Lời nói đầu
Trong bất kỳ một nền kinh tế nào trên thế giới cho dù là phát triển, đang phát triển hay chậm phát triển thì sự đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp luôn luôn tồn tại. Bên cạnh những doanh nghiệp lớn vốn thường được xem như những đầu tàu phát triển của nền kinh tế, người ta không thể không nhắc tới một số lượng đáng kể các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà vị trí và vai trò của nó đã được khẳng định qua thực tế phát triển kinh tế của rất nhiều quốc gia, rất nhiều nền kinh tế. Sự phát tri
108 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa & nhỏ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển của các DNVVN đã và đang trở thành một bộ phận hợp thành sức sống kinh tế sôi động và tạo ra động lực tăng trưởng của từng quốc gia và trên cơ sở đó, việc phát triển DNVVN đã trở thành chiến lược quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung của mỗi quốc gia trên thế giới.
Tại Việt nam, trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, không thể không kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của các DNVVN. Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những chính sách, biện pháp, định hướng chiến lược nhằm hỗ trợ, khuyến khích các DNVVN phát triển.
Trong điều kiện hiện nay của Việt nam, phát triển tốt DNVVN không những sẽ góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế mà còn tạo sự ổn định về chính trị-xã hội thông qua tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, giảm đói, nghèo và tăng phúc lợi xã hội... Hơn nữa, các DNVVN có lợi thế là chi phí đầu tư không lớn, dễ dàng thích ứng với sự biến động của thị trường, phù hợp với trình độ quản lý kinh doanh của phần lớn chủ doanh nghiệp nước ta hiện nay. Do vậy, ở một nước mà phần lớn lao động làm nông nghiệp như nước ta thì chính DNVVN là tác nhân và là động lực thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. ở nước ta, các DNVVN tuy cũng đã có môi trường để phát triển khá thuận lợi và đã đạt được những kết quả nhất định, song những kết quả ấy chưa tương xứng với vị trí và vai trò của DNVVN. Thực tế đó đòi hỏi những chiến lược thông minh nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam.
Để đóng góp phần vào việc tìm ra những giải pháp tích cực hỗ trợ phát triển các DNVVN nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển, góp phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp đại học của mình.
Cũng xuất phát từ đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu rộng của đề tài, và với sự giới hạn của khuôn khổ một khoá luận tốt nghiệp đại học nên mục tiêu của tôi khi viết về đề tài này là qua đây tạo ra một cái nhìn chung, một đánh giá chung về thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam. Do đó tôi chỉ tiếp cận đến những vấn đề chung nhất, bức xúc nhất và mang tính thời sự nhất và qua đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp cơ bản khắc phục những tồn tại của loại hình doanh nghiệp này.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chương với những nội dung sau:
Chương I : Những vấn đề lí luận cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chương II: Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam
Môi trường kinh tế luôn luôn biến động. Do đó, trong một thời gian nghiên cứu ngắn và với những hạn chế chủ quan khác như thời gian nghiên cứu, kinh nghiệm thực tế còn ít ỏi và bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu, nên khóa luận này chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế. Tôi cũng mong nhận được sự đóng góp để bài khoá luận thêm hoàn chỉnh.
Trong quá trình viết khoá luận, tôi cũng đã cố gắng cập nhật những thông tin mới nhất có thê thu được về DNVVN. Khó khăn cũng nảy sinh khi tiếp cận số liệu đánh giá thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khi tại Việt nam chưa hề có những số liệu thống kê riêng cho loại hình doanh nghiệp này. Nhưng với sự nỗ lực của bản thân trong việc tiếp cận nguồn thông tin từ mạng Internet và nhiều nguồn thông tin khác, sự ủng hộ của các trung tâm hỗ trợ DNVVN, trong đó có Trung tâm xúc tiến DNVVN thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam (SME PC/VCCI) ở Tầng 5, Toà nhà VCCI số 9 Đào Duy Anh, Trung tâm hỗ trợ DNVVN thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng (SMEDEC) ở Tầng 3 nhà H, Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, số 8 Hoàng Quốc Việt… và đặc biệt là sự hỗ trợ hướng dẫn nhiệt tình của Thạc sỹ Lê Thu Thuỷ, Phó Khoa Quản trị kinh doanh Trường Đại học Ngoại thương trong việc chọn lọc, điều chỉnh, hợp lý hoá thông tin, dữ liệu và hoàn thiện bản khoá luận này. Qua đây, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn chân thành.
Chương I : Những vấn đề lí luận cơ bản về Doanh nghiệp vừa và nhỏ
A. Khái niệm và tiêu chí xác định
1.Khái niệm ở một số nước trên thế giới.
Khái niệm DNVVN tuy có mặt ở rất nhiều nền kinh tế trên thế giới, nhưng lại không có một điểm chung thống nhất giữa các quốc gia thế nào là một DNVVN, điều này thể hiện sự khác nhau giữa các điều kiện hoàn cảnh lịch sử, chính trị, kinh tế xã hội giữa các quốc gia, đồng thời thể hiện sự khác nhau trong các chính sách ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các DNVVN giữa các quốc gia.
Việc xác định thế nào là một DNVVN có ý nghĩa rất quan trọng để xác định đúng đối tượng hỗ trợ. Nếu xác định rộng thì các chính sách ưu đãi lại không đủ sức bao quát, tác dụng hỗ trợ theo đó giảm đi rất nhiều. Ngược lại, nếu xác định hẹp khái niệm DNVVN thì tác dụng của sự hỗ trợ lại ít có tác dụng đến nền kinh tế.
Dưới đây là cách xác định DNVVN ỏ một số quốc gia và khu vực:
a.Khu vực EU
Đây là khu vực phát triển rất mạnh các DNVVN ( 80% số doanh nghiệp EU có số lượng dưới 100 người). Tiêu chí xác định DNVVN ở EU căn cứ vào 3 yếu tố chính là: số lao động được sử dụng thường xuyên, doanh số bán hàng năm và vốn đầu tư cho sản xuất
Bảng 1: Phân loại DNVVN của khu vực EU
Tiêu thức phân loại
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
Số lao động tối đa
50
250
Doanh thu/ năm tối đa
7 triệu EURO
40 triệu EURO
Tồng kết tài sản/ năm tối đa
5 triệu EURO
27 triệu EURO
Nguồn: SMEs definition, www.modcontractsuk.com
Sự phân định như vậy chưa xác đáng vì không phân biệt các doanh nghiệp giữa các ngành trong khi có một thực tế là đặc điểm kinh tế giữa các ngành nhiều khi quyết định qui mô doanh nghiệp.
b.Khu vựcASEAN
Tại các nước ASEAN, khái niệm về DNVVN còn có sự khác nhau. Song nhìn chung các nước Singapore, Malaixia, Inđônêxia, Thái lan, Philippin đều dựa vào 2 tiêu chí cơ bản để phân định một doanh nghiệp thuộc quy mô vừa, nhỏ hay lớn, đó là: số lượng lao động được sử dụng và vốn đầu tư. Ví dụ: với Singapore, quan niệm DNVVN là những doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 100 người và vốn đầu tư dưới 1,2 triệu đô la Singapore. Với Malaixia, DNVVN là những doanh nghiệp có số lao động dưới 200 người và vốn đầu tư dưới 2,5 triệu đô la Malaixia. Còn với Inđônêxia, Thái lan và Philippin thì có sự phân loại chi tiết hơn thành doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp cực nhỏ trong đó doanh nghiệp cực nhỏ thường là những hộ kinh doanh trong phạm vi gia đình.
Như vậy quan niệm thế nào là một DNVVN ở một số nước ASEAN còn có sự khác nhau, đồng thời sự phân định này chỉ mang ý nghĩa tương đối và chủ yếu căn cứ vào quy mô về vốn và lao động của nó. Do đó cách xác định DNVVN cũng mắc phải một số nhược điểm như cách phân loại một số nước trong khu vực EU, Tức là chưa xét đến yếu tố đặc điểm kinh tế ngành.
c.Nhật Bản
Khái niệm DNVVN tại Nhật bản được xác định trong “Luật cơ bản về DNVVN” ban hành năm 1963, được sửa đổi năm 1973 và 1999. Trong Luật này các tiêu chuẩn xác định DNVVN đã phần nào khắc phục được những nhược điểm trên. Cụ thể là, việc phân định DNVVN ở nước này đã có sự khác biệt giữa các ngành. Tùy theo từng ngành nghề mà DNVVN và doanh nghiệp loại nhỏ được phân loại khác nhau xét theo vốn pháp định và số lượng lao động như sau:
Bảng 2 : Phân loại DNVVN của Nhật Bản
Ngành
Doanh nghiệp vừa
Doanh nghiệp nhỏ
Năm 1963
Năm 1973
Năm 1999
Vốn
(triệu Yên)
Lao động
Vốn
(triệu Yên)
Lao động
Vốn
(triệu Yên)
Lao động
Lao động
Công nghiệp, khai khoáng
≤50
≤300
≤300
≤100
≤300
≤300
≤20
Bán buôn
≤10
≤30
≤100
≤30
≤100
≤100
≤5
Bán lẻ
≤50
≤10
≤50
≤50
Dịch vụ
≤10
≤50
Nguồn: Tổng cục DNVVN Nhật Bản, www.chusho.miti.go.jp
d.Mỹ
Tại Mỹ, nơi mà khi nhắc tới, người ta nghĩ ngay đến những tập đoàn kinh tế hùng mạnh thì vai trò của các DNVVN cũng được rất đề cao ở đây. Việc phân loại các DNVVN cũng đã tính đến sự khác biệt giữa các ngành. Bên cạnh những tiêu chuẩn về mặt định lượng như : Lợi nhuận với mức tăng trưởng hàng năm dưới 150.000 USD trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và thương mại; hay các tiêu chuẩn về lao động để phân loại quy mô DNVVN tùy thuộc vào từng ngành riêng biệt như sau:
- Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp: Tổ chức có từ 250 lao động trở xuống được coi là doanh nghiệp nhỏ.
- Trong ngành công nghiệp, dịch vụ và thương mại bán lẻ: doanh nghiệp có dưới 100 lao động thì được coi là nhỏ; từ 100-1.000 lao động được coi là vừa và từ 1.000 lao động trở lên được coi là lớn và rất lớn.
Luật DNVVN của Mỹ còn có thêm một số tiêu chuẩn về mặt định tính như: DNVVN là một xí nghiệp độc lập, không ở vào địa vị chi phối trong ngành của mình liên quan. Theo khái niệm của Mỹ, các DNVVN không phải là công ty con hoặc xí nghiệp vệ tinh của những công ty lớn . Điều này khác hẳn với các DNVVN ở Nhật, các công ty con hoặc xí nghiệp vệ tinh thuộc công ty lớn vẫn được hưởng những đặc quyền của các DNVVN.
e.Hàn quốc:
Khái niệm DNVVN của Hàn quốc được quy định tại “Đạo luật cơ bản về DNVVN của Hàn Quốc” ban hành năm 1966 và đã trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung. Theo đó, việc phân loại DNVVN được thực hiện theo hai nhóm ngành:
-Trong ngành chế tạo, khai thác và xây dựng: các doanh nghiệp có vốn đầu tư dưới 600.000 USD và số lao động thường xuyên từ 200-300 người là doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp có dưới 20 lao động thường xuyên là doanh nghiệp nhỏ.
-Trong thương mại: DNVVN là doanh nghiệp có doanh thu dưới 250.000 USD/ năm. Doanh nghiệp có từ 6 tới 20 lao động là doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp có lao động dưới 5 người được coi là doanh nghiệp nhỏ,.
Nhận xét chung:
Khái niệm DNVVN chỉ nên được hiểu một cách tương đối, bởi sự quan niệm về các DNVVN ở các quốc gia và các khu vực trên thế giới là không đồng nhất hoàn toàn do ảnh hưởng của các nhân tố vốn không hề giống nhau giữa các khu vực và quốc gia, đó là trình độ phát triển kinh tế xã hội, tính chất nghề nghiệp, cơ cấu vùng lãnh thổ, tính lịch sử, mục đích phân loại…
Qua những khái niệm DNVVN đã và đang được áp dụng rộng rãi trên thực tế ở nhiều nước, có thể thấy rằng nhóm tiêu chí phân loại “lao động” và “vốn” đầu tư được sử dụng khá phổ biến. Và tuỳ theo điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của mỗi nước mà các thước đo này cao hoặc thấp, và có thể đi kèm thêm các tiêu chí phân loại khác. Trong tiến trình hội nhập kinh tế, Việt Nam có thể học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm tổ chức và quản lý DNVVN của các nước trên thế giới và trong khu vực.
2. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam.
ở Việt Nam, những năm gần đây chúng ta đã bắt đầu nhận thức và quan tâm đến tầm quan trọng của DNVVN. Ngày 29/11/2000. Tại Hà nội, Ngân hàng thế giới (WB) đã công bố bản báo cáo: “ Việt nam 2010 tiến vào thế kỷ 21” với đề xuất đưa ra 6 trụ cột của chiến lược phát triển nền kinh tế Việt nam thì trụ cột đầu tiên là : “Tạo dựng môi trường giúp đỡ các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN”.
Tuy nhiên, cho đến trước năm 1998 khái niệm về DNVVN chưa được một văn bản pháp lý nào của Nhà nước công nhận cụ thể. Quan niệm về DNVVN ở Việt nam vì vậy mà rất khác nhau. Cụ thể là:
+Ngân hàng công thương Việt Nam đưa ra qui định DNVVN là doanh nghiệp có giá trị tài sản dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng, số lao động thường xuyên dưới 500 người và doanh thu dưới 20 tỷ đồng/năm .
+Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội và Bộ Tài chính quy định tiêu chí xác định DNVVN tại Thông tư số 21/LĐTT ngày 17/6/1993, theo đó, DNVVN là doanh nghiệp có số lao động thường xuyên duới 100 người, doanh thu hàng năm dưới 10 tỷ, vốn pháp định dưới 10 tỷ.
+Thành phố Hồ Chí Minh xác định doanh nghiệp qui mô vừa là doanh nghiệp có vốn pháp định trên 1 tỷ đồng, lao động có trên 100 người, doanh thu hàng năm trên 10 tỷ đồng. Doanh nghiệp qui mô nhỏ có các tiêu thức dưới mức trên
+ Dự án VIE/ US/ 95/ 004 hỗ trợ DNVVN ở Việt Nam do UNIDO tài trợ coi doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 30 người, vốn đăng ký dưới 0,1 triệu USD.Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao động từ 30 người đến 200 người và vốn đăng ký dưới 0,4 triệu USD
+Qũy hỗ trợ DNVVN thuộc chương trình Việt Nam-EU coi DNVVN là những DN có số lao động từ 10 đến 500 người và vốn điều lệ từ 50.000 USD đến 300.000 USD tức từ khoảng 650 triệu đồng đến 3,9 tỷ đồng Việt Nam.
…và còn nhiều cách quan niệm khác nữa.
Như vậy, mỗi tổ chức, mỗi dự án đều có một cách xác định riêng cho mình về DNVVN. Điều này tạo ra sự thiếu nhất quán và khó khăn cho Chính phủ trong việc đưa ra các chính sách ưu đãi một cách công bằng và hiệu quả và cũng tạo ra khó khăn cho chính các DNVVN khi thực hiện chính sách hỗ trợ.
Đến ngày 20/6/1998. Thủ tướng Chính phủ đã có qui định tại Công văn số 681/CP-KTN xác định tiêu thức DNVVN tạm thời qui định trong giai đoạn hiện nay là : “DNVVN là những doanh nghiệp có vốn điều lệ trung bình dưới 5 tỷ VND và có số lao động trung bình dưới 200 người” . Tuy mới chỉ là tiêu chí quy ước tạm thời mang tính hành chính để xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ DNVVN nhưng có thể coi đây chính là bước đi đầu tiên của chính phủ trong việc xây dựng 1 cơ sỏ pháp lý chính thức là cơ sở hoạch định và triển khai các chính sách và biện pháp phát triển DNVVN tại Việt nam. Cũng theo qui định này, doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 30 người và vốn dưới 1 tỷ VND. Doanh nghiệp vừa là các doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ VND đến 5 tỷ VND. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp thì doanh nghiệp nhỏ có vốn từ 1 tỷ VND trở xuống, các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ thì số lao động dưới 30 người.
Đến ngày 23/11/2001. Tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực. Xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/CP-NĐ về việc trợ giúp và phát triển DNVVN. Theo đó, DNVVN được hiểu là: “cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký < 10 tỷ VND hoặc có số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người ”. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương trong quá trình thực hiện các biện pháp, các chương trình trợ giúp, có thể áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu đó.
Như vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh và thoả mãn 2 tiêu thức trên đều được coi là DNVVN. Theo cách phân loại này, Tại Việt nam hiện nay, số DNVVN hiện vào khoảng 60.300 doanh nghiệp,chiếm khoảng 93% tổng số doanh nghiệp. Bên cạnh đó là hơn 1,4 triệu hộ kinh doanh cá thể, 16.000 hợp tác xã, hàng trăm nghìn trang trại tư nhân.
B. Đặc điểm của DNVVN
1.Tính tất yếu cuả việc tồn tại các DNVVN
Sự tồn tại và phát triển DNVVN là một tất yếu trong nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, điều đó được phản ánh thông qua những lí do chủ yếu sau:
- Nền kinh tế của một quốc gia là tổng thể các doanh nghiệp lớn, nhỏ tạo thành. Phần đông các doanh nghiệp lớn trưởng thành, phát triển từ các DNVVN và thông qua liên kết với các DNVVN- điển hình nhất là con đường thành công của Đài Loan. Quy luật đi từ nhỏ lên lớn là con đường tất yếu về sự phát triển bền vững mang tính phổ biến của đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Đồng thời, sự tồn tại đan xen và kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp làm cho nền kinh tế của mỗi nước khắc phục được tính đơn điệu, xơ cứng, tạo nên tính đa dạng, phong phú, linh hoạt, vừa đáp ứng các xu hướng phát triển đi lên, lẫn những biến đổi nhanh chóng của thị trường trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại, đảm bảo tính hiệu quả chung của toàn nền kinh tế.
-Trong nền kinh tế mỗi nước luôn luôn, tồn tại sự phát triển của phân công lao động xã hội không đồng đều giữa các ngành, các lĩnh vực và các vùng. Sự phát triển không đồng đều này biểu hiện ra bên ngoài bằng những hình thức tổ chức sản xuất với những qui mô khác nhau. Sự tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp với các qui mô khác nhau vì vậy là tất yếu.
-Mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những ưu và nhược điểm kể cả các doanh nghiệp có qui mô lớn. Các doanh nghiệp lớn không thể tồn tại một mình mà có thể bao quát hết cả những nhu cầu đa dạng và phong phú trên thị trường một cách có hiệu quả. Yêu cầu hiệu qủa kinh tế tạo điều kiện cho sự xuất hiện và tồn tại đồng thời trong mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau giữa doanh nghiệp lớn và DNVVN như những lực lượng bổ sung, hỗ trợ cùng nhau phát triển có hiệu quả hơn.
-Do những lợi ích mà các DNVVN mang lại, đặc biệt là trong việc giải quyết những mục tiêu xã hội quan trọng như việc làm, thu nhập và sự phát triển đồng đều giữa các vùng. Các DNVVN được sử dụng như một giải pháp phát triển nhằm thực hiện những nhiệm vụ đó.
Như vậy, để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế không thể không có các doanh nghiệp quy mô lớn, vốn nhiều, kĩ thuật hiện đại làm nòng cốt trong từng ngành, nhằm tạo ra sức mạnh để có thể cạnh tranh thắng lợi trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, ngoài việc xây dựng các doanh nghiệp lớn thật cần thiết, chúng ta còn phải thực hiện những biện pháp để tăng khả năng tích tụ và tập trung của các DNVVN, tạo điều kiện cho chúng có thể nhanh chóng vươn lên trở thành những doanh nghiệp lớn. Sự kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp trong từng ngành, cũng như trong toàn nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh đến phát triển DNVVN là phù hợp với xu thế chung và thích hợp với xuất phát điểm về kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Vì vậy, phát triển mạnh các DNVVN với công nghệ hiện đại thích hợp nhằm thu hút nhiều lao động là phương hướng chiến lược quan trọng của qúa trình phát triển kinh tế Việt nam, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay.
2. Đặc điểm chung của các DNVVN
-Nhạy cảm, linh hoạt, thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường: Thông thường, các DNVVN năng động và linh hoạt hơn so với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất kinh doanh qua hệ thống tổ chức sản xuất, quản lí gọn nhẹ, công việc điều hành mang tính trực tiếp, đồng thời DNVVN có khả năng đổi mới nhanh trang thiết bị kỹ thuật, thích ứng nhanh với thị trường biến động.
-Vốn đầu tư vào DNVVN không nhiều: Do là loại hình doanh nghiệp có quy mô sản xuất không lớn về mặt bằng sản xuất, số lao động, doanh số...nên vốn đầu tư vào DNVVN không nhiều, có thể bằng vốn tự có hay vay mượn nhỏ. Do đó chúng tạo ra cơ hội đầu tư đối với nhiều người, tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân trong nước dù ở điều kiện văn hoá, giáo dục khác nhau đều có thể tìm kiếm cơ hội lập nghiệp. Chính vì thế mà ở các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển, số lượng DNVVN tăng rất nhanh và chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong tổng số các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
-Hoạt động nhanh chóng và thu hồi vốn nhanh: Các DNVVN chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến thực phẩm, thương mại dịch vụ...vốn là những ngành thu hồi vốn nhanh. Theo thống kê, ở các nước phát triển các DNVVN hàng năm có thể khấu hao đến 50-60% giá trị tài sản cố định và thời gian hoàn vốn không quá 2 năm. ở các nước đang phát triển, việc thu hồi vốn cũng tương đối nhanh, tuỳ thuộc vào khả năng điều hành của chủ doanh nghiệp và đặc điểm từng lĩnh vực kinh doanh cũng như chính sách khấu hao tài sản cố định của Nhà nước.
-Sử dụng các loại máy móc công nghệ trung bình và mang tính trung gian, đòi hỏi sử dụng nhiều lao động. Các DNVVN gắn liền với các công nghệ trung gian vốn là cầu nối giữa công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại. Và lợi thế đặc biệt của công nghệ trung gian là sử dụng nhiều lao động, từ đó tạo nhiều cơ hội việc làm cho người dân. Điều này không những cần thiết đối với các nước đang phát triển như Việt nam mà còn cần thiết đối với các nước phát triển.
-Quan hệ chủ thợ tốt đẹp: Quan hệ giữa người lao động và người quản lí trong các DNVVN khá chặt chẽ, gần gũi thân thiết so với các doanh nghiệp lớn. Điều này tạo điều kiện rất thuận lợi trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
-Khả năng hợp tác với các doanh nghiệp lớn là rất tốt: Các DNVVN dễ dàng nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, sản phẩm, ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, thích hợp với sự biến động đa dạng của thị trường, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay. Từ đó tạo ra cơ hội hợp tác, cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn là rất cao.
-ít chịu ảnh hưởng của khủng hoẳng kinh tế và ngược lại cũng ít ảnh hưởng đến nền kinh tế khi rơi vào khủng hoẳng: DNVVN ít chịu ảnh hưởng, tác động của các cuộc khủng hoẳng kinh tế dây chuyền. Sự đình trệ, thua lỗ, thậm chí phá sản của các DNVVN có ảnh hưởng không đáng kể đến đời sống kinh tế xã hội.
- DNVVN cần diện tích nhỏ, đòi hỏi về cơ sở hạ tầng không quá cao. Vì thế nó có thể được đặt ở nhiều nơi trong nước, từ thành thị cho tới các vùng nông thôn, miền núi và hải đảo... Đó chính là đặc điểm quan trọng nhất của DNVVN để có thể giảm bớt sự chênh lệch về phát triển kinh tế giữa các vùng trong một nước, giảm bớt luồng chảy lao động tập trung vào các thành phố, để tiến hành công nghiệp hoá nông thôn.
Bên cạnh đó, DNVVN cũng có một số yếu điểm như:
- Nguồn vốn tài chính hạn chế, đặc biệt là nguồn vốn tự có cũng như bổ sung để thực hiện quá trình tích tụ, tập trung nhằm duy trì hoặc phát triển mở rộng sản xuất, kinh doanh. DNVVN khó có khẳ năng tiếp cận đến các nguồn vốn của ngân hàng vì bản thân doanh nghiệp thiếu tài sản thế chấp, khó xây dựng phương án kinh doanh, chưa tạo được sự tin cậy tín dụng (creditworthiness) cần thiết xuất phát từ quy mô kinh doanh nhỏ của mình.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ kỹ thuật công nghệ còn yếu kém, lạc hậu, khó có khả năng đầu tư công nghệ mới do vốn lớn, qua đó ảnh hưởng đến năng suất kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường.
-Trình độ quản lý nói chung và quản trị các mặt theo các chức năng còn hạn chế. Đa số các chủ doanh nghiệp nhỏ chưa được đào tạo cơ bản, đặc biệt là những kiến thức về kinh tế thị trường, về quản trị kinh doanh, họ quản lý bằng kinh nghiệm, thực tiễn là chủ yếu. DNVVN thường thiếu những nhà quản lý có trình độ, thiếu đội ngũ lao động lành nghề, thiếu chuyên gia cố vấn cho doanh nghiệp.
- Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp cận thị trường của các DNVVN bị hạn chế rất nhiều. DNVVN khó cập nhật được các thông tin trong kinh doanh và dễ bị các công ty lớn thôn tính.
- Hoạt động của các DNVVN phân tán, rải rác nên khó quản lý và hỗ trợ.
- Các DNVVN có năng suất lao động và sức cạnh tranh về kinh tế thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. DNVVN thiếu khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ quốc tế, khó khăn trong việc thiết lập và mở rộng hợp tác với bên ngoài.
Tại Việt nam, ngoài những đặc điểm của các DNVVN nói chung như đã đề cập ở trên, các DNVVN Việt nam còn có một số đặc điểm riêng cần nhấn mạnh, nổi bật là:
- Các DNVVN ở Việt nam rất đa dạng về loại hình tổ chức kinh doanh, về lĩnh vực kinh doanh, về hình thức sở hữu, về địa bàn hoạt động. Trước kia trong thời kỳ kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp, các DNVVN tồn tại chủ yếu dưới hai loại là DNNN và HTX thì hiện nay chúng tồn tại, phát triển ở mọi thành phần kinh tế như DNNN, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần…
-Tuy tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau nhưng khi nói đến các DNVVN tại Việt nam là chủ yếu nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do tính lịch sử của quá trình hình thành, phát triển các thành phần kinh tế của nước ta, đại bộ phận các DNVVN đều thuộc khu vực ngoài quốc doanh mà điển hình nhất là kinh tế tư nhân. Bởi vậy, đặc điểm và tính chất của các doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh-trong đó chủ yếu là khu vực tư nhân-mang tính đại diện cho các DNVVN Việt nam. Các con số thống kê về DNVVN tại Việt nam không có riêng biệt mà chủ yếu tổng kết cho khu vực ngoài quốc doanh- mà đại diện là khu vực kinh tế tư nhân.
-Các DNVVN Việt nam hiện nay gắn liền với công nghệ lạc hậu, trình độ nhân lực không cao, khả năng tiếp cận thông tin chưa tốt.
-Môi trường pháp lý cho sự phát triển của các DNVVN Việt nam đang trong quá trình hoàn thiện nền còn nhiều sự chồng chéo- chẳng hạn như quan niệm về thế nào là DNVVN trước năm 1998 của rất nhiều cơ quan, tổ chức, dự án.
Thêm vào đó, giới hạn dưới của DNVVN không được quy định rõ và lúc đó rất có thể coi các hộ gia đình có đăng ký kinh doanh ở Việt nam-một số lượng rất nhiều- là các DNVVN, lúc đó thì sẽ khó khăn trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ do sự dàn trải do số lượng quá đông. Do vậy nên chăng cần có quy định giới hạn tối thiểu cho DNVVN.
C.Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân.
Nếu như trước kia trong giai đoạn trỗi dậy của các tập đoàn kinh tế khổng lồ ở các cường quốc như Anh, Mỹ, Nhật như Dupont, General Motor, Ford, IBM… thì một suy nghĩ hình thành là hiệu quả đồng nghĩa với qui mô lớn, một doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ chỉ được xem như một doanh nghiệp kém hiệu quả, tiền công thấp và cơ sở sản xuât lạc hậu.
Nhưng cùng với sự phát triển của xã hội thông tin, sự đi lên của thời đại trí thức, trong môi trường cạnh tranh gay gắt và không ngừng biến đổi như hiện nay, Khái niệm “lớn là hiệu quả “ đã được thay bằng khái niệm “nhỏ là đẹp”( small is beautiful). “Nền kinh tế thế giới càng lớn và rộng mở thì các công ty nhỏ và trung bình sẽ càng thống trị nhiều hơn”(Theo Nghịch lý toàn cầu-John Naisbitt, tr 27-28). Điều đó được hiểu qua việc các DNVVN cung cấp nhiều việc làm cho xã hội, chúng hoạt động với một cơ cấu tổ chức linh hoạt, chúng đem lại một sự hiệu quả trong quan hệ hợp tác-cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn và DNVVN cũng có thể xem như những mầm mống của khả năng đổi mới, là hạt giống hình thành các ngành công nghiệp tương lai.
Với số lượng doanh nghiệp đông đảo bao gồm mọi thành phần kinh tế, DNVVN đã và đang có những đóng góp không thể phủ nhận vào sự phát triển kinh tế đất nước và giải quyết các vấn đề xã hội. ý nghĩa kinh tế-xã hội to lớn này không chỉ các nước phát triển mà cả nước đang phát triển cũng đều thấy rõ. Từ thực tế khách quan bên ngoài, có thể thấy rằng vị trí quan trọng của DNVVN đối với quá trình phát triển của hầu như tất cả các nền kinh tế trên thế giới đã và đang được khẳng định, đặc biệt trong điều kiện sản xuất nhỏ, công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu như ở Việt Nam hiện nay.
1. Các DNVVN chiếm đa số về mặt số lượng trong tổng số các doanh nghiệp ở các nước, cung cấp một khối lượng đáng lớn, đa dạng và phong phú về sản phẩm, đóng góp một phần đáng kể và thu nhập quốc dân và tăng trưởng kinh tế
Chiếm đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế, với khả năng thích nghi cao và nhiều lợi thế quy mô khác, DNVVN phân bố trong hầu hết mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và có mặt trên mọi khu vực lãnh thổ. Ta có thể thấy tình hình DNVVN ở một số nước như sau:
Bảng 4:Tỷ lệ DNVVN trong tổng số doanh nghiệp ở một số nước
trên thế giới
Nước
Tỷ lệ DNVVN / Tổng số DN
Tỷ lệ Lao động (%)
Tỷ lệ tổng giá tri sản lượng (%)
Đài Loan
98,6
78,0
50
Canada
98,1
70,0
50
Nhât Bản
99,1
79,2
51,8
Pháp
98,2
73,5
52
Hồng kông
98
60
57
Phi-lip-pin
95,4
73,5
52
Đức
98,6
75
45,5
Hàn Quốc
98
77,8
50,2
Hoa Kỳ
98
78,5
50
ấn Độ
90
80,2
50
Thái Lan
80
80
52
Nguồn: PTS Lê Thanh Hà-Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển DNVVN
ở VN-Tạp chí phát triển kinh tế số 12 - Tháng 10/96, Trang 36.
Qua đó, có thể thấy rằng các DNVVN chiếm tỷ trọng đa số tuyệt đối trong tổng số doanh nghiệp, tạo ra một tỷ lệ việc làm đáng kể và chiếm > 50% GDP, đóng góp lớn lao cho sự phát triển kinh tế.
Tại Việt nam, theo đánh giá của Viện Nghiên cứu và Quản lí Kinh tế Trung ương (CIEM) thì hiện nay khu vực DNVVN vào khoản 60.300 doanh nghiệp, chiếm khoảng 93% tổng số doanh nghiệp, 95% lao động, chiếm 53% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp. 78% mức bán lẻ xã hội, 64% tổng khối lượng hàng hoá lưu chuyển.70% giá trị xuất khẩu.
2.Doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, góp phần ổn định xã hội.
Tăng trưởng kinh tế luôn đi kèm với việc giải quyết những khó khăn, bức xúc trong xã hội mà trong số đó không thể không kể đến khó khăn về thất nghiệp trong nền kinh tế- một trong những khó khăn lớn nhất. Từ thực tế phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, có thể thấy rằng số lượng các lao động trong các DNVVN chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng số lượng các lao động trong các doanh nghiệp như xét thấy từ bảng trên. Tại hầu hết các quốc gia, mặc dù quy mô nhỏ nhưng theo quy luật số lớn, DNVVN tạo ra khoảng 70% việc làm trong xã hội. So với các doanh nghiệp lớn thì các DNVVN có tốc độ thu hút lao động cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Điều này được hiểu phần nào qua việc các DNVVN có thể thu hút nhiều lao động thuộc nhiều thành phần, nhiều trình độ chuyên môn, tay nghề khác nhau, trong khi các doanh nghiệp lớn nhìn chung thường thu hút các lao động lành nghề thì một bộ phần không nhỏ( nếu như không muốn nói là phần lớn) các lao động chưa lành nghề khác lại có cơ hội phát huy khả năng nghề nghiệp ở các DNVVN. Một cách tương tự, khi mà các doanh nghiệp lớn thu hút các lao động thường trong một số lĩnh vực phổ biến, với những đòi hỏi khắc nghiệt về khả năng thì các DNVVN lại không quá phải có( chứ không phải không cần thiết) những lao động như vậy. Các DNVVN có thể thu hút nhiều loại lao động ở nhiều lĩnh vực khác nhau từ công nghệ hiện đại đến thủ công truyền thống, những lao động chưa qua đào tạo hoặc đã qua đào tạo, những lao động có nhiều khả năng hay thậm chí cả các lao động có khả năng còn hạn chế.
Thêm vào đó khi sự sa thải nhân công ở các doanh nghiệp lớn xảy ra do kết quả của khủng hoẳng kinh tế hay những nguyên nhân tương tự như vậy thì lúc này các DNVVN lại chính là nơi thu hút lực lượng lao động dư thừa đó để tạo thế cân bằng trong nền kinh tế và tạo sự ổn định trong nền kinh tế xã hội.
Sự tăng trưởng lâu dài và ổn định về số lượng việc làm do các DNVVN tạo ra góp phần làm cho mức thu nhập của người dân nói chung được giữ vững hoặc nâng cao, sức mua xã hội được duy tr._.ì và cải thiện, tăng cường tính linh hoạt và thích ứng với nền kinh tế, làm dịu bớt những khó khăn, tạo điều kiện cho một sự phát triển ổn định và bền vững trong nền kinh tế. Tại Việt nam, cũng theo đánh giá của Viện Nghiên cứu và Quản lí kinh tế Trung ương thì chi phí để tạo ra một việc làm trong các DNVVN(740.000) nhỏ hơn nhiều so với chi phí tạo ra một việc làm ở các doanh nghiệp lớn( khoảng 5-10 triệu VND). Hiện tại số lao động của các DNVVN trong lĩnh vực phi nông nghiệp là vào khoảng 7,8 triệu người chiếm 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp, còn tống số lao động trong các DNVVN thì chiếm tới 90% số lao động của cả nước. Trong tình trạng tỷ lệ thất nghiệp của Việt nam tương đối cao và không ổn định như hiện nay thì khu vực DNVVN đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động đó- nhất là ở khu vực nông thôn và khu vực doanh nghiệp nhà nước dôi ra khi tiến hành cổ phần hoá, cho thuê, phá sản…
3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ giúp huy động vốn và tận dụng các nguồn lực xã hội khác.
Vốn là nhân tố cơ bản trong quá trình sản xuất, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như của doanh nghiệp nói riêng.Vốn là yếu tố tiền đề để từ đó có thể kết hợp với các yếu tố khác như lao động, đất đai, công nghệ quản lí. Vốn có vai trò lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, nâng cao tay nghề cho người lao động cũng như nâng cao tay nghề cho người lao động và mở rộng quy mô sản xuất. Tuy vậy, thực tế lại cho thấy rằng ở một số nền kinh tế trong đó có Việt nam là các doanh nghiệp hiện đang thiếu rất nhiều vốn trong khi đó nguồn vốn nhàn rỗi tiềm ẩn chưa được huy động trong nền kinh tế vẫn còn khá nhiều. Việc khởi sự một DNVVN với lợi thế vốn nhỏ, khả năng thu hồi vốn nhanh, tính chất phân tán rải rác đi sâu vào nhiều vùng, nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế sẽ là cơ hội để huy động được các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư vào sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn hình thức doanh nghiệp tư nhân, các hộ gia đình, hợp tác xã vừa huy động nguồn vốn tự có của cá nhân vùa tận dụng được các nguồn đầu tư đa dạng trong nền kinh tế. Từ đó dần dần tạo ra tập quán dùng tiền vào đầu tư cho sản xuất kinh doanh thay vì chỉ để tiền nhàn rỗi. Hơn nữa, với quy mô nhỏ gọn của mình, các DNVVN thường sử dụng nguyên vật liệu tại địa phương để làm xuất phát điểm tiến hành sản xuất kinh doanh, điều này rất thiết thực đối với các ngành thủ công truyền thống, tiểu thủ công nghiệp, DNVVN vì thế có thể góp phần huy động các nguồn lực xã hội.
4.DNVVN có vai trò quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân đối, từng bước chuyển dịch và hoàn thiện cơ cấu kinh tế.
Quá trình phát triển kinh tế luôn đi kèm với những mặt trái của nó trong đó nổi lên là sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, sự mất cân bằng cơ cấu trong nền kinh tế. Chênh lệch cơ cấu thể hiện ở sự mất cân đối giữa các vùng, giữa các ngành và giữa các thành phần kinh tế trong một quốc gia. Từ đó gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế. Lúc này chính các DNVVN là lực lượng doanh nghiệp có vai trò tích cực trong việc hạn chế và từng bước xoá đi sự mất cân đối đó. Hơn nữa, việc phát triển các DNVVN lại có ý nghĩa to lớn đặc biệt trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các vùng nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ phát triển. Tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế của DNVVN thể hiện ở
-Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi: Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế được tăng cường, doanh nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại, kinh doanh có hiệu quả hơn. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng trưởng cả về số lượng lẫn chất lượng.
-Cơ cấu ngành thay đổi: DNVVN phân bố trong hầu hết các ngành trong nền kinh tế, cả ngành nghề hiện đại và ngành nghề truyền thống theo phương thức lấy hiệu quả làm thước đo, làm thay đổi cơ cấu ngành theo hướng tích cực.
-Cơ cấu lãnh thổ thay đổi: DNVVN phân bố ở hầu hết mọi khu vực lãnh thổ trong đất nước, đặc biệt tại các vùng, các địa bàn mà các doanh nghiệp lớn bỏ qua hay các vùng kém lợi thế. DNVVN góp phần đáng kể vào quá trình đô thị hoá phi tập trung thông qua việc phát triển DNVVN ở nông thôn cho phép giảm dần lực lượng lao động trong nông nghiệp chuyển sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ mà không có hiện tượng di dân lên khu vực đô thị. Song song đó là xu hướng hình thành những khu vực tập trung các cơ sở công nghiệp và dịch vụ nhỏ ngay tại khu vực nông thôn, tiến tới hình thành các đô thị ngay trong lòng nông thôn, đó chính là hiệu quả đô thị hoá phi tập trung mà việc phát triển các DNVVN mang lại. Tuy nhiên, DNVVN ở Việt nam chưa phát huy lợi thế này mà vẫn còn tập trung quá nhiều ở một lĩnh vực, ở một địa bàn hoạt động- chủ yếu tập trung ở các khu đô thị.
5. Các DNVVN góp phần làm năng động, linh hoạt và tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế
Phát triển DNVVN-với lợi thế là một loại hình doanh nghiệp năng động, linh hoạt và sáng tạo trong kinh doanh-làm cho số lượng các doanh nghiệp tăng lên rất lớn, làm tăng tính cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế, đồng thời chúng có khả năng làm tăng số lượng, chủng loại hàng hóa, dịch vụ thỏa mãn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng vì giá cả hợp lý, nhất là các nhu cầu nhỏ lẻ phù hợp với thị hiếu và tập quán tiêu dùng của từng địa phương. Ngoài ra, các DNVVN có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của các DNVVN trong nền kinh tế một mặt có tác dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiệu quả hơn thông qua các hợp đồng phụ làm đại lý, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, cung cấp nguyên liệu, thâm nhập vào các ngõ ngách của thị trường mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được, mặt khác, với số lượng đông đảo trong nền kinh tế, sẽ tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trong nền kinh tế, giảm bớt khả năng độc quyền của các doanh nghiệp lớn. Hơn nữa, DNVVN với mạng lưới rộng khắp sẽ góp phần làm cho phân bố doanh nghiệp hợp lý hơn, giảm bớt sức ép về dân số của thành phố lớn.
6.Các DNVVN là nơi gieo mầm cho các tài năng kinh doanh
DNVVN chính là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp và chính ngưới lao động. Kinh doanh với quy mô nhỏ sẽ chính là trường đào tạo tốt nhất cho các nhà doanh nghiệp để từng bước tiếp cận đến kinh doanh với quy mô tầm cỡ hơn. Khởi sự từ hoạt động kinh doanh với quy mô nhỏ và thông qua quá trình điều hành quản lí kinh doanh với quy mô nhỏ, các nhà doanh nghiệp sẽ trưởng thành lên những nhà doanh nghiệp tài ba, biết cách làm thế nào để doanh nghiệp của mình đi lên và phát triển. Các tài năng được hình thành từ trong các DNVVN. Đây là vấn đề có tính thực tiễn khá cao không chỉ đối với nhiều nước trên thế giới mà ngay cả đối với Việt nam, vốn trong nhiều năm chìm trong cơ chế quan liêu bao cấp với đội ngũ cán bộ quản lí với cơ chế nặng nề và các nhà doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm với cơ chế thị trường. Sự phát triển của các DNVVN có tác dụng đào tạo, chọn lọc, thử thách qua thực tế những người có khả năng thực sự để trở thành những nhà lãnh đạo tài năng cho sự nghiệp phát triển kinh tế cho cả quốc gia cũng như cho mục tiêu riêng của từng doanh nghiệp.
7. Các DNVVN góp phần duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống
Hiện tại, theo thống kê, Việt nam hiện có trên 1400 làng nghề truyền thống có từ hàng trăm năm nay, đó không chỉ là một phần bản sắc văn hoá dân tộc mà có là cơ sở để có thể phát huy hiệu quả kinh tế vùng và của cả đất nước. Xuất phát từ thực tế là các ngành nghề truyền thống thường không tập trung ở một vùng nhất định nào mà nó hình thành và phát triển ở nhiều địa phương khác nhau. Sự đa dạng và tính linh hoạt trong hoạt động của các DNVVN có thể đáp ứng tốt nhất điều kiện này
Sản phẩm truyền thống chủ yếu lại không được sản xuất hàng loạt mà chủ yếu là sản xuất theo quy mô nhỏ. Nhiều sản phẩm truyền thống chỉ có thể được tạo ra bằng những đôi bàn tay khéo léo với sự sáng tạo của các nghệ nhân mang tính chất cha truyền con nối. Hơn nữa, vốn đầu tư vào hoạt động phát triển thường là không nhiều nên phù hợp với quy mô sản xuất và vốn cũng như các tổ chức quản lí của DNVVN.
Chương II: Thực trạng của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại việt nam
A.Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN tại Việt nam
Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN ở Việt nam diễn ra từ khá lâu, trải qua nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau, môi trường khác nhau mà nhìn chung là chịu sự ảnh hưởng của hai nhóm nhân tố chính là cuộc trường kỳ kháng chiến kéo dài gần một thế kỷ và những quan điểm chính trị thời kỳ hậu chiến tranh.
Giai đoạn trước năm 1945, khi mà Việt nam còn nằm trong ách thống trị của thực dân Pháp thì cũng đã tồn tại một số lượng đáng kể các doanh nghiệp mà lúc đó là các cơ sở, các xưởng sản xuất nhỏ chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực nông nghiệp, các nghề thủ công truyền thống. Các mặt hàng giai đoạn nay phần lớn vẫn ở dạng nguyên sơ nhưng cũng đáp ứng được nhu cầu củ nhân dân trong hoàn cảnh rất đặc biệt của thời kỳ đô hộ, thậm chí nhiều hàng còn được gửi đi triển lãm ở một số nước phương Tây thời bấy giờ.
Trong giai đoạn từ cuộc cách mạng tháng 8/1945 thành công và cả nước bước vào giai đoạn kháng chiến chống pháp. Các DNVVN lúc này tồn tại cả ở vùng ta và vùng địch, đáng chú ý là các DNVVN ở vùng căn cứ đã đóng góp vai trò đáng kể, vừa phục vụ nhu cầu thời chiến của nhân dân, vừa đáp ứng nhu cầu hậu cần cho kháng chiến lâu dài.
Sau thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy, cả miền bắc bắt tay vào xây dựng lại đất nước trên con đường xây dựng CNXH. Các DNVVN ra đời rất nhanh và nhiều trong giai đoạn này, lúc này chịu sự chi phối của đường lối chính trị hình thức hợp tác xã, tổ hợp tác kinh doanh được khuyến khích phát triển, còn các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư nhân thì bị loại trừ, trong khi đó loại hình DNVVN tư nhân ở miền Nam lúc đó lại rất phát triển.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975 và đến trước đại hội VIII. Điểm đáng lưu ý trong các DNVVN ở giai đoạn này là ở Miền nam, kinh tế tư nhân là hình thức bị kỳ thị và các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư nhân buộc phải quốc hữu hoá, DNVVN của tư nhân bị cải tạo, xoá bỏ, không khuyến khích phát triển. Nếu muốn tồn tại thì phải tồn tại dưới dạng khác như dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã, công tư hợp danh.
Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam năm 1986 thực sự là một bước ngoặt, Đại hội VI đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sử hữu khác nhau, thay đổi quan điểm với kinh tế tư nhân, từ kỳ thị chuyển sang coi trọng. Chủ trương này đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình kinh doanh ngành công nghiệp, dịch vụ, thương mại ra đời và phát triển.
Bên cạnh đó, từ năm 1986 đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy, quy định chế độ chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp Nhà nước. Đáng chú ý là Nghị quyết 16 của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (1988); Nghị định 27, 28, 29 /HĐBT (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình; Nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định, Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/98 về định hướng chiến lược và chính sách phát triển DNVVN và một loạt các Luật như: Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân mà nay hai Luật này đã được gộp lại thành Luật doanh nghiệp (1999), Luật hợp tác xã, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật khuyến khích đầu tư trong nước(1994), Luật đầu tư nước ngoài(1989) đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển.
Trong thời gian qua, nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và nhiều địa phương nghiên cứu về DNVVN như: Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI), Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương(CIEM), Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam (VCCI), Hội đồng liên minh các hợp tác xã Việt Nam(VCA), Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế bàn về chính sách hỗ trợ DNVVN đã được tổ chức, và cũng đã có nhiều tổ chức quốc tế, các dự án hỗ trợ về tài chính và khoa học cho DNVVN, trong đó có Viện Friedrich Ebert (FES) của CHLB Đức, Ngân hàng hợp tác và phát triển Nhật bản (JBIC), Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), Dự án hỗ trợ của phòng hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA), Chương trình phát triển dự án Mekong về DNVVN (MPDF). Bên cạnh đó, Cũng có rất nhiều trung tâm ra đời với mục đích hỗ trợ các DNVVN, đó là Trung tâm xúc tiến DNVVN thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam (SME PC/VCCI) ở số 9 Đào Duy Anh, Trung tâm hỗ trợ DNVVN thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng (SMEDEC) ở số 8 Hoàng Quốc Việt, Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ DNVVN (BPSC) ở số 7 Nguyễn Thái Học, Câu lạc bộ DNVVN Hà nội( HASMEC) ở số 418 Bạch Mai…
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, DNVVN vẫn gặp không ít những khó khăn, vướng mắc, và nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế của đất nước, chính phủ đã có Nghị định 90/2001/CP-ND ngày 23/11/2001 về chính sách trợ giúp, phát triển DNVVN trong đó quy định rõ khái niệm, tiêu chí xác định DNVVN ở Việt Nam, khẳng định tầm quan trọng của DNVVN trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước và các biện pháp, các chính sách hỗ trợ DNVVN phát triển. Chính phủ còn giao cho MPI đứng lên làm đầu mối phối hợp các Bộ, các ngành và địa phương tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh dự thảo “Chiến lược và chính sách phát triển DNVVN”, đề xuất giải pháp thực hiện để chính phủ xem xét và phê duyệt .
Nghị định cũng quy định việc thành lập “Cục Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ” trực thuộc Bộ Kế hoạch - Đầu tư, để giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về xúc tiến phát triển DNVVN; thành lập “Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN” làm nhiệm vụ tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển DNVVN; thành lập “Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật DNVVN” thuộc các cơ quan, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhằm thực hiện các chương trình trợ giúp một cách thiết thực và có hiệu quả; khuyến khích, tạo điều kiện để các DNVVN tham gia các hiệp hội doanh nghiệp đã có và thành lập các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, nhằm triển khai các hoạt động kể cả thu hút các nguồn lực từ nước ngoài để trợ giúp một cách thiết thực, trực tiếp cho DNVVN , các dịch vụ về thông tin, tiếp thị mở rộng thị trường, đào tạo, công nghệ... nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNVVN.
Trong thời kỳ từ đổi mới đến hiện nay, số lượng doanh nghiệp của các thành phần kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số lượng DNVVN trong khu vực Nhà nước giảm liên tục, thì số lượng DNVVN trong khu vực tư nhân trong công nghiệp (doanh nghiệp và công ty) tăng nhanh, số lượng lao động trên tổng số, đóng góp cho GDP và tỷ trọng trong tổng đầu tư xã hội cũng tăng nhanh (Xem bảng 5). Quan niệm về kinh tế tư nhân cũng có nhiều đổi mới, không còn cái nhìn kỳ thị như trong giai đoạn bao cấp, với tư tưởng giáo điều và tả khuynh, coi kinh tế tư nhân là một loại hình kinh tế tiêu cực, là tàn dư của chế độ cũ, là bóc lột, ăn bám…, Đến nay, kinh tế tư nhân thực sự đã được coi là “một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế Việt nam”.
Các DNVVN ở Việt nam, mà đại diện tiêu biểu là khu vực kinh tế tư nhân và hộ cá thể, đã trải qua 2 bước ngoặt tính từ giai đoạn đổi mới. Bước ngoặt thứ nhất có thể xem như cởi trói cho doanh nghiệp là vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 khi nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài(1989), Luật khuyến khích đầu tư trong nước(1994), Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty(1990), tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của nhiều loại hình doanh nghiệp. Theo VCCI thì trong giai đoạn 1991-1999, mỗi năm nền kinh tế Việt nam tăng thêm 3.388 doanh nghiệp.
Có thể xem xét tình hình tổng hợp của khu vực kinh tế tư nhân (đại diện cho các DNVVN) qua một số các chỉ tiêu chính như số lượng các doanh nghiệp tư nhân, số lượng và tỷ lệ lao động so với xã hội, mức đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội (GPP), đầu tư phát triển mức độ đóng góp vào đầu tư phát triển cả nước trong vài năm gần đây theo bảng dưới đây. Trong khi mà chưa có một nguồn nào cung cấp số liệu thống kê chính thức riêng cho khu vực DNVVN thì các số liệu thống kê về khu vực kinh tế tư nhân có thể xem như đại diện cho các DNVVN, vì như nói từ phần đặc điểm các DNVVN tại Việt nam, khi nói đến các DNVVN tại Việt nam là chủ yếu nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh.
Bảng 5: Số liệu kinh tế về khu vực kinh tế tư nhân
(đại diện cho các DNVVN).
Số liệu về khu vực kinh tế tư nhân
évt
1996
1997
1998
1999
2000
1. Số lượng đơn vị
1.1.Doanh nghiệp của tư nhõn
DN
20.272
21.032
20.578
22.767
29.519
- Cụng nghiệp
DN
5.832
6.073
5.927
6.049
6.979
- Thương nghiệp dịch vụ
DN
12.695
13.010
12.494
14.234
17.506
- Cỏc ngành khỏc
DN
1.745
1.949
2.157
2.484
5.034
1.2. Hộ cỏ thể
hộ
2.016.259
1.949.836
1.981.306
2.054.178
2.137.713
- Cụng nghiệp
hộ
616.855
608.250
583.352
608.314
645.801
- Thương nghiệp dịch vụ
hộ
1.102.619
1.022.385
1.058.542
1.088.606
1.109.293
- Cỏc ngành khỏc
hộ
296.785
319.201
339.412
357.258
382.619
2. Lao động
- Tổng số
người
3.865.163
3.666.825
3.816.942
4.097.455
4.643.844
- Tỷ lệ so với tổng lao động xó hội
%
11,2
10,3
10,3
10,9
12
2.1.Doanh nghiệp của tư nhõn
DN
354.328
395.705
435.907
539.533
841.787
- Cụng nghiệp
DN
233.078
252.657
273.819
322.496
498.847
- Thương nghiệp dịch vụ
DN
60.936
63.050
62.470
96.720
151.433
- Cỏc ngành khỏc
DN
60.314
79.998
99.618
120.317
191.507
2.2 Hộ cỏ thể
DN
3.510.835
3.271.120
3.381.035
3.557.922
3.802.057
- Cụng nghiệp
DN
1.524.708
1.403.205
1.350.152
1.464.013
1.622.381
- Thương nghiệp dịch vụ
DN
1.531.638
1.388.701
1.455.351
1.501.636
1.584.391
- Cỏc ngành khỏc
DN
454.489
479.214
575.532
592.273
595.285
3. Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
- Tổng số toàn quốc
tỉ đồng
272.036
313.623
361.017
399.943
444.140
Trong đú doanh nghiệp của tư nhõn và cỏ thể
tỉ đồng
77.481
87.475
98.625
106.029
119.337
Tỷ lệ trong tổng GDP toàn quốc
%
28,48
27,89
27,32
26,51
26,87
3.1 Doanh nghiệp
tỉ đồng
19.602
21.920
25.304
27.975
31.733
- Cụng nghiệp
tỉ đồng
4.609
5.278
6.367
7.179
8.626
- Thương nghiệp dịch vụ
tỉ đồng
7.565
8.564
10.238
11.203
12.397
- Cỏc ngành khỏc
tỉ đồng
7.428
8.078
8.699
9.593
10.710
- Tỷ lệ trong tổng GDP
%
7,21
6,44
7,01
6,99
7,14
3.2 Cỏ thể
tỉ đồng
57.879
65.555
73.321
78.054
87.604
- Cụng nghiệp
tỉ đồng
9.261
10.658
11.804
12.662
15.491
- Thương nghiệp dịch vụ
tỉ đồng
17.381
19.728
22.878
24.865
27.393
- Cỏc ngành khỏc
tỉ đồng
31.237
35.169
38.639
40.527
44.720
- Tỷ lệ trong tổng GDP
%
21,28
20,90
20,31
19,52
19,72
4. Vốn đầu tư phỏt triển
- Tổng số toàn xó hội
tỉ đồng
131.171
147.633
Trong đú: Doanh nghiệp của tư nhõn và cỏ thể
tỉ đồng
31.542
35.894
Tỷ lệ trọng tổng số toàn xó hội
%
24,05
24,31
4.1 Doanh nghiệp của tư nhõn
tỉ đồng
5.628
6.627
% Trong tổng số toàn xó hội
%
4.29
4.49
4.2. Cỏ thể
tỉ đồng
25.914
29.267
Tỷ lệ trong tổng số toàn xó hội
%
19,76
19,82
Nguồn: Tổng cục Thống kờ
Bước ngoặt thứ hai bắt đầu kể từ khi Luật doanh nghiệp được ban hành vào1/1/2000. Trong vòng một năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực có 14.417 doanh nghiệp mới được thành lập với tổng vốn đăng ký đến hơn 24.000 tỷ (tương đương với 1,65 tỷ USD, trong đó 17.000 là vốn đăng ký mới và 7000 là vốn đăng ký bổ sung của các doanh nghiệp đang hoạt động, tức là tăng hơn ba lần nếu xét về số lượng doanh nghiệp và hộ kinh doanh, và tăng hơn năm lần nếu xét về số vốn so với năm 1999. Năm 2001, có thêm hơn 21.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật doanh nghiệp, tăng 1,46 lần so với năm 2000, tổng số vốn huy động được của các doanh nghiệp đạt khoảng 35.000, tăng gấp 1,78 lần so với cùng kỳ năm 2000. Có thể thấy tình hình năm 2001 như sau:
Bảng 6: Tổng hợp số doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân dến năm 2001
Loại DN
31/12/98
31/12/99
Đên 31/12/2000
Đến 30/9/2001
Tổng số đăng ký
Đang hoạt động
Báo nghỉ KD
Tổng số đăng ký
Đang hoạt động
Báo nghỉ KD
Cty TNHH
9.375
13.850
21.031
20.255
776
29.160
28.356
804
Cty cổ phần
582
933
1.718
1.668
50
2.986
2.928
58
DNTN
18.751
22.794
28.719
27.277
1.442
33.925
32.459
1.466
Tổng số
28.708
37.577
51.468
49.200
2.268
66.071
63.743
2.328
Nguồn: Bộ Tài chính
Về cơ cấu của các DNVVN hiện nay, xuất phát từ điều kiện lịch sử kinh tế xã hội, DNVVN ở Việt Nam có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế, trong đó phần lớn tập trung trong ba lĩnh vực chính: các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp, các DNVVN trong thương mại dịch vụ và các DNVVN hoạt động ở khu vực nông thôn. Sau đây sẽ nghiên cứu cụ thể các doanh nghiệp trong từng lĩnh vực kể trên.
1.Các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp
Từ sau năm 1986, do các chính sách khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh trong lĩnh vực công nghiệp ra đời, các DNVVN lúc này tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, kinh tế hộ gia đình, kinh tế quốc doanh. Số lượng DNVVN cũng tăng dần.
Về cơ cấu phân bố theo vùng: Các DNVVN chủ yếu tập trung ỏ Miền Nam Việt nam (81%), Số DNVVN tập trung ở miền Bắc chỉ chiếm 12,6% tổng số các DNVVN trong công nghiệp.
Về ngành nghề kinh doanh: Các DNVVN trong công nghiệp tồn tại ở 4 nhóm ngành chính sau là
+Nhóm ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống: ngành này trong thời gian qua đã có những thay đổi mạnh mẽ, các giá trị công nghiệp và văn hóa đã hình thành, những mặt hàng của ngành này đã trở thành một trong các mặt hàng có thế mạnh của Việt nam. Tuy nhiên do góc độ truyền thống và văn hóa, sự hội nhập của nhóm ngành này hạn chế bởi tính chất manh mún, quy mô nhỏ, khác biệt văn hóa, cho nên thị trường xuất khẩu rất khó khăn đòi hỏi phải tìm được những phân đoạn thị trường ngách.
+Nhóm ngành khai thác và sản xuất sản phẩm thô: như khoáng sản, hải sản, lâm sản. Trong những năm qua, sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nói chung, DNVVN nói riêng vẫn dựa rất lớn vào nhóm ngành này-đây là thực trạng cần được đánh giá và điều chỉnh để hình thành chiến lược cơ cấu ngành bảo đảm hiệu quả cao của quá trình hội nhập. Việc tham gia hội nhập bằng tài nguyên khai thác một mặt đạt hiệu quả kinh tế - xã hội thấp, mặt khác còn làm cho nguồn tài nguyên, nhất là tài nguyên không tái tạo bị suy kiệt, ảnh hởng nghiêm trọng cân bằng sinh thái.
+Nhóm ngành chế biến, lắp ráp: mặc dù mang lại ý nghĩa xã hội trong việc tạo ra nhiều chỗ làm việc song giá trị thụ hưởng chủ yếu mới chỉ dừng lại ở giá trị gia công (phải mua nhiều yếu tố đầu vào từ bên ngoài). Từ đó, tác dụng tích lũy, thúc đẩy nền kinh tế hạn chế. Đặc biệt sẽ chịu nhiều rủi ro của các biến động tiền tệ của khu vực và quốc tế.
+Nhóm ngành chế tạo sản phẩm kỹ thuật cao: (máy móc, điện tử, hóa chất, thiết bị đo lường, động cơ...) có thể coi là mới bắt đầu. Hiện tại nhóm ngành này còn phụ thuộc nhiều vào đầu tư tài chính, công nghệ kỹ thuật và trình độ quản lý của nước ngoài. DNVVN thuộc lĩnh vực công nghiệp Việt Nam còn thể hiện sự đuối sức ở nhóm ngành này, bởi không chỉ lý do tài chính mà còn vì sự tụt hậu của năng lực nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Đây chính là nhóm ngành mà trong chiến lược lâu dài của quá trình hội nhập cần được đặc biệt quan tâm. Chúng cần được phân công và hợp tác một cách khoa học và hiệu quả để tham gia nhiều nhất nguồn lực vào quá trình cạnh tranh khu vực và quốc tế
Về lao động: Có quy mô khá nhỏ, phần lớn các DNVVN có số công nhân< 100 người( chiếm hơn 90%). Theo con số của tổng cục thống kê thì trong lĩnh vực sản xuất cơ bản các DNVVN chiếm 36% tổng số lao động. Trong lĩnh vực xây dựng là 51%.
Về công nghệ: cũng không khác so với tình hình chung của các doanh nghiệp Việt nam, nói chung là lạc hậu, lỗi thời, tỷ lệ đổi mới công nghệ thấp.
Trình độ công nghệ lạc hậu, yếu kém thể hiện ở năng lực vận hành, tiếp thu công nghệ, đổi mới công nghệ thấp. Khả năng nghiên cứu triển khai tạo sản phẩm mới cũng không tốt.
Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: Toàn bộ các DNVVN ( cả Nhà nước cũng như ngoài quốc doanh và kể các các doanh nghiệp có vốn đầu tư nướ ngoài) tạo ra khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp hàng năm. Trong đó, bộ phận bộ phận DNVVN ngoài quốc doanh tạo ra 25% giá trị sản lượng công nghiệp.
Bảng 7: Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1998
Doanh nghiệp trong công nghiệp
Tổng số
(Tỷ đồng)
Ước tính phần của DNVVN trong từng loại doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp
69.588,4
20%
12.917,7
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
33.148,2
60%
19.888,9
Doanh nghiệp có vốn nước ngoài
47.948,0
5%
2.397,4
Tổng
150.684,6
31%
46.712,04
Nguồn: Giải pháp phát triển các DNVVN tại Việt nam-GS-TS Nguyễn Đình Hương chủ biên-NXB chính trị quốc gia.
Trong 8 tháng đầu năm nay(năm 2002), tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp của khu vực ngoài quốc doanh đạt 19,2% so cùng kỳ năm trước (tốc độ tăng trởng công nghiệp chung đạt 14,5%) so với mức chung14%, khu vực nhà nước là 11,7%, khu vực nước ngoài tăng 13,1%. Có thể thấy tình hình đóng góp của các DNVVN qua tình hình đóng góp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 8 tháng đầu năm 2002 như sau:
Bảng 8: Đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vào mức tăng sản lượng công nghiệp 8 tháng đầu năm 2002
Thực hiện (Tỷ đồng)
Thỏng 8/2002 so với thỏng 8/2001
8 thỏng đầu năm 2002 so với cựng kỳ 2001 (%)
7 thỏng đầu năm 2002
ước tớnh thỏng 8/2002
Cộng dồn 8 thỏng đầu năm 2002
Tổng số
149219
23636
172855
114.2
114.0
Phõn theo khu vực và thành phần kinh tế
Khu vực doanh nghiệp Nhà nước
59798
9379
69177
111.1
111.7
Trung ương
Địa Phương
39634
20164
6212
3617
45846
23331
111.7
109.7
112.6
110.2
Khu vực ngoài quốc doanh
35846
5792
41638
119.6
119.2
Khu vực cú vốn đầu tư nước ngoài
53575
8465
62040
114.2
113.1
Dầu mỏ và khớ đốt
15402
2100
17502
87.7
96.1
Cỏc ngành khỏc
38173
6365
44538
126.8
121.6
Nguồn
Về thị trường: Một thị trường nội địa đông dân với sức tiêu thụ lớn là cơ hội rất tốt cho các DNVVN ở Việt nam. Tuy vậy, với tình hình nhập lậu tràn lan như hiện nay thì cơ hội cạnh tranh là rất khó cho các DNVVN nói chung và các DNVVN trong công nghiệp nói riêng. Cạnh tranh xét cả theo nghĩa cạnh tranh đối với hàng nhập lậu với giá rẻ, và cạnh tranh với cả doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.Thêm vào đó là khả năng tiếp cận thị trường chưa cao, chất lượng sản phẩm hạn chế .
Chính phủ cũng không ngừng có những bước tiến tích cực trong việc tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ bên ngoài nói chung và từ các quốc gia đang phát triển nói riêng. Hoạt động hợp tác cùng phát triển, chia sẻ kinh nghiệm giữa Việt nam và các nước không ngừng được tăng cường và củng cố. Việt nam hiện đã có nhiều quan hệ với các nước về phát triển lĩnh vực DNVVN, đáng kể trong số đó là Italia, Đức, Nhật…Ngày 22/5/2000, tại Hà nội đã diễn ra “Hội thảo DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp-kinh nghiệm của Italia và Việt nam” do Bộ Công nghiệp, Văn phòng đại diện của UNIDO và Đại sứ quán Italia tổ chức, qua đó phía Italia cũng chia sẽ với Việt nam những kinh nghiệm quý báu của mình trong việc phát triển DNVVN. Ngày 6/12/2000 cũng tại Hà Nội, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam phối hợp với Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (ZDH) của Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức hội thảo" Hợp tác giữa Chính phủ và doanh nghiệp nhằm hỗ trợ phát triển DNVVN"
Bên cạnh đó có dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất đá ốp lát đã triển khai ngày 4/12/2000 do Trung tâm xúc tiến hợp tác quốc tế (ICPC), Liên minh các hợp tác xã Việt nam, Liên minh Châu Âu và Liên đoàn thủ công nghiệp và dịch vụ Italia (Confartigianato) cùng phối hợp thực hiện. Dự án có nguồn vốn 140.000 EURO trong đó phía EU tài trợ 80%, mục tiêu của dự án này là nhằm tạo ra một liên hiệp xuất khẩu cho các DNVVN trong lĩnh vực đá ốp lát của Việt nam.Qua dự án này, các DNVVN sẽ nắm bắt được những thông tin cần thiết về hoạt động xuất nhập khẩu, kỹ năng sản xuất và cung cách làm ăn của các nước EU, mở ra hướng mới cho xuất khẩu của Việt nam sang EU.
2.Các DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
Ngành thương mại dịch vụ, với những lợi thế riêng của nó như vốn đầu tư ít, khả năng thu hồi vốn nhanh, mức lợi nhuận hấp dẫn, thị trường đa dạng...đã và đang thu hút được một số lượng không nhỏ các DNVVN.
Về vốn: Với đặc trưng là thị trường cung ứng vốn chủ yếu là thị trường tài chính phi chính thức, các chủ doanh nghiệp sử dụng vốn tự có, hoặc vay mượn của ban bè, người thân...nên các DNVVN gặp khó khăn rất nhiều trong vấn đề vốn. Các DNVVN trong dịch vụ cũng nằm trong tình trạng chung của các DNVVN là khó có khả năng tiếp cận đến nguồn vốn của ngân hàng.
Về lao động: Nếu như một trong những đặc điểm nổi bật của các DNVVN nói chung là thu hút nhiều lao động thì các DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ lại không hoàn toàn như vậy. Xuất phát từ tính đặc thù của ngành thương mại dịch vụ là ngành ít đòi hỏi lao động. Các DNVVN chưa thực sự góp phần quan trọng vào việc giải quyết lực lượng lao động dư thừa nhiều ở nước ta hiện nay.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN trong lĩnh vực thương mại dịch vụ tuy chưa phải là cao nhưng lại cao hơn hiệu quả hoạt động của các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp. Theo thống kê của Tổng cục thống kê năm 1998 thì trong khi bình quân một lao động trong các DNVVN công nghiệp tạo ra doanh thu 14,6 triệu VND với mức lãi 0,4 triệu VND thì con số này tại các DNVVN thương mại dịch vụ là 75,8 triệu và 1,3 triệu tiền lãi, tức là bằng 407% và 125% so với cách DNVVN công nghiệp. Hạn chế ỏ đây là mặc dù doanh thu rất cao nhưng lãi thì không hơn bao nhiêu so với các DNVVN công nghiệp.
Về cơ cấu: Các DNVVN thương mại dịch vụ tập trung quá đông ở các thành phố, đô thị và kinh doanh một số ngành như nhau. Một số các công ty ._. công nghiệp đang là nhu cầu cấp bách không những đối với các DNVVN mà còn đối với cả các doanh nghiệp lớn. Thầu phụ công nghiệp là một hình thức hợp tác rất phổ biến ở các nước công nghiệp phát triển. ở nhiều nền kinh tế phát triển, "Hệ thống Vệ tinh - Trung tâm" được thiết lập với nhiều mô hình khác nhau để phát triển thầu phụ công nghiệp, đăc biệt trong ngành may mặc, điện tử, giao thông, công nghiệp cơ khí,... Với cách làm này sẽ tạo được thị trường ổn định, rộng lớn cho DNVVN và thông qua đó doanh nghiệp lớn cũng phát huy được tác dụng, hỗ trợ, giúp đỡ cho các DNVVN
Chiến lược phát triển công nghiệp của chúng ta đang hướng mạnh vào sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Do đó phát triển thầu phụ công nghiệp là một biện pháp hữu hiệu để thực hiện thành công chiến lược này. Để hỗ trợ việc phát triển thầu phụ công nghiệp cho các DNVVN , Nhà nước cần tập chung giải quyết các công việc sau:
-Hỗ trợ thành lập "Phòng xúc tiến thầu phụ công nghiệp cho các DNVVN", xây dựng chương trình phát triển thầu phụ gắn với chương trình nội địa hoá sản phẩm, có thể giao cho Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tiến hành công việc này.
- Xây dựng qui chế cho phép thuê hoặc mua máy móc thiết bị cũ một cách thuận lợi và rộng rãi phù hợp với khả năng tài chính của các DNVVN.
- Thành lập "Quỹ hỗ trợ phát triển thầu phụ công nghiệp" nhằm giúp đỡ các DNVVN có khả năng tài chính để thắng thầu.
- Khuyến khích các doanh nghiệp lớn có chính sách phát triển thầu phụ công nghiêp.
Ngoài ra, Chính phủ cần có các biện pháp trợ giúp các DNVVN khác như hỗ trợ cải tiến công nghệ sản xuất; hỗ trợ máy móc thiết để kiểm soát ô nhiễm, kiểm tra chất lượng sản phẩm, hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực cho các DNVVN và giúp các doanh nghiệp này xích lại gần nhau để hợp tác cùng phát triển..
3. Nhóm giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh cho các DNVVN về nhân lực, công nghệ.
1. Giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh qua phát triển nhân lực:
a.Hoàn thiện một hệ thống dạy nghề hợp lý phù hợp với điều kiện nước ta.
Hệ thống dạy nghề cần được tổ chức phân cấp, theo cơ cấu ngành gắn với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội theo vùng lãnh thổ và phát huy tính xã hội hóa trong công tác đào tạo dạy nghề.
Cơ quan trung ương quản lý chung về công tác dạy nghề chịu trách nhiệm phối hợp với các ngành, các địa phương nghiên cứu hoạch định qui hoạch, kế hoạch trình chính phủ về công tác dạy nghề cho các giai đoạn và những bước tiếp theo. Nội dung không chỉ hoạch định về quy mô, chất lượng, ngành nghề đào tạo mà cần chỉ rõ phương án bố trí hệ thống các trường nghề: Trung ương (do Tổng cục dạy nghề trực tiếp quản lý) gồm các trường nào, cấp đào tạo nào? còn các ngành sản xuất, các địa phương nắm những trường nào?. Không nhất thiết mỗi tỉnh đều có các trường dạy nghề giống nhau, mà có thể bố trí theo vùng, trên cơ sở liên doanh, liên kết, hợp tác. Chỉ khi có quy hoạch, kế hoạch dạy nghề đúng đắn, hợp lý thì các biện pháp đầu tư nguồn lực, tăng cường quản lý mới khả thi và hiệu quả.
Bên cạnh đó cũng cần có chính sách tăng cường đầu tư cho công tác dạy nghề. Ngoài vốn ngân sách dành cho công tác dạy nghề, cần phải huy động vốn từ các nguồn vốn khác như:
- Huy động đóng góp của người học, của người sử dụng lao động.
- Lồng ghép công tác dạy nghề với các chương trình kinh tế- xã hội khác như chương trình quốc gia giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo.
- Sử dụng nguồn vốn vay, hoặc tài trợ của các tổ chức quốc tế cho công tác dạy nghề.
Hơn nữa cần đa dạng hoá các khoá học ở các trường đại học. Cần xây dựng các khoa quản trị doanh nghiệp của các trường đại học kinh tế chính quy của nhà nước, có chương trình chuẩn bị và đào tạo theo nhiều phương thức học không thường xuyên, buổi tối... cho nhiều loại trình độ, đào tạo dài hạn đi đôi với bồi dưỡng ngắn hạn theo yêu cầu của từng loại đối tượng. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ DNVVN phải đáp ứng yêu cầu trình độ kỹ thuật quản lý sản xuất -kinh doanh hiện đại, gắn với thực tiễn của điều kiện Việt nam. Hệ thống các khoa này tại các trường của Nhà nước phải thật sự làm nòng cốt về chương trình trong việc đào tạo, cung cấp cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp trong nước.
b.Khuyến khích phát triển hoạt động hỗ trợ nhân lực các trung tâm hỗ trợ DNVVN.
Nhu cầu hỗ trợ về nhân lực của các DNVVN rất lớn mà khả năng cũng như tiềm lực của nhà nước thì có hạn. Do đó, để đáp ứng các nhu cầu chính đáng của các doanh nghiệp này, cần thiết phải huy động lực lượng hỗ trợ của toàn xã hội. Do đó, cần khuyến khích phát triển các tổ chức hỗ trợ các DNVVN về nhân lực.
Hiện nay công tác hỗ trợ DNVVN về nhân lực cũng nhận được sự quan tâm đáng kể. Các cuộc hội thảo bàn về vai trò cũng như các biện pháp hỗ trợ nhân lực DNVVN được Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam (VCCI) cùng các đơn vị tài trợ liên tục tổ chức. Ngày càng có nhiều tổ chức hỗ trợ và kết quả cho thấy số lượng DNVVN nhận được sự hỗ trợ từ phía các trung tâm lớn hơn rất nhiều so với những năm trước.
Hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các khóa đào tạo là hoạt động mà đa số các trung tâm hỗ trợ tham gia. Có lẽ đây là hình thức hỗ trợ mà các trung tâm dễ tiếp cận thực hiện nhất đồng thời cũng phù hợp với nhu cầu về tăng cường kiến thức kinh doanh và khả năng quản lý của các doanh nghiệp. Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ doanh nghiệp (BPSC) ( Số 7 Nguyễn Thái Học) là một trong những trung tâm có nhiều hình thức hoạt động thiết thực. Trung tâm hình thành trong khuôn khổ dự án hợp tác giữa liên minh Hợp tác xã Việt nam (VCA) và tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ). Trung tâm đã tổ chức được hàng chục lớp học, trong đó bao gồm cả một số lớp học đào tạo giảng viên và các hội thảo sau mỗi khóa học. Hiện nay, BPSC đã mở rộng mục tiêu đào tạo sang các hộ gia đình. Đây là một hướng đi mới cần được nhân rộng vì theo như ước tính thì nước ta có khoảng 1.880.000 hộ kinh doanh gia đình, nếu như loại doanh nghiệp này phát triển tốt sẽ thu hút được một khối lượng lớn lao động, đặc biệt là lao động nhàn rỗi ở nông thôn.
Ngoài ra không thể không kể đến hoạt động hỗ trợ đào tạo của Trung tâm xúc tiến DNVVN tại VCCI là SME PC/VCCI ( Phòng 504/ VCCI Số 9 Đào Duy Anh/ ĐT: 04.5.742.163). 2 Trung tâm này luôn có những chương trình, dự án đào tạo nhân lực cho các DNVVN. SME PC còn hợp tác với ILO nhằm thiết kế những khoá học cho các DNVVN, trong đó nòng cốt là hai dạng khoá học về khởi sự doanh nghiệp và khoá học về phát triển doanh nghiệp. Tiếp đó là những kết quả rất đáng khích lệ của Trung tâm hỗ trợ phát triển DNVVN( SMEDEC) trong Tổng cục tiêu chuẩn-đo lường chất lượng (Số 8 Hoàng Quốc Việt/ Tầng 3 nhà H, ĐT: 04.7.642.244) qua những lớp đào tạo ngắn hạn về các vấn đề nhân lực trong DNVVN như “Kỹ năng thuyết trình và điều hành hội thảo”, “mối quan hệ giao tế kinh doanh”, Trung tâm cũng tiến hành biên soạn một số lượng đáng kể các giáo trình phục vụ cho hoạt động đào tạo mới và đào tạo lại nhân lực trong các DNVVN trong đó có cập nhật những thông tin liên quan tới các hội nghị, hội thảo, chính sách, khảo sát, nghiên cứu mới nhất.
Để DNVVN có những bước tiến hơn nữa thì bên cạnh sự hỗ trợ về các chính sách đào tạo nhân lực của chính phủ, các trung tâm cũng cần có những hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt là trong việc hình thành một mạng lưới liên kết hợp tác cùng hỗ trợ doanh nghiệp phát triển và Nhà nước cần khuyến khích những trung tâm hỗ trợ này phát triển ở mức cao hơn.
c.Tăng cường công tác tư vấn, hỗ trợ các DNVVN trực tiếp đào tạo và sử dụng lao động
Công tác tư vấn đã góp phần rất hiệu quả trong việc cung cấp tri thức đúng địa chỉ và từ đó giúp hình thành đội ngũ các nhàn quản lí DNVVN tài năng. Hình thức cung cấp tri thức dưới dạng tư vấn rất có hiệu quả bởi nó đáp ứng được nhu cầu của giới quản lí DNVVN Việt nam hiện nay là rất thiếu tri thức nhưng không có điều kiện và thời gian để học một cách có hệ thống. Hơn nữa, sự thiếu hụt tri thức của cán bộ Việt nam hiện nay là rất khác nhau. Do vậy họ có nhu cầu chỉ dẫn cụ thể, sâu sắc nhưng lại theo những mức độ vấn đề khác nhau. Các lớp học lý thuyết tập trung ít hiệu quả do chương trình giảng dạy bị rút ngắn cho phù hợp với yêu cầu chung đến mức trở lại các nguyên lý cơ bản, rất khó vận dụng trong nền kinh tế thị trường sơ khai nhưng đầy biến động của nước ta. Mặt khác, bằng hình thức tư vấn thì các trung tâm tư vấn có thể kết hợp mạng lưới các cộng tác viên thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau, đặc biệt là các cá nhân và các chuyên gia kinh doanh thành đạt để tư vấn trực tiếp cho người yêu cầu. Hình thức tổ chức theo kiểu tư vấn cũng gọn nhẹ, giảm chi phí đến mức DNVVN có thể trang trải được.
Nội dung tư vấn : có thể mở rộng ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong tình hình hiện nay, lĩnh vực cần nhất có lẽ là tư vấn hệ thống luật pháp, chính sách của nhà nước vốn đang trong quá trình chuyển đổi, chưa ổn định, chưa hoàn thiện, các văn bản bổ sung hoặc thay thế nhau liên tục. Nhiều DNVVN không nắm bắt hết các chính sách và đôi khi bỏ qua cả sự hỗ trợ đáng được hưởng. Sau đó, lĩnh vực là công nghệ và tính hiệu quả của dự án đầu tư bởi các nhà đầu tư vấn còn thiếu các phương án làm ăn có hiệu quả trong khi nguồn vốn nhàn rỗi trong dân còn khá nhiều.
Hình thức tư vấn: hình thức tư vẫn đa dạng, Có thể là các trung tâm tư vấn DNVVN như đang tồn tại hiện nay. Cũng có thể chỉ là các văn phòng tư vấn do các hiệp hội ngành nghề ở địa phương tổ chức ra có thu một phần phí. Hoặc đó có thể là các nhóm tư vấn do các trung tâm khoa học phối hợp với các tổ chức ngành nghề thực hiện...Tuy vậy lại có một nghịch lý là trong một số trường hợp thì các trung tâm tư vấn lại phải chủ động tìm đến hỗ trợ các doanh nghiệp vì hiện nay đa phần các chủ DNVVN còn chưa chú trọng phương hướng làm ăn lâu dài cũng như chưa ổn định trong việc lựa chọn ngành nghề kinh doanh còn chạy theo việc đối phó với những biến động thị trường nhỏ lẻ hàng ngày nên họ chưa thực sự tìm tới các dịch vụ tư vấn.
Cần phải có luật định cho các tổ chức tư vấn. Về tình hình hiện tại, các tổ chức tư vấn phi chính phủ đang hình thành và hoạt động trên các lĩnh vực tư vấn về: thị trường, đầu tư, lập phương án sản xuất kinh doanh, thông tin giá cả, văn bản pháp luật... Chính từ phát triển theo nhu cầu của thị trường mà hầu hết các hoạt động của nó đều đáp ứng rất sát, rất thực tiễn những nhu cầu của doanh nghiệp. nhưng cũng từ sự phát triển tự phát đó mà các dịch vụ tư vấn chui, không đủ chất lượng cũng ra đời. Xuất phát từ đó, việc ban hành một hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động tư vấn hỗ trợ là rất cần thiết.
Theo ý kiến của một số luật gia thì đầu tiên để luật định hóa hoạt động của các tổ chức tư vấn là phải có một trường lớp đào tạo chính quy để xác định khái niệm cơ bản thống nhất cho những người làm tư vấn. Đối với dịch vụ tư vấn và pháp luật, các công ty tư vấn là chiếc cầu lớn giữa nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước chỉ nên là cơ quan hỗ trợ cho các công ty tư vấn chứ không nên làm thay các công ty tư vấn. Nhà nước có thể cung cấp thông tin miễn phí có giá trị định hướng cho nhà tư vấn, nhà doanh nghiệp. Cũng có thể bán thông tin cho các dịch vụ tư vấn này, nhưng cơ bản là phải công minh, rõ ràng, bình đẳng. Ngoài ra, cần phải có bảo hiểm nghề nghiệp cho các công ty tư vấn.
2. Giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh qua phát triển công nghệ
a.Tạo áp lực phải đổi mới công nghệ
Nhà nước cần tạo ra áp lực với mức độ cần thiết để buộc các doanh nghiệp sớm thay đổi công nghệ để tạo thế chủ động trong quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với hàng hóa của khối ASEAN và các nước khác vì tiến trình hội nhập WTO cũng sắp đến gần. Công cụ tạo áp lực trực tiếp là những văn bản quy định của Nhà nước:
- Quy định về thời gian, thời hạn đình chỉ hoạt động đối với DNVVN sử dụng công nghệ cần thay thế, loại bỏ bao gồm: công nghệ các ngành thuộc nhóm sản phẩm cạnh tranh với sản phẩm khối ASEAN và công nghệ tạo mức độ lớn về môi trường, môi sinh.
- Quy chế hỗ trợ tài chính cho DNVVN thực hiện thay đổi công nghệ theo danh mục ưu tiên.
- Quy chế đào tạo cán bộ,công nhân kỹ thuật cho các ngành nghề mới.
b.Tạo ra môi trường cho đổi mới công nghệ
Cần mở rộng thị trường công nghệ bằng việc Nhà nước khuyến khích các hoạt động giao lưu thương mại về công nghệ, các trung tâm thông tin, tư vấn công nghệ, gắn các cơ sở nghiên cứu với các cơ sở sản xuất.
Về lâu dài, Nhà nước cần có chiến lược công nghệ, ban hành các định chế liên quan đến công nghệ, sở hữu công nghệ, sở hữu trí tuệ, tạo điều kiện cho các DNVVN tìm hiểu thị trường công nghệ mới, tổ chức triển lãm thường xuyên tại các trung tâm hỗ trợ công nghiệp để giới thiệu với khách hàng về sản phẩm mới. Cần tổ chức lồng ghép vào các chương trình dự án trong đó có đổi mới công nghệ và tổ chức hệ thống tư vấn hỗ trợ công nghệ. Nhiệm vụ của các tổ chức tư vấn là giúp các DNVVN xác định nhu cầu, nội dung thay đổi công nghệ, cung cấp thông tin, tìm nguồn, hướng dẫn lựa chọn công nghệ mới.
Nhà nước cần có chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành thị trường công nghệ để tăng khả năng tiếp cận thông tin và kỹ thuật công nghệ cho DNVVN. Sự hỗ trợ của nhà nước đối với việc thay đổi công nghệ trong điều kiện hiện nay được coi như giải pháp hỗ trợ tích cực với nội dung:
- Hình thành thị trường thiết bị và công nghệ trên cơ sở khuyến khích hoạt động các đơn vị kinh doanh thiết bị công nghệ và hình thành khu vực thương mại công nghiệp tập trung như các khu vực điện, điện tử, vật liệu, xây dựng...
- Hình thành thị trường dịch vụ tư vấn chuyển giao công nghệ.
- Hình thành các đơn vị kiểm định công nghệ trực thuộc các Sở khoa học- công nghệ- môi trường có chức năng kiểm định, đánh giá trình độ thiết bị công nghệ theo nhu cầu quản lý nhà nước và nhu cầu xác định giá trị thiết bị, công nghệ của các DNVVN.
- Tăng cường hoạt động thông tin công nghệ trên các phương tiện thông tin đại chúng, hoạt động đào tạo và đào tạo lại lao động kỹ thuật theo yêu cầu của quá trình đổi mới công nghệ của DNVVN.
Nhà nước cần chú ý hình thành khu vực hàng hóa miễn thuế đối với máy móc thiết bị công nghệ. Việc hình thành khu vực sản xuất hàng hóa được hưởng chế độ ưu đãi về thuế trên cơ sở thiết lập danh mục sản phẩm mới, sản phẩm công nghệ tiêu chuẩn được hưởng chế độ ưu đãi có kỳ hạn về thuế. Các khu vực ưu đãi này sẽ là trọng tâm để tập trung hướng đầu tư và thu hút vốn đầu tư của DNVVN vào lĩnh vực sản xuất sản xuất sản phẩm với công nghệ cao, công nghệ sạch trong thời gian ngắn.
- Cho phép khấu hao nhanh máy móc thiết bị với một khoản khấu trừ khi xác định thuế lợi tức. Kinh nghiệm của một số nền kinh tế phát triển cho thấy đây là một trong những biện pháp ưu đãi thuế thành công được sử dụng để khuyến khích các DNVVN đầu tư thiết bị và máy móc.
Nhằm khuyến khích DNVVN đầu tư máy móc thiết bị mới, nên áp dụng phép tính khấu hao nhanh cho máy móc thiết bị mới, theo phương pháp khấu hao bình thường thì bút toán khấu hao một năm sẽ bằng tổng giá trị/tuổi thọ tính theo năm. Nhưng nếu theo phương pháp khấu hao nhanh thì doanh nghiệp có thể bút toán và khấu hao nhiều hơn giá trị đó, thậm chí là gấp đôi. Lúc đó giảm số lợi tức tính thuế của môi năm và làm giảm số thuế phải nộp = % lợi tức tính thuế. Đây được xem là 1 trong những biện pháp ưu đãi thuế quan thành công nhất để khuyến khích các DNVVN đầu tư đổi mới trang thiết bị.
-Cần có các văn bản pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thuê mua tài chính, bán trả góp để các DNVVN thiếu vốn có thể nâng cấp máy móc thiết bị tốt hơn. Một lần nữa, vấn đề cho thuê tài chính lại phát huy hiệu quả của nó, lần này là giúp cho các DNVVN đổi mới công nghệ.
Cho thuê tài chính cho phép các DNVVN tiếp cận được công nghệ hiện đại chỉ với một hợp đồng cho thuê tài chính thay vì phải bỏ ra một khoản tài chính khổng lồ. Sau khi ký hợp đồng, cả bên đi thuê( các DNVVN ) và bên cho thuê( các công ty có máy móc công nghệ) cùng nhau tiến hành những thủ tục cần thiết, DNVVN sẽ lựa chọn cho mình những công nghệ hợp lý nhất và tiến hành thuê theo từng kỳ. Trong giai đoạn này DNVVN sẽ nhận được những lời khuyên về việc áp dụng công nghệ nào là phù hợp từ các công ty cho thuê có nhiều kinh nghiệm lựa chọn thiết bị, đánh giá tình hình.
Như vậy DNVVN vẫn có cơ hội áp dụng những công nghệ hiện đại vào sản xuất kinh doanh trong điều kiện ep hẹp về vốn.
Cho thuê tài chính giúp cho các DNVVN tránh được tình trạng “mắc kẹt” trong công nghệ. Nếu như các DNVVN bỏ ra một khoản tài chính không nhỏ đầu tư vào công nghệ thì khi có những biến động nào đó thì họ sẽ không còn khả năng nhanh chóng, linh hoạt được nữa bởi họ đã bị ràng buộc bởi những trang thiết bị công nghệ của mình, điều này đặc biệt hay xảy ra trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay, công nghệ rất nhanh chóng bị lão hoá, vòng đời công nghệ ngày càng bị rút ngắn, một công nghệ được coi là hiện đại trong giai đoạn này thì chỉ trong một thời gian ngắn sau lại có công nghệ hiện đại hơn thay thế. Nếu các doanh nghiệp dùng một khoản tài chính lớn đầu tư vào công nghệ và với tình hình quản lí của các DNVVN hiện nay thì họ sẽ có nguy cơ nhanh chóng bị lạc hậu về công nghệ, kết quả là sản phẩm làm ra không có sức cạnh tranh, không còn khả năng chiếm lĩnh thị trường. Trong khi đó máy móc thiết bị vẫn chưa khấu hao hết và họ rơi vào tình trạng “mắc kẹt” trong công nghệ.
Nếu áp dụng hình thức cho thuê tài chính thì thay vì bỏ ra một khoản tài chính lớn để đầu tư mua sắm trang thiết bị thì DNVVN tiến hành đi thuê và như vậy thì mức độ ràng buộc của DNVVN vào những công nghệ đó đã giảm đi rất nhiều vì doanh nghiệp chỉ sử dụng tài sản đó trong một thời hạn nhất định, khi kết thúc thời hạn thuê, nếu thấy công nghệ vẫn còn phát huy hiệu quả thì DNVVN sẽ tiến hành thuê tiếp hoặc mua lại( như trong khái niệm về cho thuê tài chính) và nếu ngược lại thì không thuê nữa. Khi doanh nghiệp muốn thay đổi lĩnh vực kinh doanh, thay đổi sản phẩm( chẳng hạn như do tác động của môi trường chính sách, nhu cầu thị trường chuyển hướng…) thì sẽ không phải e ngại vì máy móc thiết bị chưa khấu hao hết khiến vốn của doanh nghiệp còn đọng trong đó. Trong tình thế như vậy, doanh nghiệp chỉ cần tiến hành các thủ tục nhằm sớm chấm dứt hợp đồng khi hợp đồng hết hiệu lực và lại bắt đầu một quá trình khác, một chiến lược trong một lĩnh vực kinh doanh mới, một hợp đồng cho thuê tài chính khác với máy móc thiết bị hiện đại hơn, phù hợp hơn với hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN và đem lại nhiều lợi nhuận hơn.
Kinh nghiệm của một số nước trong vấn đề này là họ mở cửa thị trường cho máy móc thiết bị cũ nhằm thu hút kỹ thuật từ nước ngoài, nhưng họ chỉ chấp nhận miễn thuế cho những thiết bị phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế được xác định cho từng thời kỳ. Vì vậy, chúng ta cần ngiêm túc xem xét việc nới lỏng các quy định nghiêm ngặt hiện hành có liên quan đến việc hạn chế nhập khẩu máy móc thiết bị cũ để cho phép nhập khẩu thiết bị cũ, nhưng còn sử dụng tốt phù hợp với khả năng tài chính của các DNVVN . Điều đó cho phép các doanh nghiệp này nâng cao năng lực sản xuất của mình một cách tiết kiệm hơn mà vẫn không biến đất nước thành một "bãi rác công nghệ". Điều này thực sự có ý nghĩa với các DNVVN vì khả năng hạn chế về vốn của họ.
-Nhà nước cần đẩy mạnh việc hỗ trợ về công nghệ cho các DNVVN như thông tin về thị trường công nghệ, các thông tin trợ giúp về mặt kỹ thuật, đào tạo...để các DNVVN chọn lựa được công nghệ thích hợp. Ngoài ra, cần giảm bớt các chi phí liên lạc viễn thông quốc tế và phí truy nhập Internet để khuyến khích các doanh nghiệp chủ động tìm hiểu thông tin về công nghệ trên thế giới( hiện nay cước điện thoại và cước dịch vụ Internet ở Việt nam là một trong những nơi cao nhất thế giới).
Tạo điều kiện cho các chuyên gia nước ngoài vào Việt nam bằng cách đơn giản hoá các thủ tục và giảm chi phí đối với visa nhập cảnh đối với những cán bộ kỹ thuật, các nhà khoa học và những người điều hành kinh doanh nước ngoài, giảm thuế thu nhập cá nhân đối với các chuyên gia. Đây chính là những phương tiện hiệu quả trong chuyển giao công nghệ, bí quyết sản xuất thông qua đào tạo và làm mẫu cho các nhà quản lí, cán bộ kỹ thuật và công nhân Việt nam.
c. Nâng cao chất lượng các dự án đầu tư đổi mới công nghệ
Hiện nay, ở nước ta phần lớn các DNVVN bị hạn chế khả năng lập dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Do đó mặc dù đã tiến hành đầu tư nhưng giá thành, chất lượng sản phẩm chưa được cải thiện, hoặc đầu tư quá lớn không sử dụng hết công suất, vượt quá khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Để năng cao chất lượng các dự án đầu tư đổi mới công nghệ, cần phải tiến hành một số vấn đề sau đây:
Một là, phải làm tốt khâu nghiên cứu thị trường, từ đó xác định nhu cầu đổi mới công nghệ. Phân tích các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm năng để biết đựoc điểm mạnh của đối thủ cạnh tranh, dự đoán phát triển công nghệ mới đi đôi với các sản phẩm thay thế tiềm ẩn.
Hai là, phân tích thực trạng công nghệ của doanh nghiệp. Việc đánh giá năng lực công nghệ cần xem xét trên các yếu tố hợp thành: kỹ thuật công nghệ, kỹ thuật kinh nghiệm, tính sáng tạo, các dữ kiện, thiết kế, chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật, tổ chức quản lý công nghệ.
Ba là, xác định rõ mục tiêu cụ thể của dự án đầu tư đổi mới công nghệ để có giải pháp phù hợp.
Bốn là, nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Đây là một trong những khâu yếu trên con đường đổi mới công nghệ của DNVVN. Để nâng cao chất lượng thẩm định các dự án đầu tư đổi mới công nghệ, một mặt cần hoàn thiện môi trường pháp lý buộc các chủ đầu tư phải chấp hành nghiêm chỉnh việc xây dựng và lập dự án, mặt khác cần nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư đổi mới công nghệ, đặc biệt là thẩm định về mặt kỹ thuật của dự án, thẩm định về mặt tư cách pháp nhân và tài chính của chủ dự án, hiệu quả kinh tế- xã hội của dự án....
d.Thay đổi phương thức hỗ trợ vốn phát triển công nghệ
Trước đây, các DNVVN thường chỉ sử dụng phương thức vay tín dụng với các điều kiện thế chấp, tín chấp . Phương thức vay này vừa hạn chế khả năng huy động vốn tín dụng ngân hàng của các DNVVN lại vừa tạo ra kẽ hở. Do đó, phải đa dạng hóa các phương thức hỗ trợ để giải quyết ách tắc trong khâu chuyển giao vốn đầu tư tín dụng nhà nước tới DNVVN.
Các phương thức này bao gồm:
- Hình thành Qũy nghiên cứu triển khai, chuyển giao thiết bị công nghệ trên cơ sở sử dụng một bộ phận chi ngân sách cho nghiên cứu khoa học- công nghệ doanh nghiệp (trong điều kiện cho phép, cần thành lập ngân hàng tín dụng nghiên cứu khoa học công nghệ). Nguồn vốn từ Qũy này sẽ hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu triển khai, chuyển giao công nghệ, tổ chức nghiên cứu khoa học- công nghệ cho DNVVN.
- ứng dụng, phát triển mô hình Nhà nước tổ chức hoạt động thu, đổi thiết bị công nghệ cũ, bán trả góp thiết bị công nghệ mới cho DNVVN. Theo phương thức này, hệ thống ngân hàng thương mại sẽ tài trợ vốn trả góp cho các đơn vị thương mại thiết bị công nghệ và các đơn vị thương mại giao dịch trực tiếp với các DNVVN với hai nội dung: thu mua thiết bị cũ và bán trả góp thiết bị mới.
Đổi mới công nghệ trong các DNVVN là vấn đề cấp bách nhưng vô cùng khó khăn. Trên đây là một số giải pháp góp phần vào việc đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, điều quan trọng là các doanh nghiệp phải tự nhận thức được rằng đổi mới công nghệ là việc làm tất yếu theo xu hướng phát triển của thời đại mới. Thêm vào đó, các tổ chức tư vấn, các cơ quan hỗ trợ, các hiệp hội nghề nghiệp phải thực sự là những người bạn gần gũi đối với DNVVN, nhất là giai đoạn khởi sự vì áp lực của cuộc cạnh tranh buộc các DNVVN phải vươn lên nhưng nếu thiếu định hướng chỉ dẫn sẽ không tránh khỏi lúng túng, tự phát, kém hiệu quả.
Kết luận
Đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam” được nghiên cứu xuất phát từ thực tế, vai trò và ý nghĩa của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế Việt nam hiện nay. Khoá luận đã nghiên cứu và làm rõ các vấn đề sau:
1. Hệ thống hoá các vấn đề cơ bản về DNVVN như khái niệm, đặc điểm, ưu thế, bất lợi, vai trò, ý nghĩa của các DNVVN trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như sự cần thiết phải có chiến lược phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn hiện nay.
2. Nghiên cứu thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ qua các mặt như cơ cấu, phân bổ theo địa lý và ngành nghề, đóng góp cho phát triển kinh tế qua GDP, công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, về môi trường pháp lý, vốn, công nghệ, thông tin, nhân lực và cả các tác động tích cực và những tồn tại của quá trình từng bước đổi mới chính sách kinh tế vĩ mô đến hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Qua đó nêu ra các hạn chế, tồn tại của các DNVVN hiện nay về tình trạng thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, sản phẩm chưa chất lượng, đội ngũ nhân lực chưa tốt, khó tiếp cận thông tin và thị trường. Tất cả tạo nên năng lực cạnh tranh yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay.
3. Đề xuất một số biện pháp nhằm giải quyết những khó khăn, tồn tại đã chỉ ra đó là nhóm giải pháp về hoàn thiện môi trường pháp lý và chính sách vĩ mô của nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN phát triển, nhóm giải pháp nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh về nguồn vốn, thông tin, thị trường và nhóm giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về nhân lực và công nghệ.
ở nước ta, DNVVN có diện rộng, phổ cập, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế- xã hội. Như một tác động tích cực của quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt nam, các DNVVN đã phát triển nhanh chóng đồng thời có những đóng góp quan trọng bảo đảm sự ổn định và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, khai thác và tận dụng có hiệu quả tiềm năng về vốn, tay nghề và những nguồn lực còn tiềm ẩn trong dân cư; góp phần phân bố công nghiệp trên các địa bàn khác nhau; giữ vai trò bổ sung cho công nghiệp lớn, cân đối chung và vi mô nền kinh tế; bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống. Mặc dù vậy, sự phát triển của các DNVVN trong những năm qua có nhiều hạn chế, khó khăn, điều đó đòi hỏi cần có những biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển hơn nữa. Vì thế, thông qua bài khóa luận này, qua tình hình phát triển DNVVN ở Việt nam để thấy rõ được những điểm còn hạn chế, khó khăn; đồng thời nêu ra tác động của những chính sách đổi mới gần đây đến các DNVVN, qua đó đưa ra những giải pháp cả trước mắt và lâu dài để tạo điều kiện và hỗ trợ, khuyến khích các DNVVN ở Việt nam phát triển hơn nữa. Bước sang thế kỷ 21, kỷ nguyên của sự hội nhập và hợp tác phát triển giữa các nước trên thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của DNVVN Việt nam sẽ góp phần vào nền kinh tế chung của đất nước, tạo vị thế vững chắc trên thị trường khu vực và thế giới.
Tài liệu tham khảo
1. Nghị định 90/2001/CP-ND ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp và phát triển DNVVN.
2. “Báo cáo cập nhật kinh tế Việt nam năm 2001”-Tài liệu của Ngân hàng thế giới (WB).
3. Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt nam”, NXB Chính trị quốc gia 6/1999.
4. “Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính trong việc phát triển các DNVVN tai Việt nam”- Tiểu luận,- Đoàn Đức Thuận, Phạm Công Định.
5. "Kinh nghiệm và cẩm nang xây dựng xí nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới"-- NXB Thống kê/1999- Tác giả Đỗ Đức Định.
6. "Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt nam"- NXB Chính trị quốc gia/1997- PGS, PTS Nguyễn Cúc chủ trì.
7. Bản "Nghiên cứu xúc tiến doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ"- Viện nghiên cứu Nomura / tháng 10, 1999.
8. "Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt nam đến năm 2005"- NXB Chính trị quốc gia/2000- PGS, PTS Nguyễn Cúc chủ biên.
9. UNIDO, “Phát triển khu vực tư nhân, tài liệu làm việc số 2, phát triển cụm DNVVN ở các nước đang phát triển: kinh nghiệm của UNIDO”, 1999.
10.Báo cáo Uỷ ban Tài trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ, “Dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh đối với sự phát triển của các DNVVN ”, 1997.
11. Các báo cáo, tạp chí, nghiên cứu về DNVVN.
11. Các trang Web có chứa thông tin liên quan DNVVN như www.smenet.com.vn , trang web hỗ trợ xuất nhập khẩu : www.eximpro.com
13. “Thương mại điện tử với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam-NXB Thống kê”-Hà nội 2001-Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp.
14. Kỷ yếu hội thảo “Chính sách pháp luật và một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh”- NXB Đại học Quốc gia Hà nội-Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý/LERES.
Mục lục
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ
A.Khái niệm và tiêu chí xác định DNVVN
1.Khái niệm ở một số nước trên thể giói………………….……
2.Khái niệm ở Việt nam……….
B.Đặc điểm của DNVVN
1.Tính tất yếu của việc tồn tại các DNVVN trong nền kinh tế……
2.Đặc điểm chung của các DNVVN ……………….…………....
C.Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân
Chương II: Thực trạng phát triển của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam
A.Quá trình hình thành, phát triển các DNVVN ỏ Việt nam
1.Các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp………………….………….
2.Các DNVVN trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ……………………
3.Các DNVVN ở khu vực nông thôn………………….…………………
B. Tác động của các chính sách vĩ mô đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.Chính sách thương mại. ………………….………………….…………
2.Chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng. ………………….…….……….
3.Chính sách đất đai ………………….………………….……………….
3.Chính sách về công nghệ, giáo dục đào tạo……………………….……
5.Chính sách hợp tác quốc tế ………………….………………….……..
C.Thực trạng các và những tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam
1.Tình hình vốn ………………….………………….………………
2.Tình hình thiết bị công nghệ…….……………….…………………
3.Tình hình nhân lực, lao động quản lí……………………….………
4.Tình hình khả năng cạnh tranh về sản phẩm, thị trường………………..
Chương III: Các giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam.
A.Định hướng phát triển
B.Các giải pháp phát triển
1. Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý và hiệu quả quản lí nhà nước đối với các DNVVN.……………….………………….…...……
2.Nhóm giải pháp hỗ trợ kinh doanh về nguồn vốn, thông tin, thị trường
3.Nhóm giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh cho các DNVVN về nhân lực, công nghệ. ……………………..….…………………….……….
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0157.doc