Thực trạng nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ từ Việt Nam

Lời nói đầu Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO. Thủy sản xuất khẩu là một ngành chủ lực chiếm tỷ trọng cao của Việt Nam và Hoa Kỳ là một thị trường đầy tiềm năng mà Việt Nam cần chú trọng khai thác. Tuy nhiên để làm được điều đó, nhất là trong điều kiện ngày nay, các biện pháp thuế quan, hạn ngạch không còn được thịnh hành nữa, rào cản kỹ thuật ngày càng được các nước n

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1608 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ từ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hập khẩu quan tâm và sử dụng nhiều với nhiều hình thức đa dạng bởi nhiều lợi ích mang lại từ nó cho nước sử dụng. Việt Nam, một trong những nước chủ yếu lấy xuất khẩu làm mặt hàng mũi nhọn, sẽ phải làm gì trước sự thay đổi này, làm sao để có thể vượt rào thành công? Bài viết sau đây của em nhằm mục đích phân tích một phần nào đặc trưng của thị trường Hoa Kỳ về lĩnh vực thủy sản, các biện pháp về rào cản kỹ thuật mà Hoa Kỳ áp dụng cho mặt hàng thủy sản nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là đối với thủy sản từ Việt Nam, nêu và đánh giá thực trạng xuất khẩu thủy sản của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường này, qua đó nêu một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả vượt rào trong thời gian tới. Bài viết của em được chia làm 3 phần chính: Phần 1. Giới thiệu về thị trường thủy sản Hoa Kỳ. Phần 2. Thực trạng nhập khẩu thủy sản của Hoa Kỳ từ Việt Nam. Phần 3. Một số giải pháp vượt rào trong thời gian tới. Qua bài viết này, em xin chân thành cảm ơn thầy GS.TS Đỗ Đức Bình, trong thời gian thực hiện bài viết đã góp ý sửa đổi giúp em hoàn thành bài viết này. Em xin chân thành cảm ơn thầy! Chương một: Tổng quan chung về thị trường thủy sản Hoa Kỳ. 1.1. Tổng quan về các rào cản kỹ thuật tại thị trường Hoa Kỳ. 1.1.1. Các rào cản phi thuế quan. Rào cản phi thuế quan là rào cản không dùng thuế quan mà sử dụng các biện pháp hành chính để phân biệt đối xử chống lại sự thâm nhập của hàng hoá nước ngoài, bảo vệ hàng hoá trong nước. Các nước công nghiệp phát triển thường đưa ra lý do là nhằm bảo vệ sự an toàn và lợi ích của người tiêu dùng, bảo vệ môi trường trong nước đã áp dụng các biện pháp phi thuế quan để giảm thiểu lượng hàng hoá nhập khẩu. Như một tất yếu khách quan, khi các hàng rào thuế quan được các nước giảm sử dụng theo xu hướng tự do hoá thương mại, các hàng rào phi thuế quan trong thương mại quốc tế ngày càng được gia tăng áp dụng để bảo hộ sản xuất trong nước Các rào cản phi thuế quan ngày nay rất đa dạng, bao gồm: • Các biện pháp kỹ thuật • Các quy định và thủ tục hải quan • Các thủ tục và quy trình hành chính (nói chung) • Các loại thuế và phí trong nước • Trợ cấp và các hỗ trợ của Chính phủ • Các hạn chế về đầu tư hoặc các yêu cầu • Quy định hoặc chi phí về vận chuyển • Các hạn chế về cung cấp dịch vụ (nói chung) • Các hạn chế về sự dịch chuyển của các thương nhân hoặc người lao động • Các công cụ bảo hộ thương mại (chống bán phá giá, thuế đối kháng, quyền tự vệ) • Các quy định của thị trường trong nước…v.v… Hàng rào kỹ thuật là một trong các hàng rào phi thuế quan. Hàng rào này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, song nó đều liên quan đến vấn đề tiêu chuẩn chất lượng của hàng hoá, công nghệ, quá trình sản xuất cũng như việc bao gói, ghi nhãn, vận chuyển, bảo quản, các quá trình khác như thử nghiệm, kiểm tra, giám định, quản lý chất lượng... đối với hàng hoá. Ở khía cạnh tích cực, các yêu cầu này rất cần thiết cho hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá. Thế nhưng tiêu chuẩn kỹ thuật cũng phức tạp như chính quá trình thương mại. Các nước sử dụng các tiêu chuẩn này để bảo vệ thị trường trước các đối thủ cạnh tranh, các nước có thể đưa ra các yêu cầu, đó là các rào cản kỹ thuật, hàng hoá muốn đưa vào thị trường phải thỏa mãn các tiêu chuẩn mà chỉ có họ mới đáp ứng được. Điều này đã tạo nên hàng rào bảo vệ cho hàng hóa của nước họ trước hàng hóa của các doanh nghiệp các nước cạnh tranh. Trong các hàng rào phi thuế quan, hệ thống rào cản kỹ thuật được xem là một trong những nhóm biện pháp hữu hiệu nhất để ngăn chặn hàng xuất khẩu, đặc biệt là hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển. Phương thức để tạo ra rào cản chính là các yêu cầu kỹ thuật như các chỉ tiêu, tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật phải đạt được của hàng hóa; các yêu cầu về nhãn mác, hướng dẫn sử dụng... Hàng rào kỹ thuật trong thương mại rất đa dạng và được áp dụng khác nhau giữa các nước tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước. Các rào cản có thể được chia làm 3 nhóm sau: Nhóm 1. Các quy định về dịch tễ vệ sinh an toàn (Sanitary and phytosanitary): các quy định này được các nước đưa ra để bảo vệ sức khoẻ cho con người, vật nuôi và cây trồng. Cơ quan chức năng đặt ra các yêu cầu liên quan chủ yếu đến kích thước, hình dáng, thiết kế, độ dài và các chức năng của sản phẩm. Theo đó, các tiêu chuẩn đối với sản phẩm cuối cùng, các phương pháp sản xuất và chế biến, các thủ tục xét nghiệm, giám định, chứng nhận và chấp nhận, những quy định và các phương pháp thống kê, thủ tục chọn mẫu và các phương pháp đánh giá rủi ro liên quan, các yêu cầu về an toàn thực phẩm, … được áp dụng. Mục đích của các tiêu chuẩn và quy định này là nhằm bảo vệ an toàn, vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ, đời sống động, thực vật, bảo vệ môi trường, …Các tiêu chuẩn thường dược áp dụng trong thương mại là HACCP đối với thuỷ sản và thịt, SPS đối với các sản phẩm có nguồn gốc đa dạng sinh học, … Nhóm 2. Các biện pháp đối với người tiêu dùng: các biện pháp quy định về chất lượng và an toàn thực phẩm bao gồm nhãn mác, đóng gói bao bì, dư lượng thuốc trừ sâu, hàm lượng dinh dưỡng và tạp chất, nhãn sinh thái ( là nhãn được dán cho sản phẩm được coi là tốt hơn về mặt môi trường. Các tiêu chuẩn về dán nhãn sinh thái được xây dựng trên cơ sở phân tích chu kỳ sống của sản phẩm, từ giai đoạn tiền sản xuất, sản xuất, phân phối, tiêu thụ, thải loại sau sử dụng, qua đó đánh giá mức độ ảnh hưởng đối với môi trường của sản phẩm ở các giai đoạn khác nhau trong toàn bộ chu kỳ sống của nó. Sản phẩm có dán nhãn sinh thái thường có giá cao hơn các sản phẩm cùng loại mà không có nhãn sinh thái ), phí môi trường... Các quy định này có thể cho phép một quốc gia sử dụng các rào cản nhằm đảm bảo hàng hoá an toàn. Nhóm 3. Các biện pháp thương mại: các biện pháp được thực hiện nhằm ngăn chặn gian lận thương mại bao gồm các chứng từ vận chuyển và tài chính, các tiêu chuẩn nhận dạng và các tiêu chuẩn đo lường. Các rào cản kỹ thuật Hoa Kỳ thường chú trọng áp dụng đó là: Quy định về an toàn và đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng (HACCP ). HACCP là hệ thống phân tích mối nguy và xác định điểm kiểm soát trọng yếu, nó là sự tiếp cận có tính khoa học, hợp lý và có tính hệ thống cho sự nhận biết, xác định và kiểm soát mối nguy trong chế tạo, gia công, sản xuất, chuẩn bị và sử dụng thực phẩm để đảm bảo rằng thực phẩm là an toàn khi tiêu dùng tức là nó không có mối nguy không thể chấp nhận cho sức khỏe. Hệ thống này nhận biết những mối nguy có thể xẩy ra trong quá trình sản xuất thực phẩm và đặt ra các biện pháp kiểm soát để tránh những mối nguy có thể xảy ra. Các nguyên lý của HACCP: Có 7 nguyên tắc dùng làm cơ sở cho hệ thống HACCP. Bao gồm: Hướng dẫn phân tích những mối nguy. Xác định những điểm kiểm soát trọng yếu ( CCPs ). Mối CCP là một bước mà việc kiểm soát có thể áp dụng và cần thiết để ngăn chặn hoặc loại trừ một mối nguy an toàn thực phẩm hoặc giảm bớt nó đến mức độ cần thiết. Thiết lập những ranh giới tới hạn ( là tiêu chuẩn cần phù hợp với mỗi CCp ). Thiết lập một hệ thống kiểm tra việc điều khiển của CCPs. Thiết lập hoạt động hiệu chỉnh được thực hiện khi hệ thống kiểm tra chỉ ra một CCP đặc biệt không nằm dưới sự kiểm soát. Thiết lập những thủ tục kiểm tra xác định hệ thống HACCP đang làm việc hiệu quả. Thiết lập tài liệu dẫn chứng liên quan tới tất cả các thủ tục và các biên bản thích hợp với những nguyên tắc này và ứng dụng của chúng. Các nước xuất khẩu thực phẩm sang Hoa Kỳ muốn thông quan bắt buộc phải áp dụng đầy đủ quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn của HACCP. Quy định về trách nhiệm xã hội (SA8000). SA8000 là một hệ thống các tiêu chuẩn trách nhiệm giải trình xã hội để hoàn thiện các điều kiện làm việc cho người lao động tại các doanh nghiệp, trang trại hay văn phòng, do Social Accountability Internaltional (SAI ) phát triển và giám sát. Các nhà sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ phải thỏa mãn 8 yêu cầu của SA8000: Sử dụng lao động theo đúng độ tuổi quy định. Không được thuê hoặc ủng hộ việc sử dụng lao động cưỡng bức. Phải đảm bảo sức khỏe và an toàn, quyền lợi và chế độ bồi thường cho người lao động. Cho phép họ thực hiện quyền tự do hội họp và tham gia các hiệp hội khác nhau. Không được phân biệt đối xử trong việc thuê mướn, bồi thường, cơ hội thăng tiến…Không được cản trở việc thực hiện quyền cá nhân, tự do tín ngưỡng…Không được đe dọa, lạm dụng hay cưỡng bức lao động.... Các biện pháp kỷ luật không được áp dụng hình phạt thể xác, tinh thần và sỉ nhục bằng lời nói. Thời gian làm việc phải theo tiêu chuẩn quốc tế. Chế độ bồi thường, lương thưởng phải phù hợp với luật pháp. Quy định về bảo vệ môi trường ( ISO14000 ) Quy định này nêu rõ các yêu cầu về hệ thống quản lý môi trường trong đó đặc biệt lưu ý tới các quy định pháp lý về tác động và ảnh hưởng của môi trường nhằm giúp các doanh nghiệp hệ thống hóa các chính sách và các mục tiêu về môi trường của mình. Trong ISO14000 bao gồm ISO14001 và ISO14004, ISO14001 là các yêu cầu đối với hệ thống còn ISO14004 là các văn bản hướng dẫn xây dựng hệ thống theo các yêu cầu đó. Các nhà sản xuất phải tuân thủ các yêu cầu thực hiện trách nhiệm xử lý ô nhiễm môi trường và việc sử dụng nguyên nhiên liệu không làm mất cân bằng sinh thái, các sản phẩm sản xuất ra phải đảm bảo đạt tiêu chuẩn không gây ô nhiễm môi trường. Quy định về tiêu chuẩn chất lượng ( IS9000 ). ISO9000 là bộ tiêu chuẩn về quản lý chất lượng do tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa ban hành. Bộ tiêu chuẩn về quản lý chất lượng ISO9000 bao gồm các tiêu chuẩn quy định những yêu cầu của một hệ thống quản lý chất lượng mà doanh nghiệp muốn được chứng nhận phải áp dụng như ISO9001/2/3:1994, hoặc ISO9000:2000, và các tiêu chuẩn hỗ trợ khác. Doanh nghiệp có thể lựa chọn 1 trong 3 tiêu chuẩn sau: ISO 9001: Mô hình đảm bảo chất lượng trong thiết kế, triển khai, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ kỹ thuật. - ISO 9002: Mô hình đảm bảo chất lượng trong sản xuất, lắp đặt và dịch vụ kỹ thuật. ISO 9003: Mô hình đảm bảo chất lượng trong kiểm tra và thử nghiệm cuối cùng. Cả 3 tiêu chuẩn này gộp lại thành tiêu chuẩn duy nhất là ISO9001:2000 – Hệ thống quản lý chất lượng – Các yêu cầu. 8 nguyên tắc của quản lý chất lượng: - Hướng vào khách hàng ( Customer focus ). - Sự lãnh đạo ( Leadership ). - Sự tham gia của mọi người ( Involvement of people ). - Cách tiếp cận theo quá trình ( Process Approach). - Tiếp cận theo hệ thống đối với quản lý ( System approach to management ). - Cải tiến liên tục ( Continual Inprovement). - Quyết định dựa trên sự kiện ( Factual approach to decision making ). - Quan hệ hợp tác cùng có lợi với người cung ứng ( Mutually beneficial supplier relationship ). Mặc dù đây không phải là tiêu chuẩn bắt buộc với hàng hóa xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ nhưng đây là tiêu chuẩn cần có để hàng hóa có thể cạnh tranh được trên thị trường này. Chống bán phá giá ( anti-dumping ) Chống bán phá giá được Hoa Kỳ thực hiện một cách chặt chẽ. Hoa Kỳ thực hiện việc điều tra việc bán phá giá hàng nhập khẩu khi có đủ 50% số doanh nghiệp sản xuất hàng nội địa cùng tham gia kí tên vào đơn kiện đối với nước xuất khẩu. Cơ sở xác định hàng hóa bán phá giá tại thị trường Hoa Kỳ là mức giá bán tại thị trường Hoa Kỳ thấp hơn mức giá bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu. Khi xác định được hàng hóa là bán phá giá, bộ Thương mại Hoa Kỳ thực hiện việc điều tra dưới sự giám sát của cơ quan trọng tài và trung tâm thương mại quốc tế WTO. Nói thì vậy nhưng trên thực tế Hoa Kỳ sẽ xử các doanh nghiệp vi phạm chính sách chống bán phá giá theo luật lệ riêng của Hoa Kỳ, theo chính sách và truyền thống riêng của Hoa Kỳ. 1.1.2. Hiệp định rào cản kỹ thuật trong thương mại – TBTs. Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT) còn được gọi là “bộ luật của các tiêu chuẩn” là một hệ thống các văn bản pháp lý ban hành để sử dụng rộng rãi và lâu dài, trong đó quy định các quy tắc, hướng dẫn về pháp quy kỹ thuật, tiêu chuẩn, quy trình đánh giá sự phù hợp…của sản phẩm và các hoạt động có liên quan mà việc tuân thủ chúng là bắt buộc hoặc không bắt buộc đối với các nước thành viên. 1.1.2.1. Mục đích của Hiệp định TBT. Hiệp định TBT ra đời nhằm đưa ra một tiêu chuẩn chung nhất cho các rào cản kỹ thuật mà các quốc gia sử dụng. Các quốc gia trên thế giới có trình độ phát triển khác nhau cho nên việc sử dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật này không nhất thiết phải hoàn toàn cứng nhắc, nhất quán. Các quốc gia có trình độ phát triển chưa cao, không đáp ứng được các tiêu chuẩn của TBT do trình độ công nghệ, khả năng quản lý và nhận thức về tiêu chuẩn an toàn về sức khỏe cho người tiêu dùng chưa đầy đủ thì có thể áp dụng các tiêu chuẩn thấp hơn, mục tiêu của hiệp định nhằm không cho phép các nước phát triển đưa ra các yêu cầu cao hơn tiêu chuẩn quốc tế, nếu không chứng minh được việc đưa ra như vậy là có căn cứ khoa học và là cần thiết với quốc gia đó vì những mục đích hợp pháp như bảo vệ an toàn, vệ sinh, môi trường hay an ninh. Hiệp định TBT khuyến khích các nước thành viên đưa ra các cam kết, thỏa thuận công nhận các kết quả kiểm tra, chứng nhận chất lượng hàng hóa của nhau, nhằm giảm thiểu thời gian và chi phí trong việc giám định lại chất lượng hàng hóa tại cảng nhập khẩu của nước đối tác. Và hiệp định TBT là cần thiết đối với hoạt động thương mại toàn cầu và các quốc gia nên tuân thủ các nguyên tắc của hiệp định một cách tự nguyện. Tuy nhiên, việc thực hiện các nguyên tắc của hiệp định một cách thống nhất là một vấn đề khó khăn vì trình độ của các nước trên thế giới còn chênh lệch nhau rất nhiều, giữa các nước phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU…với các nước đang hoặc chậm phát triển. Ví dụ như Việt Nam, mặc dù TBTs là một trong những hiệp định đa phương được Việt Nam cam kết sẽ thực hiện đầy đủ kể từ khi gia nhập WTO. Mặc dù việc hài hoà các tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) với các tiêu chuẩn quốc tế ( TCQT) không phải là một yêu cầu bắt buộc để gia nhập WTO, nhưng trình độ của Việt Nam về mọi mặt còn hạn chế, nên việc áp dụng thực hiện một cách hoàn toàn triệt để các quy tắc của hiệp định là một điều rất khó. Nhưng nếu Việt Nam không nhanh chóng nâng cao trình độ, thu hẹp chênh lệch TCVN với quốc tế sẽ ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của DNVN, ảnh hưởng tới việc bảo vệ sản xuất trong nước và quản lý xuất nhập khẩu sẽ trở nên khó khăn hơn. Vì vậy, Việt Nam phải cố gắng trong việc bổ sung, hoàn thiện, sửa đổi và thực hiện nghiêm túc các điều khoản của hiệp định TBT trong điều kiện hội nhập. 1.1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của hiệp định TBT. Nguyên tắc không phân biệt đối xử về các tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa: Các nước thành viên phải áp dụng quy chế tối huệ quốc và quy chế đối xử quốc gia khi đưa ra các quy định quản lý kỹ thuật, phải đảm bảo có sự đối xử như nhau giữa các nước thành viên và giữa hàng hoá sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu vào nước mình. Không cản trở thương mại: Hiệp định TBT yêu cầu các nước thành viên áp dụng tiêu chuẩn quốc tế như ngôn ngữ kỹ thuật thống nhất đối với tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, nghĩa là, một khi tiêu chuẩn quốc tế được áp dụng thì không có hàng rào kỹ thuật được tạo ra với yêu cầu cao hơn tiêu chuẩn quốc tế đối với thương mại giữa các nước thành viên nếu không chứng minh được việc đưa ra như vậy là có căn cứ khoa học và là cần thiết vì những mục đích hợp pháp như bảo vệ an toàn, vệ sinh, môi trường hay an ninh. Công khai, minh bạch về các biện pháp kỹ thuật mà các nước sử dụng... Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên hiệp định còn có các nguyên tắc như hài hòa tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế, thừa nhận lẫn nhau các kết quả thử nghiệm, kiểm tra, giám định chất lượng... 1.2. Tổng quan chung về thị trường Hoa kỳ. 1.2.1. Khái quát về tình hình chính sách và pháp luật Hoa Kỳ. Hoa Kỳ không giống các nước phát triển khác, Hoa Kỳ là nước có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới vì thế mọi hoạt động của Hoa Kỳ không chỉ về kinh tế mà còn cả về chính trị đều tác động không nhỏ đến hoạt động của các nước. Về chính sách quản lý nhập khẩu, Hoa Kỳ là nước có chính sách quản lý nhập khẩu phức tạp và không theo một nguyên tắc nhất định nào. Ngoài các yêu cầu về hải quan, nhiều quy định cấm và hạn chế nhập khẩu, còn chịu sự quản lý và điều tiết của nhiều luật lệ thuộc quyền quản lý của các cơ quan công quyền khác. Hàng hóa nhập khẩu được thông quan khi đáp ứng được các yêu cầu quy định trong các luật lệ liên quan và đặc biệt phải lưu ý một số rào cản kỹ thuật của thị trường này có sự khác biệt so các thị trường nhập khẩu khác. Ở thị trường Hoa Kỳ, mức độ sử dụng các tiêu chuẩn do các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ban hành tương đối thấp hoặc thậm chí các tiêu chuẩn này không được biết đến tại Hoa Kỳ cho dù Hoa Kỳ đã kí kết cho việc sử dụng rộng rãi các tiêu chuẩn quốc tế này. Mặc dù có nhiều tiêu chuẩn của Hoa Kỳ được công nhận là “ Tương đương về mặt kỹ thuật “ với các tiêu chuẩn quốc tế, nhưng tại thị trường này, họ ưu tiên sử dụng các tiêu chuẩn do họ đặt ra, các tiêu chuẩn quốc tế hiếm khi được sử dụng trực tiếp. Đặc biệt Hoa Kỳ có một số các tiêu chuẩn mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế. Nguyên nhân là do cơ cấu chính trị của Hoa Kỳ, Quốc hội Hoa Kỳ cũng như đa số công chúng Hoa Kỳ thường có khuynh hướng bảo hộ, coi luật lệ Hoa Kỳ và bộ máy luật pháp của họ là bất khả xâm phạm và chống đối lại bất kể những gì mà theo họ là xúc phạm đến chủ quyền của Hoa Kỳ, cho dù là luật lệ của WTO. Ví dụ như khi Hoa Kỳ ban hành luật CDSOA – Luật chống tiếp tục bán phá giá và trợ giá 2000, thông qua ngày 28/10/2000, các công ty nội địa vừa được bảo hộ vừa được tài trợ trực tiếp, vi phạm điều khoản cơ bản của WTO là đối xử công bằng giữa công ty nội địa và công ty của các nước thành viên khác. Hoa Kỳ đã bị 11 nước thành viên trong đó có Nhật, Hàn Quốc và Liên hiệp Châu Âu kiện lên WTO, và kết luận là Hoa Kỳ đã vi phạm luật của WTO, phải sửa sai. Nhưng quốc hội Hoa Kỳ đã yêu cầu tổng thống Bush bãi bỏ quyết định của WTO, WTO đã đi quá quyền hạn của mình và xúc phạm tới nhà nước Hoa Kỳ. Các đạo luật mà Hoa Kỳ đưa ra đa số đều nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi Mỹ, ví dụ như trong năm 2001, trong hơn 239 pháp lệnh chống bán phá giá ban hành thì có 100 cái là để bảo vệ họ. Ngoài ra do Hoa Kỳ gồm 50 tiểu bang nhỏ, mỗi tiểu bang có những quy định riêng cho nên kinh tế và luật pháp của Hoa Kỳ càng trở nên phức tạp hơn nữa. Hoa Kỳ hiện nay đang đối mặt với sự cạnh tranh của luồng hàng hoá từ các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam với giá thấp, lao động rẻ. Kết quả là Hoa Kỳ đã phản ứng lại tình trạng này bằng cách đặt ra nhiều yêu cầu chặt chẽ gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu, đặc biệt là từ các nước đang phát triển khi họ muốn xuất khẩu sản phẩm sang Hoa Kỳ. Và Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ. Đối với nhiều nước phát triển trong đó có Hoa Kỳ có dư sức thực hiện các tiêu chuẩn TBTs, nhưng họ lại thường đặt ra các tiêu chuẩn kỹ thuật trong thương mại có liên quan tới thực trạng kinh tế – chính trị của họ. Các rào cản kỹ thuật trong thương mại được sử dụng đặc biệt khắt khe đối với các sản phẩm nông nghiệp chế biến. Có một số lượng đáng kể các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam đã bị trả lại ngay khi nhập khẩu tại các cảng của Hoa Kỳ vì chúng không phù hợp với các quy định về yếu tố môi trường, an toàn thực phẩm v.v…mà Hoa Kỳ đặt ra. Điều đó đã gây ra nhiều thiệt hại cho các nhà sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Các trường hợp đó cho thấy Hoa Kỳ sử dụng các rào cản kỹ thuật trong thương mại để làm giảm lượng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp từ Việt Nam. Hoa Kỳ áp dụng các rào cản kỹ thuật trong thương mại đối với các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam như là một công cụ nhằm hạn chế hàng hóa nhập khẩu vào thị trường này. 1.2.2. Khái quát về đặc điểm kinh tế Hoa Kỳ. Hoa kỳ là một nước có nền kinh tế phát triển bậc nhất trên thế giới với đa dạng các loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Thị trường Hoa Kỳ có đặc trưng là một thị trường có rất ít sự can thiệp của chính phủ, nền kinh tế được tự do thông thoáng để phát triển. Hoạt động kinh tế của chính phủ chỉ chiếm 12,4% tổng sản phẩm nội địa, nền kinh tế hậu công nghiệp với khía cạnh dịch vụ đóng góp trên 75% tổng sản phẩm nội địa. Những hợp đồng kinh tế được coi là mấu chốt, là điểm quy chiếu cho mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, các doanh nghiệp tham gia thị trường Mỹ khi soạn thảo hợp đồng phải hết sức chặt chẽ. Các doanh nghiệp nên nhờ các luật sư, các ngân hàng, các kế toán, tư vấn vì họ hiểu được vấn đề gì sẽ xảy ra khi có tranh chấp thương mại. Về thị hiếu tiêu dùng: Hoa Kỳ có 50 bang, và một đặ khu kiên bang, với hơn 305 triệu dân, đứng thứ 3 trên thế giới và đa dạng về chủng tộc, mỗi bang trong Hoa Kỳ lại có những đặc điểm riêng về luật pháp, kinh tế và xu hướng, thị hiếu tiêu dùng cho nên Hoa Kỳ có nhu cầu rất phong phú, đa dạng về hàng hóa, dịch vụ. Tuy khác nhau để tạo thành những đặc điểm riêng biệt giữa các bang nhưng 50 bang cũng đều có các đặc điểm tương đồng về kinh tế cũng như văn hóa tạo nên đặc điểm chung của người Mỹ. Nhu cầu mua sắm của người Mỹ rất cao, chiếm 21% sức mua tương đương. Khi mua hàng điều người Mỹ quan tâm đầu tiên là chất lượng hàng hóa. Kiểu dáng, mẫu mã và giá cả là những yếu tố cạnh tranh quyết định sự thành công của sản phẩm trên thị trường. Họ yêu thích các sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên và lành mạnh, các sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, đảm bảo sức khỏe và an toàn với môi trường. Về kênh phân phối: Hoa Kỳ có kênh phân phối rộng khắp và đa dạng với nhiều hình thức như các kênh phân phối theo chiều dọc, ngang, hệ thống bán buôn bán lẻ đan xen nhau để lưu thông hàng hóa xuất nhập khẩu tới tay người tiêu dùng. Kênh phân phối theo chiều dọc là kênh phân phối trong đó nhà sản xuất, người bán buôn, người bán lẻ hoạt động như một thể thống nhất. Mỗi thành viên trong hệ thống có thể có sở hữu hay thỏa thuận với các thành viên khác hoặc có sức mạnh to lớn khiến cho các thành viên khác phải hợp tác. Hệ thống phân phối này có thể bị chi phối bởi nhà sản xuất, người bán buôn hay người bán lẻ. Có 3 lọai kênh phân phối theo chiều dọc là: Kênh phân phối chiều dọc theo hình thức công ty, kênh phân phối chiều dọc theo thỏa thuận, kênh phân phối chiều dọc theo kiểu quản lý, kiểm soát. Kênh phân phối theo chiều ngang là hình thức phân phối trong đó 2 hoặc nhiều công ty ở cùng một tầng trong hệ thống phân phối liên kết lại với nhau để thực hiện công việc phân phối. Với việc liên kết này, các công ty có thể kết hợp nguồn lực về tài chính, sản xuất và tiếp thị để bán hàng tốt hơn so với việc công ty đó một mình tiến hành hoạt động bán hàng. Nếu như trước đây, các công ty chỉ sử dụng một kênh phân phối để bán hàng tại một thị trường hay một phân đoạn thị trường thì ngày nay với sự đa dạng hóa khách hàng, ngày càng có nhiều công ty sử dụng hệ thống phân phối nhiều kênh hay còn gọi là hệ thống phân phối kép. Đây là hệ thống phân phối trong đó một công ty tạo ra cho mình hai hay nhiều kênh phân phối để với tới một hay nhiều phân đoạn thị trường khác nhau. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, hàng hóa còn được mua bán qua mạng truyền thông như thư từ, điện thoại, ti vi, internet hay may bán hàng tự động… Trong thời gian gần đây do khủng hoảng kinh tế toàn cầu do đó xu hướng tiêu dùng của người dân các nước đều thay đổi, trong đó xu hướng tiêu dùng của người Mỹ là thay đổi nhiều nhất, nhiều hộ gia đình sẽ nêu cao tinh thần tiết kiệm, đồng thời giảm thiểu chi tiêu cho các mặt hàng quá tốn kém. Các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường Mỹ cần phải nắm bắt được sự thay đổi liên tục, đa dạng nhu cầu tiêu dùng, nắm rõ thông tin về thị trường, thói quen và thị hiếu mua sắm để có những sản phẩm và chiến lược kinh doanh phù hợp. 1.2.3. Khái quát về thị trường thủy sản Hoa Kỳ. Nghề cá Hoa Kỳ gồm hai khối tách biệt là nghề cá thương mại và nghề cá giải trí. Mỗi khối đều có vai trò, vị trí và sự đóng góp riêng của mình cho đời sống của người dân và xã hội Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là một trong số ít quốc gia có nguồn lợi thủy hải sản giàu có và phong phú vào bậc nhất thế giới. Nghề cá hoạt động ở bờ Đông thuộc Đại Tây Dương, bờ tây thuộc Thái Bình Dương và trong các thuỷ vực nội địa rộng lớn. Theo đánh giá của Hoa Kỳ, trữ lượng có thể khai thác hàng năm từ 6-7 triệu tấn hải sản, nhưng để bảo vệ và duy trì lâu dài nguồn lợi này, Hoa Kỳ chỉ hạn chế ở mức 4,5- 5 triệu tấn/năm. Hoa Kỳ có đội tàu cá hiện đại bậc nhất nhì thế giới với cơ cấu khai thác hiệu quả cao, chất lượng sản phẩm được đề cao bằng cách hạn chế khai thác các đối tượng kém giá trị và tăng cường khai thác các đối tượng có nhu cầu và giá trị cao trên thị trường. Sản lượng khai thác tăng nhanh đáng kể từ năm 1950 sản lượng khai thác đạt khoảng 2.7 triệu tấn / năm, đến năm 1995, sản lượng khai thác thuỷ sản đạt trung bình 5,9-6,0 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, năm 1998 sản lượng giảm dần còn 5,3 triệu tấn, năm 2001 và 2002, sản lượng khai thác duy trì ở mức 5,8 triệu tấn và không tăng được nhiều trong mấy năm gần đây do ảnh hưởng của quy định thu hẹp vùng khai thác và một số yếu tố thiên nhiên như điều kiện đại dương, điều kiện thời tiết…Đối tượng khai thác chủ yếu là cua biển, tôm, cá hồi, cá ngừ cá tuyết…Hoa Kỳ là nước có sản lượng cua hàng đầu thế giới với sản lượng hàng năm đạt khoảng 200 nghìn tấn và là nước có sản lượng khai thác cá hồi đứng thứ hai trên thế giới (sau Nhật Bản). Ngoài ra còn hơn 180.000 tấn được đánh bắt và cập cảng nước ngoài, nâng tổng sản lượng khai thác thuỷ sản của Hoa Kỳ chiếm khoảng 6% tổng sản lượng khai thác thuỷ sản toàn thế giới, đứng hàng thứ 5 thế giới về sản lượng (sau Trung Quốc, Nhật Bản, Pêru và Chilê). Tôm càng xanh ngày càng được Hoa Kỳ quan tâm tới việc nuôi trồng do sức tiêu thụ của thị trường tăng trong khi nguồn cung cấp trong nước không đủ khả năng đáp ứng. Công nghiệp chế biến thuỷ sản khổng lồ của Hoa Kỳ được phân bố ở khắp các bang, nhưng tập trung ở các bang bờ Đông và các thành phố lớn ở bờ Tây, ngoài ra còn nhiều sản phẩm được chế biến ngay trên biển. Người tiêu dùng Hoa Kỳ chỉ ưa chuộng các sản phẩm tinh chế giá trị cao nên công nghiệp chế biến đã phát triển mạnh và đạt trình độ cao. Chủng loại sản phẩm chế biến rất đa dạng. Công nghiệp chế biến thuỷ sản tập trung vào sản xuất ba dạng mặt hàng chính là các sản phẩm tươi, đông lạnh và đồ hộp. Họ không chỉ chế biến ra các sản phẩm thuỷ sản phục vụ người tiêu dùng, mà còn chế biến thức ăn cho động vật nuôi, dầu cá và nhiều sản phẩm khác. Hệ thống tiêu thụ thuỷ sản của Hoa Kỳ rất tiện lợi, đa dạng, hiện đại, đáp ứng về cả thời gian và đảm bảo chất lượng cao. Về xu hướng tiêu thụ, tôm đông lạnh nhập khẩu được người Mỹ ưa thích cả về hình thức và kích cỡ phổ biến. Ngoài ra tôm sú, tôm nâu, tôm hùm cũng là mặt hàng tiêu thụ nhiều ở Hoa Kỳ. Cá ngừ đóng hộp cũng là một trong những sản phẩm thuỷ sản ưa thích của người Mỹ, trong khi cá ngừ tươi mới chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong danh sách thuỷ sản nhập khẩu của Hoa Kỳ. Ước tính tiêu thụ cá ngừ tươi của Hoa Kỳ đạt 35.000 tấn/năm và nhập khẩu đáp ứng trên 70% nhu cầu của người tiêu dùng. Loài nhập khẩu chủ yếu là cá ngừ vây xanh, cá ngừ mắt to, cá ngừ vây vàng và cá ngừ vây dài. Về mức tiêu thụ, những năm qua, người tiêu dùng Hoa Kỳ ngày càng ưa chuộng sản phẩm tôm chế biến và tôm đông lạnh. Mức chi tiêu cho thuỷ sản tại các nhà hàng và cửa hàng bán lẻ năm 2003 của người tiêu dùng Hoa Kỳ đạt 61,2 tỷ USD, doanh số bán sản phẩm GTGT đạt 290,4 triệu USD. Điều đó cho thấy mức tiêu thụ rất cao của người dân Hoa Kỳ. Tuy nhiên từ giữa năm 2007 trở lại đây do nền kinh tế Hoa Kỳ lâm vào suy thoái, người tiêu dùng tăng tiết kiệm, giảm chi tiêu và đặc biệt là các mặt hàng giá cao. Trước đây, hải sản, đặc biệt là tôm, được coi là mặt hàng cao cấp, là mặt hàng thực phẩm không thể thiếu thì ngày nay tôm cũng đặc biệt bị liệt vào mặt hàng cần hạn chế trong tiêu dùng. Tâm lý tiêu dùng này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng tiêu thụ hải sản không chỉ của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản vào thị trường Hoa Kỳ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp Hoa Kỳ nội địa. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Hoa Kỳ: Nhật Bản là nước nhập khẩu lớn nhất (chiếm khoảng 50% thị phần) với các sản phẩm cá hồi, surimi và trứng cá. Tiếp sau Nhật Bản là Canađa, EU và Hàn Quốc. Trong khối EU có Anh và Pháp là hai bạn hàng lớn của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ nhập khẩu thuỷ sản từ 130 nước trong đó dẫn đầu là Thái Lan, Êcuađo, Canađa, Trung Quốc, Chilê, Mêhicô và Ấn Độ… 1.3. Thể chế và quy định của Hoa Kỳ đối với ngành thủy sản nhập khẩu. 1.3.1. Thể chế của Hoa Kỳ với ngành thủy sản nhập khẩu. Cơ quan thực phẩm và dược phẩm Hoa kỳ (FDA) là một cơ quan của Bộ Y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Tất cả các thực phẩm phải được sản xuất phù hợp với các tiêu chuẩn của Cơ quan thực phẩm và dược phẩm Hoa kỳ. FDA chịu trách nhiệm về an toàn thực phẩm (trừ thịt, thịt gia cầm, trứng sấy khô và đông lạnh, các loại đồ uống có cồn, thuốc lá, mỹ phẩm, dược phẩm, các chế phẩm sinh học, các dụng cụ y tế và các sản phẩm X-quang). FDA có nhiệm vụ đảm bảo rằng các thực phẩm nhập vào Hoa Kỳ phải là các sản phẩm an toàn, sạch, không độc hại, đúng nhãn mác với đầy đủ các thông tin về sản phẩm. Năm 1994, FDA đề xuất các quy định về Hệ thống điểm kiểm soát tới hạn và phân tích mối nguy (HACCP) đối với thuỷ sản. HACCP đã được xác nhận bởi các cơ quan như Viện Khoa học Quốc gia, Uỷ ban tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế (Codex Alimentations Commission) và Uỷ ban tư vấn quốc gia về các tiêu chuẩn vi sinh đối với thực phẩm. Cục Hải quan Hoa Kỳ là một cơ quan trực thuộc Bộ tài chính Hoa Kỳ, chịu trách nhiệm đánh giá và thu thuế nhập khẩu, kiểm soát hàng hoá, con người và các đối tượng nhập vào hoặc xuất ra khỏi nước Mỹ. Cơ quan thuỷ, hải sản quốc gia Hoa Kỳ (NMFS) trực thuộc Vụ Hải dương quốc gia, Bộ Thương mại Mỹ. Các sản phẩm hải sản nhập khẩu phải đáp ứng các yêu cầu của cơ quan này và của cả Cơ quan thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ. 1.3.2. Các quy đinh của Mỹ đối với thuỷ sản nhập khẩu. Luật thực phẩm. Các thực phẩm nhập khẩu vào Mỹ không chỉ là đối tượng chịu thuế nhập khẩu mà còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng và phẩm cấp để đảm bảo cung cấp thực phẩm an toàn. Theo luật an toàn thực phẩm của Hoa Kỳ, tất cả các cơ sở sản xuất, chế biến, đóng gói, phân phối, bảo quản thực phẩm, thức uống... có hàng xuất kh._.ẩu qua Hoa Kỳ phải tiến hành đăng ký với Cơ quan kiểm phẩm FDA trước khi sản phẩm được nhập vào nước này. Sau ngày 12-12-2003, hàng hóa có xuất xứ từ những nhà máy, xưởng chưa đăng ký sẽ bị ngăn không cho nhập vào Hoa Kỳ. Theo Bộ luật Liên bang Hoa Kỳ, chỉ có các doanh nghiệp nước ngoài nào đã thực hiện chương trình HACCP có hiệu quả mới được xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường này. Để được phép đưa hàng thuỷ sản vào Mỹ, doanh nghiệp phải gửi kế hoạch, chương trình HACCP cho Cục Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA). FDA xem xét khi cần thì kiểm tra. Nếu FDA kết luận là đạt yêu cầu thì cấp phép cho doanh nghiệp đó. FDA kiểm tra từng lô hàng nhập khẩu. Nếu phát hiện có lô hàng không đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm hoặc có các vi phạm khác, lô hàng sẽ bị FDA từ chối nhập khẩu, bị gửi trả về nước hoặc tiêu huỷ tại chỗ với chi phí do doanh nghiệp chịu; đồng thời, tên doanh nghiệp sẽ bị đưa lên mạng Internet ở chế độ “Cảnh báo nhanh” (Detention). Năm lô hàng tiếp theo của doanh nghiệp này sẽ bị tự động giữ ở cảng nhập để kiểm tra theo chế độ tự động. Chỉ sau khi cả năm lô hàng đó đều đảm bản an toàn, vệ sinh và doanh nghiệp làm đơn đề nghị, FDA mới xoá tên doanh nghiệp đó ra khỏi danh sách “Cảnh báo nhanh”. Luật về nhãn hiệu hàng hóa Ở Hoa Kỳ tồn tại nhiều quy định do các cơ quan chức năng khác nhau ban hành nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ sở hữu về nhãn hiệu, tên thương mại, tác quyền và sáng chế. Hải quan Hoa Kỳ không được phép cho các sản phẩm từ nước ngoài mang nhãn hiệu đã đựơc các tổ chức, công dân Mỹ đăng ký tại Hoa Kỳ thông quan. Các yêu cầu về dán nhãn hàng hóa. Về nguyên tắc, tất cả các sản phẩm phải được kiểm tra và dán nhãn đáp ứng các quy định và điều luật tương thích, mỗi nhãn hiệu thực phẩm phải chứa đựng các thông tin cụ thể, dễ nhận biết mà các khách hàng bình thường cũng có thể đọc và hiểu theo những điều kiện thông thường khi mua và sử dụng. Tất cả các thực phẩm phải có nhãn hiệu bằng tiếng Anh, chứa đựng các thông tin về thành phần, dinh dưỡng, cách sử dụng, giá trị chuẩn khi sử dụng hàng ngày, nước xuất xứ, tên và địa chỉ của nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu v.v… bằng tiếng Anh. Luật ghi nhãn xuất xứ (COOL) của Mỹ được ban hành từ ngày 30/9/2008 và Bộ Nông nghiệp Mỹ dự định sẽ bắt đầu thực thi quy định này vào tháng 4/2009. Các quy định về phụ gia thực phẩm. Các phụ gia thực phẩm phải được kiểm duyệt trước khi đưa ra thị trường. Trước khi chào bán một loại thực phẩm hoặc phụ gia tạo màu vào thị trường Mỹ, nhà sản xuất phải nộp đơn yêu cầu lên FDA để được phê duyệt. Một đơn xin phê duyệt về thực phẩm hoặc phụ gia tạo màu phải có các bằng chứng thuyết phục rằng chất phụ gia đó thực sự có tác dụng như dự kiến. FDA sau đó dựa trên cơ sở tiến bộ khoa học hiện có sẽ quyết định chuẩn thuận nếu chất phụ gia đó an toàn theo các điều kiện sử dụng đã được đề xuất. Chương 2. Thực trạng nhập khẩu thủy sản của Hoa Kỳ từ Việt Nam. 2.1. Hàng rào kỹ thuật của Hoa Kỳ đối với thủy sản nhập khẩu từ Việt Nam. Hoa Kỳ áp dụng hệ thống các công cụ biện pháp bảo hộ mang tính tinh vi và phù hợp với các nguyên tắc của WTO. Các rào cản kỹ thuật và hạn ngạch được dựng lên rất chặt chẽ. Tùy theo đối tượng mà tính chất của các hàng rào đó sẽ thay đổi mức độ theo. Hoa Kỳ chia các quốc gia trên thế giới thành 3 nhóm nước để áp dụng các tiêu chuẩn ấy. Nhóm 1: Áp dụng chính sách ưu đãi với các nước được coi là đồng minh như Nhật Bản, EU…và một số đối tác quan trọng thuộc thành viên của WTO. Nhóm 2: Nhóm các nước theo đuổi chế độ cộng sản, đặc biệt là các nước thược chế độ XHCN trước đây, Hoa Kỳ thường áp dụng các biện pháp hạn chế quan hệ thương mại, có những trường hợp áp dụng chính sách cấm vận. Nhóm 3: Hoa Kỳ thực hiện chính sách cấm vận đối với các nước được coi là kẻ thù của Mỹ như các nước ủng hộ cho lực lượng khủng bố, tang trữ sử dụng vũ khí hạt nhân…Như Bắc Triều Tiên, Irac, Apakistan… Việt Nam thuộc nhóm nước thư 2 nhưng hiện nay Việt Nam đã có quan hệ bình thường với Mỹ và đã ký với Mỹ hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ. Việt Nam được hưởng ưu đãi tối huệ quốc, được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Các rào cản kỹ thuật thương mại mà Hoa Kỳ áp dụng với Việt Nam bao gồm tất cả các quy định và tiêu chuẩn chung đối với thủy sản nhập khẩu, phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, quy định, thể chế của các cơ quan hành chính Hoa Kỳ. Ngoài các quy định này các doanh nghiệp Việt Nam phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về an toàn và đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng ( Tiêu chuẩn HACCP ), quy định về trách nhiệm xã hội ( Tiêu chuẩn SA8000 ), quy định về bảo vệ môi trường ( Tiêu chuẩn ISO14000 ). Ngoài ra để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ các doanh nghiệp nên áp dụng quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa ( ISO9000 ). Các sản phẩm thủy sản phải đáp ứng tất cả các yêu cầu để qua được các điểm kiểm tra ở cửa khẩu của Hoa Kỳ, các nhà xuất khẩu của Việt Nam cần biết các quy định và tiêu chuẩn của Hoa Kỳ về chất lượng, kích cỡ, đóng gói, nhãn mác,v.v.. Các nhà chế biến của Việt Nam cần chú trọng tăng cường các chương trình phòng chống rủi ro thông qua việc đánh giá sự phù hợp với HACCP trong sản xuất và chế biến. Điều này sẽ giúp các nhà xuất khẩu đảm bảo an toàn thực phẩm một cách hiệu quả hơn trong khâu chế biến để có thể qua bất kỳ một  điểm kiểm tra nhập khẩu tại cửa khẩu ở Hoa Kỳ. Các công ty thủy sản Việt Nam phải chứng tỏ năng lực cạnh tranh của mình và có chỗ đứng vững vàng trên thị trường Hoa Kỳ, họ cần phải cân nhắc các cách để đảm bảo chất lượng cao cho các sản phẩm của họ khi xuất sang Hoa Kỳ. 2.2. Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào Hoa Kỳ trong thời gian qua. Việt Nam và Hoa Kỳ bắt đầu đàm phán chính thức về bình thường hoá quan hệ vào năm 1991. Tháng 2 năm 1994, Hoa Kỳ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Hai nước thiết lập lại quan hệ ngoại giao vào ngày 12 tháng 7 năm 1995. Việc thông qua Hiệp định Thương mại song  phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) ký ngày 13/7/2000 đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, kim ngạch thương mại hai chiều ngày càng tăng. Năm 2003 kim ngạch thương mại hàng hoá hai chiều đã đạt gần 5,8 tỷ USD và Việt Nam đã trở thành bạn hàng thương mại lớn thứ 40 của Hoa Kỳ. Bảng 1: Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ giai đoạn 1995-2000. Năm Doanh thu (triệu usd) 1995 19.58 1996 33.99 1997 46.38 1998 80.60 1999 128.12 2000 301.30 ( Nguồn Bộ thủy sản Việt Nam) Trước năm 1994, do chính sách cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam không thể xuất trực tiếp sang Hoa Kỳ mà phải thông qua nước thứ ba, chủ yếu là Singapore và Hồng Kông. Sau khi Hoa Kỳ chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế với Việt Nam, tháng 7 năm 1994 lô hàng thuỷ sản đầu tiên của Việt Nam do Công ty Cafatex xuất khẩu cập cảng tiểu bang Florida mở đầu cho một giai đoạn mới trong quan hệ thương mại thuỷ sản giữa hai nước. Do việc kí kết thành công hiệp định thương mại song phương Việt nam – Hoa Kỳ, Việt nam được dỡ bỏ lệnh cấm vận, các doanh nghiệp Việt Nam được phép xuất khẩu trực tiếp không phải qua bên thứ ba, đồng thời sản phẩm được xuất sang nhiều thị trường khác nhau, vì vậy doanh thu từ thủy sản tăng nhanh từ năm 1995. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 80.6 triệu USD, tăng gần gấp đôi năm 1997 (40.38 triệu USD). Năm 1999 kim ngạch thuỷ sản xuất khẩu sang Hoa Kỳ vượt qua ngưỡng 100 triệu USD, đạt 128.12 triệu USD, tăng 62% so với năm 1998. Tổng khối lượng xuất khẩu hàng thủy sản (chính ngạch) tăng từ 127 ngàn tấn năm 1995 lên gần 300 ngàn tấn năm 2000, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu từ 621 triệu USD năm 1995 lên tới 1475 triệu USD năm 2000. Tiềm năng thủy sản của Việt Nam đang dần chứng tỏ mình! Bảng 2: Cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ giai đoạn 1995 – 2000. Đơn vị: Nghìn USD Mặt hàng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Cá sống 44 115 180 113 129 175 Cá sấy khô 41 129 208 595 394 374 Hải sản thân mềm 391 1.06 1.06 665 2.92 8.17 Cá đông lạnh 976 2.55 3.15 4.47 5.27 6.80 Cá tươi 46 14 65 1.63 3.45 9.59 Cá filê, cá thịt khác 1.14 1.51 4.8 8.44 15.62 32.61 Tôm nước lợ 16.94 28.6 36.9 64.68 80.28 185.12 (Nguồn: Thống kê thương mại - Số liệu của Bộ thương mại Mỹ năm 2000) Trong các mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Mỹ, tôm chiếm tỷ trọng chính 74% tổng trị giá hàng thuỷ sản xuất khẩu. Tôm đông lạnh xuất khẩu của Việt Nam được phần lớn người tiêu dùng Hoa Kỳ ưa chuộng. Tuy nhiên, tôm Việt Nam vẫn chỉ chiếm một thị phần nhỏ (5.3%) trong tổng lượng tôm nhập khẩu của Mỹ so với Thái Lan (44.2%) và Mêhicô (10.2%). Bảng 3: Cơ cấu hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ giai đoạn 2000 – 2004. Đơn vị: Nghìn USD Mặt hàng 2000 2001 2002 2003 2004 Tôm nước lợ 185,12 308,70 368,62 468,93 277,45 Cá sống 175 216 201 271 357 Cá sấy khô, ướp muối, hun khói … 374 596 722 1,005 3,549 Hải sản thân mềm, nhuyễn thể 8,17 6,16 5,82 7,44 6,18 Cá đông lạnh (không bao gồm cá filê hoặc cá thịt khác) 6,80 10,22 9,23 10,70 14,71 Cá tươi (không bao gồm cá filê hoặc cá thịt khác) 9,59 16,64 24,67 23,66 25,38 Cá filê và cá thịt khác 32,61 41,72 69,17 56,45 78,36 (Nguồn : Số liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ) Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ năm 2000 tăng nhanh hơn 2 lần so năm 1999 trong đó tôm chiếm hơn 70% giá trị xuất khẩu thủy sản vào thị trường này. Việt nam trở thành nước đứng thứ tư về giá trị xuất khẩu tôm và thứ bảy về sản lượng. Thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ ngày càng trở nên đa dạng hơn. Ngoài tôm, các doanh nghiệp Việt nam cũng xuất khẩu các sản phẩm tươi sống khác như cá ngừ, cá thu và cua với mức giá ổn định. Nhìn chung, tôm và cá vẫn là các mặt hàng thuỷ sản chủ yếu của Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ, trong đó các mặt hàng xuất khẩu có khối lượng lớn năm 2002 phải kể đến là tôm các loại (33,200 tấn), cá Tra và cá Basa (7,800 tấn), và cá ngừ các loại (1,200 tấn). Tôm là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về khối lượng và trị giá. Tôm Việt Nam được đánh giá là mặt hàng có giá trị cao, phong phú đa dạng về mẫu mã, chất lượng, đáp ứng được các yêu cầu đa dạng của người dân Hoa Kỳ, từ các loại hàng cao cấp đến các loại hàng phục vụ cho người dân có mức thu nhập trung bình. Ngoài ra cá tra và cá basa có chất lượng cao, giá thành phù hợp nên rất được ưa chuộng ở thị trường này. Bảng 4: Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam giai đoạn 2001-2003 Đơn vị: Triệu USD Năm Doanh thu sang Mỹ Tổng doanh thu Mức tăng trưởng 2001 489.03 1850.0 20.2% 2002 654.98 2022.8 13.8% 2003 777.66 2199.6 8.7% ( Nguồn: Trung tâm thông tin - Bộ Thuỷ sản ) Ba năm 2001 - 2003, một phần cũng do tác động của hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực vào tháng 12 năm 2001, sản lượng cũng như giá trị thủy sản nhập khẩu tại thị trường Hoa Kỳ tăng lên rõ rệt. Điều đó được thể hiện ở bảng 4. Năm 2001, Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ khối lượng trên 70 nghìn tấn thủy sản các loại, trị giá 489.03 triệu USD. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản của Việt Nam đạt khoảng 1850 triệu USD. Cơ cấu kim ngạch hàng thủy hải sản xuất khẩu chủ yếu là: Tôm đông lạnh (49%), cá đông lạnh (12%), hàng khô (12%), nhuyễn thể đông lạnh (8%)... Bạn hàng chủ yếu của Việt Nam là Nhật Bản (chiếm 35%), Mỹ (23%), Trung Quốc (16%), các thị trường khác là Châu Á (8%), EU (4%). Năm 2002, khối lượng các mặt hàng xuất khẩu đã tăng lên 98.664 tấn, đạt gần 655 triệu USD, trong đó nếu tính theo sản phẩm thì tôm chiếm tỷ trọng 64%, cá 19%, hải sản thân mềm chiếm 8%, còn lai là các sản phẩm khác. Năm 2003, Việt Nam xuất khẩu đạt hơn 777 triệu USD thủy sản trong đó tôm đông lạnh chiếm 469 triệu USD, tôm và cua chế biến chiếm 162 triệu USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ năm 2003 là 3.2 tỷ USD, tăng 35% so với năm 2002. Trong giai đoạn này, Hoa Kỳ kiện Việt Nam về việc bán phá giá cá tra và basa trên thị trường nước này do giá của loại cá da trơn Việt Nam rẻ hơn nhiều so với giá cá của các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Mặc dù nguyên nhân là do Việt Nam có giá nhân công rẻ hơn, thời tiết thuận lợi nên ngư dân có thể nuôi trồng quanh năm chứ không bị gián đoạn như ngư dân bên Mỹ cho nên sản lượng thường cao hơn. Việc bị kiện là bán phá giá khiến các doanh nghiệp cá Việt Nam chịu nhiều tổn thất, bị đánh thuế bán phá giá cao, bị cấm xuất khẩu và còn ảnh hưởng tới uy tín của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Bộ Thương mại Mỹ ngày 16/6/2003 về việc áp dụng mức thuế bán phá giá đối với cá tra và cá basa tại thị trường Mỹ với mức tương ứng là 36.84% và 63.88 % đã tạo ra một rào cản thương mại đối với thuỷ sản của Việt Nam. Đây cũng là bài học đắt giá cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu sang thị trường nước ngoài, cần phải nắm bắt thị trường và nâng cao hiểu biết về mọi lĩnh vực liên quan mới mong giành chiến thắng. Bảng 5: Các nước xuất khẩu thủy sản sang Hoa Kỳ giai đoạn 2000 – 2003 Đơn vị: Triệu USD    ( Nguồn : Bộ Thương mại ) Năm 2000 do tôm nuôi ở châu Mỹ La Tinh bị dịch bệnh đốm trắng tàn phá cho nên tôm đông lạnh Châu Á chiếm lĩnh thị trường Hoa Kỳ. Sản lượng xuất khẩu thủy sản của các nước sang thị trường Hoa Kỳ năm 2000 tăng nhanh đáng kể, trong đó Việt Nam tăng 8000 tấn, đứng thứ bảy về khối lượng tôm xuất sang Hoa Kỳ nhưng vì tôm Việt Nam có chất lượng cao nên giá trị tôm xếp hàng thứ ba ( 235 triệu USD ). Mặc dù vậy nhưng thị phần tôm đông lạnh Việt Nam tại Hoa Kỳ còn rất nhỏ, chỉ chiếm khoảng 6.2% về giá trị. Năm 2004, thủy sản Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ có kim ngạch là 565 triệu USD, là mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ lớn thứ 2 sau dệt may. Việt Nam chủ yếu xuất sang Hoa Kỳ các mặt hàng đông lạnh và các mặt hàng khô như tôm, mực, bạch tuộc, cá ngừ…đạt 91.381 tấn, trị giá 603 triệu USD trong đó, Hoa Kỳ chiếm hơn 25% thị phần xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, với tôm đông lạnh đạt gần 400 triệu USD, cá đông lạnh đạt 119 triệu USD. Năm 2005 kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam không đồng đều, xuất khẩu thủy sản giảm ở các tháng đầu năm. Tháng 4 năm 2005, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tiếp tục giảm 12.5% so với tháng 3 cùng năm, chỉ đạt 35 triệu USD trong đó thủy sản qua chế biến giảm mạnh, chỉ đạt 6 triệu USD, giảm 4 triệu USD so tháng 3 cùng năm, thủy sản tươi sống đạt 29 triệu USD, không thay đổi so tháng trước. Mặc dù thủy sản tháng 4 của Việt Nam vẫn đứng thứ 7 ( như tháng 3 cùng năm ) trong tổng số các nước xuất khẩu thủy sản sang Hoa Kỳ, nhưng giá trị chỉ còn một nửa so tháng 1 năm 2005, đạt 72 triệu tương đương 7.2% thị phần và xếp thứ 4. Nguyên nhân là do quy định mới của Hải quan và bộ thương mại Hoa Kỳ là các doanh nghiệp xuất khẩu tôm vào Hoa Kỳ phải kí quỹ một khoản rất lớn bằng giá trị nhập khẩu trong vòng một năm nhân với mức thuế phải đóng và phải đóng 3 năm liên tục. Số tiền này chỉ được thanh toán khi có kết quả review. Như vậy để có thể xuất sang thị trường Hoa Kỳ, doanh nghiệp phải có vốn rất lớn. Chính điều này cộng thêm việc áp thuế chống bán phá giá cá tra, cá basa đông lạnh và tôm đông lạnh đã hạn chế sản lượng thủy sản sang thị trường Hoa Kỳ. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã tìm kiếm thị trường xuất khẩu khác như Nhật Bản, EU... Bảng 6: Xuất khẩu thủy sản chính ngạch từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2005 Thị trường Số Lượng( tấn) Giá Trị ( tr USD) Nhật Bản 129284.6 824 Hoa Kỳ 92859.1 644.1 Châu Á (trừ Nhật, Asean) 166771.3 442.4 EU 132350.2 441.4 Asean 49195.1 125.1 Châu Đại Dương 23185.7 102.3 Châu Mỹ ( trừ Hoa Kỳ) 20645.2 92.7 Châu Âu ( trừ EU) 18554.7 60.4 Châu Phi 1653.7 4.4 Tổng số 634499.6 2736.8 (Nguồn: Trung tâm tin học thủy sản) Tháng 11/2005 sản lượng thủy sản đạt khoảng 263 nghìn tấn, đưa sản lượng thủy sản xuất khẩu lên khoảng 3.1 triệu tấn trong năm 2005, đạt 2.65 tỷ USD và xuất sang thị trường Hoa Kỳ chỉ chiếm 23% trong tổng thị phần xuất khẩu của Việt Nam. Theo bảng trên, sản lượng thủy sản xuất sang Hoa Kỳ là 92859.1 tấn bằng 14.6%, tương ứng 664.1 triệu USD bằng 23.5%. Năm 2006 Bảng 7: Xuất khẩu thủy sản chính ngạch từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2006 Thị trường Số Lượng( tấn) Giá Trị ( tr USD) Nhật Bản 123889.1 842.6 EU 219967 723.5 Hoa Kỳ 98824.3 664.2 Châu Á (trừ Nhật, Asean) 176160.6 493.8 Châu Âu ( trừ EU) 73921 174.2 Asean 60295.7 150.9 Châu Đại Dương 25849.6 133.6 Châu Mỹ ( trừ Hoa Kỳ) 28661.8 124.4 Thị trường khác 10170 41.6 Châu Phi 3941.7 9.2 Tổng số 821680.8 3358 (Nguồn: Trung tâm tin học thủy sản) Năm 2005 là năm với nhiều biến động trong ngành thủy sản, tuy nhiên các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam vẫn đạt được chỉ tiêu đề ra. Sang tới năm 2006, là năm ngành thủy sản Việt Nam đề cao chất lượng hàng thủy sản cho nên cũng giành được nhiều thành công. Tháng 2 năm 2006, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 150 triệu USD nâng tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản hai tháng đầu năm 2006 lên 329 triệu USD, tương ứng 11.75% kế hoạch đặt ra. Đến hết tháng 11 năm 2006, xuất khẩu thủy sản đã đạt 3.08 tỷ USD tương ứng 110% kế hoạch. Kim ngạch xuất khẩu cả năm 2006 đạt 3.36 tỷ USD tăng 400 triệu USD so kế hoạch. Và cũng trong năm nay Việt Nam xếp thứ 6 trong tổng số 10 nước xuất khẩu thủy sản nhiều nhất thế giới. Sản lượng thủy sản Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ năm 2006 là 98824.3 tấn bằng 12% về tổng sản lượng xuất khẩu, tương ứng với 664.2 triệu USD về giá trị chiếm 19.78%. So với năm 2005 giá trị thủy sản thu về là tương đương nhau nhưng sản lượng năm 2006 xuất sang Hoa Kỳ nhiều hơn một phần do sự thay đổi về giá cả của hàng thủy sản giữa các năm, một phần do sự thay đổi thị hiếu người tiêu dùng dẫn tới chủng loại hàng xuất khẩu cũng thay đổi theo. Ngoài ra cũng còn nhiều nguyên nhân khác như do sự thay đổi về chất lượng hàng thủy sản Việt Nam, do sự thâm nhập của nhiều doanh nghiệp cùng ngành… Năm 2007: Bảng 8: Kim ngạch xuất khâu của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) Tốc độ tăng (%) 2006 2007 Tháng 1&2/2007 Tháng 1&2/2008 2007 so với 2006 T1&2/ 2008 so cùng kỳ May mặc 3.152 4.292 559 812 36,2 45,3 Đồ gỗ nội thất 902 1.229 191 246 36,3 28,8 Da giầy 1.089 1.193 205 229 9,6 11,7 Dầu thô 956 697 123 141 -27,1 14,6 Thủy sản 651 692 102 127 6,3 24,5 Cà phê 240 340 80 71 41,7 -11,3 Hạt điều 154 201 20 33 30,5 65,0 Máy móc thiết bị điện 210 350 49 52 66,7 6,1 Máy móc thiết bị cơ khí 222 287 36 34 29,3 -5,6 Tổng kim ngạch xuất khẩu 8.463 10.541 1539 1958 24,6 27,2 ( Nguồn: Ủy ban thương mại Quốc tế Hoa Kỳ USITC ) Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt 3.75 tỷ USD tăng gần 12% so với năm 2006, đưa nước ta nằm trong nhóm 10 nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. Hoa Kỳ nhập khẩu khoảng 100 nghìn tấn thủy sản các loại của Việt Nam, trị giá vào khoảng trên 720 triệu USD, tương đương về mặt khối lượng nhưng tăng khoảng hơn 8% về giá trị so với năm 2006, và vẫn là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ 3 của Việt Nam. Tuy nhiên Việt Nam vẫn nằm trong nhóm nước có hàng thủy sản nhiễm nhiều tạp chất và hóa chất. Ví dụ như trong tháng 5 năm 2007, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho biết, chỉ riêng trong tháng 4 năm 2007, cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ đã từ chối nhập khẩu 27 lô hàng thủy sản Việt Nam do phần lớn nhiễm các tạp chất và hóa chất cấm nhập như salmonella, chloramp và poisonus. Chính các tình huống như thế này làm giảm uy tín của hàng thủy sản Việt Nam, ảnh hưởng tới việc tiêu thụ hàng thủy sản trên trường quốc tế. Nhận thức được điều này, các doanh nghiệp xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với ngư dân từ khâu nhập giống tới khi xuất hàng nhằm nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Năm 2008: Trong 5 tháng đầu năm 2008, xuất khẩu thủy sản cả nước đạt khoảng 1,5 tỷ USD, tăng 14% so cùng kỳ năm 2007 và thực hiện được 35% kế hoạch của năm. Nhưng Hoa Kỳ là thị trường hấp dẫn của Việt Nam thì sản lượng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường này trong năm tháng đầu năm 2008 lại giảm liên tục so cùng kỳ năm 2007. Mặc dù tôm là mặt hàng được ưa chuộng tại thị trường này nhưng trong cơ cấu nhập khẩu, sản lượng tôm sụt giảm liên tục, cụ thể là tháng 1/2008 Hoa Kỳ nhập khẩu 4.728 tấn, tháng 2/2008 nhập 2.325 tấn, tháng 3/2008 nhập 1.545 tấn. Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ 3 của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2008 liên tục đạt mức tăng trưởng âm, Hoa Kỳ chỉ còn chiếm 14% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Riêng trong tháng 3 năm 2008, xuất khẩu sang thị trường này giảm mạnh về khối lượng ( -13.5% ) và cả giá trị ( -15% ), chỉ gần 15.900 tấn trị giá 112.6 triệu USD. Nguyên nhân là do nền kinh tế Hoa Kỳ gặp khó khăn từ giữa năm 2007 trở lại đây, người dân thắt chặt chi tiêu nên giảm dần việc mua sắm, tôm được coi là mặt hàng cao cấp thì nay tôm cũng là mặt hàng bị hạn chế trong chi tiêu cho thực phẩm trước tiên. Vì thế các doanh nghiệp Việt Nam quay sang xuất khẩu sang Nhật Bản, EU và các thị trường khác. Vì thế sản lượng xuất khẩu sang Hoa Kỳ giảm còn sang các nước khác lại tăng. Theo số liệu của tổng cục hải quan, xuất khẩu thủy sản của cả nước trong quý I/2008 đạt trên 797 triệu USD, tăng gần 13% và khối lượng xuất khẩu đạt 221.700 tấn, tăng 18% so cùng kỳ năm 2007. Theo bộ nông nghiệp phát triển nông thôn, trong tháng 1, kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước ước đạt 255 triệu USD, tăng 1.7% so cùng kỳ năm 2007, trong 3 quý đầu năm, xuất khẩu đạt 3.35 tỷ USD và hàng thủy sản Việt Nam đã thuyết phục nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ… Các tháng giữa và cuối năm, nhu cầu nhập khẩu thủy sản của Hoa Kỳ tăng trở lại, hàng thủy sản Việt Nam tiếp tục khai thác thị trường Hoa Kỳ. Nhu cầu nhập khẩu thủy sản của Hoa Kỳ những năm gần đây khoảng 12 tỷ USD/năm trong khi xuất khẩu thủy sản Việt Nam còn hạn chế, chỉ đạt khoảng 6% kim ngạch nhập khẩu của nước này. Trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt 4.562 tỷ USD trong đó tôm chiếm 40% kim ngạch. Trong năm này, Việt Nam được xếp vào vị trí thứ 8 về giá trị xuất khẩu thủy sản toàn thế giới. Liên minh Châu Âu EU tiếp tục giữ vị trí là nhà nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam với khối lượng nhập khẩu là 349 nghìn tấn, trị giá 1.14 tỷ USD, tăng 26% về giá trị so năm 2007. Đứng thứ 2 là thị trường Nhật Bản, nhập trên 134 nghìn tấn, đạt giá trị hơn 828 triệu USD, tăng 13.2% về khối lượng và 11% về giá trị so năm 2007. Hoa Kỳ là trung tâm của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cho nên tỷ trọng nhập khẩu thủy sản của Hoa Kỳ sụt giảm mạnh do nhu cầu tiêu dùng giảm, đồng USD mất giá, đồng thời cũng trong thời gian này đồng Việt Nam khan hiếm khiến các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản gặp khó khăn trong việc chuyển đổi tiền tệ, doanh nghiệp và người nuôi trồng thủy sản thiếu vốn đâug tư. Ngoài ra việc Hoa Kỳ áp dụng thuế chống bán phá giá một số mặt hàng của Việt Nam cũng khiến việc xuất khẩu thủy sản sang thị trường này chịu những tác động tiêu cực. Mặc dù Hoa Kỳ vẫn xếp thứ 3 về kim ngạch nhập khẩu thủy sản Việt Nam, nhưng sản lượng cũng như trị giá đều giảm từ 20.4% xuống còn 16.5% trong cơ cấu thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên sang tháng 9/2008, xuất khẩu thủy sản sang Hoa Kỳ tăng trở lại, với 100.7 triệu USD, tăng 75% so cùng kỳ năm 2007. Theo hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, tính chung cho 9 tháng đầu năm 2008, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Hoa Kỳ đạt 534.5 triệu USD, tăng 1.5% so cùng kỳ năm 2007. Mặc dù năm 2008 với nhiều khó khăn không chỉ từ thị trường nước ngoài mà còn từ chính thị trường trong nước, nhưng xuất khẩu thủy sản của cả nước đạt trên 1.2 triệu tấn, giá trị đạt 4.562 tỷ USD, tăng gần 20% về giá trị và 33.7% về khối lượng so năm 2007. Năm 2009: Thủy sản là lĩnh vực xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam, thu về nguồn ngoại tệ lớn, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động. Tuy nhiên trong 3 tháng đầu năm 2009, xuất khẩu thủy sản cả nước chỉ đạt 579.26 triệu USD, giảm trên 8% về khối lượng và giá trị so cùng kỳ năm 2008. Xuất khẩu thủy sản đang mất dần thị trường, thủy sản Việt Nam chỉ còn giữ được 122 thị trường, giảm 37 thị trường so năm 2008. Các thị trường chính nhập khẩu thủy sản Việt Nam cũng đang giảm dần về cả số lượng và trị giá, các thông tin bất lợi cho thủy sản Việt Nam liên tục xuất hiện ở một số thị trường quan trọng như Nga, Ai Cập, Italya…khiến không ít các doanh nghiệp trong nước rơi vào tình trạng khó khăn. Cá tra và cá basa là mặt hàng quan trọng và được ưa chuộng ở thị trường nhiều nước, hai loại cá này chiếm tỷ trọng xuất khẩu thủy sản cao nhất trong quý I/2009 là 36% tương ứng 208.4 triệu USD, giảm 5% cùng kỳ. Tuy nhiên ngày càng có nhiều thị trường tiêu thụ sản phẩm này của Việt Nam đã và đang sử dụng các chương trình truyền thông nhằm làm mất uy tín của hai loại cá này của Việt Nam, để bảo vệ thị trường cá trong nước. Thêm vào đó do nguồn nguyên liệu thiếu trầm trọng vì dịch bệnh, vì đồng USD rớt giá trong khi đầu ra bị thu hẹp dẫn tới tồn kho lớn, nguồn vốn không đảm bảo, cho nên nhiều nhà máy chỉ sản xuất cầm chừng, điều này gây ảnh hưởng rất lớn tới việc sản xuất và xuất khẩu cá của Việt Nam. Sự việc này đã diễn ra trước đây tại thị trường Hoa Kỳ do các doanh nghiệp sản xuất cá tra và basa Hoa Kỳ không cạnh tranh được với cá tra và basa của Việt Nam. Vì vậy các doanh nghiệp, hiệp hội thủy sản cần chuẩn bị sẵn tâm lý cũng như biện pháp để phản hồi với những thông tin đúng đắn, sát thực giúp người tiêu dùng có cái nhìn chính xác hơn. Thủy sản Việt Nam ngày càng rớt giá so thủy sản các nước. Tôm Việt Nam được đánh giá là mặt hàng cao cấp, phong phú về chủng loại và chất lượng cao, được người dân các nước nhập khẩu ưa chuộng, vậy mà quý I/2009, tôm đông lạnh chỉ xuất khẩu đạt 181.2 triệu USD, giảm 7.3% so cùng kỳ 2008. Giá tôm bán trên thị trường thường thấp hơn tôm Thái Lan 0.1 – 0.2 USD/kg trong khi giá đầu vào cao hơn 15 – 20%. Chính điều này sẽ khiến các doanh nghiệp nhập khẩu hạn chế nhập khẩu tôm Việt Nam mà chuyển sang nhập khẩu tôm Thái Lan vì dễ tiêu thụ và lợi nhuận cao. Ngoài ra cá ngừ là mặt hàng cao cấp sụt giảm mạnh nhất, với gần 40% so cùng kỳ, đạt 19 triệu USD và cũng là mức thấp nhất trong 4 năm trở lại đây. Mực, bạch tuộc xuất khẩu được trên 38 triệu USD, giảm gần 15% so cùng kỳ, mặc dù tháng 3 có dấu hiệu phục hồi nhưng cũng không đủ bù đắp cho sự sụt giảm hai tháng đầu năm. Các mặt hàng khô xuất khẩu đạt 19.2 triệu USD, giảm 14.3% so cùng kỳ 2008. Do ảnh hưởng của khủng hoảng nên sức mua tại các thị trường chính, trong đó có Hoa Kỳ đều giảm, xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ giảm 3.3% so cùng kỳ năm 2008 cùng với việc đóng cửa xuất khẩu cá tra, basa sang thị trường Nga cũng góp phần đáng kể làm giảm xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Cùng với việc nền kinh tế Hoa Kỳ đang có dấu hiệu phục hồi trở lại, các thị trường đóng cửa như Nga, Ai Cập cũng đồng loạt mở cửa sẽ là dịp cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam tăng tốc trở lại. Mặc dù có nhiều rào cản nhưng Hoa Kỳ vẫn được đánh giá là thị trường tiềm năng, mục tiêu là giữ thị phần ở mức 30% trong năm 2009, 2010 với sản phẩm chủ lực là tôm, cá ngừ, cá rô phi, cua và ghẹ. 2.3. Đánh giá thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. 2.3.1 Thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu thủy sản sang Hoa Kỳ. 2.3.1.1 Thuận lợi. Sau khi Hiệp định thượng mại Việt Nam – Hoa Kỳ được kí kết, nó như một công cụ mở đường cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam mang hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ. Đồng thời Việt Nam đã là thành viên của WTO, được hưởng ưu đãi tối huệ quốc của các nước, được hưởng những quy chế bình đẳng trong thương mại, khắc phục được tình trạng bị phân biệt đối xử. Việt Nam được nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế thông qua việc tham gia các tổ chức, diễn đàn toàn cầu, không bị phân biệt đối xử về các tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá: Việt Nam ký các hiệp định song phương đặc biệt là hiệp định thương mại Việt - Mỹ, là thành viên của WTO nên có quyền được hưởng quy chế tối huệ quốc và quy chế đối xử quốc gia khi đưa ra các quy định quản lý kỹ thuật. Có nghĩa là, các quy định này phải đảm bảo có sự đối xử như nhau giữa các nước thành viên và giữa hàng hoá sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu vào nước mình. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải toả rào cản thương mại, mở rộng thị trường cho hàng hoá Việt Nam, tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực quản lý và sản xuất, phát huy lợi thế cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam... Nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, tài nguyên thủy sản phong phú, đa dạng, có đủ điều kiện thuận lợi để nuôi trồng…Các loại thủy sản phù hợp thị hiếu tiêu dùng của người dân khó tính Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là nước nhập khẩu thủy sản lớn thứ ba trên thế giới, chỉ sau EU và Nhật Bản. Thêm vào đó, các mặt hàng như tôm các loại, cá ngừ, cá rô phi, cá tra, cá basa và cua là các mặt hàng được người dân Hoa Kỳ rất ưa chuộng, lại là các sản phẩm có ưu thế của Việt Nam. Đặc biệt là tôm, Hoa Kỳ là nước nhập khẩu tôm lớn nhất thế giới, mỗi năm Hoa Kỳ nhập khẩu khoảng 550 nghìn tấn. Thị trường Hoa Kỳ với sức mua cao, trung bình sản lượng tiêu thụ thủy sản của người dân vào khoảng 15 pao/năm và dự đoán sức tiêu thụ tăng cao hơn nữa trong những năm gần đây. Hiện nay Hoa Kỳ tiêu thụ khoảng 12 tỷ pao thủy sản/năm và nhu cầu sẽ tăng 4.4 tỷ pao ( hai triệu tấn ) so hiện tại. Thị trường Hoa Kỳ có nhu cầu cao với thủy sản nhưng khả năng cung cấp của thị trường nội địa không đủ đáp ứng được các nhu cầu đó và đang có nguy cơ ngày càng giảm. Hiện nay thủy sản tiêu thụ tại thị trường này có tới 70% có nguồn gốc nhập khẩu. Và Việt Nam là một trong những nhà cung cấp thủy sản lớn tại thị trường Hoa Kỳ. Sau khi gia nhập WTO, để hội nhập với nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam không ngừng thay đổi để phù hợp với các tiêu chuẩn TBTs. Vì thế hiện nay, Việt Nam đã có 175 công ty thủy sản được phép xuất khẩu sang Liên Hiệp Châu Âu, 295 công ty được phép xuất khẩu sang Hàn Quốc, và 300 công ty hội tụ đủ điều kiện để ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22156.doc