâu ở một số vùng đang có xu thế giảm dần. Điển hình nhất là vùng Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Hồng. Vùng Đồng bằng Sông Hồng năm 2003 có 165,0 nghìn con, đến năm 2007 chỉ còn 110,8 nghìn con, giảm gần 32.45% sau 5 năm. Vùng Đông Nam Bộ năm 2003 có 106,6 nghìn con, đến năm 2007 chỉ còn 80,7 nghìn con, giảm gần 24.3% sau gần 5 năm. Theo số liệu của viện Cơ khí nông nghiệp thì hiện nay tỷ lệ cơ giới hoá khâu làm đất ở nước ta là 31%. Tuy nhiên việc cơ giới hoá là không đồng đều giữa các vùng trong nước. Vùng đồng bằng Sông Cửu Long và Đông Nam Bộ do có sự tích tụ đất canh tác với diện tích lớn nên tỷ lệ cơ giới hoá ở đây là 50% - 64,20%. Đồng bằng Sông Hồng tỷ lệ ấy là 21 - 21,9%, còn ở miền Núi - Trung du phía bắc có 1,9% công việc sản xuất nông nghiệp được cơ giới hoá và điều này giải thích tại sao trong khi vùng đồng bằng đàn trâu có xu thế giảm xuống thì đàn trâu vùng Trung du - Miền núi vẫn có tốc độ tăng là 2,25%. Bên cạnh cung cấp sức kéo con trâu còn cung cấp lượng thịt đáng kể cho nhu cầu của con người. Trước đây con trâu chỉ bị giết thịt khi không còn khả năng cày kéo nhưng ngày nay đã khác. Theo số liệu của cục khuyến nông - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, năm 2005 sản lượng thịt trâu của nước ta là 59,8 nghìn tấn, chiếm 42,1% tổng sản lượng thịt trâu bò. Đồng thời chất lượng trâu cũng nâng cao rõ rệt. 2.3. Đặc điểm sinh sản của trâu Sinh sản là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong chăn nuôi đại gia súc. Các biện pháp nâng cao sức sinh sản của gia súc đã được quan tâm nghiên cứu nhiều. Để tìm ra biện pháp kỹ thuật tác động vào quá trình sinh sản cũng như áp dụng nó vào thực tế, thì việc đầu tiên là ta phải hiểu được cơ chế sinh lý sinh sản của chúng. Với con trâu, nó vừa mang đặc điểm sinh sản chung của loài động vật có vú, lại vừa mang đặc điểm riêng của nó. Trâu thành thục muộn hơn bò. Bò 5 tuổi đã thay xong răng sữa, trâu 6 tuổi mới thay xong, là đại gia súc có sừng cấu tạo bộ máy sinh dục và hoạt động sinh dục của trâu và bò nhìn chung giống nhau, tuy vậy có điểm khác nhau. 2.3.1. Đặc điểm hệ sinh sản của trâu Macgregor (1941) đã so sánh cơ quan sinh dục của trâu đực với bò đực và đã đưa ra nhận xét như sau: So với bò đực thì cơ quan sinh dục của trâu đực kém phát triển hơn. ở trâu, cơ quan sinh dục chiếm 0,22 - 0,25% trọng lượng cơ thể, tỉ lệ này ở bò là 0,25 - 0,35%. Trâu đực có dương vật gắn chặt vào bụng hơn, bao dịch hoàn ngắn và không có cổ ngay cả khi giãn. ở trâu sông mặc dù có dịch hoàn và bao dịch hoàn lớn hơn và có cổ rõ, nó vẫn nhỏ hơn so với các giống bò Châu Âu. Dịch hoàn của trâu nhỏ hơn và nó chỉ được chuyển xuống bao dịch hoàn khi nghé được 6 tháng tuổi. Dương vật trâu ngắn, túi tinh dịch và tiền liệt tuyến nhỏ hơn hẳn so với bò. ở trâu cái theo tác giả Hadi và Sane 1965, Luktuk và Rao 1962, Bhalla cùng cộng sự 1964 trích dẫn bởi Tiến Hồng Phúc (2002) thì tử cung trâu ngắn hơn, sừng tử cung uốn khúc nhiều và dày hơn so với tử cung bò. Buồng trứng nhỏ hơn, thể vàng màu xám, hơi hồng với các tĩnh mạch đỏ, sau trở thành màu xám, ở bất kỳ giai đoạn nào thể vàng của trâu cũng không có màu vàng. Giữa các loại hình trâu, các giống trâu có sự sai khác chút ít ở cấu tạo cơ quan sinh dục. 2.3.2. Hoạt động sinh dục của trâu đực Nghé đực 3 - 4 tháng đã có phản xạ nhảy (nhảy ôm lên những con nghé khác) 1 năm tuổi đã theo riết những trâu cái động hớn, biết chồm lên cái và làm động tác giao phối nhưng lúc này dương vật chưa nhú ra khỏi đầu bao dương vật hoặc có thể nhú ra nhưng rất ít. Một năm rưỡi nghé đực đã có khả năm giao phối với cái. Theo Nguyễn Đức Thạc (2006), kiểm tra tinh dịch nghé đực tại trại Ngọc Thanh thấy 18 tháng tuổi nghé đã có tinh trùng đầy đủ, có nghĩa là, nếu giao phối có thể thụ thai được. Tuy nhiên lượng tinh trùng của trâu phóng ra thường ít hơn bò, một lần phóng tinh trâu cho 3CC và mật độ tinh trùng trong 1CC thường trên dưới 1 tỉ. Số liệu này ở bò thường 4 - 5CC và mật độ tinh trùng 1 - 1,5 tỉ trong 1CC. Như vậy 18 tháng tuổi nghé đực đã có thể nhảy cái nhưng phải trên 2 tuổi chất lượng tinh mới tốt. Khả năng truyền giống tốt nhất của trâu đực vào tuổi từ 3 - 6. Nuôi dưỡng và sử dụng hợp lý, trâu đực 10 tuổi vẫn nhảy tốt. Nuôi dưỡng thiếu, sử dụng không hợp lý, trâu đực 9 tuổi, sức nhảy đã kém. 2.3.3. Hoạt động sinh dục của trâu cái Trâu cái có hoạt động sinh dục mang tính chu kỳ, ta gọi là chu kỳ tính. Chu kỳ tính của trâu trung bình là 21 - 22 ngày và biến động trong khoảng 15 - 35 ngày và được chia làm các giai đoạn: Thứ nhất: giai đoạn trước động dục. Đây là giai đoạn đầu của chu kỳ sinh dục. ở giai đoạn này trứng phát triển và chín. Cuối giai đoạn này noãn bào chín và nỗi rõ trên bề mặt buồng trứng. Song song với quá trình ấy còn có những biến đổi ở đường sinh dục để tạo điều kiện thuận lợi cho tinh trùng sống, thụ thai và sự làm tổ của hợp tử sau khi thụ thai. Thứ hai: giai đoạn ._.động dục. ở trâu thường có biểu hiện động dục thầm lặng. Chỉ một số ít có những biến đổi về tâm, sinh lý. Khi đó con vật có biểu hiện tâm lý hưng phấn như: bỏ ăn, ngơ ngác, bỏ đàn, chạy đi tìm đực, trên bãi chăn có nhiều trâu đực theo. Cơ quan sinh dục có nhiều biến đổi như: Âm hộ sung huyết, căng mẩy, niêm mạc âm đạo trơn bóng láng, niêm dịch chảy nhiều và dính vào hai bên mông. Giai đoạn này trâu có thời kỳ hưng phấn cao độ – thời kỳ chịu đực. Theo tác giả Mai Văn Sánh (kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật chăn nuôi 1994 - 1995 viện chăn nuôi, trang 174) thì trâu cái Murrah có thời gian chịu đực khoảng 18,3 ± 3,01 giờ. Vào thời kỳ này trâu cái chịu đực, khi có trâu đực tới trâu cái đứng im, cong đuôi, dạng chân chuẩn bị tư thế giao phối. Đồng thời lúc này cổ tử cung của trâu mở to nhất, cuối giai đoạn động dục xung huyết, hưng phấn giảm dần, cổ tử cung khép dần lại. Tỷ lệ trâu có sự thay đổi về tính tình như trên chỉ chiếm khoảng 28%, còn lại là có biểu hiện động dục thầm lặng. Đây là nguyên nhân chính làm cho tỷ lệ sinh sản của trâu đạt thấp. Trứng được rụng trong giai đoạn này và nếu được phối giống đúng thời điểm trứng sẽ được thụ tinh. Chu kỳ của trâu dừng ở giai đoạn này, gia súc bước vào giai đoạn mang thai. Nếu trứng không được thụ thai, chu kỳ tính của trâu bước sang giai đoạn tiếp theo. Trong thực tiễn sản xuất, nông dân ta có rất ít kinh nghiệm phát hiện trâu cái động dục và điều này đã làm cho năng suất sinh sản của đàn trâu đạt thấp. Các nhà khoa học đã đề ra nhiều phương pháp phát hiện trâu cái động dục như: sử dụng đực thí tình, đo điện trở âm đạo, quan sát niêm dịch... Mặc dù vậy khả năng áp dụng các biện pháp ấy vào thực tiễn sản xuất còn hạn chế. Thứ ba: giai đoạn sau động dục. Giai đoạn này con trâu dần trở về trạng thái bình thường. Cơ quan sinh dục của trâu không còn sung huyết, cổ tử cung đóng lại, trâu ăn uống bình thường. Thể vàng hình thành và bắt đầu hoạt động tiết hoóc môn. Cơ quan sinh dục dần bước sang giai đoạn nghỉ ngơi. Thứ tư: giai đoạn nghỉ ngơi. Nhờ hoạt động của thể vàng, hệ sinh dục của trâu ở tình trạng nghỉ ngơi hoàn toàn, tạo điều kiện cho nó bình phục và chuẩn bị chu kỳ hoạt động mới. Cuối giai đoạn này, thể vàng tiêu biến, hoóc môn LH, FSH từ tuyến yên được giải phóng và nó tác động thúc đẩy buồng trứng hoạt động. Hoạt động sinh dục bước sang chu kỳ tiếp theo. Khi đã mang thai thể vàng sẽ tồn tại suốt quá trình mang thai và nó chỉ tiêu biến trước khi gia súc đẻ một thời gian. Trong các giai đoạn của chu kỳ tính, giai đoạn động dục có ý nghĩa quan trọng nhất và thời kỳ chịu đực là có ý nghĩa nhất. Đã có nhiều công trình nghiên cứu xác định thời điểm phối giống thích hợp cho trâu. Theo Mai Văn Sánh (1996) thì phối giống cho trâu vào cuối thời kỳ chịu đực và sau khi kết thúc chịu đực 0 - 4 giờ cho tỷ lệ thụ thai cao nhất. 2.3.4. Các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất của con trâu 2.3.4.1. Tuổi thành thục về tính Tuổi thành thục về tính là khoảng thời gian được tính bằng ngày, tháng tuổi mà ở đó gia súc bắt đầu có hoạt động sinh dục và có biểu hiện muốn giao phối lần đầu. Đây được xem là một chỉ tiêu đánh giá tính mắn đẻ của giống. Gia súc nói chung là có tuổi thành thục sinh dục sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc. Chính vì thế mà mặc dù đã có khả năng hoạt động sinh sản ở tuổi thành thục về tính, nhiều tác giả vẫn cho rằng không nên sử dụng chúng ngay. Nếu ta sử dụng trâu đực ngay ở thời điểm này, chất lượng tinh dịch sẽ kém, dẫn tới tỷ lệ thụ thai thấp, sức sống của đàn con sinh ra kém và thời gian sử dụng trâu đực bị giảm sút. Với trâu cái, nếu được phối giống và mang thai vào thời điểm này thì tỷ lệ sảy thai sẽ cao hơn, tỷ lệ đẻ khó tăng lên, sản lượng sữa thấp, con non sinh ra yếu, sinh trưởng chậm và khả năng làm việc của trâu giảm xuống. Tuy nhiên, nếu phối giống cho trâu quá muộn sẽ làm cho năng suất sinh sản vốn có của trâu cũng như khả năng tiết sữa của trâu bị giảm sút. Các ý kiến cho rằng: phối giống cho trâu tốt nhất là vào lúc nó đạt 70% khối lượng trưởng thành. Tuổi thành thục về tính của trâu phụ thuộc vào loại hình, giống trâu và đặc biệt là chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng nghé trước và sau khi tách mẹ. Theo tác giả Mai Văn Sánh (1996) thì trâu Murrah nuôi tại Sông Bé - Việt Nam có tuổi thành thục sinh dục là 33,81 tháng. Nguyên Đức Thạc (1977) cho biết trâu cái F1 (Murrah x Nội) có tuổi thành thục về tính sớm hơn trâu thuần, trung bình là 34 tháng tuổi. Như vậy trâu là loài gia súc có tuổi thành thục về tính muộn hơn so với các loài gia súc khác. Bảng 2.4. Tuổi thành thục về tính của một số loài gia súc (tháng tuổi) Loài gia súc Con đực Con cái Trâu nội VN 18 - 32 18 - 21 Bò 12 - 18 8 - 12 Ngựa 12 - 20 12 - 18 Lợn 5 - 8 6 - 8 (Giáo trình sinh lý gia súc năm 1996) 2.3.4.2. Tuổi đẻ lứa đầu của trâu Đây là chỉ tiêu đánh giá sức sinh sản của con cái. Nó được tính bằng tuổi của trâu khi nó đẻ lứa thứ nhất. Chỉ tiêu này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau như: giống, điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, kỹ thuật phối giống... Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu về chỉ tiêu sinh sản này của trâu và đã có các công bố khác nhau về vấn đề này. Tác giả Sethi và cộng sự (1996) qua theo dõi 615 trâu Murrah từ năm 1971 - 1994 kết luận rằng: tuổi đẻ lứa đầu trung bình của chúng là 52,9 tháng. Còn Ashfag (1954) lại cho biết tuổi đẻ lứa đầu của trâu ấn Độ là 48 tháng, ở Pakistan là 47 tháng (dao động từ 32 - 70 tháng). Khire và cộng sự (1977) trích dẫn bởi Nguyễn Đức Thạc (1983) nghiên cứu trên giống trâu Nagpuri của ấn Độ cho thấy tuổi đẻ lứa đầu của giống trâu này là 1634 ngày tương đương với khoảng 53 tháng. ở Việt Nam Nguyễn Đức Thạc và cộng sự (1985) đã theo dõi trên đàn trâu Murrah nuôi tại Ngọc Thanh cho biết, tuổi đẻ lứa đầu củ trâu là 43 tháng. Mai Văn Sánh cũng cho biết, tuổi đẻ lứa đầu của trâu Murrah là 45,21 tháng, còn trâu lai F1 (Murrah x cái Nội) là 49,1 tháng. Nguyễn Văn Thanh (1995) cho biết tuổi đẻ lứa đầu của trâu miền Bắc Việt Nam tập trung vào giai đoạn 49 - 60 tháng tuổi (59,3%). Lê Viết Ly, Lê Tư, Đào Lan Nhi (1994) cho biết tuổi đẻ lứa đầu và tỷ lệ đẻ của trâu ở một số xã miền núi tỉnh Tuyên Quang như sau: Bảng 2.5. Tuổi đẻ lứa đầu Tổng số 3 - 4 tuổi 4 - 5 tuổi 5 - 6 tuổi > 6 tuổi N % N % N % N % 524 57 10.8 178 33.9 177 33.7 112 21.3 (Nguồn: Lê Viết Ly, Lê Tư, Đào Lan Nhi, 1994) 2.3.4.3. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ Đây là chỉ tiêu được tính bằng khoảng thời gian từ khi trâu đẻ lứa trước tới khi đẻ lứa tiếp theo. Nó là chỉ tiêu quan trọng đánh giá năng suất sinh sản của trâu. Chỉ tiêu này phụ thuộc thời gian mang thai và thời gian phối lại sau khi đẻ. Trong đó, thời gian mang thai là đặc trưng của loài và ít biến động. Chính vì thế khoảng cách lứa đẻ chủ yếu phụ thuộc thời gian phối lại sau khi đẻ và kết quả phối giống. Tức là phụ thuộc nhiều nhất vào chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng và khả năng phát hiện động dục cũng như kỹ thuật phối giống. Đã có nhiều công bố nghiên cứu về chỉ tiêu này trên con trâu. Alim và Ahmed (1954) cho biết khoảng cách giữa hai lứa đẻ của trâu là 550 ± 25,6 ngày. Ishap và Shah (1975) trích dẫn bởi Tiến Hồng Phúc (2002) công bố chỉ tiêu ấy trên trâu NiLi - RaVi nuôi tại Pakistan là 524 ngày. Theo Nguyễn Đức Thạc và Nguyễn Văn Vực (1985) thì trâu Murrah nuôi tại Ngọc Thanh có khoảng cách lứa đẻ là 632 ngày. Theo Lê Viết Ly, Lê Tư, Đào Lan Nhi (1994) cho biết khoảng cách giữa hai lứa đẻ của trâu Tuyên Quang như sau: Bảng 2.6. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ của trâu Tổng 3 năm 2 lứa 2 năm 1 lứa 3 năm 1 lứa N % N % N % 490 117 23.8 215 43.8 158 32.2 (Nguồn : Lê Viết Ly, Lê Tư, Đào Lan Nhi, 1994) 2.3.4.4. Số con đẻ ra trong một đời trâu cái Nuôi dưỡng tốt, đủ đực giống, cho phối kịp thời, bình quân một trâu cái cho 8 – 9 nghé. Tại trại Ngọc Thanh, nhiều trâu cái 15 - 16 tuổi cho 10 - 11 nghé. Trong nhân dân có trâu cái 22 tuổi đẻ được 17 nghé (Lạng Sơn) hoặc 15 nghé (Thanh Hoá, Tuyên Quang). Nhưng trong thức tế, qua điều tra 3247 trâu cái ở Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thanh Hoá, đa số chỉ đẻ 5 - 6 nghé, số đẻ 8 - 9 con rất ít. Lý do là trâu 4 - 5 tuổi mới đẻ, 15 - 16 tuổi đã loại và nhịp đẻ bình quân chỉ 2 năm một lứa, hoặc dài hơn. Sức đẻ của trâu tốt từ lứa 3 duy trì tới lứa 7 - 8, sau đó giảm dần. Như vậy, nên lấy đến tuổi 13 - 14. Tuổi sử dụng này tăng hay giảm phụ thuộc vào điều kiện nuôi dưỡng tốt hay xấu. Theo dõi trọng lượng sơ sinh nghé qua 10 lứa đẻ trên 6 trâu cái, có số liệu sau. Bảng 2.7. Thể trọng sơ sinh nghé qua 10 lứa đẻ trên 6 trâu cái đẻ Lứa đẻ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Tuổi mẹ (năm, tháng) 3,4 4,8 6,2 7,8 9,4 10,8 12 13,4 14,9 16,3 Bình quân trọng lượng sơ sinh nghé, kg Cao, kg Thấp, kg 24,1 27 22 26 29 23 29,1 32,5 27 30,3 33,2 29 32,5 39 28,5 30,4 36,3 27 30,5 37 24 28,6 32 25 28 31 23 26 28 24 Qua bảng 2.7 thấy, trọng lượng nghé đẻ ra tăng dân từ lứa đẻ 1 đến 3, cao nhất ở lứa đẻ 5 - 6 và sau lứa đẻ 8 thì giảm dần. 2.3.4.5. Nhịp đẻ và tỉ lệ đẻ Đẻ nhiều hay ít, mau hay thưa do đặc điểm sinh lý và tác động của ngoại cảnh quyết định. Trâu đẻ thưa hơn bò. Nuôi dưỡng tốt, đẻ mau hơn,... ở trâu ta, phân ra 3 loại nhịp đẻ: nhịp đẻ mau (đẻ năm một nghé hoặc hai năm rưỡi đôi), nhịp đẻ trung bình (ba năm đôi), nhịp đẻ thưa (hai năm và trên hai năm một nghé). Nhịp đẻ mau hay thưa quyết định tỉ lệ đẻ cao hay thấp của đàn trâu hàng năm. Tính tỉ lệ đẻ cũng có cách khác nhau, ở đây chúng ta tính tỉ lệ đẻ của trâu hàng năm theo cách lấy số trâu cái đẻ trong năm chia cho tổng số trâu cái đến tuổi đẻ. Qua điều tra trên 5 tỉnh miền Bắc (Yên Bái, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thanh Hoá, Nghệ An), trong 17 điểm với 6055 trâu cái từ 2 răng hoặc 5424 trâu cái từ 4 răng cho thấy: - Tỷ lệ đẻ của trâu bình quân là 43% nếu tính trên trâu từ 2 răng và 48% nếu tính từ trâu cái từ 4 răng. - Vùng có tỉ lệ đẻ cao là 57 - 63,39% như vùng Hưng Nguyên, Thanh Chương, Thạch Thành, Hàm Yên; cùng có tỉ lệ đẻ thấp, dưới 45% như vùng Lộc Bình, Ôn Châu, Tràng Định, Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hoá. Tuy vậy, nơi có đồng cỏ tốt, có tập quán nuôi trâu sinh sản, thì trâu có nhịp đẻ mau nhiều hơn và tỉ lệ đẻ hàng năm cao hơn. Ví dụ xã Thành Trực (Thạch Thành - Thanh Hóa), xã Vĩnh Yên (Lục Yên - Yên Bái),... nhịp đẻ mau chiếm 45 - 55% và bình quân một trâu cái 2 năm rưỡi đến 3 năm cho 2 nghé. 2.3.4.6. Tính mùa vụ trong sinh sản của trâu Hoạt động sinh sản của trâu đực diễn ra liên tục, không mang tính chu kỳ và tính thời vụ. Tuy nhiên chất lượng tinh dịch của trâu có sự khác nhau giữa các mùa trong năm. Vào mùa thu chất lượng tinh dịch của trâu là tốt nhất. Đó là do ảnh hưởng của nguồn thức ăn tốt, dồi dào trong mùa hè. Với trâu cái thì hoạt động sinh sản mang tính thời vụ rất rõ ràng. Đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này và các tác giả đã chỉ ra rằng trâu cái thường động dục vào mùa Đông, Xuân và đẻ nhiều nhất vào mùa Thu, Đông. Theo Rife (1959) thì vào những tháng nóng nực trâu cái thường không động dục, Villegas (1958) chỉ ra rằng hoạt động sinh dục thường xảy ra mạnh vào các tháng mùa mưa, mát mẻ và vì thế trâu ở Philippin có khuynh hướng sinh sản theo mùa rõ ràng. Tác giả Mai Văn Sánh (1996) cũng chỉ ra rằng trâu Murrah nuôi tại Sông Bé động dục tập trung vào thời gian từ tháng 10 tới tháng 3 năm sau (70,27%) và chúng đẻ nhiều vào các tháng mùa Thu và Đông. Cũng có nhiều tác giả cho rằng vụ đẻ có ảnh hưởng tới khoảng cách lứa đẻ của trâu. Những trâu đẻ vào mùa mưa (tháng 7 - 10) hàng năm có khoảng cách lứa đẻ ngắn hơn (461 ngày), nếu đẻ vào mùa hè nóng nực thì khoảng cách ấy là 529 ngày. Phần thứ ba Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên đàn trâu nội được nuôi trong các hộ nông dân ở xã Vân Hoà - huyện Ba Vì - Hà Nội. 3.2. Thời gian, địa điểm nghiên cứu - Thời gian: 17/2/2009 đến 10/7/2009 - Địa điểm: xã Vân Hoà - huyện Ba Vì - Hà Nội 3.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 3.3.1. Nội dung nghiên cứu - Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Vân Hoà. - Tình hình sản xuất nông nghiệp của xã Vân Hoà. - Tình hình phát triển chăn nuôi trâu tại xã Vân Hoà. - Đặc điểm sinh sản của trâu của xã Vân Hoà 3.3.2. Phương pháp nghiên cứu - Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Vân Hoà Các số liệu về đặc điểm tự nhiên, xã hội của địa phương được thu được từ các số liệu thống kê của xã và phòng nông nghiệp huyện Ba Vì. - Tình hình sản xuất nông nghiệp của xã Vân Hoà Căn cứ vào số liệu thống kê của xã và phòng thống kê huyện. - Tình hình phát triển chăn nuôi tại xã Vân Hoà Căn cứ vào số liệu thống kê hàng năm của ban thống kê xã và phòng thống kê huyện Điều tra qua sổ sách theo dõi của các thôn trưởng và phỏng vấn trực tiếp các hộ chăn nuôi. - Đặc điểm sinh sản của trâu Để tìm hiểu nội dung này chúng tôi tiến hành theo dõi các chỉ tiêu sau: Tuổi đẻ lứa đầu: là độ tuổi của con gia súc khi đẻ lứa đầu tiên, được tính hàng năm. Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ: là thời gian kể từ lần đẻ lứa trước đến lần đẻ lứa sau, được tính bằng tháng. Tỷ lệ đẻ của trâu cái: là tỷ số giữa số trâu đẻ trong năm trên tổng số trâu trong độ tuổi sinh sản, tính bằng %. Mùa vụ sinh sản của trâu: là khoảng thời gian trâu động dục hay đẻ nhiều, được xác định bằng tỷ lệ % trâu đẻ qua các tháng trong năm. Các số liệu được thu thập thông qua sổ sách của mạng lưới thống kê, thú y địa phương, kết hợp với điều tra trực tiếp các hộ chăn nuôi. 3.4. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu thu được xử lý trên máy tính theo chương trình excel và Minitab 14.0. Phần thứ tư Kết quả và thảo luận 4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã Vân Hoà 4.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm địa hình Vân Hoà là một xã nằm ở phía nam huyện Ba Vì thành phố Hà Nội, tổng diện tích đất tự nhiên của xã là: 3290,98 ha và có địa hình khá phong phú. Về cơ bản địa hình của tỉnh là thấp dần từ phía Nam xuống phía Bắc. Phia Bắc có địa hình trung du với những phần đồi thấp đan xen nhau và có các thung lũng, cánh đồng nhỏ ở giữa... chiếm một phần tư diện tích đất của xã. Đây là khu vực có địa hình khá bằng phẳng, đất đai mầu mỡ, thích hợp cho việc canh tác các loại cây lương thực, rau màu như lúa, ngô... Với những loại cây trồng hàng năm vùng này có một lượng phụ phẩm nông nghiệp như rơm, thân cây ngô, dây lạc... rất phong phú và đây sẽ là nguồn thức ăn dồi dào cho đại gia súc, nhất là trâu vì nó có khả năng sử dụng thức ăn này rất tốt. Phát triển chăn nuôi đại gia súc sẽ giúp nông dân khai thác nguồn thức ăn ấy một cách có hiệu quả nhất. Phía Nam là khu vực có địa hình phức tạp đa phần là núi chiếm ba phần tư diện tích đất của xã. Vùng này đất chủ yếu có thành phần cơ giới nặng, lại thêm đặc điểm là đồng ruộng không phẳng làn và không thuận lợi cho việc áp dụng cơ giới hoá trong làm đất. Trong khi đó con trâu có thể đảm nhiệm tốt công việc trên, nên nguồn sức kéo của trâu còn cần thiết cho sản xuất nông nghiệp ở vùng này. Nhìn chung địa hình khu vực này khá dốc, đất đai khô cằn, nhiều sỏi đá nên không thích hợp cho việc canh tác cây nông nghiệp, mà vùng này chỉ thích hợp cho việc trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả. Song đây cũng là một lợi thế cho chăn nuôi đại gia súc vì khu vực này đồng đất rộng, cỏ mọc nhiều và đó là nguồn thức ăn rất sẵn, phong phú cho đại gia súc nói chung và trâu nói riêng. Trên địa bàn của xã có 3 khu du lịch nổi tiếng là Thác Đa, Suối Tiên, Khoang Xanh, xung quanh lại có các khu du lịch như Ao Vua, Đồng Mô. Đây chính là một nguồn tiêu thụ rất lớn các sản phẩm từ trâu bò như thịt và các đồ mỹ nghệ làm từ sừng, xương trâu bò. Đó là một động lực lớn thúc đẩy chăn nuôi trâu ở đây phát triển. Với vị trí địa lý và đặc điểm địa hình như vậy, Vân Hòa được đánh giá là địa phương có tiềm năng phát triển chăn nuôi gia súc nói chung, chăn nuôi đại gia súc nói riêng, trong đó có con trâu. 4.1.2. Khí hậu, thuỷ văn Ngày nay nhờ sự phát triển của mạng lưới các công trình đã khá hoàn thiện nên sản xuất nông nghiệp không còn phụ thuộc nhiều vào khí hậu tự nhiên, từ đó mà năng suất đã tăng lên rõ rệt. Thực tế là trong nhiều năm gần đây Vân Hoà đã làm khá tốt công tác này, sản xuất nông nghiệp ổn định, nông dân yên tâm đầu tư sản xuất. Về khí hậu thì Ba Vì thuộc vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Hàng năm thời tiết được chia làm bốn mùa tương đối rõ rệt đó là Xuân, Hè, Thu, Đông. Trong đó mùa Hè và Thu chịu ảnh hưởng của gió Đông Nam thổi từ biển Đông vào gặp những dãy núi cao nó bị chắn lại nên thường mưa nhiều vào thời gian này. Ngược lại vào mùa Đông và Xuân vùng này chịu ảnh hưởng của không khí lạnh từ phía Bắc thổi xuống theo hướng Đông Bắc và thời gian này nhiệt độ thấp, rất ít mưa. Căn cứ sự phân bố lượng mưa trong năm khí hậu ở đây có thể được chia thành mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, còn mùa khô từ tháng 10 tới tháng 4 năm sau. Các thông số về khí hậu của vùng được trình bày ở bảng 4.1 Bảng 4.1. Một số chỉ tiêu đặc trưng khí hậu của Vân Hoà Tháng Nhiệt độ ( 0C ) Độ ẩm ( % ) Lượng mưa TB (mm) TB Min Max TB Min Max 1 16,75 10,00 23,50 90,23 70,96 109,5 20,23 2 19,00 12,11 25,89 91,41 73,00 109,83 11,89 3 22,38 14,26 30,50 85,50 73,45 97,56 102,50 4 24,07 16,00 32,15 85,14 75,14 95,14 130,10 5 28,29 18,89 37,70 80,92 72,57 89,27 180,50 6 29,90 21,00 38,80 81,79 71,59 92,00 385,20 7 30,72 22,35 39,10 76,13 68,12 84,15 435,20 8 29,00 20,90 37,10 72,11 58,98 85,24 307,60 9 26,69 17,89 35,50 70,05 54,10 86,00 135,30 10 23,73 15,00 32,46 70,62 56,00 85,24 94,61 11 21,40 13,65 29,15 77,86 64,15 91,58 54,78 12 18,86 11,23 26,50 86,08 72,16 100,00 41,29 Trung bình cả năm 24,23 16,11 32,36 80,66 67,52 93,79 158,27 Qua bảng 4.1 chúng tôi thấy lượng mưa trung bình hàng năm ở đây đạt 158,27 mm. Trong đó tháng lượng mưa cao nhất là tháng 7 đạt 435,2 mm và tháng mưa ít nhất là tháng 2 chỉ đạt 11,89 mm. Như vậy giữa các tháng trong năm có sự phân bố lượng mưa không đồng đều. Đây là một khó khăn rất lớn trong sản xuất nông nghiệp. Vào mùa mưa thường xuyên xảy ra tình trạng úng ngập, lũ lụt làm cho mùa màng thất bát, ngược lại vào mùa khô tình trạng hạn hán cũng thường xảy ra khó khăn cho sản xuất. Vì thế công tác phòng chống lụt bão, làm thủy lợi phải được đặt lên hàng đầu, là nhiệm vụ trung tâm thì mới đảm bảo cuộc sống yên bình của nhân dân và phát triển sản xuất an toàn. Tương tự như lượng mưa, nhiệt độ cũng có sự biến động giữa các tháng trong năm. Nhìn chung sự chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng trong năm không quá lớn. Tháng nóng nhất là tháng 7, nhiệt độ trung bình trong tháng lên tới 30,72 0C và tháng lạnh nhất là tháng 1, nhiệt độ trung bình là 16,75 0C. Mặc dù vậy mức giao động của nhiệt độ là tương đối lớn. Trong năm, ngày nóng nhất nhiệt độ lên tới 38,33 0C, song vào mùa đông nhiệt độ có thể xuống 10 0C thậm chí còn có thể xuống 6 0C. Nhìn chung vào các tháng mùa hè nhiệt độ có giao động song luôn ở mức cao. Còn vào mùa đông nhiệt độ có sự giao động rất lớn, có những ngày ấm áp, nhiệt độ lên tới 26 0C song chỉ sau một ngày khi có đợt không khí lạnh tràn về nhiệt độ có thể chỉ còn 10 0C. Nhiệt độ thay đổi một cách đột ngột như vậy là một khó khăn rất lớn cho ngành chăn nuôi. Với sự phân bố nhiệt độ trong năm như vậy cộng thêm sự phân bố lượng mưa như đã nêu ở trên, nhìn chung khí hậu ở Vân Hoà thích hợp cho việc canh tác đa dạnh đối tượng cây trồng. Vào các tháng có nhiệt độ trên 20 0C lại kết hợp với mưa nhiều và đây là điều kiện thuận lợi cho các loại cây nhiệt đới phát triển. Thời gian này chủ yếu là canh tác các loại cây nhiệt đới có tốc độ phát triển cao như lúa, ngô, lạc, đậu... Đồng thời vào các tháng mùa Đông mặc dù nhiệt độ trung bình dưới 20 0C song lại có biến động lớn. Thời gian này có những ngày nhiệt độ xuống tới 10 - 12 0C và cũng có những ngày ấm áp nhiệt độ là 21 - 22 0C. Với mức biến động như vậy, vào thời gian này ta có thể trồng cả những cây nhiệt đới như ngô, khoai, đậu... và ta cũng có thể trồng các loại cây ôn đới như: su hào, cải bắp, khoai tây... Như vậy hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích canh tác sẽ được nâng cao. Song song với sự biến động của lượng mưa, nhiệt độ như trên thì độ ẩm không khí cũng có sự biến động rất lớn và nhìn chung độ ẩm khá cao. Vào các tháng mùa thu (8, 9, 10) độ ẩm trung bình là 75 - 76%, nó biến động từ 54,1% - 85,24%. Ngược lại vào mùa Đông Xuân độ ẩm không khí rất cao, tháng 1 độ ẩm trung bình là 90,23% và nó biến động từ 71 - 110% (ngày mưa phùn). Đây là khó khăn lớn cho ngành chăn nuôi, vào mùa Hè nhiệt độ cao lại thêm độ ẩm cao làm cho khả năng thải nhiệt của gia súc, nhất là trâu thêm khó khăn, nên cần có biện pháp để chống nóng cho gia súc. Ngược lại vào mùa đông giá rét sẽ tăng nên khi độ ẩm không khí cao, lại thêm thức ăn khan hiếm, gia súc bị đói rét đe dọa, nên công tác chống đói, rét cho gia súc là rất quan trọng. Trâu là loài gia súc có khả năng chịu nóng, chịu rét rất kém nên công tác này càng phải được chú trọng. Thực tế vào thời kì bao cấp do không làm tốt công tác này, đàn trâu đã bị đỗ ngã rất nhiều vào mùa Đông giá rét, gây nhiều thiện hại cho nền sản xuất nông nghiệp. Nhìn chung Vân Hoà là xã có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp nói chung, chăn nuôi nói riêng trong đó có chăn nuôi đại gia súc và con trâu là một đối tượng nuôi chính. 4.1.3. Điều kiện kinh tế- xã hội Vân Hòa là vùng quê gắn liền với nông nghiệp từ lâu đời. Người dân ở đây cần cù, chịu khó và rất ham học hỏi, tìm tòi các tiến bộ kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất. Với nỗ lực của mình, sự giúp đỡ của chính quyền và điều kiện tự nhiên thuận lợi. Xã Vân Hòa đã có sự biến đổi mạnh mẽ, mọi mặt đời sống của người dân được nâng cao, đặc biệt ngành chăn nuôi đang có sự phát triển rất tốt. Tình hình dân số, theo số liệu thống kê của ban dân số xã cho biết, cho đến năm 2008 có 2164 số hộ, và 8807 số khẩu, số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 44,24%, trong đó có khoảng 97% lao động tham gia sản xuất trong ngành nông nghiệp. Với nguồn lao động dồi dào, mật độ dân số thưa (khoảng 373 người/km2), diện tích đất đai rộng lớn là điều kiện thuận lợi để phát triển ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi trâu nói riêng theo hướng hàng hoá có hiệu quả. Về cơ sở vật chất, Vân Hoà nằm trên địa bàn của khu du lịch Ba Vì, trên địa bàn có ba khu du lịch nổi tiếng là Thác Đa, Suối Tiên, Khoang Xanh, xung quanh lại có khu du lịch Ao Vua, Đồng Mô... Do đó mà cơ sở vật chất của xã được chú trọng đầu tư phát triển, hệ thống trường học khang trang, trạm xá đạt chuẩn quốc gia, 100% địa bàn xã có điện, hệ thống giao thông thuận lợi với tất cả những trục đường chính đã trải nhựa, tạo điều kiện lưu thông buôn bán hàng hoá với bên ngoài. Về trình độ dân trí, hiện xã không còn người dưới 50 tuổi mù chữ, trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường, toàn xã đã phổ cập trung học cơ sở. Đây chính là cơ sở, là nền tảng giúp người nông dân ở đây tiếp thu những tiến bộ khoa học, kỹ thuật và áp dụng vào thực tế sản xuất, thúc đẩy sự phát triển ngành nông nghiệp của xã nói chung và chăn nuôi trâu nói riêng. Về phía chính quyền thì thành phố cũng như huyện đã có một loạt các chủ trương chỉ đạo về việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ để thúc đẩy trồng trọt phát triển. Về chăn nuôi, thành phố và huyện cũng có chủ trương thúc đẩy chăn nuôi đại gia súc phát triển với các biện pháp như cho vay vốn, hỗ trợ công tác thụ tinh nhân tạo, cải tạo đàn gia súc và hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi cho bà con nông dân. Cùng với sự phát triển của ngành sản xuất nông nghiệp và ngành du lịch, đời sống của người dân từng bước được nâng cao. Vân Hoà hiện không còn hộ đói, số hộ nghèo chỉ còn rất ít và Vân Hoà đang tiến tới xoá hộ nghèo trên toàn xã trong năm 2009. Như vậy Vân Hoà là địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất, chăn nuôi. Con người ở đây cần cù, chịu khó, điều kiện giao thương thuận lợi... Tức là nơi đây đã hội tụ đầy đủ điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hoà để phát triển một nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá, trong đó ngành chăn nuôi cũng là bộ phận quan trọng. Việc phát triển nông nghiệp không thể tách rời việc phát triển chăn nuôi đại gia súc, trong đó có con trâu. Con trâu sẽ là một trong những đối tượng nuôi theo hướng hàng hoá chính. 4.2. Tình hình sản xuất ngành nông nghiệp của xã Vân Hoà 4.2.1. Tình hình sử dụng đất ngành trồng trọt 4.2.1.1. Tình hình sử dụng đất ở Vân Hoà Bảng 4.2. Tình hình sử dụng đất của xã Vân Hoà (2008) Loại đất Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) Tổng diện tích đất tự nhiên 3290,98 100% + Đất nông nghiệp 1004,46 30,52% + Đất trồng lúa 372,99 + Đất cỏ dùng chăn nuôi 123,77 + Đất trồng cây hàng năm khác 116,66 + Đất trồng cây lâu năm 391,04 2. Đất lâm nghiệp 1722,48 52,33% + Đất rừng sản xuất 511,18 + Đất rừng đặc dụng 1211,30 3. Đất nuôi trông thuỷ sản 22,67 0,70% 4. Đất phi nông nghiệp 541,37 16,45% + Đất ở 105,71 + Đất chuyên dùng 164,55 + Đất trụ sở cơ quan 6,33 + Đất sản xuất kinh doanh 20,77 + Đất có mục đích công cộng 137,45 + Đất tôn giáo tín ngưỡng 0,13 + Đất nghĩa địa 18,89 + Đất suối mặt nước chuyên dùng 87,54 Qua bảng 4.2 cho thấy, Vân Hoà có tổng diện tích tự nhiên là 3290,98 ha. Trong đó đất dùng cho canh tác nông nghiệp là 1004,46 ha chiếm 30,52%, tăng so với các năm trước do người dân đã biết tận dụng đất chưa sử dụng, áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác và trồng các giống cây trồng mới thích hợp với từng loại đất. Diện tích đất nông nghiệp được mở rộng không chỉ đủ để đảm bảo cho nhu cầu tiêu dùng của địa phương mà còn có sản phẩm hàng hoá cung cấp cho thị trường khu vực khác, đồng thời tạo ra một lượng lớn phụ phẩm nông nghiệp như: rơm, thân cây ngô, dây lạc... Đây là là nguồn thức ăn trực tiếp và có thể chế biến dự trữ để dành cho thời kì khan hiếm thức ăn. Đất lâm nghiệp có 1722,48 ha chiếm tỉ lệ lớn nhất 52,33% cũng tăng so với các năm trước. Với diện tích rừng lớn như vậy, không chỉ giúp bảo vệ môi trường, chống xói mòn, lũ lụt mà còn được khai thác theo hướng du lịch và đã đem lại nguồn lợi không nhỏ cho xã. Đặc biệt cỏ tự nhiên ở trong rừng là nguồn thức ăn xanh dồi dào, rất thuận lợi cho phát triển dàn gia súc ăn cỏ trong đó có trâu với quy mô lớn. 4.2.1.2. Tình hình sản xuất ngành trồng trọt ở xã Vân Hoà Kết quả sản xuất của một số cây trồng ở Vân Hòa được trình bày ở bảng 4.3 Bảng 4.3. Kết quả sản xuất một số cây trồng xã Vân Hoà năm 2008 Loại cây trồng Diện tích (ha) Năng suất (tấn/ha) Sản lượng (tấn) Phụ phẩm (tấn) Lúa 500 5,30 2650,00 2120,00 Ngô 75 4.50 337,50 803,25 Đậu tương 14 1,10 15,40 119,00 Lạc 80 1,8 144,00 680,00 Sắn 65 1,62 105,30 635,40 Cỏ voi 40 200,00 8000,00 0 Tổng 774 214,32 11252,2 4357,65 Theo bảng 4.3, chúng ta nhận thấy lúa là loại cây lương thực chủ yếu. Tổng diện tích trồng lúa năm 2008 của xã là 500 ha, sản lượng thóc thu được trong năm là 2650 tấn. Theo Nguyễn Xuân Trạch khi nghiên cứu ở Đông Anh cho biết tỉ lệ rơm so với thóc là 0.8 vậy hàng năm vùng này có lượng rơm ước tính khoảng 2120 tấn. Đây là nguồn phụ phẩm lớn và quan trọng đối với trâu bò, đặc biệt là trong vụ Đông Xuân thời tiết khô hanh, nguồn thức ăn cho trâu bò cạn kiệt. Cây ngô được trồng chủ yếu vào vụ Đông Xuân, năm 2008 tổng diện tích trồng ngô của xã là 75 ha, sản lượng đạt 337,5 tấn. Theo Vũ Duy Giảng và Tôn Thất Sơn thì tỷ lệ thân, lá cây ngô sau thu bắp trên sản lượng ngô hạt là 2,38. Vậy với 337,5 tấn ngô hạt Vân Hoà sẽ có khoảng 803,25 tấn thân và lá ngô, đây cũng là nguồn thức ăn quan trọng cho trâu bò trong thời vụ Đông Xuân thời kì khan hiếm thức ăn. Theo số liệu của trạm thống kê xã Vân Hoà năm 2008, tổng diện tích trồng đậu tương là 14 ha, sản lượng là 119 tấn, lạc là 80 ha, sản lượng đạt 144 tấn. Cũng theo Vũ Duy Giảng và Tôn Thất Sơn thì lượng phụ phẩm thu được từ lạc và đậu tương là 8 - 8,5 tấn/ha. Vậy ước tính toàn xã năm 2008 có khoảng 119 tấn thân đậu tương và 680 tấn thân lá lạc. Nếu biết các chế biến thì đây cũng là nguồn thức ăn giàu chất đạm cho trâu bò. Cây sắn ở đây được trồng khá nhiều 65 ha do tận dụng được diện tích triền đồi, sản lượng đạt 105,3 tấn, lượng phụ phẩm ước tính khoảng 635,4 tấn. Đây là nguồn thức ăn giàu năng lượng và đạm, tuy nhiên lại có độc tố HCN gây độc cho gia súc nếu sử dụng quá nhiều, nhưng nếu biết cách chế biến thì nó trở thành một nguồn thức ăn lớn cho trâu, bò. Đặc biệt với 40 ha cỏ voi và sản lượng 8000 tấn, đây là nguồn thức ăn dành riêng cho trâu bò, dễ trồng và sản lượng rất cao. Góp phần chủ yếu vào cung cấp thức ăn cho trâu bò. Như vậy, ngành trồng trọt xã Vân Hoà đã cung cấp nguồn phụ phẩm lớn, rẻ tiền, có thể chế biến và bảo quản làm thức ăn dự trữ. Với tiềm năng phụ phẩm như vậy Vân Hoà có đủ mọi thế mạnh để phát triển ngành chăn nuôi đại gia súc, trong đó có con trâu góp phần nâng cao đời sống của người dân. 4.2.2. Tình hình sản xuất ngành chăn nuôi Với những biến động thất thường của thời tiết, dịch bệnh và giá cả thị trường mà đàn gia súc ở xã Vân Hòa có sự tăng giảm thất thường. Ta sẽ thấy rõ được điều đó qua bảng sau. Bảng 4.4. Diễn biến của đàn gia súc, gia cầm từ năm 2005 - 2008 Năm Gia súc 2005 2006 2007 2008 Trâu 1143 1104 932 985 Bò thịt 852 966 1189 1320 Bò sữa 147 153 140 320 Lợn 3392 4197 3376 2800 Gia cầm 40137 40300 60370 25000 Qua bảng 4.4, chúng tôi thấy duy chỉ có đàn bò của xã có tốc độ phát triển khá nhanh đặc biệt là đàn bò thịt. Năm 2005 cả xã 852 con bò thịt, đến năm 2008 tổng đàn bò của xã là 1320. Trung bình trong 4 năm từ 2005 đến 2008 đàn bò thịt của xã mỗi năm tăng 13,73%. Không chỉ có sự tăng trưởng về quy mô mà đàn bò thịt còn có sự phát triển về chất. Đàn bò đang có sự phát triển theo hướng nâng cao tầm vóc, tăng số bò cái sinh sản. Tỷ lệ bò Sind chiếm trên 70% và nó đang tăng dần hàng năm. Đàn bò sữa của xã có sự tăng trưởng khá tốt. Duy chỉ năm 2007 có giảm nhẹ so với mấy năm trước do thời kì này giá sữa giảm, nhưng đến năm 2008 đàn bò sữa lại tăng đột biến, toàn xã có 320 con bò sữa, so với năm 2007 có 140 con bò sữa thì đàn bò sữa đã tăng 128,6% và mức tăng trung bình trong 4 năm trở lại ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4.VuTungLam.doc
Tài liệu liên quan