Phần mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu của mỗi quốc gia và thị trường thế giới trở thành sân chơi chung cho tất cả các cá nhân, doanh nghiệp cũng như các quốc gia khác nhau. Các thị trường tài chính cũng sẽ mở rộng, không còn có giới hạn trong phạm vi một quốc gia tạo điều kiện để tăng cường hợp tác, thúc đẩy thương mại quốc tế, nhưng bên cạnh đó thì nó cũng làm tăng mức độ cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính trong nước với các tổ chức tài
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng nguồn vốn, huy động vốn và giải pháp tăng trưởng nguồn vốn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính bên ngoài.
Trong nền kinh tế của một quốc gia thì ngân hàng được coi là huyết mạch của nền kinh tế. Sức mạnh của hệ thống ngân hàng sẽ là thước đo quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Khi chúng ta bước vào hội nhập thì sẽ có rất nhiều tổ chức tài chính quốc tế xâm nhập vào thị trường Việt Nam, vì thế các tổ chức tài chính nói chung cũng như các ngân hàng thương mại nói riêng phải tìm cách nâng cao được khả năng cạnh tranh, một trong những biện pháp nhằm tăng khả cạnh tranh của các ngân hàng đó là phải tìm cách nhằm thúc đẩy nguồn vốn tăng trưởng và tăng trưởng một cách ổn định.
2.Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu về hoạt động huy động vốn và phân tích thực trạng về huy động vốn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam, từ đó chỉ ra được những vấn đề đã đạt được và chưa đạt được trong nghiệp vụ huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Trên cơ sở đó tác giả đưa ra những giải pháp cũng như kiến nghị nhằm tăng trưởng nguồn vốn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam trong thời gian tới.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả đã nghiên cứu hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam nói riêng trong thời gian từ năm 2002 đến năm 2005.
4.Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp thống kê, so sánh và phân tích hệ thống để phục vụ nghiên cứu.
5.Tên và kết cấu của luận văn
Tên luận văn: “Tăng trưởng nguồn vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”.
Kết cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Nguồn vốn và phương thức huy động vốn tại NHTM
Chương 2. Thực trạng nguồn vốn và huy động vốn tại NH ĐT&PT VN
Chương 3. Tăng trưởng nguồn vốn tại NH ĐT&PT VN
Chương 1: Nguồn vốn và phương thức huy động vốn tại ngân hàng THƯƠNG MạI
1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với quá trình phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng, và sự phát triển của ngân hàng lại trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Theo các nhà kinh tế học thì ngân hàng thương mại có nguồn gốc từ những người thợ kim hoàn, ngân hàng bắt đầu với các nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền, ngân hàng ra đời vào cuối thế kỷ 15 và đã rất phổ biến ở Châu âu. Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cá nhân nói riêng. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua các chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Như vậy, NHTM được coi là một trung gian tài chính quan trọng nhất trong hệ thống tài chính, là kênh dẫn vốn từ những người thừa vốn đến cho những người thiếu vốn thông qua hoạt động chính đó là nhận tiền gửi và cho vay tiền. Trong Luật Các tổ chức tín dụng của Việt Nam thì ghi “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp các dịch vụ quản lý quỹ cho công chúng, đồng thời nó cũng thực hiện nhiều chức năng khác trong nền kinh tế như:
1.1.2.1 Chức năng trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển những khoản tiền tiết kiệm thành những khoản đầu tư, như thế thì đòi hỏi phải có sự tiếp xúc với hai bộ phận đó là những cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế đó là các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập, vì thế họ là những người cần bổ xung vốn và các cá nhân, tổ chức thặng dư vốn trong chi tiêu tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để gửi tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thặng dư vốn tới nhóm thiều vốn nếu cả hai cùng có lợi. Nhưng trên thực tế để hai nhóm này gặp nhau được là rất khó nếu không có sự trung gian của ngân hàng.
Ngân hàng làm trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển vốn từ những người thừa vốn tới những người thiếu vốn. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn và cho vay trên thị trường.
1.1.2.2 Tạo phương tiện thanh toán
Ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ (như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền giấy và tiền đúc).
Ngoài ra toàn bộ hệ thồng ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các tài khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên một khoản thu tức làm gia tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trự dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra một khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng).
1.1.2.3 Ngân hàng có chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất nhiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán được nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ,… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi qui mô sử dụng công nghệ đó ngày càng được mở rộng.
Ngoài ra ngân hàng còn có một số chức năng khác như:
Ngân hàng là người bảo lãnh
Ngân hàng cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán cho người bán như khi nghiệp vụ phát hành thư tín dụng của ngân hàng.
Chức năng đại lý
Ngân hàng đứng ra thay cho khách hàng để quản lý và bảo vệ tài sản cho họ, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán - chức năng này thường được thực hiện tại Phòng uỷ thác.
Ngân hàng là người thực hiện các chính sách
Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế của chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.
1.1.3 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.3.1 Hoạt động nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền nhằm đáp ứng nhu các khoản cho vay của ngân hàng. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Như vậy, khi thực hiện hoạt động nhận tiền gửi, ngân hàng đã thu phí gián tiếp thông qua thu nhập của hoạt động sử dụng tiền gửi đó.
1.1.3.2 Hoạt động cho vay
Cho vay là quan hệ giao dịch giữa ngân hàng với các chủ thể khác, trong đó ngân hàng giao tiền cho chủ thể đó để họ được sử dụng số tiền đó trong một khoảng thời gian nhất định và bên nhận tiền phải cam kết hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi theo thời hạn đã thỏa thuận. Đây là hoạt động có vị trí rất quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng vì đây là hoạt động tạo ra thu nhập chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu nhập của một ngân hàng thương mại.
Dựa trên các tiêu chí khác nhau mà hoạt động cho vay được phân chia thành nhiều danh mục cho vay khác nhau:
Cho vay thương mại: Ngay từ thời kỳ đầu, các NHTM đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán. Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với người mua, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Cho vay tiêu dùng: Ban đầu, cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thường bị hạn chế do bởi các ngân hàng cho rằng các khoản cho vay tiêu dùng là rủi ro, nguy cơ vỡ nợ là tương đối cao. Sau đó, sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
Tài trợ dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn như tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào bất động sản.
1.1.3.3 Các hoạt động khác
Ngoài những hoạt động cơ bản nhất của ngân hàng là huy động vốn và cho vay thì ngân hàng thương mại còn một số các hoạt động khác như:
Mua, bán ngoại tệ: Ngân hàng thực hiện trao đổi (mua, bán) ngoại tệ đó là mua hay bán một loại tiền tệ này lấy một loại tiền tệ khác để hưởng phí dịch vụ.
Bảo quản tài sản hộ: Ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản khác cho khách hàng trong két (hoạt động này còn gọi là hoạt động cho thuê két). Hoạt động này phát triển cùng với nhiều hoạt động khác như mua bán hộ các giấy tờ có giá, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ,….
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả hộ cho khách hàng.
Hoạt động quản lý ngân quỹ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, tài trợ các hoạt động của chính phủ, cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn,….
1.2 Vai trò của vốn và phương thức huy động vốn của NHTM
1.2.1 Vai trò của vốn trong hoạt động của NHTM
Vốn đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro và phá sản vì vốn giúp trang trải những khoản thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề khó khăn và đưa ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động sinh lời.
Vốn là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động được những khoản tiền gửi đầu tiên. Một ngân hàng mới luôn cần vốn ban đầu để đầu tư tài sản cố định như đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị những điều kiện làm việc, thuê nhân viên thậm chí ngay cả trước khi ngân hàng chính thức đi vào hoạt động chính thức.
Vốn tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ (gồm cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của NH. Ngân hàng cần phải đủ mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay rằng NH có thể đáp ứng các nhu cầu của họ ngay cả trong điều kiện kinh tế đang gặp khó khăn.
Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi một ngân hàng phát triển, nó cần vốn để bổ xung, để thúc đẩy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro gắn với sự ra đời những dịch vụ mới và những trang thiết bị mới. Hầu hết các ngân hàng đều mở rộng và phát triển cơ sở vật chất so với lúc đầu và sự bổ xung vốn sẽ cho phép NH mở rộng trụ sở, xây dựng thêm những văn phòng chi nhánh để theo kịp với sự phát triển của thị trường và tăng cường chất lượng phục vụ khách hàng.
Và cuối cùng, vốn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một NH có thể được duy trì, ổn định và lâu dài. Cả các cơ quan quản lý NH và thị trường tài chính đều đòi hỏi rằng vốn NH cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và những tài sản rủi ro khác. Do đó, “tấm đệm” dùng để chống đỡ những thua lỗ cần phải được củng cố, bổ xung tương ứng với quy mô rủi ro của ngân hàng. Một NH mở rộng quá nhanh hoạt động huy động vốn và cho vay sẽ nhận được những dấu hiệu của thị trường và của các cơ quan quản lý yêu cầu kiềm chế tốc độ tăng trưởng hoặc NH cần phải bổ xung thêm vốn.
1.2.2 Phương thức huy động vốn:
NHTM muốn có vốn để hoạt động thì ngoài nguồn vốn tự có, các NHTM phải tiến hành huy động vốn từ các nguồn khác nhau trong nền kinh tế, đây là hoạt động cơ bản nhất, tồn tại trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.
1.2.2.1 Huy động vốn từ dân cư
Ngân hàng huy động vốn từ đối tượng này thông qua các nghiệp vụ như nhận tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá và mở tài khoản tiền gửi cá nhân.
+ Huy động thông qua hình thức tiền gửi tiết kiệm :
Từ lâu phương thức huy động dưới hình thức “tiền gửi tiết kiệm” đã được coi là hình thức huy động vốn truyền thống của các ngân hàng thương mại. Vốn huy động từ các khoản tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi ngân hàng. “Tiền gửi tiết kiệm” có hai hình thức:
- Tiết kiệm không kỳ hạn: Đây là khoản tiền gửi tiết kiệm thông thường. Đối với khoản tiền này, người gửi tiền có thể rút tiền ra bất kỳ lúc nào mà không cần phải báo trước. Vì thế, ngân hàng cũng sẽ trả lãi đối với loại tiền gửi này nhưng sẽ thấp hơn so với các loại hình tiền gửi tiết kiệm khác.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là loại hình tiền gửi có sự thoả thuận trước giữa khách hàng và ngân hàng về thời gian rút tiền. Các cá nhân và doanh nghiệp có thu nhập tạm thời chưa sử dụng trong một thời gian nhất định thì có thể gửi tiền vào ngân hàng theo hình thức này.
Về nguyên tắc đối với loại tiền gửi này, người gửi chỉ được rút ra khi đáo hạn, nhưng trên thực tế, do áp lực cạnh tranh mà các ngân hàng thường cho phép khách hàng rút ra trước hạn với mức lãi suất của kỳ hạn ngắn hơn hoặc lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Khác với tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn là tiền tạm thời chưa sử dụng vì vậy mục đích gửi tiền vào ngân hàng hàng là nhằm tìm kiếm tiền lãi. Tiền gửi có kỳ hạn là một nguồn vốn mang tính chất ổn định cao hơn tiền gửi không kỳ hạn. Yếu tố lãi suất có tác động rất lớn đến loại nguồn vốn này, trước hết ngân hàng thường đưa ra nhiều loại thời hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Với mỗi thời hạn nhất định thì sẽ áp dụng một mức lãi suất khác nhau với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao và ngược lại.
- Tiền gửi tiết kiệm có đảm bảo giá trị: Đây là những khoản tiền gửi tiết kiệm mà ngân hàng cam kết với khách hàng về việc quy đổi số tiền gửi với ngoại tệ mạnh tương đương, hoặc có lãi suất thay đổi. Mục đích của loại hình này thường là huy động vốn trung và dài hạn, trong đó có sự đảm bảo với người gửi tiền một lãi suất thực tương đương, tránh được những rủi ro cho khách hàng khi nền kinh tế có sự biến động.
- Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Loại hình tiền gửi này thường được sử dụng với các khách hàng có thu nhập thấp và trung bình. Người gửi tiền để dành một khoản tiền vào ngân hàng (thường là một khoản tiết kiệm đều đặn trong một thời gian nhất định) với ý định tích luỹ tiền cho một mục đích nhất định như xây dựng nhà ở, mua ô tô,…và cũng được hưởng lãi trên số dư của tài khoản tiết kiệm chưa đủ, ngân hàng có thể hỗ trợ thêm một phần dưới hình thức cho vay với một lãi suất hợp lý đảm bảo quyền lợi cho cả khách hàng và ngân hàng. Đây là một hình thức huy động vốn trung và dài hạn khá hiệu quả, có tính chất ổn định, đồng thời có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy tiêu dùng của xã hội.
+ Huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi cá nhân
Đây là tài khoản tiền gửi do khách hàng mở để gửi vào những khoản tiền nhàn rỗi nhằm mục đích sinh lời hoặc để sử dụng các phương tiện thanh toán qua ngân hàng như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, …các khoản này có thể có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng.
Thông thường, phần lớn những khoản tiền gửi này là không kỳ hạn, chủ yếu là để thực hiện giao dịch, thanh toán qua ngân hàng. Vì thế ngân hàng có thể huy động được nguồn vốn khá lớn mà chi phí lại rất thấp. Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn tiền này có bất lợi bởi vì nó không ổn định, khách hàng có thể gửi thêm vào tài khoản hoặc rút ra bất kỳ lúc nào, vấn đề đặt ra cho ngân hàng trước rủi ro về thanh khoản. Để sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả thì cần phải nghiên cứu kỹ đặc điểm kinh doanh, thu nhập và thói quen chi tiêu của khách hàng để có kế hoạch khai thác nguồn vốn này một cách có hiệu quả.
+ Huy động vốn thông qua hình thức phát hành chứng từ có giá
- Kỳ phiếu ngân hàng: Kỳ phiếu NH là một giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân cư, chủ yếu để phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh đã được xác định trước của ngân hàng như để thực hiện một dự án, một chương trình kinh tế,… Kỳ phiếu là một hình thức huy động vốn khá linh hoạt vì đây là công cụ có tính lỏng cao, mệnh giá, loại tiền phát hành và các phương thức trả lãi đa dạng, đáp ứng được các nhu cầu gửi tiền khác nhau của người mua. Do tính chủ động, lãi suất kỳ phiếu thường được ấn định một mức hấp dẫn tuỳ theo mức độ cần thiết về vốn của NH.
- Trái phiếu ngân hàng: Trái phiếu là một giấy nhận nợ dài hạn của ngân hàng với cam kết thanh toán tiền gốc vào ngày đáo hạn và thanh toán tiền lãi vào những thời gian xác định với một mức lãi suất tương ứng. Các hình thức phát hành trái phiếu cũng rất đa dạng như theo tính chất sở hữu và chuyển nhượng các trái phiếu vô danh và trái phiếu ký danh, theo phương thức phát hành và trả lãi có trái phiếu chiết khấu và trái phiếu Coupon. Tuy nhiên, mỗi loại trái phiếu đều có những điểm chung đó là sự xác định về mệnh giá, ngày đáo hạn, lãi suất công bố khi phát hành, phương thức thanh toán lãi. Khác với kỳ phiếu, trái phiếu được phát hành nhằm mục đích huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho các kế hoạch phát triển kinh doanh có quy mô lớn và dài hạn. Lãi suất của trái phiếu cũng rất hấp dẫn, thường cao hơn lãi suất của các công cụ nợ khác và tỷ lệ thuận với kỳ hạn của khoản nợ.
1.2.2.2 Huy động vốn từ các doanh nghiệp và tổ chức khác
Trong hoạt động huy động vốn, các ngân hàng thương mại thường rất quan tâm đến nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp và các tổ chức khác, các ngân hàng luôn nỗ lực tìm mọi cách để tiếp cận với nguồn vốn này vì đây là nguồn vốn lớn với chi phí đầu vào thấp do đặc thù hoạt động của các doanh nghiệp và tổ chức là hoạt động theo chu kỳ.
Các NHTM huy động theo hai hình thức:
- Tiền gửi không kỳ hạn: Các doanh nghiệp, các tổ chức khác trong quá trình hoạt động thường mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thanh toán, nhận và thanh toán cho an toàn và có thể nhận được những khoản tiền lãi nhất định trong khoảng thời gian chưa sử dụng tới vốn. Lãi suất đối với loại tiền gửi này thường thấp, tuy nhiên việc đảm bảo cho các dịch vụ an toàn, thuận tiện là yếu tố thu hút tiền gửi không kỳ hạn.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi về cơ bản không được dùng để thanh toán mà chủ yếu để kiếm lợi nhuận cao thay vì đầu tư vào lĩnh vực khác. Tiền gửi có kỳ hạn là một nguồn tín dụng mang tính chất ổn định, do đó các ngân hàng thường chú trọng các biện pháp kích thích để huy động loại tiền gửi này. Tiền gửi có kỳ hạn có thể áp dụng lãi suất cố định hoặc thả nổi.
1.2.2.3 Huy động vốn từ các tổ chức tín dụng
Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn từ các tổ chức tín dụng khác thông qua việc nhận mở tài khoản và duy trì tài khoản tiền gửi hoặc đi vay.
Khi NHTM phải đối mặt với trường hợp lượng tiền không đủ để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng hoặc nhu cầu vay của khách hàng thì họ buộc phải sử dụng hình thức đi vay của các tổ chức tín dụng khác hoặc vay ngân hàng Nhà nước.
- Vay từ NHTM và các tổ chức tín dụng khác: Trong trường hợp NHTM phát sinh nhu cầu, ngân hàng có thể vay các tổ chức tín dụng khác thông qua cơ chế thị trường liên ngân hàng. Thành viên tham gia thị trường liên ngân hàng là các NHTM có hoạt động hợp pháp, các khoản vay đều phải có tài sản thế chấp, tài sản này có thể là chứng từ có giá, số dư tài khoản tại ngân hàng hàng Nhà nước,… hoặc ít nhất là được ngân hàng Nhà nước bảo lãnh.
- Vay ngân hàng Nhà nước: Các NHTM có thể vay NHNN khi gặp khó khăn về vốn dưới hình thức tái chiết khấu chứng từ có giá. NHNN với vai trò là người cho vay cuối cùng sẽ xem xét xem có cho các NHTM này vay hay không, bởi việc này sẽ ảnh hưởng đến khối lượng tiền tham gia lưu thông trên thị trường.
Nguồn vốn vay này rất quan trọng vì nó đảm bảo cho các tổ chức tín dụng hoạt động bình thường ở những thời điểm mà NHTM thiếu hụt nguồn vốn, NHTM có thể phải đối diện với rủi ro thanh khoản. Nếu điều xấu nhất xảy ra thì khả năng NHTM có thể sẽ phải phá sản.
- Nguồn vốn uỷ thác: Sự phát triển của nền kinh tế, sự hình thành các công ty đa quốc gia, sự phụ thuộc lẫn nhau trong hệ thống kinh tế thế giới đã làm nảy sinh những yêu cầu mới và ngân hàng sẽ phải tìm cách đáp ứng nhu cầu mới như những nguồn viện trợ, nhu cầu thanh toán cho một hợp đồng,… để làm cho nguồn vốn được vận động một cách có hiệu quả hơn, ngân hàng đứng ra làm nhiệm vụ trung gian thanh toán, thực hiện việc chi trả hộ cho khách hàng, hoặc phân phối giúp nguồn tài sản của khách hàng cho những người mà họ yêu cầu,… Ngoài việc tạo thêm thu nhập từ phí dịch vụ, hoạt động này cũng tạo nên nguồn vốn ngắn hạn cho ngân hàng do sự chênh lệch giữa thời gian thu hộ và chi hộ.
Nguồn vốn huy động luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn của ngân hàng, đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.2.3 Một số chỉ tiêu để đánh giá tăng trưởng nguồn vốn của NHTM:
Nguồn vốn huy động phải có sự tăng trưởng ổn định: Nguồn vốn huy động tăng trưởng ổn định theo thì gian sẽ đáp ứng tốt nhu cầu tín dụng cũng như các hoạt động khác của ngân hàng. Nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn nhưng không ổn định, thường xuyên hoặc khả năng một lượng tiền lớn bị rút ra thì sẽ ảnh hưởng tới lượng vốn dành để cho vay và đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn sẽ không cao, ngân hàng thường xuyên đối mặt với vấn đề về rủi ro thanh khoản.
Cơ cấu nguồn vốn huy động vốn phải xuất từ kế hoạch sử dụng vốn về kỳ hạn, danh mục và số lượng ngoại tệ, về lãi suất cho vay,… để có chiến lược huy động vốn sao cho có hiệu quả nhất. Nguồn vốn huy động được phải đảm bảo phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn cả về loại tiền, kỳ hạn và lãi suất sẽ góp phần đem lại lợi nhuận cao hơn cho ngân hàng.
Chi phí huy động vốn bình quân phải thấp, vì:
Ngân hàng bao giờ cũng cố gắng tìm kiếm cho mình một tổ hợp các loại vốn khác nhau trên thị trường với mức chi phí thấp nhất. Việc giả thiết coi tất cả các yếu tố khác như nhau thì ngân hàng nào có chi phí huy động vốn thấp nhất mà không phải chấp nhận mức độ rủi ro cao hơn thì ngân hàng đó sẽ có mức lợi nhuận cao hơn.
Việc tính toán chính xác một cách tương đối chi phí huy động vốn là yếu tố cơ bản để xác định mức lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ các tài sản sinh lời của mình, căn cứ vào chi phí huy động vốn mà ngân hàng định giá cho mỗi sản phẩm dịch vụ mà mình cung cấp cho khách hàng.
Việc xác định chi phí huy động vốn sẽ giúp cho ngân hàng chủ động trong kinh doanh, giảm được rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của ngân hàng như rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất,…
Lãi suất đầu vào BQ =
Tổng số dư nguồn thứ i x Lãi suất của nguồn thứ i
Tổng số dư các nguồn vốn
Hoặc
Lãi suất bình quân = ồ (tỷ trọng loại tiền gửi i x Lãi suất tiền gửi i)
Trong đó i= 1,n
Như vậy, có thể với biểu lãi suất khác nhau nhưng do khác nhau về tỷ trọng từng loại tiền gửi dẫn đến lãi suất huy động vốn bình quân giữa các ngân hàng thương mại là khác nhau. Chi phí huy động thấp là một trong những điều kiện cơ bản giúp NHTM tăng khả năng sinh lời nhưng ít gặp rủi ro. Ưu thế này thường gặp ở các NHTM hoạt động mạnh, trường vốn, uy tín cao, năng lực quản trị của ban giám đốc tốt, nhân viên giỏi chuyên môn, khả năng giải quyết các vấn đề nhanh, thái độ phục vụ khách hàng lịch sự.
Vì thế các ngân hàng luôn phấn đấu đạt được chi phí huy động vốn bình quân hợp lý, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu cho vay, chênh lệch lãi suất huy động và cho vay lớn có thể và đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Ngoài ra, trong huy động vốn thì ngân hàng cũng cần phải tuân theo yêu cầu của “Hệ số đo lường an toàn vốn” trong ngân hàng theo hiệp định Basel về tiêu chuẩn vốn quốc tế.
Hệ số này được xác định theo công thức:
H =
ồ vốn tự có x 100
Giá trị quy đổi của tài sản có rủi ro
Trong đó: ồ giá trị quy đổi của tài sản có rủi ro =ồ (Tài sản rủi ro nội bảng x Hệ số rủi ro ) + ồ (Tài sản rủi ro ngoại bảng x Hệ số rủi ro).
Tháng 12/1987, một quy chế về an toàn vốn đã được Hội đồng dự trữ Liên bang Mỹ cùng với đại diện của 11 nước công nghiệp phát triển trên thế giới đã tuyên bố hiệp định Basel về tiêu chuẩn mới về vốn áp dụng với các ngân hàng, tổ chức tài chính nhằm khuyến khích các ngân hàng lớn củng cố trạng thái vốn, hạn chế sự không bình đẳng trong quy định giữa các quốc gia khác nhau và xem xét những rủi ro đối với hoạt động ngoài bảng cân đối kế toán mà các ngân hàng thực hiện.
Theo hiệp định Basel thì vốn ngân hàng được chia thành hai loại:
Loại 1 (Vốn cơ sở): Bao gồm cổ phiếu thường, lợi nhuân không chia, cổ phiếu ưu đãi không tích luỹ vĩnh viễn, thu nhập từ công ty con, tài sản vô hình xác định không tính danh tính của công ty
Loại 2 (vốn bổ xung): Gồm khoản mục dự phòng tổn thất từ cho vay và cho thuê, các công cụ vốn nợ thứ cấp, các khoản nợ cho phép chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi trung hạn, cổ phiếu tích luỹ vĩnh viễn không trả cổ tức, tín phiếu vốn, các công cụ vốn nợ dài hạn khác nhau mang đặc điểm của vốn cổ phần và của các khoản nợ.
Để xác định tổng vốn của mỗi ngân hàng, các nhà chức trách phải khấu trừ tổng vốn loại 1 và loại 2 một số khoản mục. Các khoản mục này bao gồm: đầu tư vào các công ty con, các chứng khoán vốn ngân hàng nắm giữ theo thỏa thuận hỗ trợ lẫn nhau (do các tổ chức tài chính phát hành) đầu tư vào các hiệp hội tiết kiệm cho vay và các khoản mục khác nếu cơ quan quản lý có yêu cầu.
Những yêu cầu mới về vốn bao gồm:
Thứ nhất: Tỷ lệ vốn cơ sở (loại 1) trên tổng tài sản theo tỷ lệ rủi ro ít nhất phải đạt mức 4%.
Thứ hai: Tỷ lệ giữa tổng số vốn (vốn loại 1 và vốn loại 2) trên tổng tài sản theo tỷ lệ rủi ro tối thiểu là 8%, trong đó vốn loại 2 được giới hạn tối đa là 100% của vốn loại 1.
Tài sản có rủi ro là những khoản mục tài sản có được phản ánh trong và ngoài bảng tổng kết tài sản có thể bị tổn thương trong quá trình kinh doanh như cho vay không thu hồi được vốn, ngân hàng phải trả tiền cho khách hàng được bảo lãnh, giá trị hạch toán giảm, công ty được ngân hàng hùn vốn liên doanh bị thua lỗ,…
Khi vốn huy động tăng, dẫn tới tổng tài sản của ngân hàng tăng, nếu không tăng vốn chủ sở hữu thì hệ số an toàn vốn giảm. Điều này cho thấy đồng thời với việc tăng cường nguồn vốn huy động thì các NHTM phải có kế hoạch tăng vốn chủ sở hữu.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.3.1 Các nhân tố khách quan
1.3.1.1 Môi trường kinh tế
Đây là nhân tố quan trọng nhất, nó bao trùm mọi hoạt động của NHTM, hoạt động của NHTM không thể thoát ly ra khỏi môi trường kinh tế và chính trị. Các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập của dân cư, tốc độ chu chuyển vốn, chỉ số lạm phát,… ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động của ngân hàng nhất là hoạt động huy động vốn. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện và ổn định đã tạo điều kiện cho lượng tiền gửi vào ngân hàng ngày càng gia tăng, số vốn huy động được dồi dào, trong khi đó cơ hội đầu tư cũng được mở rộng. Nếu nền kinh tế đang suy thoái thì khả năng khai thác nguồn vốn để đưa vào nền kinh tế cũng sẽ bị hạn chế, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong hoạt động huy động vốn.
1.3.1.2 Chính sách của Nhà nước
Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt, chịu sự tác động của nhiều chính sách, quy định điều chỉnh của chính phủ và ngân hàng Nhà nước. Bất cứ một sự điều chỉnh nào của Nhà nước và của Ngân hàng Nhà nước về tài chính, tiền tệ tín dụng đều ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng. Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNN đối với các NHTM đã buộc các NHTM phải xem xét và hạn chế việc sử dụng vốn như thế nào cho hiệu quả. Hay việc NHNN tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn cũng ảnh hưởng lớn tới tình hình huy động vốn của ngân hàng. Sự ổn định về mặt chính trị hay chính sách ngoại giao cũng tác động tới quan hệ nguồn vốn của một ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
1.3.1.3 Tâm lý, tập quán của dân cư
Mặc dù ở nước ta là nước đang phát triển, cuộc sống của người dân tuy đã khá hơn nhưng họ vẫn có thói quen giữ tiền mặt, giữ tiền tại nhà hoặc mua vàng bạc, đá quý để tích luỹ. Do vậy, nhân tố này ảnh hưởng lớn tới nguồn vốn huy động dưới hình thức tiền gửi tiết kiệm của người dân.
1.3.2 Các nhân tố chủ quan
1.3.2.1 Chiến lược kinh doanh và nguồn lực của ngân hàng
Mỗi NHTM khi tham gia vào kinh doanh thì cung đều có những chiến lược riêng cho ngân hàng mình, tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động của từng ngân hàng và điều kiện môi trường kinh doanh, theo đó việc huy động vốn có thể được mở rộng hay thu hẹp, cơ cấu vốn có thể thay đổi về tỷ lệ các loại nguồn, chi phí hoạt động vốn có thể tăng hoặc giảm. Nếu chiến lược kinh doanh lựa chọn đúng đắn, các nguồn khai thác tối đa thì công tác huy động vốn sẽ phát huy hiệu quả.
Ngoài ra quy mô vốn chủ sở hữu là yếu tố đảm bảo cho hoạt động huy động vốn, quy ._.mô vốn càng nhỏ thì khả năng huy động vốn của ngân hàng cũng sẽ bị hạn chế. Không những thế, nó còn tác động tới uy tín của ngân đối với khách hàng. Quy mô vốn chủ sở hữu lớn thì sẽ tạo ra sự tin tưởng cho khách hàng đối với ngân hàng, như vậy nó có tác động kép tới hoạt động huy động vốn là quy mô vốn càng lớn thì sẽ càng tạo điều kiện cho việc huy động vốn với khối lượng lớn tương ứng và nó tác động tới khách hàng trong việc tạo lập uy tín của ngân hàng dưới góc nhìn của một khách hàng, và qua đó giúp cho công tác huy động vốn sẽ có hiệu quả hơn và ngược lại.
1.3.2.2 Chính sách lãi suất
Chính sách lãi suất của ngân hàng có vai trò quan trọng đối với công tác huy động vốn của ngân hàng. Chính sách lãi suất là tổng hợp các loại chính sách và quy phạm được đề ra về lãi suất của một ngân hàng trong từng thời kỳ nhất định, dựa vào hoàn cảnh kinh tế xã hội khác nhau và yêu cầu mục tiêu chính sách kinh tế khác nhau.
Chính sách lãi suất là một công cụ quan trọng của ngân hàng trong việc huy động tiền gửi và thay đổi quy mô của nguồn vốn. Khi lãi suất ngân lớn hơn lãi suất đầu tư vào nền kinh tế thì sẽ kích thích người dân gửi tiền vào ngân hàng và ngược lại. Bởi lẽ vấn đề mà người dân quan tâm nhất đó là lợi nhuận, để duy trì và thu hút nguồn vốn cho ngân hàng, ngân hàng phải ấn định mức lãi suất cạnh tranh, thực hiện ưu đãi về giá cho từng khách hàng lớn, có uy tín đối với ngân hàng.
Ngoài hệ thống lãi suất phải linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường và phù hợp về quy mô, cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng bởi quy mô và cơ cấu nguồn vốn còn bị ảnh hưởng bởi giá cả các dịch vụ khác như phí chuyển tiền, phí dịch vụ thanh toán,…
1.3.2.3 Hình thức huy động vốn
Để duy trì và thu hút khách hàng, ngân hàng phải áp dụng chính sách đa dạng các hình thức huy động vốn, đa dạng về dịch vụ tiền gửi như tiết kiệm gửi góp, hay tích luỹ dự thưởng để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi một cách tối đa. Việc cung cấp nhiều hình thức huy động vốn nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, đồng thời tạo sự khác biệt về sản phẩm dịch vụ của mình với đối thủ khác từ đó nâng cao vị thế, hình ảnh của ngân hàng trên thị trường tài chính tiền tệ.
Ngoài việc đa dạng hóa các hình thức huy động thì ngân hàng cũng cần đưa ra nhiều loại hình dịch vụ như giao dịch tại nhà, tư vấn kinh doanh, dịch vụ thu hộ,… khai thác sản phẩm dịch vụ đa dạng là một trong những biện pháp quan trọng giúp ngân hàng giảm được nhiều rủi ro do biến động liên quan tới một nhóm khách hàng. Đảm bảo tính đa dạng sản phẩm dịch vụ là một trong những yêu cầu để duy trì lợi nhuận ổn định cho ngân hàng hiện nay.
1.3.2.4 Uy tín và nguồn lực của ngân hàng
Uy tín là nguồn lực mà không phải bất kỳ ngân hàng nào cũng có được. Uy tín của một ngân hàng được tạo dựng lâu dài qua quá trình hoạt động kinh doanh, mỗi ngân hàng sẽ tạo được những hình ảnh riêng trong lòng khách hàng. Một ngân hàng lớn sẵn có uy tín thì sẽ có lợi thế trong huy động vốn, sự tin tưởng của khách hàng sẽ giúp cho ngân hàng có khả năng ổn định khối lượng vốn huy động và tiết kiệm được chi phí để huy động vốn.
Ngoài ra nguồn lực của mỗi ngân hàng cũng góp phần tạo dựng lên một ấn tượng tốt về ngân hàng đối với khách hàng, thúc đẩy ngân hàng phát triển hơn nữa.
1.3.2.5 Trình độ công nghệ ngân hàng
Một ngân hàng áp dụng nhiều thành tựu công nghệ hiện đại hoạt động của mình thì sẽ tạo điều kiện phục vụ khách hàng nhanh và có hiệu quả cao. Khả năng ứng dụng công nghệ đã trở thành một trong những điều kiện bắt buộc để ngân hàng tồn tại và phát triển. Trong những năm gần đây, nhờ có tiến bộ khoa học kỹ thuật đã xuất hiện nhiều sản phẩm dịch vụ mới liên quan tới hoạt động huy động nguồn vốn như dịch vụ ngân hàng tại nhà (home banking), internet banking, máy rút tiền tự động,…góp phần phục vụ khách hàng một cách tối ưu nhất.
1.3.2.6 Mạng lưới chi nhánh
Mạng lưới chi nhánh hoạt động của ngân hàng ảnh hưởng lớn đến công tác huy động vốn. Với một ngân hàng có mạng lưới chi nhánh hoạt động rộng khắp cả nước thì sẽ có điều kiện hơn so với các ngân hàng khác trong công tác huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, đồng thời cũng phát triển được nguồn khách hàng để giải ngân nguồn tín dụng. Một ngân hàng hoạt động có hiệu quả khi phát triển được mạng lưới chi nhánh rộng khắp nhưng cơ cấu phải gọn nhẹ, tiết giảm chi phí tối đa.
chương 2: thực trạng nguồn vốn và
huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và
phát triển việt nam
2.1 Khái quát hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được thành lập theo quyết định số 177/TTg ngày 26 tháng 4 năm 1957 của Thủ tướng Chính phủ. Qua gần 50 năm, NHĐT&PTVN đã có những tên gọi:
Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam từ ngày 24/6/1957
Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam từ ngày 24/6/1981
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ ngày 14/11/1990
Ngân hàng ĐT&PTVN là một doanh nghiệp Nhà nước xếp hạng đặc biệt, được tổ chức theo mô hình Tổng công ty Nhà nước (tập đoàn) mang tính hệ thống thống nhất bao gồm hơn 112 chi nhánh các Công ty trong toàn quốc, có 4 đơn vị liên doanh với nước ngoài (ba ngân hàng và một công ty), góp vốn với 5 tổ chức tín dụng.
Trọng tâm hoạt động và là nghề nghiệp truyền thống của NHĐT&PT VN là phục vụ đầu tư phát triển, các dự án thực hiện các chương trình phát triển kinh tế then chốt của đất nước. Thực hiện đầy đủ các mặt nghiệp vụ của một ngân hàng phục vụ phát triển các thành phần kinh tế, có quan hệ hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp, Tổng công ty. NHĐT&PTVN không ngừng mở rộng quan hệ đại lý với hơn 800 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng, quan hệ thanh toán với 50 ngân hàng trên thế giới.
NHĐT&PTVN là một ngân hàng chủ lực thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và phục vụ đầu tư phát triển. Quá trình gần 50 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển luôn gắn với từng giai đoạn lịch sử của đất nước.
NHĐT&PTVN đã không ngừng khơi tăng nguồn vốn bằng việc mở rộng các kênh huy động vốn như từ dân cư, doanh nghiệp, vay hợp vốn, vay tài trợ nhập khẩu từ nước ngoài, tham gia thị trường chứng khoán và phát hành trái phiếu, đảm bảo cân đối nguồn vốn trung và dài hạn chiếm gần 40%.
Trên cơ sở chủ động về nguồn vốn, NHĐT&PTVN đã đa dạng hoá hình thức cho vay nền kinh tế tập trung ở 5 hoạt động chính:
Cho vay truyền thống với phương thức ngày càng đa dạng như cho vay đồng tài trợ, cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh;
Cho thuê tài chính phục vụ đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp như cho thuê mua phương tiện vận tải, dây truyền sản xuất, đầu tư phát triển công nghệ và trang bị máy móc, …;
Cho vay thông qua hình thức đại lý uỷ thác giải ngân các nguồn vốn ODA và các nguồn vốn tài trợ khác phục vụ đầu tư phát triển;
Thực hiện nghiệp vụ ngân hàng bán buôn cho Dự án tài chính nông thôn vay vốn ngân hàng thế giới.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức
2.1.2.1 Mô hình tổ chức và quản lý
Tính đến cuối năm 2005, hệ thống NHĐT&PTVN đã có 4 khối chính:
Khối liên doanh: Gồm 2 ngân hàng liên doanh, 2 công ty liên doanh.
Khối ngân hàng: Có 3 sở giao dịch và 79 chi nhánh cấp 1, 62 chi nhánh cấp 2.
Khối sự nghiệp: Có 1 trung tâm công nghệ thông tin và 1 trung tâm đào tạo.
Khối công ty: Có 2 công ty cho thuê tài chính, 1 công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, 1 công ty bảo hiểm.
Các hoạt động chính của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Hoạt động của NHĐT&PTVN có đầy đủ chức năng của một ngân hàng thương mại được phép kinh doanh đa năng tổng hợp tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng, làm ngân hàng đại lý, phục vụ các dự án từ các nguồn vốn, các tổ chức kinh tế, tài chính, tiền tệ trong và ngoài nước. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đặc biệt cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực đầu tư các dự án trọng yếu của Nhà nước.
2.1.3.1 Hoạt động huy động vốn
- Tài khoản thanh toán (VNĐ, ngoại tệ): Là hình thức tiền gửi không kỳ hạn dành cho đối tượng cá nhân và tổ chức, theo đó khách hàng có thể thực hiện các giao dịch với ngân hàng thông qua tài khoản này vào bất kỳ lúc nào, tại bất kỳ điểm giao dịch nào của NHĐT&PTVN. Tiền lãi được cộng dồn hàng ngày và trả vào cuối tháng.
- Tiền gửi có kỳ hạn (VNĐ, ngoại tệ): Là hình thức tiền gửi có kỳ hạn dành cho cá nhân và tổ chức, theo đó mức lãi suất được xác định căn cứ kỳ hạn gửi tiền tại thời điểm gửi tiền.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn (VNĐ, ngoại tệ): Là hình thức tiền gửi không kỳ hạn dành cho cá nhân, theo đó khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào tại bất kỳ điểm giao dịch của NHĐT&PTVN. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn được thống nhất trong toàn hệ thống. Tiền lãi được tính và trả vào cuối tháng.
- Tiền gửi tiết kiệm bậc thang (VNĐ): Là hình thức tiền gửi có kỳ hạn dành cho đối tượng cá nhân với mức lãi suất gia tăng luỹ tiến theo số dư tiền gửi.
- Tiết kiệm dự thưởng: Là loại hình tiền gửi có kỳ hạn dành cho các cá nhân có kèm theo cơ hội được tham gia dự thưởng đối với khách hàng gửi tiền.
- Tiết kiệm “ổ trứng vàng”: Là hình thức tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn với mức lãi suất gia tăng luỹ tiến theo số dư dành cho đối tượng cá nhân được thực hiện thông qua việc điều chuyển tiền tự động từ tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc gửi tiền mặt trực tiếp vào tài khoản.
- Tiết kiệm rút dần: Là hình thức tiền gửi tiết kiệm dành cho đối tượng cá nhân, trong đó khách hàng được phép rút dần một số tiền cố định vào những thời điểm cụ thể trong tương lai với mức lãi suất cố định tương ứng với kỳ hạn và số lần rút đã cam kết.
- Kỳ phiếu (VNĐ, ngoại tệ): Là lại giấy tờ có giá được NHĐT&PTVN phát hành cho đối tượng là cá nhân và tổ chức, có thời hạn dưới 12 tháng, trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong thời gian nhất định cùng các điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết giữa NHĐT&PTVN và khách hàng.
- Trái phiếu coupon (VNĐ, ngoại tệ) : Là loại giấy tờ có giá được NHĐT&PTVN phát hành cho đối tượng là cá nhân và tổ chức, có thời hạn dài trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định cùng các điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết giữa NHĐT &PTVN và khách hàng. Trái phiếu này được đính kèm coupon để thanh toán lãi suất thanh toán định kỳ (thường là hàng năm).
- Chứng chỉ tiền gửi dài hạn (VNĐ, ngoại tệ): Là loại giấy tờ có giá được NHĐT&PTVN phát hành cho đối tượng cá nhân và tổ chức, có thời hạn từ 12 tháng trở lên trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định cùng các điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết giữa NHĐT&PTVN và khách hàng.
Kết quả đạt được:
Huy động vốn bao gồm việc nhận tiền gửi bằng tiền đồng và ngoại tệ cũng như sử dụng thị trường tiền tệ và phát hành các giấy tờ có giá ngắn hạn và dài hạn.
NHĐT&PTVN hiện đang thực hiện chiến lược đa dạng hoá nguồn huy động bao gồm nhiều hình thức tiết kiệm, cung ứng trên thị trường nhiều tiện ích tiền gửi, giao nhiều quyền hạn hơn nữa cho Giám đốc các chi nhánh trong việc định lãi suất và phát triển quan hệ hợp tác với các khách hàng lớn nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi để đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2005, lượng vốn huy động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đạt 111.907 tỷ đồng, chiếm 92,18% tổng nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng.
2.1.3.2 Hoạt động cho vay
- Cho vay cá nhân: Bao gồm cho vay hỗ trợ nhu cầu nhà ở (cho vay để trang trải các chi phí cần thiết liên quan đến việc mua nhà ở, mua đất và chi phí xây dựng, cải tạo, sữa chữa nhà ở), cho vay mua ôtô (NHĐT&PTVN sẽ hỗ trợ khách hàng một phần chi phí mua ôtô), cho cán bộ công nhân viên vay để thực hiện phương án kinh doanh hoặc phục vụ nhu cầu tiêu dùng,...
- Cho vay các tổ chức kinh tế bao gồm:
Cho vay vốn lưu động theo hạn mức tín dụng: Đối tượng cho vay là các chi phí vật tư hàng hoá, chi phí nhân công, nhiên liệu, nộp thuế,...và các chi phí khác có liên quan đến vốn lưu động của khách hàng. áp dụng cho các khách hàng hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định có nhu cầu vay vốn thường xuyên.
Cho vay vốn lưu động theo món: Đối tượng cho vay là các chi phí vật tư hàng hoá, chi phí nhân công, nhiên liệu, nộp thuế,...và các chi phí khác có liên quan đến vốn lưu động của khách hàng. áp dụng cho các khách hàng vay vốn từng lần (theo món) dựa trên nhu cầu vốn của từng phương án kinh doanh của khách hàng, mỗi lần vay khách hàng phải ký hợp đồng tín dụng và lập bảng kê rút vốn.
Cho vay tài trợ xuất khẩu với đối tượng cho vay là các chi phí để thu mua, chế biến nguyên vật liệu, hàng hoá theo các hợp đồng xuất khẩu hoặc L/C.
Cho vay tài trợ dự án: Khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án mua sắm máy móc thiết bị, đầu tư tài sản cố định.
Cho vay để thi công xây lắp (theo món): Đối tượng cho vay là các chi phí để thực hiện các hợp đồng thi công các công trình đã trúng thầu và có hợp đồng thi công. áp dụng cho các khách hàng có nhu cầu vay vốn từng lần (theo món) để thực hiện hợp đồng cụ thể nào đó.
Cho vay thi công xây lắp (theo hạn mức tín dụng): Đối tượng cho vay là cá chi phí để thực hiện các hợp đồng thi công các công trình đã trúng thầu và có hợp đồng thi công. áp dụng cho các khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên.
Kết quả đạt được:
Hoạt động tín dụng bao gồm việc cung cấp các khoản nợ thương mại, các khoản nợ theo chỉ định và kế hoạch Nhà nước và các khoản nợ ngắn, trung và dài hạn.
Tổng dư nợ cho vay và ứng trước của khách hàng năm 2005 tăng so với năm 2004 là 17,9%. Trong tổng dư nợ, cho vay thương mại đạt 75.134 tỷ đồng, chiếm 87,94% (năm 2004 là 85,23%), tăng 4,33%. Tỷ lệ cho vay theo chỉ định và kế hoạch Nhà nước vốn là các khoản nợ cũ từ trước năm 1998 giảm dần qua các năm (năm 2005 chỉ còn 5,92%) và không phát sinh nợ mới.
Cơ cấu tín dụng từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng dư nợ trung dài hạn giảm còn 42%. Tỷ lệ dư nợ cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh và có vốn đầu tư nước ngoài tăng, chiếm 48% tổng dư nợ. Tỷ lệ dư nợ có tài sản đảm bảo trên tổng dư nợ đạt 66% và đặc biệt tỷ lệ nợ quá hạn tính đến năm 2005 là 3,2%.
NHĐT&PTVN tiếp tục thực hiện chiến lược từng bước chuyển dịch cơ cấu tín dụng và phân loại khách hàng nhằm tuân thủ các yêu cầu của WB đối với sự phát triển cơ cấu tín dụng và kế hoạch tái cơ cấu NHĐT&PTVN.
Năm 2005, NHĐT&PTVN đã giảm tỷ lệ cho vay xây lắp theo đúng mục tiêu và đẩy mạnh cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng, xuất nhập khẩu, cho vay các ngành kinh tế tiềm năng.
NHĐT&PTVN cũng thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của SBV để đánh giá đúng thực trạng chất lượng tín dụng của NHĐT &PTVN, hướng tới phân loại nợ theo chuẩn mực quốc tế. Kết quả phân loại nợ của NHĐT&PTVN cho thấy tỷ lệ nợ xấu của NHĐT&PTVN năm 2005 là 12,47% giảm 2,09% so với năm 2004 do NHĐT&PTVN đã thực hiện hàng loạt các biện pháp quản lý chất lượng tín dụng. Đồng thời, NHĐT&PTVN cũng tiếp tục thực hiện chính sách dự phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu, với số dư dự rủi ro tín dụng vào ngày 31/12/2005 là 2.718 tỷ VNĐ tăng 23% so với năm 2004.
2.1.3.3 Tình hình đầu tư của NHĐT&PTVN
Trong 5 năm (từ 2001 đến 2005), NHĐT&PTVN đã triển khai đề án tái cơ cấu và chú trọng phát triển đầu tư thương mại (ĐTTM). Tính đến 31/12/2005, ĐTTM bao gồm 19 khoản đầu tư với 4 công ty trực thuộc, 4 liên doanh, 3 ngân hàng thương mại cổ phần, 6 công ty cổ phần, 1 quỹ bảo lãnh doanh nghiệp nhỏ và vừa và Quỹ tín dụng nhân dân trung ương. Trong đó phần vốn góp vào công ty trực thuộc chiếm 47% tổng giá trị đầu tư, vào liên doanh chiếm 40%, vào góp vốn mua cổ phần chiếm 12%.
Cơ cấu hoạt động đầu tư của NH ĐT&PTVN cũng chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực phi ngân hàng như năng lượng, bưu chính viễn thông, đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng văn phòng cao ốc cho thuê. Các phương thức đầu tư bao gồm góp vốn thành lập công ty liên doanh, cổ phần, mua lại phần vốn góp của đối tác nước ngoài để chuyển thành 100% vốn của NHĐT&PTVN, tham gia mua cổ phiếu của các đơn vị cổ phần hoá theo phương thức thoả thuận hoặc đấu giá trực tiếp trên thị trường chứng khoán.
Kết quả hoạt động đầu tư của BIDV :
Trong năm 2005, các công ty mà NH ĐT&PTVN đầu tư đều có mức ROE đạt trên 10%. Năm 2005, NH ĐT&PTVN đã mua góp vốn, mua cổ phiếu qua hình thức đấu giá vào các công ty và nhận được cổ tức trên các khoản đầu tư này. Tỷ lệ cổ tức bình quân năm 2005 là 9,8% (không tính liên doanh bảo hiểm Việt úc là 12,7%).
Ngoài ra, bên cạnh cổ tức được chia, nhiều khoản đầu tư của NHĐT &PTVN còn được hưởng thặng dư vốn từ chệnh lệch giá cổ phiếu do giá mua cổ phiếu ban đầu. Tính đến năm 2005, giá trị thặng dư vốn từ danh mục đầu tư của NHĐT&PTVN ước khoảng 150 tỷ đồng.
Về mức độ hoàn vốn, năm 2005 tỷ lệ hoàn vốn bình quân là 47%, thấp hơn năm 2004 do gia tăng giá trị đầu tư năm 2005. Một số khoản góp vốn từ các năm trước đã hoàn vốn và bắt đầu có lãi (Ngân hàng liên doanh VID-Public, Ngân hàng cổ phần Nhà Hà Nội) hoặc gần hoàn vốn (Ngân hàng cổ phần Nhà Hồ Chí Minh có tỷ lệ hoàn vốn là 82% nếu không tính thêm phần vốn mới góp năm 2005).
2.1.3.4 Hoạt động kinh doanh ngoại tệ
- Giao dịch giao ngay: Là giao dịch mà ở đó có một đồng tiền này được trao đổi với một đồng tiền khác theo một tỷ giá xác định vào ngày giao dịch và việc thanh toán sẽ được thực hiện ngay trong vòng 2 ngày làm việc tiếp theo của ngân hàng.
- Giao dịch kỳ hạn tiền tệ: Là giao dịch mua (hoặc bán) giữa hai đồng tiền với tỷ giá xác định ngay trong ngày giao dịch, ngày giá trị sẽ là một ngày trong tương lai do ngân hàng và khách hàng tự thỏa thuận.
- Giao dịch quyền chọn tiền tệ: Là giao dịch ở đó khách hàng có quyền (nhưng không có nghĩa vụ) mua hoặc bán một số lượng tiền tệ theo một tỷ giá đã được xác định trong một khoảng thời gian hoặc một ngày cố định trong tương lai.
- Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ: Là giao dịch ở đó NHĐT&PTVN đồng thời thực hiện mua và bán (hoặc cả bán và mua) cùng một lượng tiền tệ với khách hàng, thời hạn của hai giao dịch này là khác nhau và tỷ giá được xác định ngay tại thời điểm ký hợp đồng.
Kết quả đạt được:
NHĐT&PTVN thực hiện giao dịch với 15 loại ngoại tệ mạnh khác nhau, trong đó bao gồm những đồng tiền chủ đạo như USD, EUR, JPY, GBP, AUD, … Hoạt động mua bán ngoại tệ được quản lý tập trung tại Hội sở chính. Hoạt động mua bán ngoại tệ bán lẻ phục vụ doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cá nhân được thực hiện tại tất cả các chi nhánh trên phạm vi toàn quốc với giao dịch như giao dịch giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn.
Tổng doanh thu từ dịch vụ kinh doanh ngoại tệ tăng 39% so với năm 2004. Doanh thu thuần từ việc kinh doanh ngoại tệ đạt 44 tỷ đồng.
Trong năm 2005, NHĐT&PTVN đã giới thiệu tới khách hàng các sản phẩm phái sinh như quyền chọn tiền tệ (currency option), quyền chọn lãi suất (Interest rate option), hoán đổi lãi suất (Interest rate swap), quản lý tài sản (Asset management).
2.1.3.5 Các hoạt động tài trợ của BIDV
- Chuyển tiền đến: NHĐT&PTVN nhận lệnh thanh toán từ ngân hàng đại lý sẽ trả cho người được hưởng lợi theo chỉ dẫn.
- Chuyển tiền đi: NHĐT&PTVN nhận lệnh chuyển tiền từ khách hàng và thực hiện thanh toán theo chỉ dẫn thông qua ngân hàng giữ tài khoản Nostro. NHĐT &PTVN có thể chuyển tiền đến bất cứ thời điểm nào vào bất cứ thời gian nào.
- Nhờ thu hối phiếu trơn: Khi nhận được chứng từ tài chính, NHĐT &PTVN sẽ gửi chứng từ đòi tiền đến ngân hàng nhờ thu đòi tiền người trả tiền.
- Phát hành hối phiếu: NHĐT&PTVN phát hành hối phiếu ngân hàng theo thỏa thuận với ngân hàng có quan hệ đại lý theo yêu cầu của khách hàng.
- Phát hành thư tín dụng (L/C): Là việc NHĐT&PTVN phát hành ban hành văn bản theo chỉ dẫn của người yêu cầu cam kết thanh toán cho người hưởng lợi khi xuất trình chứng từ phù hợp với điều kiện điều khoản của thư tín dụng.
- Thông báo L/C: Hoạt động này cung cấp chức năng thông báo tín dụng thư của chi nhánh hoặc ngân hàng đại lý phát hành đến người hưởng lợi.
- Thông báo và xác nhận L/C: Hoạt động này cung cấp chức năng thông báo và xác nhận thư tín dụng của chi nhánh hoặc ngân hàng đại lý phát hành đến người hưởng lợi.
- L/C chuyển nhượng: Qua việc nhận được L/C chuyển nhượng theo yêu cầu của người hưởng lợi thứ nhất, NHĐT&PTVN có thể chuyển nhượng L/C cho bên thứ 3 với một giá trị nhỏ hơn giá trị của toán bộ thư tín dụng, và phần chênh lệch sẽ được trả cho người thứ nhất.
Nhờ thu kèm chứng từ hàng nhập: Là xử lý các chứng từ theo chỉ dẫn của ngân hàng gửi tiền để nhận được các khoản thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán từ người được ký phát.
- Thông báo bảo lãnh: Là hoạt động được thiết kế để cung cấp chức năng thông báo bảo lãnh của NHĐT&PTVN.
- Xác nhận bảo lãnh: Khi NHĐT&PTVN tiến hành xác nhận bảo lãnh thì NHĐT&PTVN cam kết thực hiện tất cả các điều khoản, điều kiện của bảo lãnh đó.
- Bảo lãnh nhận hàng: Được phát hành theo yêu cầu của khách hàng/người nhập khẩu để đảm bảo rằng người đó có thể nhận được hàng hoá trong trường hợp hàng hoá đến nơi nhập khẩu trước khi ngân hàng phát hành/nhờ thu nhận chứng từ.
- Chiết khấu: NHĐT &PTVN đàm phán và chiết khấu và có quyền truy đòi người xuất khẩu dựa trên hạn mức tín dụng đã được thiết lập.
- Thanh toán séc du lịch: Là dịch vụ do NHĐT&PTVN ứng tiền mặt khi khách hàng xuất trình séc du lịch đủ điều kiện.
Dịch vụ chuyển tiền
- Chuyển tiền đi trong nước: NHĐT&PTVN chuyển tiền cho người thụ hưởng trong nước theo lệnh của khách hàng. Với mạng lưới trên 200 đơn vị thanh toán trong cả nước, NHĐT&PTVN sẽ thực hiện các yêu cầu chuyển tiền tới tất cả các địa phương trong cả nước.
- Chuyển tiền đến trong nước: Khi nhận được yêu cầu thanh toán, chi nhánh NHĐT&PTVN phục vụ người thụ hưởng sẽ thực hiện thanh toán bằng cách ghi Có vào tài khoản hoặc chi trả tiền mặt cho người hưởng.
- Chuyển tiền kiều hối: NHĐT&PTVN thực hiện lệnh chuyển tiền từ nước ngoài cho người thụ hưởng tại Việt Nam.
Dịch vụ E-banking
- Thẻ ATM bao gồm:
Thẻ Etrans365+ L: Là loại thẻ ghi nợ do NHĐT&PTVN phát hành cho khách hàng cá nhân. Khách hàng có thể rút tiền từ hệ thống máy ATM trên toàn quốc từ tài khoản thanh toán/tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn (CA/SA) của mình.
Thẻ Vạn dặm: Là loại thẻ ghi nợ do NHĐT&PTVN phát hành cho khách hàng cá nhân, khách hàng gửi tiền vào tài khoản CA/SA và rút tiền từ các máy ATM của NHĐT&PTVN trên phạm vi toàn quốc.
Thẻ Power : Là thẻ ATM với tính năng cho vay do NHĐT&PTVN phát hành cho khách hàng cá nhân, khách hàng nộp tiền vào tài khoản CA/SA và rút tiền tại các máy ATM trên toàn quốc, với tính năng thấu chi, tài khoản của khách hàng sẽ được thấu chi với một số tiền bằng hạn mức thấu chi.
- Dịch vụ gửi, nhận tin nhắn tự động (BSMS): Là một loại dịch vụ cung cấp qua điện thoại di động. Khách hàng sử dụng dịch vụ này có thể thực hiện các giao dịch như xem tỷ giá, lãi suất, thông báo về biến động số dư tài khoản trong ngày.
- Dịch vụ ngân hàng tại gia homebanking: Khách hàng sử dụng máy tính để truy vấn thông tin về tài khoản và thực hiện các lệnh chuyển tiền, NHĐT&PTVN nhận lệnh chuyển và phan điện đi tới người thực hưởng, khách hàng phải trả phí cho dịch vụ này.
Dịch vụ ngân quỹ
- Thu hộ tại doanh nghiệp: Nhân viên NHĐT&PTVN đến trụ sở làm việc/đại lý/chi nhánh của doanh nghiệp để thu tiền mặt.
- Thu đổi tiền cũ hỏng: NHĐT&PTVN đổi tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông của khách hàng thành tiền đủ tiêu chuẩn lưu thông.
- Kiểm, đếm tiền tại trụ sở ngân hàng: Khách hàng mang tiền đến ngân hàng đề nghị ngân hàng kiểm đếm.
- Kiểm định tiền thật, giả: Khách hàng mang tiền đến ngân hàng đề nghị kiểm định thật giả.
Các hoạt động khác
- Góp vốn liên doanh - liên kết trong và ngoài nước.
- Cung cấp các dịch vụ đầu tư chứng khoán thông qua công ty chứng khoán NHĐT&PTVN (BSC).
- Làm ngân hàng chỉ định thanh toán cho trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh.
- Cho thuê tài chính thông qua công ty cho thuê tài chính NHĐT &PTVN (BLC)
Bảo hiểm phi nhân thọ thông qua công ty bảo hiểm NHĐT&PTVN (BIC).
- Tư vấn tài chính và đầu tư.
- Làm ngân hàng đại lý cho vay tài trợ uỷ thác đối với các nguồn vốn hỗ trợ phát triển trong nước và quốc tế.
- Các dịch vụ chi trả tiền lương: Là việc NHĐT&PTVN thực hiện lệnh chi của khách hàng cho nhiều người thụ hưởng đồng thời trong một giao dịch. Trong đó, người thụ hưởng có thể có hoặc không có tài khoản tại ngân hàng.
Kết quả đạt được :
Hoạt động thanh toán trong nước
Năm 2005, NHĐT&PTVN đã xây dựng các chương trình, ứng dụng mới để đáp ứng nhu cầu sử dụng của khách hàng như NHĐT&PTVN-Homebanking với chức năng chuyển khoản, thanh toán, xem thông tin khoản vay, thông tin ngân hàng,…sản phẩm NHĐT&PTVN-Smart@ccount cung cấp cho khách hàng là các doanh nghiệp lớn, chương trình thanh toán kết quả bù trừ chứng khoán, thực hiện kết nối giữa một số chi nhánh của NHĐT&PTVN với các ngân hàng khác để phục vụ khách hàng nhằm tăng thu dịch vụ, giảm chi phí cho toàn ngành. Doanh số thanh toán trong nước đạt 223.709 tỷ VNĐ và 3.833 triệu USD, các ngoại tệ khác tương đương 134 triệu USD quy đổi.
Hoạt động thanh toán quốc tế
Doanh số thanh toán quốc tế của NHĐT&PTVN năm 2005 đạt 6,45 tỷ USD tăng 53,6% so với năm 2004, trong đó doanh số thanh toán xuất khẩu của NHĐT&PTVN đạt 1,2 tỷ USD, thanh toán nhập khẩu đạt 2,6 tỷ USD.
Hoạt động bảo lãnh
NHĐT&PTVN cung cấp các loại hình dịch vụ bảo lãnh khác nhau, bao gồm bảo lãnh trong thi công xây lắp, cam kết thanh toán L/C, bảo lãnh thanh toán trái phiếu, … năm 2005, số dư bảo lãnh của NHĐT&PTVN đạt 22.443 tỷ VNĐ, phí bảo lãnh đạt 111,53 tỷ VND.
Hoạt động thẻ
Đối với hoạt động kinh doanh thẻ trong năm 2005, NHĐT&PTVN đã phát hành 300.000 thẻ. Mức phí ròng thu được từ hoạt động kinh doanh này của NHĐT&PTVN trong năm 2005 đạt 5,3 tỷ VND tăng 77,8% so với năm 2004.
Hoạt động đại lý uỷ thác
NHĐT&PTVN đã được Bộ Tài Chính chấp thuận chọn làm ngân hàng phục vụ cho 16 chương trình dự án mới từ nguồn ADB, WB, NIB, Nhật, Đức và các nước khác với tổng trị giá 436,64 triệu USD vào cuối năm 2005. Tổng số dự án uỷ thác là 242 (120 dự án cho vay lại và 122 dự án uỷ thác rút vốn). Năm 2005, doanh số cho vay là 1.344 tỷ VND, dư nợ 3.830 tỷ VND, lãi và phí thu là 3,05 tỷ VND (không kể phí thu từ nguồn JBIC và thu phí khoản vay Ngân hàng Phát triển Châu á của UBNN TP.Hồ Chí Minh).
Dự án tài chính nông thôn (TCNT)
Dự án TCNT I đạt 1.281 tỷ VND, không có nợ quá hạn của các định chế. Dư nợ dự án TCNT II đạt 2.091 tỷ VND. Với thành công của 2 dự án, NHĐT&PTVN đang hoàn thiện thủ tục để tiếp nhận Dự án TCNT III.
2.2 Thực trạng nguồn vốn và huy động vốn tại NH ĐT&PT Việt Nam
2.2.1 Cơ cấu nguồn vốn của NHĐT&PTVN
Nguồn vốn của NHĐT&PTVN bao gồm vốn huy động từ các tổ chức tín dụng, huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế, vốn của NHĐT&PTVN còn được hình thành thông qua nghiệp vụ phát hành các chứng từ có giá, ngoài ra một phần quan trọng trong cơ cầu nguồn vốn của NHĐT&PTVN là vốn chủ sở hữu.
Sau gần 50 năm xây dựng và trưởng thành, NHĐT&PTVN đã đạt được những thành công trong công tác huy động vốn. Năm 2002, tổng nguồn vốn của NHĐT&PTVN là 73.746 tỷ đồng, đến năm 2005, con số này đã lên đến 121.403 tỷ đồng tăng gần 64,62% và vốn huy động lên tới 111.907 tỷ đồng vào năm 2005 so với 68.655 tỷ đồng là số vốn huy động được của BIDV năm 2002, tăng 62,99% chỉ sau 3 năm.
Bảng 1- Cơ cấu nguồn vốn của NH ĐT&PTVN
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
Quy đổi VNĐ
Tỷ lệ %
Quy đổi VNĐ
Tỷ lệ %
Quy đổi VNĐ
Tỷ lệ %
Quy đổi VNĐ
Tỷ lệ %
Tổng nguồn vốn
73.746
100
87.430
100
102.715
100
121.403
100
Vốn chủ sở hữu
3.760
5,09
5.503
46,35
6.182
12,34
6.530
5,63
Vốn huy động
68.655
90,09
80.230
16,86
94.714
18,05
111.907
18,15
Vốn khác
1331
1,82
1.697
27,50
1.819
7,19
2.966
63,05
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Biểu 1.1 – Tổng nguồn vốn của BIDV
Biểu 1.2 –Vốn chủ sở hữu của BIDV Biểu 1.3 –Vốn huy động của BIDV
Biểu 1.4 –Vốn khác của BIDV
Một trong những nghiệp vụ chính của Ngân hàng thương mại đó là huy động vốn, vì thế trong tổng nguồn vốn của một NHTM thì vốn huy động bao giờ cũng có tỷ trọng cao nhất, NH ĐT&PTVN cũng không ngoại lệ. Trong thời gian qua NH ĐT&PTVN đã luôn đặt nhiệm vụ huy động vốn lên hàng đầu, từ đó NH ĐT&PTVN đã chủ động đưa ra các biện pháp huy động vốn, chính sách lãi suất phù hợp với thị trường, cải thiện cơ cấu nguồn vốn một cách hợp lý, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ khai thác có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư và các tổ chức. Vì thế vốn huy động luôn giữ được mức tăng trưởng ổn định, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm sấp xỉ gần 20%, luôn chiếm trên 90% tổng nguồn vốn của NH ĐT&PTVN. Vốn chủ sở hữu chiếm trên 6% tổng nguồn vốn, trong xu thế hội nhập với nền kinh tế quốc tế như hiện nay thì NH ĐT&PTVN muốn tham gia vào thì phải chú trọng đến nguồn vốn chủ sở hữu của mình sao cho đảm bảo được các yêu cầu về an toàn hoạt động ngân hàng theo hiệp định Basel, cụ thể là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn phải tối thiểu là 8%. Vì thế, trong thời gian tới NHĐT&PT VN cần phải cố gắng nâng cao năng lực tài chính, đẩy nhanh tốc độ tăng vốn chủ sở hữu để đáp ứng được yêu cầu về chỉ tiêu an toàn hoạt động ngân hàng. Mặt khác NH ĐT&PTVN cũng cần phải đẩy mạnh hoạt động tín dụng, huy động vốn đi đôi với tăng vốn chủ sở hữu.
2.2.2 Thực trạng nguồn vốn của NHĐT&PTVN
Trước tình hình thị trường tiền tệ có nhiều biến động về lãi suất trong nước và trên thị trường quốc tế, tình hình lạm phát, cạnh tranh về huy động vốn giữa các tổ chức tín dụng trong nước gây ảnh hưởng mạnh mẽ tới công tác huy động vốn của các NHTM nói chung và NHĐT&PTVN nói riêng.
Trong bối cảnh như vậy, NHĐT&PTVN đã chủ động áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt dựa trên cơ sở cung - cầu vốn trên thị trường, tích cực cải thiện chênh lệch lãi suất cho vay - huy động, cải thiện quản trị thanh khoản dựa trên hệ thống thông số an toàn và phát triển nhiều công cụ huy động vốn mới như chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm có lãi suất bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm bảo an,…Các biện pháp chủ động và linh hoạt trong điều chỉnh lãi suất với cá nhân, doanh nghiệp đối với cả tiền đồng và ngoại tệ đã góp phần làm giảm thiểu những tác động bất lợi đến công tác huy động vốn, nâng cao hệ số sử dụng vốn, chất lượng quản trị v._. ngân hàng : An toàn - Hiệu quả - Tăng trưởng, an toàn ở đây là trong mọi lĩnh vực kinh doanh, hiệu quả mang ý nghĩa kinh tế xã hội, tăng trưởng phù hợp với tốc độ phát triển nền kinh tế của đất nước và chính sách tiền tệ của NH ĐT&PTVN
Đối với khách hàng: Đem đến cho ngân hàng sự an toàn tiền gửi, phục vụ nhanh chóng với giá rẻ. Khách hàng của NH ĐT&PTVN là các Tổng công ty lớn, các tập đoàn,…, các khách hàng này có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước và các khu vực có tiềm năng lớn về kinh tế.
Xây dựng mô hình tổ chức một cách khoa học, phù hợp với mục tiêu kinh doanh, phát huy được tính sáng tạo, xây dựng bộ máy quản lý có hiệu quả cao, năng động, vừa đảm bảo cơ chế quản lý của Nhà nước về kinh tế, vừa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của cơ chế thị trường.
Xây dựng hệ thống công nghệ ngân hàng hiện đại, tiên tiến, vừa có khả năng nâng cao chất lượng phục vụ, tạo ra nhiều sản phẩm ngân hàng mới, vừa nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát chống rủi ro. Hệ thống công nghệ tiên tiến được coi là cơ sở hạ tầng, là đòn bẩy cho sự phát triển của NH ĐT&PTVN
Xây dựng đội ngũ cán bộ có chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp, đồng thời tạo ra những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản trị ngân hàng hiện đại trong cơ chế thị trường.
3.1.2 Chiến lược huy động vốn
Nguồn vốn là thế mạnh, là động lực tạo đà cho việc thực hiện thành công chiến lược phát triển NH ĐT&PTVN đến năm 2010. Chính vì thế, NH ĐT&PTVN tiếp tục duy trì và phát huy các biện pháp huy động vốn hiệu quả, có khả năng cạnh tranh cao, nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng và các tổ chức. Dựa trên uy tín đã có sẵn ở thị trường trong và ngoài nước, NH ĐT&PTVN thúc đẩy hơn nữa nguồn vốn uỷ thác của Nhà nước và của các tổ chức nước ngoài.
Từ nay đến năm 2010, NH ĐT&PTVN phấn đấu giữ thế mạnh hàng đầu về nguồn vốn, nhất là vốn trung và dài hạn trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Chiến lược huy động vốn cần phải đối phó với thách thức từ sự phát triển của thị trường chứng khoán, các công ty bảo hiểm,…
Đặc thù của nền kinh tế Việt Nam là tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông rất lớn, tỷ lệ người dân sử dụng các dịch vụ của ngân hàng còn thấp. Nhiệm vụ của hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói chung và NH ĐT&PTVN nói riêng trong thời gian tới là phải từng bước khắc phục tình trạng trên, cải thiện phương thức thanh toán, cung cấp cho thị trường những tiện ích thuận lợi dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến, đưa ngân hàng trở nên gần gũi hơn với người dân.
Xuất phát từ những quan điểm đó, NH ĐT&PTVN đã xác định chiến lược huy động vốn, bao gồm:
Phát triển các hình thức huy động vốn như hiện nay
áp dụng chính sách lãi suất có tính cạnh tranh cao trên thị trường.
Đẩy nhanh tiến bộ khoa học công nghệ, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
Đa dạng hoá các nguồn vốn
Tăng cường hơn nữa nguồn vốn trung và dài hạn
Đẩy mạnh quan hệ với các ngân hàng trong và ngoài nước. Đẩy mạnh hình thức huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu quốc tế, thực hiện vay vốn nước ngoài dưới hình thức tài trợ vốn, vay theo hạn mức tín dụng,…
3.3 Giải pháp tăng trưởng nguồn vốn tại NHĐT&PT Việt Nam
Tăng cường vốn huy động là điều kiện tiên quyết để giữ vững vị thế của một NHTM hàng đầu. Có vốn lớn mới thúc đẩy được tăng trưởng tín dụng, tạo đà cho việc thực hiện thành công nhiệm vụ kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy trên cơ sở phân tích và dự đoán tình hình phát triển kinh tế của đất nước, xác định tỷ lệ vốn huy động kỳ vọng của thị trường trong nước và thị trường ngoài nước, đánh giá đúng thế mạnh, điểm yếu của mình trong bối cảnh có nhiều loại hình ngân hàng cùng hoạt động, NH ĐT&PTVN cần có giải pháp riêng cho mình để tăng cường huy động vốn trên nguyên tắc: huy động cả nội lực tài chính của mình lẫn nội lực bên ngoài.
3.2.1 Đa dạng hóa hình thức huy động vốn
Hiện nay các hình thức huy động vốn của NH ĐT&PTVN tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa được phong phú. Phổ biến mới có các loại tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, tài khoản tiền gửi thanh toán. Trong khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng thêm các dịch vụ mới ngày càng gia tăng. NH ĐT&PTVN cần tiếp tục cải tiến, phát triển đa dạng hoá sản phẩm đem lại tiện ích cho từng đối tượng khách hàng.
3.2.1.1 Đối với khách hàng cá nhân
Đây là đối tượng là lâu dài đem lại nguồn vốn ổn định cho Ngân hàng, nhất là tăng tỷ trọng vốn huy động trung và dài hạn trong cơ cấu nguồn vốn. Các ngân hàng cũng như các tổ chức phi ngân hàng ngày càng quan tâm tới nhóm khách hàng này.
NH ĐT&PTVN không ngừng đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở nâng cao hàm lượng công nghệ và tăng độ an toàn cho khách hàng cũng như chính bản thân ngân hàng nhằm thu hút vốn từ khách hàng cá nhân.
NH ĐT&PTVN cần phát triển cả 3 nhóm sản phẩm huy động vốn đối với cá nhân là tài khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản tiết kiệm, và các sản phẩm mang tính chất đầu tư.
Tài khoản tiền gửi thanh toán - tiền gửi vãng lai: NH ĐT&PTVN cần có chính sách khuyến khích cá nhân người Việt Nam cũng như người nước ngoài mở tài khoản tiết kiệm tại ngân hàng. Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu chi tiêu, thanh toán ngày càng gia tăng. Với thị trường đầy tiềm năng với hơn 80 triệu dân, việc đưa các sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu cuả khách hàng đồng thời áp dụng các dịch vụ giá trị gia tăng đi kèm tạo điều kiện cho việc thu nguồn vốn rất lớn với giá thành thấp cho ngân hàng. Mặt khác do tính chất phân tán của khách hàng nên giảm tính phụ thuộc của ngân hàng vào khách hàng.
Để nhanh chóng mở rộng thị trường bán lẻ NH ĐT&PTVN theo chiến lược phát triển của mình thì NH ĐT&PTVN cần nghiên cứu sớm đưa vào sử dụng các sản phẩm mới, hiện đại trên nền tảng công nghệ cao như:
Phone Banking (dịch vụ ngân hàng qua điện thoại): Dịch vụ này cho phép khách hàng có tài khoản tại NH ĐT&PTVN tiếp cận và sử dụng dịch vụ của NH để thanh toán các hoá đơn dịch vụ sinh hoạt hàng ngày, giao dịch đặt lệnh chứng khoán từ xa, đồng thời khách hàng cũng nhận được các thông tin về số dư tài khoản, tỷ giá lãi suất,… Sản phẩm này sẽ đem đến cho khách hàng tiện ích vượt trội, rút ngắn khoảng cách giữa khách hàng và ngân hàng, thu hút số vốn lớn người dân mở và sử dụng tài khoản tại ngân hàng phù hợp với chủ trương chính sách của NH ĐT&PTVN.
Thấu chi trên tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân cho phép khách hàng được thấu chi từ tài khoản cá nhân của mình trong hạn mức cho phép. Nhu cầu sử dụng sản phẩm này lớn rủi ro không cao, tính cạnh tranh lớn nên NH ĐT&PTVN cần đưa sản phẩm này cung cấp cho đối tượng khách hàng cá nhân là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài có thu nhập ổn định thông qua tài khoản thanh toán mở tại NH ĐT&PTVN.
Tài khoản tiền gửi có dịch vụ thanh tóan hóa đơn tự động, tiền gửi có số dư nhất định được trả lãi theo lãi suất thị trường tiền tệ, hay lãi suất tự động bậc thang theo hướng số dư càng lớn thì lãi suất được hưởng càng cao.
Phát triển hệ thống ATM có khả năng đảm bảo cho khách hàng rút, nộp vào tài khoản giảm thiểu thời gian giao dịch qua quầy.
Triển khai kế hoạch thu hút nguồn vốn tiền kiều hối: NH ĐT&PTVN cần liên kết với các công ty xuất khẩu lao động, các công ty dịch vụ kiều hối ở nước ngoài, các ngân hàng đại lý nước ngoài để thu hút nguồn kiều hối đáng kể chuyển về và gửi ở ngân hàng. Với hơn 2,5 triệu kiều bào đang sinh sống ở nứơc ngoài chỉ riêng việc chuyển tiền về giúp đỡ gia đinh người thân theo ước tính chung, hằng năm có thể đạt kim ngạch từ 2 tỷ USD trở lên. Chưa kể đến chúng ta hiện đạng có một lực lượng lớn người dân đang tham gia hoạt động ở nước ngoài,… Gia tăng dịch vụ này nhằm gia tăng huy động vốn và tăng cường phu phí dịch vụ từ việc thanh toán.
NH ĐT&PTVN cần sớm đưa vào sử dụng rộng rãi hình thức thanh toán bằng séc cá nhân, đảm bảo an toàn cho khách hàng và tăng nguồn tiền gửi tối đa tại ngân hàng.
Tài khoản tiết kiệm
Vốn huy động từ tài khoản luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn huy động. Vì vậy NH ĐT&PTVN cần đa dạng hóa các sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng nhằm giữ khách hàng truyền thống mở rộng khách hàng mới trên thị trường khác nhau. NH ĐT&PTVN phải tính đến tính hấp dẫn, linh hoạt của sản phẩm mới như tiệt kiệm cho tương lai (tiết kiệm tích luỹ) tiết kiệm mua nhà ở, ô tô, tiết kiệm vì sự thành tài của con em (tiết kiệm du học) hay một số hình thức tiết kiệm kèm dịch vụ, tiết kiệm bảo đảm giá trị, bảo hiểm tỷ giá,… tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm an sinh học đường, tiết kiệm hôn nhân, tiết kiệm báo hiếu…
Đa dạng hóa các kỳ hạn huy động: Hiện nay NH ĐT&PTVN huy động tiền gửi tiết kiệm các loại kỳ hạn từ 1 tháng đến 60 tháng. Xuất phát từ nhu cầu của khách hàng NH ĐT&PTVN cần đa dạng hóa các kỳ hạn huy động từ những kỳ hạn ngắn dưới 1 tháng đến những kỳ hạn trên 60 năm.
Đa dạng hoá cách tính và trả lãi cho khách hàng, đảm bảo lợi ích cho cả hai bên đưa ra sản phẩm có tính linh hoạt cao.
Tăng cường huy động qua hình thức cho vay. Ngoài hình thức cho vay thông qua các hợp đồng, hiệp định khung cần có thêm các hình tức như phát hành trái phiếu ngoại tệ trong và ngoài nước, đồng thời lựa chọn và liên kết với các doanh nghiệp thực hiện phát hành trái phiếu công trình, công ty, …
Liên kết với bảo hiểm để có thể bán chéo sản phẩm như tiết kiệm gửi góp, phát triển các đại lý thu đổi ngoại tệ, …
Triển khai sản phẩm huy động bằng tiết kiệm bằng vàng. Trong thực tế ngoài lượng tiền đồng hay ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi, người dân Việt Nam thường có thói quen để dành vàng. NH ĐT&PTVN hiện chưa có hình thức huy động bằng vàng, tuy nhiên triển khai hình thức này thu hút thêm một lượng vốn khá phong phú. Để áp dụng hình thức này thì đòi hỏi NH ĐT&PTVN phải làm tốt khâu kiểm định đánh giá chất lượng vàng.
Các hình thức huy động vốn mang tính chất đầu tư:
NH ĐT&PTVN cần nghiên cứu xem xét để áp dụng các hình thức huy động vốn mới, phát hành kỳ phiếu tiền gửi với lãi suất cố định được trả lãi định kỳ,… Sớm đưa dịch vụ uỷ thác quản lý tài sản vào triển khai, mở tài khoản đầu tư tự động, hay các sản phẩm để khách hàng tham gia đầu tư cùng ngân hàng, cùng chia sẻ rủi ro và lợi nhuận.
Đưa ra các chính sách về sản phẩm mới cũng như áp dụng thành công sản phẩm mới này NH ĐT&PTVN cần nhanh chóng xây dựng và triển khai phòng chuyên trách về phát triển sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho từng đối tượng khách hàng là tổ chức và cá nhân.
3.2.1.2 Đối với khách hàng là tổ chức
Đây là đối tượng đem lại nguồn vốn huy động rất lớn cho NH ĐT &PTVN với chi phí thấp. NH ĐT&PTVN cần sớm triển khai các sản phẩm như trả lương tự động, quản lý vốn tự động, dịch vụ ngân hàng điện tử (E-Banking).
áp dụng các sản phẩm và dịch vụ để hỗ trợ khách hàng như tín dụng, mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế để tạo sự gắn bó với khách hàng và duy trì tài khoản tại NH ĐT&PTVN.
Mở thêm các dịch vụ như dịch vụ quản lý tiền, quản lý rủi ro bằng sản phẩm hedging, chiết khấu, cấp giấy tờ có giá,…
Mở rộng hoạt động tài chính, chi trả thu nhập, lương cho doanh nghiệp lớn. Hoạt động này tạo ra một lượng tài khoản lớn và tiền gửi khá lớn từ các doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên của họ.
NH ĐT&PTVN cần đưa ra những chính sách nhằm thu hút nhiều hơn nữa nguồn kiều hối. Vì với lợi thế về mạng lưới như hiện nay, BIDV có thể kết hợp với một số biện pháp như hỗ trợ thanh toán tiền kiều hối, thành lập công ty phụ trách về nguồn tiền này vì thực tế lượng kiều hối chuyển về qua các công ty là rất lớn, tạo nguồn ngoại tệ đáng kể cho ngân hàng.
Ngoài ra trong công tác thanh toán xuất nhập khẩu, nhất là trong hoạt động mở L/C, BIDV có thể huy động bằng cách giảm tỷ lệ ký quỹ xuống hoặc tiền ký quỹ của khách hàng tại BIDV được hưởng lãi suất có kỳ hạn thay bằng không kỳ hạn như hiện nay.
3.2.2 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngân hàng
Trong bất kỳ một hoạt động nào của ngân hàng, nhân tố con người luôn có vai trò mang tính quyết định tới hiệu quả và độ an toàn trong hoạt động đó cho dù ngân hàng đó được trang bị những công nghệ hiện đại nhất. Vì thế để BIDV cần phải tiến hành một số biện pháp như:
áp dụng chính sách tuyển dụng công khai, tuyển dụng từ nhiều nguồn khác nhau như từ các trường đại học, từ nguồn du học sinh,…
áp dụng chính sách huấn luyện đào tạo lại thường xuyên, định kỳ đối với nhân viên cũ.
Có chính sác lương bổng hấp dẫn nhân tài vào làm việc
Chính sách thưởng phạt hợp lý, công bằng.
3.2.3 Cơ cấu lại mô hình tổ chức và phát triển mạng lưới
NH ĐT&PTVN sớm cấu trúc lại hệ thống theo mô hình định hướng khách hàng kết hợp với sản phẩm. Đây là mô hình tổ chức quản lý hiện đại vừa để xây dựng kênh phân phối dịch vụ phù hợp với .
Thành lập công ty chuyển tiền kiều hối để huy động nguồn kiều hối rất lớn từ nước ngoài chuyển về.
Trước xu thế cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt như hiện nay, mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển hoạt động của NH ĐT&PTVN.
Xây dựng mạng lưới hệ thống các chi nhánh cấp I và các phòng giao dịch, các công ty trực thuộc trên những địa bàn có hoạt động kinh tế sôi động. Trên cơ sở phân tích hiệu quả và tiềm năng phát triển, BIDV cần có những chính sách ưu đãi đặc biệt để khuyến khích huy động vốn trên từng địa bàn cụ thể.
Ngân hàng cần mở thêm quỹ tiết kiệm ở nơi đông dân cư và nên mở thêm thời gian giao dịch 2 ca, ca 2 từ 17h đến 20h, giao dịch thêm vào những ngày nghỉ những ngày lễ. Như thế sẽ đáp ứng tốt hơn cho những khách hàng không có thời gian đến giao dịch với ngân hàng vào các ngày trong tuần và trong giờ hành chính
Đưa thêm hình thức quỹ tiết kiệm lưu động mà trước hết là đến phường, xã, định kỳ mỗi lần từ một đến hai lần, phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền, quảng cáo, hướng dẫn khách hàng làm thủ tục nhận tiền gửi và chi trả.
Bên cạnh việc phát triển mạng lưới trong nước, BIDV cũng cần phải chú trọng tới việc mở các văn phòng đại diện, chi nhánh tại nước ngoài. Thông qua các văn phòng đại diện, chi nhánh ở nước ngoài thì có thể thu hút được nguồn kiều hối từ các nước này gửi về Việt Nam.
Mỗi chi nhánh của BIDV và cả BIDV Trung ương cần thiết phải có bộ phân chuyên trách về phát triển mạng lưới riêng trển địa bàn do mình quản lý nhằm thu hút hơn nữa nguồn vốn tại địa bàn.
3.2.4 Đầu tư phát triển công nghệ
Hiện nay NH ĐT&PTVN tiếp tục duy trì, hoàn thiện và mở rộng các ứng dụng tin học như kế toán giao dịch, thanh toán quốc tế, thông tin quản lý để phục vụ hiệu quả hơn cho hoạt động kinh doanh. Từng bước nghiên cứu ứng dụng các giải pháp công nghệ mới, các dịch vụ ngân hàng mới dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại.
BIDV cần trang bị thêm hệ thống điện thoại, máy vi tính tới các phòng ban để giảm bớt công việc thủ công. Trang bị máy tính xuống các quỹ tiết kiệm, chi nhánh để có thể xử lý tức thời các giao dịch mà không phải xử lý theo lô cuối ngày như đang làm tại chi nhánh, sau đó các máy tính ở các quỹ được nối mạng với máy chủ tại trụ sở. Làm được như vậy sẽ đảm bảo an toàn tài sản và giảm bớt thời gian trong quá trình giao dịch với khách hàng, giúp cho quản lý nguồn vốn dễ dàng hơn.
Mặt khác BIDV cần cung cấp các thiết bị để tiến hành các dịch vụ mới như thẻ thanh toán, thẻ rút tiền tự động. Để thực hiện cơ giới hoá toàn hệ thống các quỹ tiết kiệm, các chi nhánh thì ngân hàng phải đào tạo cán bộ ở các quỹ phải sử dụng được máy tính thành thạo.
BIDV cần có bộ phận chuyên trách nghiên cứu về chiến lược phát triển công nghệ thông tin, có sự gắn kết những mục tiêu của bộ phận nghiên cứu phát triển chiến lược công nghệ thông tin trong ngắn hạn cũng như dài hạn với mục tiêu chung của mình một cách đồng bộ, có định hướng tránh tình trạng nhanh chóng lạc hậu sau khi đưa vào sử dụng.
3.2.5 Tăng cường công tác Marketing quảng bá sản phẩm, dịch vụ
Mặc dù cần giảm thấp chi phí nhưng ngân hàng vẫn nên duy trì kinh phí đáng kể cho các hoạt động quảng cáo thiết thực.Việc hạn chế hoạt động quảng cáo và khuếch trương trong điều kiện hiện nay của ngân hàng là không hợp lý, vì nó làm cho người gửi tiền không nắm bắt, không biết đến ngân hàng. Việc quảng cáo phải được tiến hành thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng, tập trung vào các vấn đề như hình thức gửi, lãi suất, lợi ích của khách hàng khi gửi tiền. Cũng nên có những hình thức khuyến mại đối với khách hàng nhằm duy trì mối quan hệ thường xuyên và cũng bởi chính họ là người quảng cáo tuyên truyền tốt nhất cho ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng cũng cần mở rộng cung cấp thông tin tư vấn giúp cho người gửi tiền biết nên đầu tư vào đâu để có lợi.
Ngoài việc quảng cáo những thông tin và hoạt động chung của ngân hàng qua báo chí, qua các phương tiện thông tin trước đây, NH ĐT&PTVN nên áp dụng một số loại quảng cáo có chi phí không cao nhưng khá hiệu quả như: phát hành lịch biếu vào dịp tết, dán biểu tượng tại các khách hàng mà có giao dịch với ngân hàng. Bên cạnh đó ngân hàng có thể sử dụng nhiều hơn nữa những phóng sự trên ti vi hay báo chí để quảng cáo cụ thể hơn hoạt động và dịch vụ của ngân hàng. Tuy nhiên, chi phí cho các phóng sự này thường cao nên ngân hàng cần lựa chọn thời điểm thích hợp.
Ngoài ra BIDV còn có thể thường xuyên cung cấp các thông tin về tình hình tài chính cũng như tính minh bạch của ngân hàng mình giúp khách hàng có thể hiểu hơn về BIDV hay các sản phẩm mà BIDV đã và đang cung cấp trên thị trường. Từ đó tạo cho khách hàng một cách nhìn tổng quát về BIDV, làm tăng lòng tin của công chúng đối với BIDV, như thế sẽ tạo điều kiện để thu hút vốn được nhiều hơn.
Ngoài ra, Marketing ngân hàng thì đòi hỏi tính chuyên nghiệp rất cao, vì thế BIDV ngoài vệic thành lập phòng Marketing thì cũng cần phải thành lập một ban riêng trong phòng Marketing để thực hiện. Cấu trúc tổ chức của phòng Marketing bao gồm bộ phận thu thập thông tin hàng ngày từ các nguồn bên ngoài như báo chí, văn bản pháp luật,…bộ phận thu thập thông tin nội bộ thông qua báo cáo nội bộ thường kỳ, kết quả phân tích Marketing và cuối cùng là bộ phận phân tích hỗ trợ ra quyết định Marketing.
Để thực hiện thành công Marketing trong BIDV, ngoài bộ phận chuyên trách về Marketing thì tất cả các nhân viên cũng như ban lãnh đạo đều phải tham gia vào hoạt động này, coi tiếp thị là một công tác trọng tâm, là trách nhiệm của toàn thể cán bộ trong BIDV, áp dụng chính sách khuyến khích, tạo động lực đến từng cán bộ. Bên cạnh đó, BIDV cũng cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, giáo dục thái độ phục vụ ân cần, niềm nở cho đội ngũ cán bộ trong BIDV, nhất là các nhân viên tại quầy, phòng giao dịch. Thái độ phục vụ chính là một yếu tố tạo nên ấn tượng cho khách hàng về BIDV. Đây chính là hình tức quảng bá hình ảnh của BIDV tốt nhất đối với khách hàng.
3.2.6 Thực hiện tốt chính sách khách hàng
Ngân hàng cần thực hiện tốt chính sách khách hàng, nhằm tạo ra được lượng khách hàng lành mạnh hơn. Chính sách khách hàng cần phải được công báo rộng rãi trên cơ sở đẩy mạnh và phát triển công tác thông tin, tuyên truyền quảng cáo để công chúng có thể biết được lợi ích của việc gửi tiền vào ngân hàng so với việc cất giữ hoặc đầu tư vào các hình thức khác có nhiều rủi ro.
Kèm là một loạt các hình thức khuyến mại khác có tác động trực tiếp vào tâm lý người gửi tiền như việc khuyến khích bằng lợi ích vật chất: Trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, để có được ưu thế vững vàng, ngân hàng không những quan tâm đến vấn đề đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng mà còn phải chú ý đến mặt vật chất và tinh thần. Khắc phục tình trạng gửi tiền để tham dự xổ số có thưởng, hình thức này chỉ đem lại may mắn cho vài người như trước đây. Chúng ta nên có những món quà lưu niệm vào những ngày lễ, tết, ít hay nhiều tuỳ theo số dư tiền gửi và tính truyền thống của từng khách hàng mà có sự khuyến khích bằng vật chất tương ứng. Những việc làm này tuy nhỏ nhưng lại có tác dụng rất tích cực, nó tạo sự gần gũi thân thiện giữa ngân hàng và khách hàng, giữ cho mối quan hệ này ngày càng mở rộng và bền vững.
Ngân hàng cần có chính sách thưởng cho các đơn vị kinh tế có số dư tiền gửi lớn, hoặc cho các đơn vị này vay vốn với lãi suất ưu đãi (thấp hơn mức lãi suất quy định).
Ngân hàng cũng cần có những hình thức khác như: Tổ chức hội nghị khách hàng, tổ chức các cuộc họp mặt đối với những khách hàng lớn tại chi nhánh để họ hiểu thêm hoạt động của ngân hàng.
Ngân hàng nên có hòm thư góp ý để khách hàng kịp thời tham gia chấn chỉnh những sai sót trong quá trình hoạt động của ngân hàng.
Phải có một chính sách khách hàng toàn diện trên mọi khía cạnh và coi nó là một chiến lược trong hệ thống chiến lược kinh doanh.
3.2.7 NHĐT&PTVN cần vận dụng cơ chế lãi suất linh hoạt
Lãi suất là công cụ quan trọng mà các ngân hàng có thể sử dụng để tăng cường quy mô, điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn. Trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn một cách hợp lý, ngoại trừ tiền gửi giao dịch ít nhạy cảm với lãi suất, các nguồn vốn có kỳ hạn đều có những phản ứng rất nhạy cảm với lãi suất huy động của ngân hàng. Với biểu lãi suất thay đổi từng thời kỳ có thể vận dụng mức lãi suất tối đa cho loại tiền gửi có kỳ hạn cần tăng tỷ trọng trong khi tiền gửi kỳ hạn khác không nhất thiết áp dụng mức tối đa. Thông qua việc áp dụng lãi suất huy động cho từng loại tiền gửi, có thể điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn sao cho phù hợp với danh mục tài sản nhằm tạo cơ hội tăng lợi nhuận.
Lãi suất huy động áp dụng trong từng thời kỳ phải tuân theo quy luật về cung cầu vốn trên thị trường, trong đó lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, kế hoạch huy động vốn phải được thực hiện dựa trên kế hoạch sử dụng vốn.
Lãi suất huy động có ảnh hưởng lớn trong việc huy động tiền gửi nên ngoài yếu tố lòng tin vào ngân hàng, nếu mức lãi suất huy động hợp lý thì sẽ thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào ngân hàng, sẽ làm gia tăng khối lượng vốn huy động. Hiện nay, lãi suất về cơ bản đã được tự do hóa với việc sử dụng lãi suất cho vay thỏa thuận thay vì lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Đây là một thuận lợi đáng kể trong việc huy động vốn của ngân hàng, nhưng tính toán lãi suất phải đảm bảo:
+ Lãi suất thực tương đối với các khoản tiền gửi, bảo đảm quyền lợi của khách hàng.
+ lãi suất huy động phải dựa trên cơ sở lãi suất đầu vào, bù đắp chi phí cản ngân hàng, đảm bảo kinh doanh có lãi.
+ Kỳ hạn càng dài thì lãi suất huy động càng cao.
3.2.8 Huy động vốn kết hợp với sử dụng vốn có hiệu quả
Để khai thác và sử dụng tối đa nguồn vốn huy động của ngân hàng thì ngân hàng phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, vì nó là yếu tố quyết định đến việc huy động vốn. Vì vậy ngân hàng chỉ có thể hoạt động tốt trên cơ sở hài hòa giữa huy động vốn và sử dụng vốn.
Đa dạng hoá các dịch vụ đầu tư là yếu tố để kích thích công tác huy động vốn, mở rộng tín dụng các thành phần kinh tế, chú trọng kinh tế quốc doanh.
Phải thường xuyên chọn lọc, phân loại khách hàng theo quy định của NHNN và của BIDV để từ đó có những chính sách, cơ chế tín dụng phù hợp cho từng khách hàng. Mở rộng tín dụng phải đảm bảo đúng nguyên tác, đúng quy trình nghiệp vụ, tránh hiện tượng cho vay tràn lan không có hiệu quả. Ngoài việc mở rộng cho vay phải tích cực thu nợ các khoản nợ đến hạn, quá hạn, nợ khó đòi, xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ, có như vậy mới giảm tỷ lệ nợ quá hạn và nâng cao chất lượng tín dụng. Tăng cường cho vay hợp vốn và đồng tài trợ với những doanh nghiệp có dự án đầu tư lớn nhằm phân tán rủi ro.
Ngoài ra còn một số giải pháp như BIDV phải cam kết thực hiện bảo biểm tiền gửi vì như thế thì sẽ tạo ra lòng tin, sự an tâm cho người gửi tiền. BIDV cũng cần cải thiện cơ cấu nguồn vốn sao cho phù hợp với yếu cầu sử dụng vốn của mình.
3.3 Một số kiến nghị
3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước
Vốn của các NHTMQD là hiện do Nhà nước cung cấp cho để hoạt động, điều này gây hạn chế về quy mô nguồn vốn của ngân hàng, như thế sẽ làm cho ngân hàng trở nên khó khăn trong các hoạt động của ngân hàng cũng như trong hoạt động huy động vốn. Chính vì thế, Nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện cổ phần hóa các NHTMQD nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng này thu hút được các điều kiện bên ngoài như vốn, trình độ quản lý,...giúp ngân hàng có điều kiện phát triển hơn nữa, nhất là trong xu thế hội nhập như hiện nay.
Cơ chế cạnh tranh trong hoạt động giữa các NHTM, nhất là trong hoạt động huy động vốn, đã thúc đẩy các NHTM tự cố gắng và đã đạt được nhiều thành tích trong thời gian qua. Tuy nhiên, giữa khối các NHTMCP và NHTMQD vẫn có sự khác biệt trong đó lợi thế cạnh tranh luôn thuộc về các NHTMQD. Sự khác biệt này cần được xóa bỏ càng sớm càng tốt nhằm xác lập quyền cạnh tranh như nhau giữa các MHTM trong nước với nhau. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có một đội ngũ các NHTM thực sự khỏe mạnh, hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của nền kinh tế.
Nhà nước cần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định nhằm giúp các thành phần kinh tế tại Việt Nam yên tâm hoạt động và mở rộng quy mô của nó, nhất là đối với các NHTM. Vì môi trường vĩ mô có ảnh hưởng lớn tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi cũng như sẽ gây khó khăn đối với ngân hàng trong hoạt động huy động vốn. Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là tiền đề cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của đất nước cũng như nguồn vốn mà ngân hàng huy động được.
Nhà nước cần ban hành hệ thống pháp luật đồng bộ và rõ ràng. Điều này không chỉ tạo niềm tin với công chúng mà với những chính sách mà Nhà nước khuyến khích sẽ tác động trực tiếp đến người dân cũng như các tổ chức khi họ có thể sử dụng tiền để tiêu dùng, đầu tư hay gửi tiền vào ngân hàng. Các văn bản pháp luật và dưới luật cần được ban hành một cách có hệ thống, đảm bảo mọi hoạt động tài chính, tiền tệ, tín dụng đều được luật hóa, tạo nên môi trường ổn định về luật pháp và chế độ chính sách cho các ngân hàng.
3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
NHNN là cơ quản quản lý Nhà nước về chính sách tiền tệ của quốc gia, vì thế NHNN cần phải có một chính sách tiền tệ ổn định, giúp cho người dân yên tâm khi gửi tiền vào ngân hàng mà không sợ đồng tiền bị mất giá.
NHNN cần sớm hoàn thiện hệ thống luật pháp, các văn bản hướng dẫn và chỉ đạo liên quan đến hoạt động ngân hàng nói chung, trong hoạt động huy động vốn nói riêng, đảm bảo công tác quản lý của Nhà nước đối với ngành ngân hàng vừa toàn diện vừa chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng thương mại.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NHNN cần khẩn trương ban hành và điều chỉnh văn bản pháp qui theo các cam kết hội nhập, hình thành môi trường pháp lý đồng bộ, tăng cường cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trên thị trường tài chính trong và ngoài nứơc.
Mặt khác NHNN cần thường xuyên tiến hành đánh giá, xem xét lại các văn bản pháp luật đã ban hành để kịp thời chỉnh sửa nhằm những văn bản pháp luật này phù hợp với tình hình thực tế, tránh hiện tượng văn bản pháp luật xa rời thực tiễn.
NHNN cần nâng cao biên độ tỷ giá của các NHTM so với tỷ giá do NHNN quy định và các NHTM được tự chủ hơn về lãi suất huy động cũng như cho vay của các NHTM để tạo điều kiện cho các NHTM chủ động trong hoạt động huy động vốn, tạo ra cơ cấu nguồn vốn giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ. Từ đó giúp cho hoạt động huy động vốn của các NHTM tạo ra cơ cấu nguồn vốn hợp lý, như thế thì nguồn vốn mà các NHTM cung ứng cho nền kinh tế có hiệu quả hơn. bằng ngoại tệ, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong xu thế hội nhập như hiện nay.
Nâng cao hiệu quả hoạt động thị trường mở, đa dạng hóa các công cụ và chứng từ có giá tham gia vào thị trường. Cùng với sự cải cách của hệ thống tài chính, NHNN cũng cần nghiên cứu và đưa ra các công cụ, chính sách tiền tệ liên quan đến hoạt động của thị trường mở, tạo điều kiện cho thị trưởng tài chính Việt Nam phát triển. Thị trường trái phiếu và tín phiếu kho bạc sẽ có vai trò quan trọng hơn trong việc điều hòa lãi suất của nền kinh tế.
Kết luận
Ngân hàng thương mại đã có những đóng góp rất đáng kể đối với sự nghiệp phát triển đất nước trong những năm qua, trong đó phải nói đến vai trò của NHĐT&PTVN. NHĐT&PTVN đã cung ứng cho nền kinh tế một lượng vốn không lồ, đáp ứng được yêu cầu vốn cho đầu tư phát triển, góp phần thực hiện chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Với tình hình hiện nay và trong tương lai thì nhu cầu tín dụng từ nền kinh tế là rất lớn, điều đó đã tạo sức ép về vốn lên các NHTM nói chung và NHĐT&PTVN. Bên cạnh đó trong điều kiện hiện nay có rất nhiều tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, các tổ chức tài chính phi Ngân hàng như Bảo hiểm, tiết kiệm, Bưu điện, các Công ty chứng khoán…tham gia tiếp cận nguồn vốn này. Vì vậy việc nghiên cứu và đề ra các giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại NHĐT &PTVN là điều có ý nghĩa thực tiễn lớn.
Thông qua các nội dung đã trình bày, luận văn đã hoàn thành những nhiệm vụ sau đây:
Một là: Hệ thống hoá được những lý luận về nguồn vốn, phương thức taoj lập nguồn vốn chủ yếu cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động này đối với NHTM nói chung và BIDV nói riêng.
Hai là: Phân tích thực trạng nguồn vốn của BIDV với trọng tâm là các phương thức huy động vốn cụ thể. Trên cơ sở phân tích, đưa ra những nhận xét, đánh giá, tìm ra các hạn chế, tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn tại BIDV
Ba là: Chỉ ra được một số bất cập trong hoạt động huy động vốn của BIDV từ đó đưa ra một số giải pháp để tăng cường huy động vốn tại BIDV và đề ra một số kiến nghị với Nhà nước và NHNN một số vấn đề quan điểm, định hướng trong hoạt động huy động vốn.
Tài liệu tham khảo
Cao Sỹ Kiêm (1995): Đổi mới chính sách tiền tệ – Tín dụng – Ngân hàng trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta, NXB CTQG.
David Cox (1997): Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại NXB CTQG.
Fredric S.minskin (1995): Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB KH&KT.
Luật các tổ chức tín dụng năm 1997.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: Báo cáo thường niên 2002.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: Báo cáo thường niên 2003.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: Báo cáo thường niên 2004.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: Báo cáo thường niên 2005.
Phan Thị Thu Hà (2004): Giáo trình NHTM, NXB Thống Kê.
Trang WEB của ngân hàng Ngoại thương, Sài Gòn Thương Tín, Công thương, Nông nghiệp,…
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29471.doc