Lời Mở Đầu
H
ơn mười năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu và kết quả đáng mừng, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hoá ngày càng phong phú, đời sống nhân dân từng bứơc được cải thiện, đất nước chẳng những giữ vững ổn định chính trị trước những chấn động c
19 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng phát triển các loại thị trường ở Việt Nam & giải pháp phát triển đồng bộ các loại thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa thế giới mà còn có những bước phát triển đi lên. Tuy vậy nhìn chung nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới bắt đầu, còn ở trình độ thấp, chất lượng, hiệu quả cạnh tranh chưa cao, nhiều thị trường còn sơ khai chưa đồng bộ. Vì vậy, việc đổi mới tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng với sự phát triển của kinh tế nước nhà trong điều kiện hiện nay cũng như trong tương lai khi mà tình hình thế giới còn có nhiều diễn biến phức tạp. Nhận thức một cách sâu sắc vấn đề này, ngay trong chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết lần thứ 9 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX, việc đẩy nhanh phát triển đồng bộ các loại thị trường đã trở thành một trong bảy chương trình hành động lớn của Chính phủ. Vào ngày 16 tháng 1 năm 2006 vừa qua trong bản Nghị quyết số 01/2006/NQ-CP của Chính Phủ thì việc phát triển đồng bộ các loại thị trường được coi là một trong những giải pháp chủ yếu điều hành thực hiện kế hoạch hoá Kinh tế – Xã hội và ngân sách Nhà nước năm 2006. Như vậy có thể khẳng định rằng việc phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã và đang là vấn đề cấp bách của đất nước đòi hỏi phải có các giải pháp toàn diện, kịp thời và là điều kiện cần cho quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới của nước ta.
I. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hệ thống các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội , trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì thế kinh tế thị trường không chỉ là “công nghệ”, là “phương tiện” để phát triển kinh tế xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế xã hội , nó không chỉ bao gồm lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống sản xuất.Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng không có và không thể nào có một nền kinh tế thị trường chung chung, thuần tuý trừu tượng mà chắc chắn rằng nền kinh tế thị trường đó phải gắn chặt với hình thái kinh tế – xã hội ,với chế độ chính trị xã hội của đất nước nơi nó đang phát triển và tồn tại. Đất nước ta đã và đang trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế mãnh mẽ sẽ tạo nên nguồn lực to lớn cho việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nhận thức rõ được điều này ngay từ Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (Tháng 6 – 1991) Đảng ta đã khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội: “Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”l à chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng phải tới Đại hội IX của Đảng (tháng 4 – 2001) thì khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới được đưa ra một cách chính thức, đó là: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Việc đưa ra khái niệm trên thực sự là một sự đột phá trong lý luận của Đảng ta, nó vừa là sự phủ định đối với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp; vừa là sự khẳng định nền kinh tế thị trường hoàn toàn có thể tồn tại và phát triển tại một quốc gia đang trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội chứ không phải chỉ ở những nước tư bản như người ta vẫn thường nghĩ.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một mặt vẫn bao gồm những tính chất chung của nền kinh tế thị trường đó là : các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh; giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế; nền kinh tế vận động theo các quy luật vốn có của thị trường; nền kinh tế thị trường hiện đại có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hóa, các chính sách kinh tế. Mặt khác kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa trên cở sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội do đó còn bao gồm các đặc trưng bản chất sau đây:
- Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất , động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá , xây dựng cở sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội , nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội , cải thiện từng bước đời sống của nhân dân.
- Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần , trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập , trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu.
- Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự vận động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa .
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở hội nhập.
Trên cơ sở có những đổi mới trong tư duy và nhận thức về kinh tế thị trường cũng như phát triển kinh tế, đồng thời với việc đưa ra những đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong Nghị quyết Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra những biện pháp nhằm từng bước xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một trong những nội dung quan trọng, chủ yếu đã được Đảng ta khẳng định đó là : “Thúc đẩy sự hình thành, phát triển các loại thị trường và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”
2. Hệ thống các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa.Thừa nhận sản xuất hàng hoá thì không thể phủ nhận sự tồn tại khách quan của thị trường. Kinh tế hàng hoá, đối lập với kinh tế tự nhiên, sản phẩm khi đi vào tiêu dùng phải qua khâu phân phối lưu thông. Thị trường vừa là kết quả vừa là điều kiện của sản xuất hàng hoá. Phân công lao động càng phát triển, trình độ chuyên môn hoá càng cao thì thị trường càng phát triển. Thị trường phát triển từ thấp đến cao và ngày càng tác động tích cực tới sự phát triển của lực lượng sản xuất. Về phương diện lịch sử thị trường đã trải qua ba cấp độ như sau:
- Cấp độ thị trường cổ điển: Đây là dạng thức của thị trường mà cùng ở một không gian, thời gian, địa điểm ba yếu tố của thị trường là người mua, người bán, hàng hoá xuất hiện đồng thời với nhau. Người ta có thể nắm bắt được qui mô, đông thái mua bán trên thị trường thông qua quan sát.
- Cấp độ thị trường phát triển: ở dạng thức này, hàng hoá không nhất thiết phải xuất hiện đồng thời với người mua và người bán. Người ta có thể mua bán hàng hoá trước cả khi chúng được sản xuất ra bằng cách kí hợp đồng. Thị trường được trải rộng theo cả không gian , thời gian và người ta cũng khó có thể quan sát được quy mô và động thái của thị trường.
- Cấp độ thị trường hiện đại: trên thị trường lúc này chỉ xuất hiện người mua hoặc người bán. Khi đó, người trung gian xuất hiện trên thị trường và làm công việc giao dịch thương mại, đáp ứng nhu cầu mua bán trên thị trường. Đặc trưng của thị trường hiện đại là các hình thức dịch vụ phong phú và phát triển rất cao.
Hiện nay, với các nước phát triển thì cấp độ hiện đại là phổ biến và chiếm ưu thế, còn ở những nước đang phát triển như Viêt Nam thì cấp độ thị trường phát triển đã có được sự chi phối lớn nhưng nhìn chung cấp độ cổ điển vẫn là phổ biến. Cùng với thời gian thị trường nước ta đã phát triển thành một hệ thống khá đầy đủ nhưng chưa có được sự phát triển và nhìn chung chưa có tính đồng bộ cao. Để phân loại và quản lý hệ thống thị trường này có khá nhiều cách khác nhau như: căn cứ vào vai trò của các thị trường trong quá trình sản xuất, người ta chia thành thị trường yếu tố đầu vào và thị trường yếu tố đầu ra; dựa vào khu vực lưu thông hàng hoá có thể phân ra thành thị trường nông thôn, thị trường thành thị, thị trường trong nước, thị trường quốc tế; Và một cách chia khá phổ biến và thông dụng hiện nay là phân loại thị trường theo các đặc truưng riêng của hàng hoá được lưu thông trên thị trường, có thể chia thị trường thành các loại như sau:
Thị trường hàng hoá dịch vụ
Thị trường lao động
Thị trường vốn
Thị trường bất động sản
Thị trường khoa học và công nghệ
Việc phân chia thị trường theo cách vừa thể hiện được tính hệ thống và hoàn chính của thị trường vừa giúp chúng ta nghiên cứu tính đồng bộ của thị trường một cách dễ dàng hơn.
Thị trường hàng hoá - dịch vụ
Hàng hoá là sản phẩm được sản xuất ra để bán theo quan hệ cung – cầu trên thị
trường. Xã hội ngày càng phát triển tiến bộ và hiện đại cùng với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất nhu cầu của con người không chỉ dừng lại ở các sản phẩm mang tính vật chất mà ngày càng có nhiều đòi hỏi nhằm đáp ứng các nhu cầu về tinh thần. Để giải quyết vấn đề này các loại dịch vụ ra đời. Thị trường hàng hoá dịch vụ trở thành nơi cung cấp cho người tiêu dùng các sản phẩm hữu hình cũng như vô hình.
Thị trường lao động
có rất nhiều khái niệm về thị trường lao động mỗi thị trường lao động lại có đặc điểm riêng của mình. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: “ thị trường lao động là thị trường trong đó các dịch vụ được mua bán thông qua quá trình để xác định mức độc có việc làm, của lao động, cũng như mức độ tiền lương”. Các nhà khoa học Mỹ thì cho rằng: “thị trường mà đảm bảo việc làm cho người lao động và kết hợp giải quyết trong lĩnh vực việc làm thì được gọi là thị trường lao động”. Một số nhà khoa học Việt Nam cũng đưa ra định nghĩa về thị trường này như sau: “ thị trường lao động là toàn bộ các quan hệ được xác định trong lĩnh vực thuê mướn lao động, ở đó diễn ra sự trao đổi giữa một bên là người lao động tự do và một bên là người sử dụng lao động”. ở đây xin đưa ra khái niệm được khá nhiều người chấp nhận của nhà khoa học kinh tế người Nga Kostin Leonit Alechxeevich: “thị trường lao động đó là cơ chế tương hỗ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong một không gian kinh tế xác định, thể hiện các quan hệ pháp lý và kinh tế giữa họ với nhau”. Tham gia vào thị trường này người lao động sẽ được tạo cơ hội để nhận chỗ làm, thể hiện khả năng của mình và nhận thu nhập để tái sản xuất sức lao động; còn đối với người thuê lao động sẽ có được nguồn lực lao động cần thiết cho quá trình sản xuất để thực hiện các mục tiêu kinh tế.
Thị trường vốn
Thị trường vốn là một lĩnh vực rộng và phức tạp gắn với các hoạt động tài chính, tín dụng, ngân hàng. Để có thể cải thiện cở sỏ hạ tầng, phát triển giáo dục, phát triển và bảo đảm an ninh quốc phòng, Chính phủ cần có tiền, một phần của những nhu cầu này được Chính phủ đáp ứng nhờ các nguồn thu từ thuế một phần khác Chính phủ phải trực tiếp đi vay của nhân dân thông qua các loại trái phiếu. Cũng tương tự như vậy các doanh nghiệp khi muốn hoạt động, phát triển cũng như mở rộng qui mô sản xuất ngoài nguồn vốn tự có thì phải huy động vốn từ các nhà đầu tư thông qua trái phiếu công ty hoặc cổ phiếu mặt khác họ cũng có thể vay từ các ngân hàng mà thực chất là vay của những người có tiền gửi tiết kiệm. Tất cả các hoạt động đó diễn ra một cách sôi nổi và tấp nập trên thị trường và tạo nên một thị trường mà hàng hoá là tiền tệ. Xã hội càng phát triển nhu cấu sản xuất kinh doanh ngày càng nhiều thì thị trường vốn càng phát triển mãnh mẽ dưới nhiều dạng thức khác nhau và cũng mở rộng ra không chỉ trong phạm vi một nước mà trên toàn thế giới.
Thị trường bất động sản
Đất đai là nguồn là nguồn tài nguyên quý giá, là tư liệu sản xuất khan hiếm. Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi mở cửa thị trường trong nước đất đai chủ yếu được sử dụng cho mục đích nông nghiệp. Nhưng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, cùng đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước định hướng trở thành một nước công nghiệp hiện đại thì mục đích sử dụng đất ngày càng phong phú không chỉ ở thành thị mà ngay cả ở các vùng nông thôn. Đất đai trở thành một loại hàng hoá có giá trị kinh tế lớn với nhiều hình thức kinh doanh đa dạng. Thị trường bất động sản ra đời và phát triển nhằm mang lại không gian pháp lý cho các hoạt động mua bán, thuê mượn , chuyển quyền sử dụng đất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mọi tầng lớp trong xã hội.
Thị trường khoa học công nghệ
Năng suất lao động là vấn đề quan trọng và sống còn đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Sự phát triển của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã đem lại những tiến bộ vượt bậc cho xã hội về năng suất cũng như chất lượng sản phẩm đồng thời cũng chỉ ra một điều rằng để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá thì vấn đề đầu tiên và quan trọng hàng đầu đó là có một nền sản xuất phát triển dựa trên nền tảng khoa học công nghệ vững chắc và hiện đại. Sự phát triển của khoa học công nghệ ngày nay không chỉ gói ngọn trong các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, sáng chế mà còn mở rộng ra với những hoạt động mua bán, trao đổi và chuyển giao công nghệ. Khoa học công nghệ được thị trường chấp nhận và thị trường khoa học công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ ở các nước có nền công nghiệp phát triển. ở nước ta thị trường khoa học công nghệ mới chỉ thực sự xuất hiện trong những năm gần đây và còn là một thị trường khá mới mẻ, hứa hẹn nhiều triển vọng nhưng cũng không ít thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp cũng như các nhà quản lý.
Kinh tế thị trường chỉ thực sự phát triển khi các thị trường nói trên đạt được mức phát triển cao và vững chắc. Nhưng bên cạnh đó một vấn đề đáng quan tâm và lưu ý hơn đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đó là sự phát triển mang tính đồng bộ của các loại thị trường : hàng hóa – dịch vụ, lao động, vốn, bất động sản, khoa học công nghệ. Vậy vì sao vấn để này lại mang tính sống còn và cấp thiết như vậy?
3.Tính tất yếu khách quan của việc phát triển đồng bộ các loại thị trường ở nước ta.
Sự phát triển đồng bộ của các loại thị trường la sự ăn khớp giữa các loại thị trường và loại hình, trình độ phát triển và quy mô tạo nên một sự hoạt động nhịp nhàng của hệ thống thị trường và nền kinh tế quốc dân. Mỗi loại thị trường đều có cung – cầu, giá cả, người mua – người bán đặc thù, có quy luật vận hành và khuynh hướng phát triển khác nhau. Hơn thế nữa ở trong mỗi loại thị trường sự tách biệt giữa sản xuất và tiêu dùng , giữa hàng và tiền dẫn tới sự không khớp nhau về khối lượng, tiến độ và thời gian sản xuất tiêu dùng hàng hoá. Nhưng bản thân tiêu dùng ( bao gồm cả tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng cho sản xuất ) lại đòi hỏi có một sự đồng bộ rất cao nếu không thì tiêu dùng không thể thực hiện được. Tất cả những điều trên dẫn tới những mâu thuẫn trong phát triển không chỉ riêng của một loại thị trường nào mà là của toàn bộ hệ thống thị trường. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách và biện pháp cụ thể để tạo nên sự đồng bộ của cả hệ thống đảm bảo cho sự phát triển của tổng thể nền kinh tế.
Trên thị trường có hai nhóm người hoạt động. Nhóm thứ nhất bao gồm những người mua hàng hoá và sử dụng dịch vụ; nhóm thứ hai bao gồm những người bán và cung cấp dịch vụ. Tất nhiên sự phân chia này chỉ có tính chất tương đối trong mỗi giao dich cụ thể bởi một người bán sẽ dễ dàng trở thành người mua khi anh ta mua và sử dụng hàng hoá của người khác. Trên thị trường thường xuyên diễn ra mâu thuẫn giữa hai nhóm này về lợi ích kinh tế cũng như cả về chính trị và xã hội tạo nên sự ách tắc của thị trường. Những ách tắc này sẽ phần nào được giải quyết khi hệ thống thị trường cùng phát triển một cách đồng bộ. Đặc biệt đối với nước ta khi nền kinh tế thị trường đã hình thành nhưng còn phát triển chưa thực sự ổn định và toàn diện thì sự đồng bộ các loại thị trường sẽ tạo được động lực cho sự phát triển của các loại thị trường đồng thời kéo theo sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Mặc dù có những đặc điểm riêng biệt nhưng tất cả các loại thị trường đều có môi trường phát triển chung là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, vì vậy chúng đều có mỗi quan hệ lệ thuộc và có những tác động biện chứng lên sự hoạt động và phát triển của nhau. Sự độc lập tương đối giữa chúng đôi khi là những tác nhân phá vỡ mối liên hệ biện chứng đó tạo nên sự mất cân bằng trong tổng thể nền kinh tế. Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để hạn chế sự mất cân đối đó và phát triển các thị trường một cách đồng bộ và trở thành tiền đề cho nhau phát triển.
Trong phạm vi một quốc gia, sự chia cắt, đóng cửa, độc quyền là những yếu tố cản trở sự phát triển của thị trường. Chính sự phân chia và đóng cửa của các nghành các địa phương do lợi ích riêng cục bộ đã ngăn cản thị trường phát triển và không phát huy được tối đa nguồn lực của địa phương cũng như của các nghành. Để thay đổi tình trạng này thì giải pháp quan trọng là cần sớm tạo nên sự đồng bộ trong phát triển của các loại thị trường, tạo nên một hệ thống thị trường vững chắc trong cả nước. ở đó không có bóng dáng của sự độc quyền trong sản xuất và kinh doanh, các doanh nghiệp cùng nhau cạnh tranh lành mạnh và cùng nhau phát triển.
Một lí do nữa cho việc phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam đó là: Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Để phù hợp với môi trường quốc tế mới, chúng ta phải phát triển các loại thị trường để đáp ứng nhu cầu giao lưu kinh tế và hội nhập quốc tế. Trong môi trường quốc tế hoá, sự phát triển đồng bộ các loại thị trường không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn nhằm vươn tới thị trường ngoài nước, tranh thủ cơ hội quốc tế để phát triển.
Như vậy cả điều kiện chủ quan và khách quan, trong nước và ngoài nước, trước mắt và lâu dài đều đòi hỏi chúng ta phải phát triển đồng bộ các loại thị trường. Đồng bộ là có sự ăn khớp giữa các khâu, các bộ phận , tạo nên một sự hoạt động nhịp nhàng của chỉnh thể và đó chính là điều kiện cho sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta, tiền đề cho thành công của sự nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội vĩ đại. Vậy những năm qua chúng ta đã làm được gì cho sự phát triển đồng bộ mang tính sống còn đó và để làm tốt hơn , thành công hơn chúng ta cần có những giải pháp nào?
II. Thực trạng phát triển các loại thị trường ở Việt Nam và giải pháp phát triển đồng bộ các loại thị trường ở nước ta.
1.Thực trạng phát triển các loại thị trường ở nước ta.
Thị trường hàng hoá - dịch vụ.
Thành tựu: Trải qua 17 năm đổi mới ( 1986 – 2003) thị trường hàng hoá dịch vụ ở nước ta đã có những biến đổi về chất và phát triển vượt bậc về lượng thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, thị trường hàng hoá đã có sự thống nhất trong cả nước và bước đầu hình thành hệ thống thị trường ỏ các cấp độ khác nhau. Thực hiện tự do hoá thương mại tự do hoá lưu thông đã làm cho hàng hoá giao lưu giữa các vùng, các địa phương không bị ách tắc cản trỏ. Trên nền tảng tự do đã khai thác được tiềm năng thế mạnh của từng vùng từng địa phương cũng như từng doanh nghiệp. Quá trình tích tụ tập trung trên thị trường đã dẫn tới việc hình thành các trung tâm thương mại quốc gia.
- Hai là, trên thị trường đã có đủ các thành phần kinh tế , đông đảo thương nhân với các hình thức sở hữu khác nhau. Các doanh nghiệp Nhà nước chi phối từ 70% tới 75% khâu bán buôn , tỷ trọng bán lẻ chỉ còn chiếm từ 16% tới 17% so với 80% tới 85% của tư nhân trong số 310500 tỷ đồng(số liệu năm 2003).
- Ba là , nhiều mặt hàng trên thị trường đã chuyển từ thiếu hụt sang trạng thái đủ và dư thừa đặc biệt là hàng nông phẩm. Cuộc cạnh tranh về giá cả chuyển thành cuộc cạnh tranh về chất lượng dịch vụ. Dịch vụ từ chỗ là hoạt động yểm trợ bán hàng chuyển sang thành một nghành kinh doanh có sức phát triển lớn.
- Bốn là, thị trường trong nước đã bắt đầu có sự thông thương với quốc tế. Thị trường quốc tế đang có xu hướng phát triển cao trong những năm gần đây. Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ trong đó xuất khẩu sang 219 nước và nhập khẩu từ 151 nước với 151 nước Việt Nam xuất siêu. Kim nghạch xuất khẩu bình quân đầu người tăng liên tục: năm 2000 là 186,6USD/người; năm 2001 là 191USD/người và tới năm 2003 đã là 246,4USD/ người; với các mặt hàng như gạo, dầu thô, may mặc, da dệt.
- Năm là, sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đã có nhiều đổi mới. Các chính sách quản lý cũng như các công cụ quản lý đã được nghiên cứu kỹ và thông thoáng hơn. Nhà nước đã tạo lập được môi trường pháp lý cho các hoạt động trên thị trường. Sự tự do, bình đẳng của các chủ thể hoạt động trên thị trường được đảm bảo bằng pháp luật.
Những hạn chế và tồn tại : Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ về mọi mặt nhưng vẫn còn nhiều hạn chế cần sớm có biện pháp khắc phục đó là : thị trường hàng hóa – dịch vụ vẫn còn phân tán , manh mún và quy mô nhỏ, chất lượng hàng hoá kém, tính cạnh tranh chưa cao, sức mua hàng còn thấp, hàng hoá ứ đọng khó tiêu thụ. Do chính sách của nền kinh tế hàng hóa ngoại nhập tràn ngập thị trường đây là nguy cơ lớn đối với các chủ thể kinh tế khi chúng ta gia nhập các tổ chức thương mại lớn như WTO. Bên cạnh đó là sự phát triển không đồng của nông thôn và thành thị dẫn tới đời sống ngượì nông dân thấp, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ do không đảm bảo về chất lượng. Hàng giả, hàng nhái, buôn lậu vẫn là nỗi đau đầu của các nhà quản lý. Sự chậm trễ trong ban hành chính sách kinh tế đã làm trầm trọng thêm các khuết tật của thị trường. Sự điều tiết của Nhà nước và điều tiết của thị trường chưa thực sự linh hoạt tạo ra những cơn sốt và sự bất ổn của thị trườn. Đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chỉ số giá tiêu dùng tăng mạnh và rất khó kiểm soát trong thời gian vừa qua.
Thị trường lao động
Thành tựu: Việt Nam là một quốc gia có dân số trẻ số người trong độ tuổi lao động luôn ở mức cao đây là nguồn cung lao động dồi dào cho các doanh nghiệp. ước tính hàng năm cả nước có khoảng từ 1,3 triệu tới 1,5 triệu người bước vào tuổi lao động. Hệ thống luật pháp chế độ bảo hiểm và lương thưởng cũng đã có nhiều tiến bộ đảm bảo cho người lao động có thể yên tâm làm việc. Năm 2002 cả nước có khoảng 38,7 triệu lao động chiếm 48,3% dân số. Hoạt động xuất khẩu lao động cũng đạt được nhiều thành tựu :hiện nay Việt Nam có khoảng 400 nghìn lao động ở hơn 40 quốc gia trên thế giới và hàng năm gửi về cho gia đình và đất nươc khoảng 1,6 tỷ USD và chắc chắn những con số này sẽ còn tiếp tục tăng mạnh trong các năm sắp tới.
Hạn chế: Trong điều kiện hiện nay thị trường lao động lại đang là một áp lực lớn do sự mất cân đối nghiêm trọng do tác động của nhiều nhân tố( tốc độ tăng dân số,trình độ thấp). Tỷ lệ thất nghiệp luôn ở mức khá cao đặc biệt là ở vùng Châu thổ sông Hồng (6,4%) và khu vực Đông Nam Bộ ( 6,1%) theo số liệu năm 2003. Trong khi đó tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lại ở mức khá thấp chỉ đạt hơn 70%. Một vấn đề rất bức xúc với thị trường lao động Việt Nam đó là tình trạng thiếu lao động lành nghể trình độ cao trong khi lại quá thừa lao động giản đơn tạo ra sự mất cân đối nghiêm trọng trên thị trường. Năm 2002 số lao động không có chuyên môn kỹ thuật lên tới 84,2% đây có thể coi là một con số không thể chấp nhận được với một quốc gia đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ như nước ta. Thêm vào đó sự thiếu hiệu lực và đồng bộ trong một số chính sách của Nhà nước đã đem lại những kết quả không mong muốn đó là việc thu hút lao động từ nông thôn ra thành thị đã kéo theo sự quá tải và ô nhiễm cho môi trường đô thị cũng như làm nảy sinh hàng loạt các vấn đề phức tạp khác như nhà ở dịch vụ ,tệ nạn xã hội có ngu cơ bùng phát.
Thị trường vốn
Thành tựu: Thị trường vốn ở Việt Nam tuy mới phát triển được một thời gian không lâu nhưng cũng đã có được nhiều thành tựu nổi bật. Nguồn vốn tiết kiệm của dân cư đạt tỷ lệ khá cao chiếm khoảng 30% GPD. Các loại thu nhập ngoại tệ do xuất khẩu lao động, du lịch, kiều hối hàng năm ước đạt khoảng 6- 7tỷ USD. Nguồn vốn ODA hàng năm cam kết được tài trợ vào khoảng 2tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đã có thời kỳ giảm mạnh nhưng cũng đã tăng trở lại vào năm 2004 khoảng 4 tỷ USD. Một tín hiệu khả quan nữa đó là thị trường chứng khoán mới chỉ thực sự xuất hiện không lâu nhưng cũng đã thu được sự quan tâm chú ý của các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Năm 2005 có 31 doanh nghiệp tham gia đấu giá cổ phần với tổng giá trị bán được vào khoảng 1091 tỷ đồng. Vào cuối năm 2005 sau hơn 240 phiên giao dịch thông suốt chỉ số VN Index trên thị trường giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã đạt 314,08 điểm tăng 32,4% so với đầu năm.
- Pháp luật về ngân hàng – tài chính – tín dụng liên quan tới thị trường vốn đã phần nào đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Ngân sách Nhà nước ngày càng được quản lý thống nhất có sự phân công phân cấp giữa các ngành , các cấp. Nền tài chính quốc gia ngày càng được công khai minh bạch.
- Hệ thống ngân hàng ngày càng phát triển đa dạng và phong phú đáp ứng ngày càng cao các đòi hỏi của kinh tê thị trường. Tạo nên động lực cho sự phát triển của đầu tư và sản xuất.
Hạn chế:
- Thứ nhất đó là việc chúng ta sử dụng các nguồn vốn đầu tư nước ngoài còn kém hiệu quả thể hiên ở :tốc độ giải ngân chậm, tệ nạn tham nhũng lãng phí tiết kiệm còn hoành hành. Bên cạnh đó chúng ta cũng chưa tận dụng tôt các nguồn vốn đầu tư gián tiếp làm giảm tốc độ phát triển của nền kinh tế.
- Thứ hai việc huy động nguồn vốn trong dân qua trái phiếu chính phủ đang có dấu hiệu đi xuống:năm 2005 Nhà nước phát hành 38000 tỷ trái phiếu chính phủ nhưng cho tới tận tháng 8 mới chỉ huy động được 10000 tỷ đồng.
- Tỷ lệ lạm phát cao là nguyên nhân dẫn đến tình trạng lãi suất ngân hàng cao nhưng vẫn không thu hút được tiết kiệm.
- Thị trường chứng khoán dù có nhiều dấu hiệu khả quan nhưng vẫn đang trong tình trạng manh mún do tiến độ cổ phần hoá chậm cũng như tâm lý e ngại của các nhà đầu tư. Cả nước có tới trên 23000 doanh nghiệp cổ phần hoá nhưng chỉ có khoảng 1000loại cổ phiếu.
- Chính sách pháp luật ngân hàng, tín dụng đâu tư tuy đã có những chuyển biến xong còn nhiều bất cập so với thực tiễn trên thị trường trong nước và quốc tế.
Thị trường bất động sản
Thành tựu: là một thị trường mới hình thành và đang định hình phát triển ở nước ta xong đã khá sôi nổi và phát triển với nhiều hình thức kinh doanh khác nhau. Việc tạo lập hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước đã góp phần vàp bước phát triển ban đầu của thị trường nhà đất, thu hút được lượng vốn khá lớn vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho việc phát triển mặt bằng sản xuất, kinh doanh; cải thiện điều kiện nhà ở cho nhân dân , nhất là tại các đô thị và lam thay đổi diện mạo nông thôn. Với các đô thị lớn đó là sự xuất hiện của hàng loạt các chung cư cao tầng với đủ loại hình đảm bảo khả năng đáp ứng cho hầu hết các tầng lớp dân cư trong xã hội. Các khu công nghiệp cũng đua nhau mọc lên vừa góp phần tăng năng suất lao động vừa giải quyết việc làm cho người dân.
Hạn chế : Bên cạnh một số các thành tựu đạt được thì nhìn chung thị trương bất động sản đang trở thành vấn đề bức xúc trong những năm gần đây. Trong hơn 10 năm thị trường bất động sản nước ta đã có ba lần sụt giảm : lần thứ nhất vào năm 1994 – 1996, lần thứ hai vào năm 1997 – 1999 và lần thứ ba là năm 2004 đến nay đang diễn ra hết sức nghiêm trọng. Sự sụt giảm này bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Có quá nhiều văn bản quy định liên quan tới đất đai do nhiều cấp ban hành dẫn tới sự chồng chéo trong quản lý tạo nên các kẽ hở về luật pháp làm cho giao dịch ngầm phát triển và trở thành giao dịch chủ yếu trên thị trường. Giá nhà đất nhiều khi tăng cao tới mức vô lý tạo điều kiện cho đầu cơ tích trữ.
- Người sử dụng đất không nắm rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình dẫn tới nhiều sai phạm gây bất ổn trên thị trường.
- Tiêu cực trên thị trường bất động sản còn diễn ra nhiều dưới nhiều hình thức từ rút ruột công trình tới lợi dụng quyền hạn biến đất công thành đất riêng.
- Quy hoạch nhà đất còn nhiều điều bất hợp lý dẫn tới tình trạng hoang mang mất lòng tin của nhân dân
Tình trạng này đòi hỏi cần có ngay những biện pháp quyết liệt nhằm bình ổn lại thị trường để hâm nóng lại thị trường bất động sản đang đóng băng trong thời gia vừa qua một cách hợp lý và đồng bộ.
Thị trường khoa học công nghệ
Thành tựu : thực sự kể từ khi bắt đầu hình thành và phát triển cho đến nay, mặc dù đã có nhiều cố gắng về nhiều mặt nhưng nhìn chung thị trường công nghệ của nước ta chỉ được đánh giá là có tiềm năng lớn. Việc đẩy mạng quá trình hội nhập cũng như đề cao vai trò của nghiên cứu khoa học đã hứa hẹn một tương lai tôt đẹp cho thị trương khoa học và công nghệ nước nhà.
Hạn chế : Theo kết luận của Viện nghiên cứu và quản lý trung ương thì hiện nay thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam mới đang trong giai đoạn hình thành: nội dung sơ sài , sản phẩm nghèo nàn , số đơn vị tham gia thưa thớt và kém điều kiện phát triển. Phần lớn các doanh nghiệp ở Việt Nam đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với thế giới khoảng 2 hoặc 3 thế hệ., có từ 80% đến 90% là công nghệ ngoại nhập trong đó có tới 76% là thuộc những năm 1970. Tính chung cho các doanh nghiệp thì mức độ hiện đại của thiết bị vào khoảng 10%, trung bình là 38% và lạc hậu là 52%. Đánh giá của Bộ khoa học và công nghệ cho thấy năng lực đổi mới công nghệ là năng lực yếu nhất của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Hoạt động chuyển giao công nghệ vẫn ở mức thấp : trong khoảng thời gian từ năm 1992 tới 2003 chỉ có hơn 200 hợp đồng được kí kết mà lại chủ yếu là từ nước ngoài vào. Bên cạnh đó xảy ra tình trạng lãng phí trong việc nhập khẩu công nghệ:công nghệ được mua về vói gia hàng chục tỷ đồng rồi lại cho “đắp chiếu” do không có người vận hành và sử dụng.
Nhìn toàn cảnh phát triển của các loại thị trường ở nước ta từ khi định hướng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có thể thấy rằng mặc dù đã có nhiều bước phát triển vượt bậc nhưng nhìn chung vẫn ở mức thấp và kém đồng bộ đòi hỏi Đảng và Nhà nươc phải kịp thời có những định hướng , biện pháp đồng bộ và toàn diện hơn nữa để ngày càng phù hợp và theo kịp với quá trình hội nhập quốc tế đảm bảo sự phát triển cho nền kin._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0378.doc