Thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư: nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài

Tài liệu Thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư: nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài: ... Ebook Thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư: nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1382 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư: nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong qu¸ tr×nh héi nhËp nÒn kinh tÕ thÕ giíi, vèn ®Çu t­ cho ph¸t triÓn lµ mét trong nh÷ng yÕu tè quyÕt ®Þnh ®Õn sù thµnh c«ng hay thÊt b¹i cña mçi quèc gia. §èi víi ViÖt Nam, môc tiªu ®Æt ra lµ thùc hiÖn thµnh c«ng qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa . ®Êt n­íc, phÊn ®Êu ®Õn n¨m 2020, ViÖt Nam c¬ b¶n trë thµnh mét n­íc c«ng nghiÖp, do ®ã nguån vèn ®Çu t­ l¹i cµng lµ yÕu tè ®Æc biÖt quan träng. Ngµy nay bèi c¶nh toµn cÇu ho¸ nÒn kinh tÕ thÕ giíi vµ tù do ho¸ th­¬ng m¹i diÔn ra hÕt søc m¹nh mÏ, chÝnh ®Æc ®iÓm nµy cña nÒn kinh tÕ thÕ giíi ®· vµ ®ang lµm cho c¸c n­íc ®ang ph¸t triÓn, trong ®ã cã ViÖt Nam, gÆp kh«ng Ýt khã kh¨n trong qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp ho¸ - hiÖn ®¹i ho¸ ®Êt n­íc, nhÊt lµ vÒ vÊn ®Ò vèn ®Çu t­. Trªn gãc ®é toµn bé nÒn kinh tÕ, nguån vèn ®Çu t­ bao gåm nguån vèn ®Çu t­ trong n­íc vµ nguån vèn ®Çu t­ n­íc ngoµi. §èi víi ViÖt Nam, trªn c¬ së x¸c ®Þnh râ vèn trong n­íc lµ quyÕt ®Þnh , vèn n­íc ngoµi lµ quan träng, ®Ó thóc ®Èy kinh tÕ ph¸t triÓn nhanh vµ bÒn v÷ng, nh»m môc tiªu c«ng nghiÖp hãa vµ hiÖn ®¹i hãa, Nhµ n­íc rÊt coi träng viÖc huy ®éng vµ sö dông hiÖu qu¶ mäi nguån vèn trong vµ ngoµi n­íc ®Ó ®Çu t­ ph¸t triÓn s¶n xuÊt, t¹o thªm c«ng ¨n viÖc lµm, c¶i thiÖn ®êi sèng nh©n d©n. ChÝnh v× lÝ do ®ã, cïng víi thùc tr¹ng mèi quan hÖ gi÷a hai nguån vèn ®Çu t­ trªn ë ViÖt Nam hiÖn nay, nhãm em xin tr×nh bµy ®Ò tµi th¶o luËn : “ Thùc tr¹ng mèi quan hÖ gi÷a hai nguån vèn ®Çu t­ : nguån vèn ®Çu t­ trong n­íc vµ nguån vèn ®Çu t­ n­íc ngoµi”. Th«ng qua kiÕn thøc ®· tiÕp thu trªn líp cïng víi viÖc tham kh¶o mét sè tµi liÖu, nhãm em xin tr×nh bµy néi dung ®Ò tµi nµy nh­ sau: Ch­¬ng I: Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nước ngoài - những vấn đề lý luận chung Ch­¬ng II: Mối quan hệ giữa hai nguôn vốn- Thực trạng ở Việt Nam Ch­¬ng III: Một số khuyến nghị để tăng cường mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài Chương I.Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nước ngoài - những vấn đề lý luận chung I.Khái niêm,bản chất và phân loại nguồn vốn đầu tư 1.Khái niệm Nguồn vốn đầu tư là các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội. 2.Bản chất của nguồn vốn đầu tư Xét về bản chất,nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích lũy mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội.Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác- Lê nin, và kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm”Của cải của các dân tộc”(1776),Adamsmith.một đại diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã khẳng định:”Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích lũy cho quá trình tiết kiệm.Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa,nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”. Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề lien quan trực tiếp tới tích lũy, Các Mac đã chứng minh rằng: Trong nền kinh tế với hai khu vực,khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất,khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dung.Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vựcđều bao gồm (c+v+m),trong đó c là phần tiêu hao vật chất,(v+m) là phần mới sáng tạo ra.Khi đó,điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo: (v+m)I > cII Hay nói cách khác: (c+v+m)I > (cII+cI) Điều đó có nghĩa là tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế mà còn phải dư thừa để làm tăng quy mơt liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo. Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo: (c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)II Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị tạo ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhậpđể tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư sẽ tăng. Như vậy theo Mac- Lênin,thì nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích lũy cho nền kinh tế. Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “ Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, John Maynard Keynes đã chứng minh được rằng:đầu tư chính bằng phần thu nhập không chuyển vào tiêu dung.Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng,tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng.Tức là: thu nhập = tiêu dùng + đầu tư Tiết kiệm = thu nhập – tiêu dùng Từ đó suy ra: tiết kiệm = đầu tư Tuy nhiên,điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng.Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết liệm của khu vực tư nhân và chính phủ. Điều cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xem xét tên góc độ toàn nền kinh tế khhong nhất thiết được tiến hành bởi cùng một cá nhân hoặc doanh nghiệp nào đó. Có thể có những cá nhân hoặc doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó có tích lũy nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi đó, có một số cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa tích lũy đủ. Khi đó thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề này bằng việc điều tiết khoản vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng. Trong nền kinh tế mở,đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải bao giờ cũng được thiết lập.Mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai: CA = S – I Như vậy,trong nền kinh tế mở,nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích lũy nội bộ nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi đó, đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích lũy của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. 3.Phân loại nuồn vốn đầu tư Trên góc toàn bộ nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 3.1.Nguồn vốn đầu tư trong nước Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội. Biểu hiện cụ thể của vốn đầu tư trong nước gồm vốn đầu tư của nhà nước và vốn đầu tư của dân cư và tư nhân. 3.1.1.Nguồn vốn nhà nước Nguồn vốn đầu tư của nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. a.Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đó chính là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn. b/ Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển tư phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Bên cạnh đó, vốn tín dụng phát triển của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô.Thông qua nguồn vốn tín dụng, nhà nước khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực rheo hướng chiến lược của mình. c/ Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Được xác định là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế,các doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ một khối lượng vốn khá lớn.Mặc dù vẫn còn một số hạn chế,nhưng khu vực kinh tế nhà nước với sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần,hiệu quả của khu vực này ngày càng được khẳng định, tích lũy của khu vực này ngày càng tăng. Nguồn vốn này chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước,thong thường chiếm 14-15% tổng vốn đầu tư xã hội. 3.1.2.Nguồn vốn của dân cư và tư nhân Nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư,phần tích lũy của doanh nghiệp dân doanh,các hợp tác xã. Đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn,mở mang ngành nghề,phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp…. Nguồn vốn trong dân cư là một nguồn vốn quan trọng, nếu có những biện pháp thích hợp,chúng ta có thể huy động được một khối lượng vốn đáng kể cho sự phát triển kinh tế. Các loại hình doanh nghiệp tư nhân ngày càng phát triển,phần tích lũy của các doanh nghiệp này sẽ góp phần đáng kể vào tổng quy mô nguồn vốn của toàn xã hội,nó được coi như những tế bào có khả năng tái tạo các nguồn tài chính. 3.2.Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Nguồn vốn của doanh nghiệp nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy của cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động được vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại. Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế. Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu hiện cụ thể của quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới.Theo tính chất của dòng luân chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính thức như sau: Nguồn viện trợ phát triển chính thức( ODA) Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế. Nguồn tín dụng từ các ngân hang thương mại quốc tế. 3.2.1. Nguồn vốn ODA. Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế, các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các nguồn tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi hơn bất cứ nguồn ODF nào khác. Bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi của các chính phủ,các tổ chức liên hợp quốc…Vốn ODA được các chính phủ tài trợ là để thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các nước đang phát triển như xây dựng cơ sở hạ tầng,đầu tư nghiên cứu... các yếu tố không hoàn lại của vốn vay ODA ít nhất 25%, thời gian cho vay dài, khối lượng cho vay lớn, thời gian ân hạn dài. Bên cạnh đó, ODA còn mang tính chất ràng buộc với nước tiếp nhận vốn và là nguồn vốn vay có khả năng gây nợ. Vì vậy, chính phủ các nước phải quản lý nguồn vốn vay để sử dụng có hiệu quả. 3.2.2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển không chỉ đối với nước nghèo mà cả đối với các nước công nghệ phát triển. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có đặc điểm khác với các nguồn vốn khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận đầu tư. Thay vì nhận lãi trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án hoạt động có hiệu quả. Đầu tư nước ngoài đem theo toàn bộ tì nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành nghề đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay nhiều vốn. Vì thế, nguồn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng nhanh của nước tiếp nhận đầu tư. 3.2.3. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế Điều kiện ưu đãi dành cho loại nguồn vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại có ưu điểm rõ rang là không gắn với các rang buộc chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này là tương đối khắt khe, thời gian trả nnghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với những nước nghèo. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hang, nguồn vốn tín dụng của các ngân hang thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn.Một bộ phận nguồn vốn này có thể dung để đầu tư phát triển. 3.2.4. Thị trường vốn quốc tế Với xu hướng toàn cầu , mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thị trường vốn quốc tế được biểu hiện bằng sự phát triển của thị trường chứng khoán, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán của các nước đang phát triển ngày càng mạnh mẽ. Chính phủ của các nước đang phát triển có thể phát hành trái phiếu trên thị trường vốn quốc tế để huy động nguồn vốn lớn, tập trung cho phát triển kinh tế. II.Mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài Nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn nước ngoài là hai bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu nguồn vốn của một nước. Trong đó nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng, nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định. 1. Sự cần thiết phải có cả nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài trong cơ cấu nguồn vốn của các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng 1.1 Nghiên cứu về “cái vòng luẩn quẩn của các nước đang phát triển”, những vấn đề đặt ra Các nước đang phát triển là các nước có nền nông nghiệp lạc hậu, hoặc các nước nông-công nghiệp đang từ sản xuất nhỏ tiến lên con đường công nghiệp hoá.Ví dụ: Việt Nam,Braxin, Cam Pu Chia, Lào.....Đa số các nước này đều là những nước mới dành đựơc độc lập. Nhóm các nước này có các đặc trưng như sau: (1) Mức sống thấp: Ở các nước đang phát triển, mức sống nói chung đều rất thấp đối với đại đa số dân chúng. Mức sống thấp biểu thị cả về lượng và về chất dưới dạng thu nhập thấp, thiếu nhà ở, sức khoẻ kém, ít được học hành, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh cao, tuổi thọ thấp. Bảng một số chỉ tiêu phản ánh nhu cầu cơ bản của con người Tên nước GDP(tỷ đô la) Tốc độ tăng GDP đầu người (2004-2005) Tuổi thọ bình quân (Nam/nữ)(2004) Tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi trên 1000 ca(2004) Tỷ lệ người lớn biết chữ 1. theo nhóm nước -Thu nhập cao 3446,19 2.1 76/82 7 - -Thu nhập bình quân 8535.12 5.4 68/73 39 90 -Thu Nhập thấp 1391.36 5.6 58/60 122 62 2. Một số nước -Mỹ 12455 2.5 75/80 8 - -Nhật Bản 4505.91 2.6 78/85 4 - -Trung Quốc 2228.86 9.2 70/73 31 91 -Ấn Độ 785.46 7.1 63/64 85 61 -Braxin - 0.9 67/75 34 89 -Hàn Quốc 787.62 3.5 74/81 6 - -Thái Lan 176.6 3.6 67/74 21 93 -Việt Nam 52 7.4 68/73 23 90 -Lào - 4.6 54/57 83 69 -Campuchia - 5 53/60 141 74 -Bangladet - 3.5 63/64 77 41 -CH Trung Phi - 0.9 39/40 149 49 Nguồn: WB, Báo cáo phát triển thế giới 2007 Qua bảng, nhìn chung các nước phát triển như Mỹ, Nhật đã đạt được các chỉ tiêu phát triển xã hội rất tốt, trong khi đó những chỉ tiêu này ở các nước có mức thu nhập thấp như : CH Trung Phi, Bangladet, Lào, Campuchia lại không được khả quan. Mức thu nhập thấp được thể hiện rõ nhất ở mức thu nhập bình quân đầu người(GNP/ Người). Các nhà kinh tế trên thế giới thường lấy mức 2000USD/ người làm mốc phản ánh được khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, đạt được mức này phản ánh sự biến đổi về chất trong hoạt động kinh tế và đời sống xã hội. Hiện nay còn khoảng 100 nước đang phát triển có mức thu nhập bình quân dưới 2000USD/ người, trong đó có khoảng 40 nước có mức thu nhập bình quân dưới 600USD/ người. Điều này phản ánh khả năng hạn chế của các nước đang phát triển trong việc giải quyết các nhu cầu cơ bản của con người. Ngoài việc phải vật lộn với mức thu nhập thấp, nhiều người dân ở các nước đang phát triển còn phải thường xuyên chiến đấu chống lại nạn suy dinh dưỡng, bện tật và sức khoẻ kém. Trong số 40 nước có thu nhập thấp nhất thế giới thì tuổi thọ trung bình vào khoảng 50, so với 58 ở các nước đang phát triển khác và 75 tuổi ở các nước công nghiệp phát triển. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh dưới 1 tuổi trong số 1000 trẻ em được sinh ra ở các nước kém phát triển nhất vào khoảng 118 so với 73 ở các nước đang phát triển khác và 12 ở các nước phát triển. Cơ hội được học hành ở các nước đang phát triển cũng hạn chế. Việc cố gắng tạo ra cơ hội giáo dục ở cấp tiểu học là nỗ lực lớn nhất ở các nước này. Tuy vậy, mặc dù có bước tiến đáng kể về động viê học sinh đến trường, nhưng tỷ lệ biết chữ vẫn rất thấp. Trong số những nước kém phát triển nhất thì tỷ lệ này là 34% so với 65% ở các nước đang phát triển khác và 99% ở các nước phát triển. (2) Tỷ lệ tích luỹ thấp: Điều hiển nhiên là để có nguồn vốn tích luỹ cần phải hy sinh tiêu dùng. Nhưng khó khăn là ở chỗ, đối với các nước đang phát triển, nhất là những nước có thu nhập thấp, đã gần như chỉ có mức sống tối thiểu, vì vậy việc giảm tiêu dùng là rất khó khăn. Ở những nước phát triển thường để dành từ 20% đến hơn 30% thu nhập để tích luỹ. Trong khi đó, ở các nước nông nghiệpc chỉ có khả năng tiết kiệm trên 10% thu nhập; nhưng phần lớn số tiết kiệm này lại dùng để cung cấp nhà ở và trang thiết bị cần thiết khác cho số dân đang tăng lên. Do vậy, càng hạn chế quy mô tiết kiệm cho tích luỹ phát triển kinh tế. (3) Trình độ kĩ thuật của sản xuất thấp: Ở các nước đang phát triển, hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, kỹ thuật sản xuất thủ công lạc hậu. Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy rằng, nền kinh tế không thể chuyển động đi lên nếu không có công nghiệp phát triển. Sự ra đời của các phương thức sản xuất mới luôn đi đôi với cách mạng công nghiệp. Các nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đều có nguồn gốc từ tốc độ tăng của ngành công nghiệp. Trải qua các giai đoạn phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu, các nước đang phát triển tuy đã có ngành công nghiệp mới, nhưng phần lớn vẫn là những ngành sản xuất với kỹ thuật cổ truyền, trình độ kĩ thuật thấp, sản xuất sản phẩm thường ở dạng thô, sơ chế hoặc chế biến với chất lượng thấp. Trong khi các nước có nền kinh tế phát triển đã đạt đến trình độ công nghệ tiên tiến với kĩ thuật sản xuất hiện đại, trình độ quản lý thành thạo, vượt xa trình độ công nghệ của các nứơc đang phát triển từ 3 – 6 thập kỷ, khoảng cách công nghệ quá lớn cũng làm cho các nước đang phát triển khó tận dụng được lợi thế của các nước đi sau do quá trình phân công lao động quốc tế mới đưa lại. (4). Năng suất lao động thấp: các nước đang phát triển còn phải đối đầu với một thách thức nữa trong quá trình phát triển đó là áp lực về dân số và việc làm. Dân số ở các nước đang phát triển vốn dĩ đã đông, sự bùng nổ về dân số ở những quốc gia này đã tạo ra một hạn chế lớn cho phát triển kinh tế. Tỷ lệ gia tăng dân số thường ở mức cao hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đã làm cho mức sống của nhân dân ngày càng giảm. Thu nhập giảm tất yếu dẫn đến làm giảm sức mua và tỷ lệ tiết kiệm, sự mất cân đối giữa tích luỹ và đầu tư đã làm kìm hãm sản xuất, trong khi dân số vẫn tiếp tục gia tăng, tạo áp lực về việc làm, làm cho năng suất lao động không tăng lên. Những đặc trưng trên đây chính là những trở ngại đối với sự phát triển, chúng có liên quan chặt chẽ với nhau, tạo ra vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ, làm cho khoảng cách giữa các nước phát triển và đang phát triển ngày càng gia tăng. Thu nhập thấp Năng suất thấp Tỷ lệ tích luỹ thấp Trình độ kĩ thuật thấp Sơ đồ : Cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ Đứng trước tình hình này đòi hỏi các nước đang phát triển phải có biện pháp để phá vỡ vòng luẩn quẩn. Trong khi tìm kiếm con đường phát triển đã dẫn đến những xu hướng khác nhau. Có những nước vẫn tiếp tục rơi vào tình trạng trì trệ, thậm chí phát triển thụt lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu Phi cận Sahara, hay một số nứơc Nam Á. Có những nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá, đưa đất nước ra khỏi vòng luẩn quẩn, nhưng rồi lại rơi vào những cuộc khủng hoảng với những vòng luẩn quẩn mới như Philippin. Bên cạnh đó có những nước đã tạo được tốc độ phát triển nhanh, rút ngắn khoảng cách thậm chí đuổi kịp các nước phát triển, đó là các nước NICs Châu Á: Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, và Hàn Quốc. Gần đây, các nước Thái Lan, Malaixia và Trung Quốc cũng đã chứng minh sự đúng đắn trong việc lựa chọn đường lối phát triển. Nhà kinh tế học hiện đại Samuelson đã nghiên cứu rất tỷ mỷ về cái vòng luẩn quẩn của các nước đang phát triển và đưa ra một cách đã được rất nhiều các nước này áp dụng đó là dựa vào nguồn lực bên ngoài. Ông đưa vào học thuyết mình với tên :” cái vòng luẩn quẩn và cú huých từ bên ngoài”. “Cú huých từ bên ngoài” ở đây được hiểu là nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Với khả năng tích luỹ nội bộ thấp như vậy, các nước đang phát triển không thể tự tạo ra cho mình nguồn vốn đầu tư để phát triển được mà phải nhờ tới nguồn vốn nước ngoài (mà chủ yếu là vốn của các nước phát triển). Nguồn vốn nước ngoài sẽ khắc phục cho khả năng tích luỹ thấp bằng cách sử dụng nguồn tích luỹ từ các nước khác chuyển sang. Chúng sẽ được sử dụng nhằm hỗ trợ nguồn lực trong nước vào đầu tư phát triển, tạo ra công ăn việc làm, thu nhập cho nước tiếp nhận, cải tiến công nghệ, nâng cao năng suất lao động. Từ đó, tạo điều kiện cất cánh cho nền kinh tế, giúp thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn. 1.2. Thời đại ngày nay không có một dân tộc nào, không một nên kinh tế nào có thể phát triển trong sự tồn tại riêng lẻ. Sự hợp tác nhiều mặt, nhiều chiều,tuỳ thuộc lẫn nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi đã trở thành xu thế tất yếu đối với mọi nước, mọi nền kinh tế. Thế giới ngày nay là một thể thống nhất, trong đó các quốc gia là những đơn vị độc lập, tự chủ nhưng phụ thuộc vào nhau về kinh tế và khoa học công nghệ. Sự phụ thuộc giữa các quốc gia bắt nguồn từ yếu tố khách quan. Nhiều nhà kinh tế học cho rằng đối với bất kỳ quốc gia nào sự phát triển kinh tế đòi hỏi phải có 16 sản phẩm cơ bản như : Năng lượng, dầu thô, khí đốt, sắt, đồng, chì, kẽm,nhôm, niken, gỗ, lương thực, thiết bị kĩ thuật..... Do điều kiện địa lý, do sự phân bố không đồng đều tài nguyên thiên nhiên, không có 1 quốc gia nào có khả năng tự đảm bảo các sản phẩm cơ bản nói trên. Mọi quốc gia đều phụ thuộc vào nước ngoài với mức độ khác nhau về sản phẩm đó Lịch sử thế giới đã chứng minh không có 1 quốc gia nào có thể phát triển nếu không có quan hệ đối ngoại với bất kì nước nào. Những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đều là do khéo léo tận dụng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển. Chính những quan hệ ấy đã tạo ra nhiều hình thức hợp tác trong phát triển, trong đó, đầu tư quốc tế là một trong những mảng chính của quan hệ kinh tế quốc tế. Đầu tư quốc tế được thực hiện dưới nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó tổng kết có một số nguyên nhân chính sau: +Do sự mất cân đối về yếu tố sản xuất giữa các quốc gia nên có sự chênh lệch về giá cả các yếu tố, đầu tư quốc tế thưc hiện nhằm đạt được lợi ích từ sự chênh lệch đó (khai thác lợi thế so sánh của mỗi quốc gia) +Do sự gặp gỡ về lợi ích của các bên tham gia. +Trong nhiều trường hợp đầu tư quốc tế nhằm giải quyết các nhiệm vụ đặc biệt như xây dựng công trình có quy mô vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia, đòi hỏi phải có sự hợp tác của nhiều quốc gia. 1.3. Tăng cường thu hút vốn và công nghệ nước ngoài tạo cơ hội “cất cánh” cho nền kinh tế dựa trên việc tận dụng những nguồn lực trong nước chưa có. Thực tế cho thấy, việc thu hút nguồn vốn nước ngoài có tính hai mặt(cả những tác động tích cực và tiêu cực). Đối với nước tiếp nhận thì -Những tác động tích cực của việc thu hút nguồn vốn nước ngoài : +Góp phần giải quyết khó khăn do thiếu vốn +Tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động trong nước +Học tập kinh nghiệm quảnlí, tác phong làm việc tiên tiến, tiếp nhận công nghệ hiện đại từ nước chủ đầu tư +Tạo điều kiện để khai thác các nguồn tài nguyên một cách có hiệu quả +Giúp cho việc xây dựng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao nhằm hỗ trợ cho quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế +Góp phần khắc phục những khó khăn do thiên tai, hoả hoạn và giải quyết các vấn đề xã hội - Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có những tác động tiêu cực nếu như các nước tiếp nhận không cẩn thận thù sẽ mắc phải và để lại những hậu quả nghiêm trọng +Có thể dẫn tới tình trạng khai thác tài nguyên thái quá, gây ô nhiễm môi trường +Gây ra sự phân hoá, tăng khoảng cách phát triển giữa các vùng và giữa các tầng lớp dân cư +Có thể làm tăng các vấn đề về tệ nạn xã hội, bệnh tật +Có thể bị ảnh hưởng hoặc lệ thuộc vào những yêu cầu từ phía chủ đầu tư 2.Nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài có tác động qua lại với nhau 2.1. Nguồn vốn trong nước tác động đối với nguồn vốn nước ngoài 2.1.1. Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho nguồn vốn nước ngoài vào hoạt động có hiệu quả Thông thường để vốn đầu tư nước ngoài phát huy được tác dụng thì cần phải có một tỷ lệ vốn đối ứng trong nước thích hợp. Nghĩa là muốn tiếp nhận được vốn đầu tư nước ngoài thì trong nước cũng cần chuẩn bị sẵn một số cơ sở nhất định tạo điều kiện cho vốn nước ngoài hoạt động có hiệu quả. Trong dự án sử dụng vốn ODA những tổ chức cho vay yêu cầu nước đi vay phải có vốn đối ứng để chủ động cho việc lập dự án. Nước đi vay phải bỏ trước có thể để chi trả cho đội ngũ thực hiện dự án hoặc chi phí cho hoạt động đi lại, hoạt động của phía Việt Nam. Sẽ có hai nhóm nhận tiền, một nhóm là do dự án trả, một nhóm khác do Nhà nước trả ( lấy từ nguồn vốn đối ứng). Theo kinh nghiệm của một số nước nhóm NICs thì giai đoạn đầu của quá trình phát triển tỷ lệ này thường thấp ở mức 1/1.5 nghĩa là 1 đòng vốn nước ngoài cần 1.5 đồng vốn trong nước. Ở giai đoạn sau khi các chương trình đầu tư nghiêng về ngành công nghiệp chế biến có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao thì tỷ lệ này thường tăng lên 1 / 2.5. 2.1.2. Đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước ngoài chảy vào các ngành, các lĩnh vực cần thiết. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò then chốt trong việc định hướng các hoạt động đầu tư.Mỗi nền kinh tế phát triển đều phải trải qua những giai đoạn khác nhau và không thể áp dụng dập khuôn 1 chính sách cho cả quá trình phát triển.Với mỗi giai đoạn phát triển sẽ đặt ra những mục tiêu trọng tâm, ưu tiên cho việc phát triển những ngành kinh tế phù hợp.Muốn xây dựng một đất nước phát triển về mọi mặt thì các ngành, các vùng của chúng ta đều phải có một sự phát triển nhất định với một cơ cấu hợp lí..Việc đầu tư vốn trong nước để xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới thông tin liên lạc, giao thông…vào ngành, địa phương nào sẽ tạo môi trường đầu tư thuận lợi, từ đó có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy việc sử dụng vốn trong nước cho ngành nào, vùng nào cần phải được cân nhắc kĩ theo sự định hướng đúng đắn của Nhà nước sẽ giúp nền kinh tế phát triển nhanh chóng 2.1.3. Trên cơ sở đầu tư ban đầu tạo cơ sở hạ tầng căn bản chủ động cho việc tiếp nhận nguồn vốn nước ngoài Hiện nay, trong xu thế hội nhập toàn cầu, mỗi 1 quốc gia không chỉ phát triển đơn lẻ mà còn có sự tác động qua lại đối với các quốc gia khác. Chính vì thế, nền kinh tế của mỗi quốc gia sẽ ít nhiều chịu ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, nếu chúng ta phát huy được nội lực nguồn vốn trong nước thì sẽ có được thế chủ động trong việc điều hành nền kinh tế và ổn định các chính sách kinh tế. Ngoài ra, việc tận dụng nguồn vốn trong nước cũng giúp chúng ta có được sự phát triển bền vững. Để phát triển kinh tế có nhiều con đuờng khác nhau. Nhiều nước đã chọn con đường đi vay và xin viện trợ nước ngoài nhằm phát triển kinh tế đất nước. Thực tế đã cho thấy các nước này có thể đạt được mức tăng trưởng cao nhưng là tăng trưởng nóng, không bền vững và có sự lệ thuộc vào nước cho vay, bởi họ không thấy được cũng như không phát huy được tính quyết định của nguồn vốn trong nước. Mặt khác, nguồn vốn trong nước chính là cơ sở để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trước tiên, xét về nguồn vốn FDI: Thực tế những năm qua, dòng vốn FDI trên thế giới chủ yếu di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có khoảng 25% - 30% di chuyển đến các nước đang và chậm phát triển. Điều đó chứng tỏ tài nguyên thiên nhiên dồi dào, lao động rẻ không phải là nhân tố quan trọng hàng đầu trong thu hút FDI. Khoảng 90% dòng vốn chảy vào một số ít quốc gia có môi trường đầu tư hấp dẫn. Vì vậy cần quan tâm tới vấn đề sử dụng nguồn vốn trong nước để tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn. Do đó, tự bản thân chúng ta phải xây dựng cho mình một nền tảng kinh tế - chính trị - xã hội vững chắc và ổn định, có cơ sở hạ tầng, giao thông liên lạc tốt, đội ngũ nhân công có tay nghề, cán bộ quản lí có chuyên môn... Đó mới là yếu tố quyết định tới việc thu hút vồn nước ngoài để phát triển kinh tế. Và đảm nhiệm vai trò này chính là nguồn vốn trong nước. Đối với nguồn vốn ODA, tuy có rất nhiều ưu đãi nhưng về bản chất đây vẫn là 1 khoản vay nên chúng ta vẫn phải trả nợ. Nếu khi đó nguồn vốn trong nước không đủ để chi trả thì sẽ dẫn tới tình trạng nợ cho nền kinh tế và như vậy thì mục đích tăng trưởng và phát triển kinh tế đã không đạt được. Do đó nguồn vốn trong nước thực sự đóng vai trò quyết định tới việc thu hút vốn nước ngoài và tới tăng trưởng của nền kinh tế. 2.2. Nguồn vốn nước ngoài tác động tới nguồn vốn trong nước 2.2.1 Nguồn vốn nước ngoài có tác động tích cực tới nguồn vốn trong nước 2.2.1.1.Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ cho những thiếu hụt về vốn trong nước Vốn là một trong 3 yếu tố quan trọng tác động trực tiếp tăng trưởng bên cạnh lao động và năng suất yếu tố tổng hợp(TPF). Là yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng. Vì vậy mà nó có vai trò hết sức quan trọng. Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ cho những thiếu hụt về vốn trong nước, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, khi mà nguồn vốn trong nước còn rất hạn chế. Những nghiên cứu về các nước đang phát triển cho thấy rằng, nhóm nước này có mức thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng và tích luỹ cũng là rất hạn chế. Nhưng ở giai đoạn này lại cần một khoản vốn lớn để đầu tư nhằm hoản chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng những công trình làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế lâu dài. Trong giai đoạn này thường tồn tại khoảng cách lớn giữa đầu tư và tiết kiệm, cần nguồn bù đắp. Hơn nữa trong giai đoạn này do nền công nghiệp của đất nước chưa phát tr._.iển nên hàng xuất khẩu nếu có đa phần là hàng nông sản sơ chế và các nguyên liệu thô...có giá trị gia tăng thấp. Ngược lại về phía nhập khẩu do nhu cầu phát triển đòi hỏi phải nhập khẩu hàng cao cấp, máy móc thiết bị công nghệ...có giá trị gia tăng cao. Điều đó dẫn đến cán cân thương mại, cán cân thanh toán luôn nằm trong tình trạng thâm hụt. Để giải quyết khó khăn này nhiều nước đã tìm đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài để tài trợ cho những thiếu hụt đó. Thực trạng chung của những nuớc đang phát triển như Việt Nam là kết cấu hạ tầng còn thiếu, lại quá tải và cũ kĩ, đường,cầu, sân bay, nhà máy điện, tàu biển, cảng, viễn thông, trường học, bệnh viện… đều trong tình trạng yếu kém. Vì vậy, để duy trì cho tăng trưởng và phát triển bền vững, Việt Nam nhất thiết phải đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cơ bản và đồng bộ. Trong khi đó ngân sách nhà nước lại vô cùng eo hẹp. Chính vì thế, nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò vô cùng quan trọng. Thực tế cho thấy việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhưng việc thu hồi vốn lại chậm, khả năng sinh lời thấp, nên không hấp dẫn được đầu tư của tư nhân. ODA trở thành giải pháp hiệu quả cho việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Không chỉ ở Việt Nam, ngay cả những nước phát triển cũng đã lựa chọn ODA để đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng..Nguồn vốn ODA cho phép phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiệu quả. Với khối lượng vốn lớn, thời hạn vay dài, lãi suất thấp và được cung cấp từ nhiều nhà tài trợ khác nhau, ODA là nguồn vốn cho phép tiến hành đồng thời nhiều dự án trên địa bàn và ở nhiều ngành khác nhau. Điều này sẽ tạo được sự phát triển mang tính chất đồng bộ của hệ thống kết cấu hạ tầng, nhờ đó, tạo được năng suất tổng hợp phục vụ hiểu quả đối với hoạt động sản xuất kinh doanhvà sự phát triển chung của toàn xã hội. Hơn nữa, ODA cũng làm tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang phát triển.Như đã biết, để có thể thu hút được các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, các quốc gia phải đảm bảo cho họ có được môi trường đầu tư tốt ( cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật ổn định...), đảm bảo đầu tư có lợi với phí tổn đầu tư thấp, hiệu quả đầu tư cao. Muốn vậy, đầu tư của Nhà nước phải được tập trung vào việc nâng cấp, cải thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng...Nguồn vốn để Nhà nước có thể giải quyết những đầu tư này là phải dựa vào nguồn vốn ODA giúp bổ sung cho vốn đầu tư hạn hẹp từ ngân sách Nhà nước. Một khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ tăng sức hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy đầu tư trong nước tăng, dẫn đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế.Thực trạng chung của những nuớc đang phát triển như Việt Nam là kết cấu hạ tầng còn thiếu, lại quá tải và cũ kĩ: đường, cầu, sân bay, nhà máy điện, tàu biển, cảng, viễn thông, trường học, bệnh viện… đều trong tình trạng yếu kém. Vì vậy, để duy trì cho tăng trưởng và phát triển bền vững, Việt Nam nhất thiết phải đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cơ bản và đồng bộ. Trong khi đó ngân sách nhà nước lại vô cùng eo hẹp. Chính vì thế, nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò vô cùng quan trọng. Thực tế cho thấy việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhưng việc thu hồi vốn lại chậm, khả năng sinh lời thấp, nên không hấp dẫn được đầu tư của tư nhân. ODA trở thành giải pháp hiệu quả cho việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Không chỉ ở Việt Nam, ngay cả những nước phát triển cũng đã lựa chọn ODA để đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng. Nguồn vốn ODA cho phép phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiệu quả. Với khối lượng vốn lớn, thời hạn vay dài, lãi suất thấp và được cung cấp từ nhiều nhà tài trợ khác nhau, ODA là nguồn vốn cho phép tiến hành đồng thời nhiều dự án trên địa bàn và ở nhiều ngành khác nhau. Điều này sẽ tạo được sự phát triển mang tính chất đồng bộ của hệ thống kết cấu hạ tầng, nhờ đó, tạo được năng suất tổng hợp phục vụ hiểu quả đối với hoạt động sản xuất kinh doanhvà sự phát triển chung của toàn xã hội. Hơn nữa, ODA cũng làm tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang phát triển.Như đã biết, để có thể thu hút được các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, các quốc gia phải đảm bảo cho họ có được môi trường đầu tư tốt ( cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật ổn định...), đảm bảo đầu tư có lợi với phí tổn đầu tư thấp, hiệu quả đầu tư cao. Muốn vậy, đầu tư của Nhà nước phải được tập trung vào việc nâng cấp, cải thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng...Nguồn vốn để Nhà nước có thể giải quyết những đầu tư này là phải dựa vào nguồn vốn ODA giúp bổ sung cho vốn đầu tư hạn hẹp từ ngân sách Nhà nước. Một khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ tăng sức hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy đầu tư trong nước tăng, dẫn đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Mặt khác, việc sử dụng nguồn vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận. Như vậy, hỗ trợ phát triển chính thức, ngoài việc bản thân nó là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước dang phát triển, còn có tác dụng tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn đầu tư trực tiếp và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước cho các nước này. 2.2.1.2. Là nguồn cung ứng ngoại tệ cho hoạt động mua sắm máy móc thiết bị, chuyển giao công nghệ, phân công lao động xã hội, tạo điều kiện cho tăng năng suất lao động, gia tăng sản lượng của nền kinh tế. Để tạo ra sự “cất cánh cho nền kinh tế phải tìm cách tạo ra mức sản lượng, mức thu nhập ngày càng ra tăng. Muốn vậy cần phải có vốn đầu tư và kỹ thuật tiên tiến. Và trong lúc nền kinh tế còn đang trong trạng thái tự đảm bảo một cách khó khăn cho sự sinh tồn của mình, không thể hoàn toàn trông đợi vào con đường “thắt lưng buộc bụng” tích luỹ nội bộ. Mà không phát triển nhanh thì nước đó luôn rơi vào tình trạng rượt đuổi do tụt hậu phát triển. Mặt khác, kỹ thuật trong nước lại quá lạc hậu, thậm chí đi sau vài chục năm so với các nước phát triển, việc nhập khẩu công nghệ bên ngoài là một tất yếu. Trong mỗi công nghệ, bên nhận Nhưng chuyển giao công nghệ lại cần một nguồn ngoại tệ lớn trong khi cán cân thương mại của chúng ta lại liên tục thâm hụt do phải nhập khẩu hàng hoá cao cấp, máy móc thiết bị công nghệ... có giá trị gia tăng cao trong khi cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản sơ chế, nguyên liệu thô... có giá trị gia tăng thấp. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài lúc này chính là nguồn cung ứng ngoại tệ để có thể tiếp cận công nghệ bên ngoài. Trong quá trình chuyển giao, bên nhận nhận được những kiến thức kỹ thuật mà không phải chi phí tốn kém và mất thời gian cho hoạt động nghiên cứu và triển khai. Ưu điểm rõ ràng nhất đối với bên nhận công nghệ là tạo ra được sự tiến bộ kỹ thuật và thương mại từ sự tiếp nhận công nghệ. Sự cung cấp tài liệu và huấn luyện đầy đủ để nâng cao kiến thức của bên nhận trong lĩnh vực cụ thể của khoa học ứng dụng và do đó làm tăng khả năng sản xuất của các sản phẩm công nghiệp của bên nhận hoặc áp dụng các quy trình công nghệ để sản xuất một cách thành công. Đôi khi sự giúp đỡ thêm về tài chính, tìm thị trường và tiêu thụ sản phẩm của bên cung cấp còn mở ra một khả năng thương mại cho bên nhận. Khi công nghệ đựơc chuyển giao, năng suất lao động sẽ tăng do tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hàng hoá bên nhận sẽ có chất lượng cao hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu trong nước cũng như xuất khẩu 2.2.1.3. Làm gia tăng nguồn vốn trong nước thông qua Tạo công ăn việc làm cho nguồn lao động dư thừa, giải quyết thất nghiệp, tăng thu nhập cho công nhân, từ đó tăng tiêu dùng, tăng tích luỹ, tăng nguồn vốn trong nước Từ khi mở cửa hội nhập, tiếp nhận luồng vốn đầu tư nước ngoài, số lượng doanh nghiệp trong nước tăng lên đáng kể. Bằng cách tuyển dụng lao động địa phương vào trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trực tiếp tạo việc làm cho người lao động hoặc gián tiếp tạo việc làm thông qua việc hình thành các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các doanh nghiệp này và khi các doanh nghiệp vệ tinh này được hình thành và phát triển sẽ tạo việc làm trong phạm vi toàn xã hội.. Ngoài ra điều kiện lao động và chăm sóc về mặt sức khoẻ, y tế đối với người lao động tại các nước tiếp nhận đầu tư tốt hơn so với các doanh nghiệp địa phương.Với nguồn thu nhập ngày càng được cải thiện thì chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao. Thu nhập cao hơn, người lao động sẽ tiêu dùng nhiều hơn, làm gia tăng cầu của nền kinh tế, kích thích sản xuất phát triển. Điều đó cũng thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng cộng vơi sự vơi bớt đi nỗi lo về đầu ra cho sản phẩm. Từ đó doanh nghiệp trong nước sẽ tích cực sản xuất, nghiên cứu để cải tiến công nghệ nhằm gia tăng năng suất lao động và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu. Từ do doanh thu từ bán hàng và cung ứng dịch vụ của các công ty sẽ tăng, lợi nhuận tăng, làm gia tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, khi thu nhập của người lao động tăng, họ cũng tăng tích luỹ, tạo thành nguồn vốn lớn trong nước Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là tổng thể mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố cấu thành nền kinh tế. Một nước có nền kinh tế phát triển phải có một cơ cấu kinh tế hợp lí. Muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một đất nước thì cần rất nhiều các yếu tố nguồn lực.Trong đó yếu tố vốn đóng vai trò quyết định.Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước sẽ không thể đáp ứng được, có thêm nguồn vốn nước ngoài sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nguồn vốn nước ngoài làm thay đổi cơ cấu ngành của nước tiếp nhận đầu tư: chuyển đổi từ ngành sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ và sau cùng là sang ngành sản xuất dịch vụ; thay đổi cơ cấu bên trong một ngành sản xuất từ năng suất thấp, công nghệ lạc hậu, lao động nhiều sang sản xuất có năng suất cao, công nghệ hiện đại, sử dụng lao động ít; Thay đổi cơ cấu bên trong của một lĩnh vực sản xuất từ lĩnh vực có hàm lượng công nghệ thấp sang ngành sản xuất áp dụng công nghệ tiên tiến, có hàm lượng khoa học công nghệ cao. Khi cơ cấu kinh tế đã được chuyển dịch theo hướng ngày càng tiến gần hơn so với thế giới thì sẽ tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển do đã có đựơc những điều kiện sản xuất phát triển ở một mức độ hợp lý. Từ đó cũng góp phần gia tăng tích luỹ nội bộ cho nền kinh tế Tạo thu cho ngân sách Nhà nước, góp phần tăng tích luỹ nguồn vốn trong nước Nguồn vốn nước ngoài khi vào lãnh thổ Việt Nam, sẽ hoạt động theo luật pháp của Việt Nam, và cũng như doanh nghiệp trong nước phải hoàn thành nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước. Một thực tế mà chúng ta đều thấy, doanh nghiệp nước ngoài thường hoạt động có hiệu quả hơn so với doanh nghiệp trong nước vì vậy, số thuế thu được từ những doanh nghiệp này sẽ nhiều hơn, bao gồm nguồn thu từ thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế chuyển nhượng, thu nhập từ mua bán tài sản.... Đó cũng là nguồn bù đắp lớn cho Ngân sách Nhà nước, mà đây cũng chính là nguồn cung ứng vốn lớn ở trong nước Nguồn vốn đầu tư nước ngoài cùng với nguồn vốn trong nước hình thành những hình thức hợp tác như công ty liên doanh, công ty cổ phần.... Việc liên doanh liên kết này sẽ giảm bớt gánh nặng về vốn, đầu tư đổi mới công nghệ do được san sẻ giữa các bên. Bên cạnh đó tạo điều kiện tốt cho phía trong nước có cơ hội học hỏi kỹ năng quản lý chuyên nghiệp từ bên ngoài, tác phong làm việc công nghiệp, nâng cao tay nghề cho công nhân. Cộng vào đó sản phẩm đầu ra sẽ có thương hiệu tốt hơn, từ đó tạo ra khả năng cạnh tranh cao hơn, lợi nhuận cao hơn so với việc không liên doanh liên kết . Và như thế, nó đã góp phần gia tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế Như vậy, nếu sử dụng tốt thì vốn đầu tư nước ngoài về ngắn hạn là đáp ứng vốn đầu tư phát triển, về dài hạn góp phần gia tăng nguồn vốn tích luỹ trong nước. 2.2.2 Những tác động tiêu cực nếu như việc sử dụng và quản lý nguồn vốn nước ngoài không tốt Đúng như trên chúng ta đã phân tích, những tác động tích cực của nguồn vốn nước ngoài mang lại cho chúng ta là rất lớn, song không phải lúc nào nguồn vốn nước ngoài cũng mang lại hiệu quả như mong muốn mà nó cũng luôn tiềm ẩn những nguy cơ cho nước tiếp nhận và tác động tới nguồn vốn trong nước đặc biệt là về khả năng trong tương lai của nguồn vốn này 2.2.2.1 Luôn tiềm ẩn nguy cơ làm gia tăng nợ nước ngoài và gia tăng sự phụ thuộc vào nền kinh tế nước ngoài nhất là đối với nguồn ODA Nguồn vốn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và lợi ích của nước viện trợ. Chính vì vậy, ODA mang yếu tố chính trị. Các nước viện trợ nói chung đều không quên đựơc lợi ích cho mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận. Bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế. Xét về lâu dài, các nhà viện trợ sẽ có lợi về mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi kinh tế các nước nghèo phát triển. Viện trợ các nước không chỉ đơn thuần là việc giúp đỡ hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho nước tài trợ. Những nước cấp viện trợ đòi hỏi những nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phất triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ, các nước cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ, không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ. Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ nần thường chưa xuất hiện. Một số nước do sử dụng không hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là do xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Mặt khác với ODA là nguồn vốn vay lâu dài, do ban đầu chưa phải trả nợ ngay nên ODA hay được sử dụng lãng phí, không hiệu quả. Khi đến kì trả nợ thì người phải trả lại là thế hệ sau, vì vậy, nó còn kìm hãm khả năng phát triển lâu dài của nguồn vốn trong nước. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA cần phải phối hợp với các loại nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu. 2.2.2.2 Nguồn vốn nước ngoài di chuyển vào trong nước làm tăng thu nhập của vốn nước ngoài trên thị trường trong nước và làm giảm thu nhập của nguồn vốn trong nước.Về thực chất đây là việc tái phân phối thu nhập của vốn trong nước cho vốn nước ngoài, do đó có thể gây ra làn sóng “bài ngoại” của vốn trong nước và hiện tượng xung đột ngấm ngầm, hoặc công khai trong quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài 2.2.2.3 Nguồn vốn nước ngoài được đầu tư khá nhiều vào khai thác tài nguyên, dẫn đến làm giảm khả năng phát triển lâu dài của nguồn vốn trong nước. Đặc điểm của tài nguyên thiên nhiên là bắt nguồn từ tính chất quý hiếm và sự phân bố không đòng đều giữa các vùng trên trái đất. Các nước đang phát triển thường có nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn các nước phát triển. Một trong những động cơ của các nhà đầu tư nước ngoài là nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở những nước tiếp nhận. Họ có thể khai thác để đem về nước sản xuất hoặc sản xuất thành sản phẩm ngay tại nước sở tại. Có một hình thức khai thác khác là khai thác những địa điểm du lịch hấp dẫn có sẵn hoặc ở dạng tiềm năng của chúng ta. Nhưng nguồn tài nguyên của chúng ta chỉ có hạn, nếu cứ khai thác như vậy thì không biết trong bao lâu nữa sẽ cạn kiệt. Thế hệ sau sẽ không có nguyên, nhiêu liệu để sản xuất vì vậy sẽ gặp bất lợi do có thể sẽ phải nhập khẩu nguyên liệu hoặc tốn kém chi phí cho nghiên cứu tìm ra nguyên liệu khác thay thế. Việc này sẽ làm giảm khả năng phát triển về lâu dài của nguồn vốn trong nước 2.2.2.4 Tình trạng lũng đoạn thị trường của nhà đầu tư nước ngoài và cạnh tranh không cân sức giữa doanh nghiệp trong nước với và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể làm phá sản doanh nghiệp trong nước và gây thất nghiệp. Một thực tế mà tất cả chúng ta đều có thể dễ dàng nhìn thấy, đó là doanh nghiệp nước ngoài thường làm ăn có hiệu quả hơn với doanh nghiệp trong nước đó là bởi các lý do sau Thứ nhất năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước đang phát triển thường rất hạn chế bởi đa số các doanh nghiệp đều có quy mô nhỏ và ít vốn. Cộng thêm vào đó là đa số các chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo một cách bài bản về kiến thức kinh doanh, quản lý, kinh tế – xã hội, văn hóa, luật pháp… và kỹ năng quản trị kinh doanh, nhất là kỹ năng kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế. Điều đó được thể hiện rõ trong việc nhiều doanh nghiệp chưa chấp hành tốt các quy định về thuế, quản lý nhân sự, quản lý tài chính, chất lượng hàng hóa, sở hữu công nghiệp… Thứ hai, sự lạc hậu về khoa học – công nghệ của các doanh nghiệp trong nước. Hiện nay, đa số các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ, trong đó số máy móc hiện đại chiếm tuỷ lệ thấp. Bên cạnh đó đầu tư để dổi mới công nghệ lại thường chiếm tỷ lệ rất thấp khoảng 0.2 dên 0.5 % doanh thu Thứ ba, hạn chế về khâu nguyên vật liệu và sự yếu kém về thương hiệu các doanh nghiệp Thứ tư, chiến lược phân phối, chiến lược truyền thông và xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế. 2.2.2.5 Làm chảy máu chất xám sang khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Doanh nghiệp nước ngoài còn cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước trong lĩnh vực thu hút nguồn nhân lực bởi chính sách lương, thưởng và những trợ cấp. Thông thường do được hưởng nhiều ưu đãi và môi trường làm việc tốt hơn mà đa số những người có trình độ tay nghề thường làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc này đã làm giảm đáng kể nhân tài cho khu vực trong nước, góp phần làm giảm khả năng phát triển của khu vực này . Chương II. Mối quan hệ giữa hai nguôn vốn- Thực trạng ở Việt Nam 1 Nguồn vốn trong nước tác động đối với nguồn vốn nước ngoài 1.1 Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho nguồn vốn nước ngoài vào hoạt động có hiệu quả: Đơn vị: tỷ đồng Năm Tổng số Kinh tế nhà nước Kinh tế ngoài nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 1995 72447 30447 20000 22000 1996 87394 42894 21800 22700 1997 108370 53570 24500 30300 1998 117134 65034 27800 24300 1999 131171 76958 31542 22671 2000 151183 89417 34594 27172 2001 170496 101973 38512 30011 2002 200145 114738 50612 34795 2003 239246 126558 74388 38300 2004 290927 139831 109754 41342 2005 343135 161635 130398 51102 2006 404712 185102 154006 65604 2007 532093 197989 204705 129399 2008 610876 174435 244081 192360 Cơ cấu (%) Năm Tổng số Kinh tế nhà nước Kinh tế ngoài nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 1995 100,0 42,0 27,6 30,4 1996 100,0 49,1 24,9 26,0 1997 100,0 49,4 22,6 28,0 1998 100,0 55,5 23,7 20,8 1999 100,0 58,7 24,0 17,3 2000 100,0 59,1 22,9 18,0 2001 100,0 59,8 22,6 17,6 2002 100,0 57,3 25,3 17,4 2003 100,0 52,9 31,1 16,0 2004 100,0 48,1 37,7 14,2 2005 100,0 47,1 38,0 14,9 2006 100,0 45,7 38,1 16,2 2007 100,0 37,2 38,5 24,3 2008 100,0 28,6 40,0 31,4 Nguồn: trang web của tổng cục thống kê Từ những số liệu trên cho thấy vốn trong nước luôn chiếm tỷ trọng trên 70% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội và có xu hướng tăng lên. Nguồn vốn trong nước phần lớn là do đóng góp của thành phần ngoài nhà nước, mà vốn đối ứng là do Ngân sách nhà nước chi trả, điều này dẫn đến tình trạng thiếu nguồn vốn đối ứng của Việt nam hiện nay. Đó là nguyên nhân làm chậm tiến độ dự án, ông Đinh Đức Thuận, Giám đốc Ban Quản lý dự án phát triển ngành lâm nghiệp (một dự án đã thực hiện được gần 5 năm nhưng chỉ giải ngân được 35% tổng số vốn đầu tư), cho biết: “Khi hiệp định ký kết tài trợ có hiệu lực, chúng tôi mới bắt đầu triển khai các hoạt động, xây bộ máy quản lý nên cần có tiền để nuôi bộ máy này hoạt động. Nếu WB chưa ứng tiền, chúng tôi không thể hoạt động được”. Cũng theo ông Thuận, trong năm đầu thực hiện dự án, Ban quản lý đã phải vay tiền và mượn máy móc, thiết bị của dự án khác để hoạt động. Tuy nhiên, đây chỉ là một trong những lý do dẫn đến việc hấp thụ nguồn vốn ODA vào nông nghiệp khó khăn. Nhiều phân tích đã chỉ ra rằng việc thiếu vốn đối ứng, cũng như năng lực thực hiện của phía Việt Nam còn yếu là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tiến độ giải ngân bị chậm. Theo nhiều chuyên gia, một nguyên nhân nữa ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện chương trình, dự án ODA là năng lực nhà thầu và tư vấn không đáp ứng được yêu cầu công việc. Trong khi đó, tác động của lạm phát trong các năm 2007 - 2008 dẫn đến tình trạng thiếu hụt vốn ODA và vốn đối ứng. Cơ chế bố trí vốn đối ứng giữa trung ương và địa phương chưa phù hợp. Trong các hiệp định ký kết, địa phương cam kết tự cân đối vốn đối ứng được thực hiện theo các tỷ lệ khác nhau (100%, 80%, 60%,...) tùy theo từng vùng (Tây Nguyên, ĐBSCL...) trên cơ sở các quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, vốn về địa phương đã chưa được sử dụng đúng mục đích. Thời gian chuẩn bị thực hện các dự án đầu tư bằng vốn ODA thường kéo dài từ 2 - 3 năm dẫn đến việc dự án phải điều chỉnh và chịu tác động của nhiều yếu tố, đặc biệt về giải phóng mặt bằng, tái định cư và biến động về giá cả, chi phí làm cho tổng đầu tư tăng lên rất nhiều so với mức ban đầu. Trong điều kiện nguồn vốn ODA đã ký kết không thay đổi, đây sẽ là một sức ép lớn đối với việc bố trí vốn đối ứng, làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện dự án Thứ trưởng Bộ KHĐT Cao Viết Sinh khẳng định: Bảo đảm bố trí kịp thời và đầy đủ nguồn vốn đối ứng theo tiến độ thực hiện chương trình, dự án ODA. Bộ nào, địa phương nào có khả năng giải ngân ODA vượt mức sẽ được hỗ trợ thủ tục cần thiết để giải ngân nhanh vì nguồn vốn này không bị ràng buộc bởi kế hoạch đầu năm. Nếu vốn đối ứng thiếu, các đơn vị làm ngay kiến nghị Bộ KHĐT sẽ không để thiếu một đồng nào vốn đối ứng, cũng như sẵn sàng ứng vốn đối ứng 2010 để bảo đảm đủ nhu cầu cho các công trình trọng điểm, cấp thiết. (nguồn: vntrades.com, 28/05/2009) 1.2 Đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước ngoài chảy vào các ngành, các lĩnh vực cần thiết. Định hướng thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới cũng được Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Đầu tư nước ngoài xác định lại trong một văn bản công bố trong năm 2009. Theo đó, giai đoạn tới sẽ điều chỉnh ưu tiên thu hút đầu tư. Cụ thể về lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư, sẽ chọn lọc vào các lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ, chế biến nông sản, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, có tỷ trọng xuất khẩu lớn, các ngành có ý nghĩa về an sinh xã hội (khám chữa bệnh, công nghiệp dược và vac-xin, sinh phẩm), bảo đảm môi trường và an ninh quốc gia,... Ngoài ra, thu hút vốn FDI cũng ưu tiên tập trung phát triển các vùng khó khăn, khu vực nông nghiệp và nông thôn, ưu tiên các dự án sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng… ĐTNN phân theo ngành nghề: - Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: Cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực: thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may... vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành. Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện. STT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu t ư (USD) Vốn thực hiện (USD) 1 CN dầu khí 38 3,861,511,815 5,148,473,303 2 CN nhẹ 2,542 13,268,720,908 3,639,419,314 3 CN nặng 2,404 23,976,819,332 7,049,365,865 4 CN thực phẩm 310 3,621,835,550 2,058,406,260 5 Xây dựng 451 5,301,060,927 2,146,923,027 Tổng số 5,745 50,029,948,532 20,042,587,769 - ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ: Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%) (xem bảng). TT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư (triệu USD) Đầu tư đã thực hiện (triệu USD) 1 Giao thông vận tải-Bưu điện ( bao gồm cả dịch vụ logicstics) 208 4.287 721 2 Du lịch - Khách sạn 223 5.883 2.401 3 Xây dựng văn phòng, căn hộ để bán và cho thuê 153 9.262 1.892 4 Phát triển khu đô thị mới 9 3.477 283 5 Kinh doanh hạ tầng KCN-KCX 28 1.406 576 6 Tài chính – ngân hàng 66 897 714 7 Văn hoá - y tế – giáo dục 271 1.248 367 8 Dịch vụ khác (giám định, tư vấn, trợ giúp pháp lý, nghiên cứu thị trường...) 954 2.145 445 Tổng cộng 1.912 28.609 7.399 Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí.v.v. ĐTNN trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư : Do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong muốn. Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2006). STT Nông, lâm nghiệp Số dự án Vốn đăng ký (USD) Vốn thực hiện (USD) 1 Nông-Lâm nghiệp 803 4,014,833,499 1,856,710,521 2 Thủy sản 130 450,187,779 169,822,132 Tổng số 933 4,465,021,278 2,026,532,653 1.3 Trên cơ sở đầu tư ban đầu tạo cơ sở hạ tầng căn bản chủ động cho việc tiếp nhận nguồn vốn nước ngoài Việt Nam đã thành công xuất sắc trong việc mở rộng tiếp cận đến các dịch vụ cơ sở hạ tầng trong hơn 20 năm qua, nhưng còn rất nhiều việc phải làm để có thể phục vụ được tất cả mọi người.  Các chính sách và thể chế trước đây thành công bây giờ phải được điều chỉnh vì sự phát triển của Việt Nam ngày càng tiến bộ hơn, theo kết luận của một bộ báo cáo mới của Ngân hàng Thế giới nhan đề “Việt Nam: Những thách thức đối với cơ sở hạ tầng”.   Báo cáo ghi lại những thực tế đáng khen ngợi trong chiến lược có sở hạ tầng hiện tại của Việt Nam, trong đó có con số tổng đầu tư cho có sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, rất cao so với tiêu chuẩn quốc tế. Chính vì vậy, mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi chiều dài so với năm 1990, và chất lượng đường cải thiện rõ rệt.  Đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế chiếm khoảng 70% tổng đầu tư toàn xã hội và chiếm khoảng trên 55% trong tổng đầu tư ngân sách. Tổng đầu tư cho Giao thông vận tải và bưu điện trong 5 năm qua tiếp tục duy trì ở mức 12% vốn đầu tư toàn xã hội. Đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách chiếm khoảng 27,5% tổng nguồn vốn ngân sách. Đã tập trung đầu tư cho hệ thống đường quốc lộ, đường trục quan trọng, hạ tầng giao thông nông thôn, đặc biệt là ở vùng núi, vùng biên giới hải đảo. Đã hoàn thành một số đoạn đường quan trọng trên các trục đường quốc lộ như Đường mòn Hồ Chí Minh, đồng thời khởi công và tập trung đầu tư cho một số dự án lớn. Đầu tư vào lĩnh vực xã hội: tỷ lệ đầu tư trong 5 năm đạt 28% tổng mức đầu tư toàn xã hội và 43.5% vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, trong đó: Về Khoa học và công nghệ: tập trung xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho các cơ quan khoa học công nghệ, hạ tầng kĩ thuật về công nghệ thông tin và khu vực công nghệ cao Hoà Lạc, khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện gen Trung ương.Chúng ta đầu tư thêm nhiều trang thiết bị mới phục vụ cho công tác nghiên cứu và ứng dụng với những ngành khoa học mũi nhọn.Cụ thể nhiều phòng thí nghiệm trọng điểm được xây dựng, hạ tầng kĩ thuật Internet, các trung tâm phát triển phần mềm, tin học hoá hoạt đông thông tin quản lí hành chính Nhà nước cũng được triển khai một cách sâu rộng.Tập trung vào các ngành mũi nhọn như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hoá. Như vậy với việc không ngừng hoàn thiện chính sách huy động vốn, hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng đã huy động được khối lượng vốn đầu tư lớn; hoàn thành và đưa vào sử dụng nhiều công trình quan trọng về cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội. Sự ra đời của các Quỹ ĐTPT đã tạo tiền đề cho v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26148.doc
Tài liệu liên quan