Thực trạng mở rộng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Ba Đình

CHƯƠNG I DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ VẤN ĐỀ MỞ RỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1. DNVVN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.1.1. Thực trạng DNVVN ở Việt Nam Sự hình thành và phát triển DNVVN trong quá trình phát triển kinh tế là một xu thế khách quan. Các DNVVN ở Việt Nam gồm 2 loại: DNVVN thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và DNVVN quốc doanh. Hiện nay nhà nước đang thực hiện cải cách mạnh mẽ doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước, do đó số lượng doanh nghiệp thuộc khu

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng mở rộng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vực này ngày càng giảm. Cụ thể năm 2004 có 4597 doanh nghiệp nhà nước thì đến ngày 31-12-2006 chỉ còn 3708 doanh nghiệp giảm 19,33% (nguồn: Tổng cục thống kê). Việc cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước là do nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ, gây thất thoát vốn đầu tư. Bên cạnh việc giảm số lượng, nhà nước đã có những biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn lại. Nhiều doanh nghiệp được nhà nước cấp bổ sung vốn, đổi mới khoa học công nghệ, tinh giảm bộ máy quản lý. Theo số liệu thống kê tổng hợp cho thấy, tỷ trọng các DNVVN ở khu vực quốc doanh theo quy mô lao động giảm từ 17,21% năm 2004 xuống còn 11,61% năm 2006 (nguồn: Tổng cục thống kê). Trong khi đó với sự khuyến khích của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng có bước phát triển mạnh mẽ. Năm 2004 đã có 84003 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đây là khu vực cung cấp số lượng DNVVN chủ yếu cho nền kinh tế. Do tính chất nhỏ lẻ và phân tán trong dân cư các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tận dụng triệt để mọi tiềm năng trong dân cư phục vụ nhu cầu phát triển nền kinh tế. Hiện nay các DNVVN ngoài quốc doanh theo quy mô lao động chiếm khoảng 76,88% tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh (nguồn: Tổng cục thống kê). Theo Nghị định 90/NĐ- CP/ 2001, ngày 23/11/2001, DNVVN được định nghĩa như sau: “ DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành có vốn không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động không quá 300 người”. Bảng 1: Số DNVVN phân theo quy mô lao động Đơn vị: Tỷ đồng Năm 2004 2005 2006 Tổng số doanh nghiệp 91756 112950 131318 Tổng số doanh nghiệp nhà nước 4597 4086 3708 Tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh 84003 105167 123392 Số doanh nghiệp nhà nước có quy mô lao động <300 người 1688 1507 1356 Số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô lao động < 300 người 7079 8254 8977 Tỷ trọng số doanh nghiệp nhà nước trên tổng số doanh nghiệp 5,01% 3,62% 2.80% Tỷ trọng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên tổng số doanh nghiệp 91,55% 93,11% 93,96% Tỷ trọng DNVVN trong khu vực kinh tế quốc doanh theo quy mô lao động 17,21% 13,78% 11,61% Tỷ trọng DNVVN trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 72,18% 75,50% 76,88% Tỷ lệ tăng trưởng DNVVN trong khu vực kinh tế nhà nước theo quy mô lao động -3,43% -2,17% Tỷ lệ tăng trưởng DNVVN trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh theo quy mô lao động +5,32% +1,38% Nguồn: Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2004, 2005, 2006- Tổng cục thống kê Bảng 2: Số DNVVN phân theo quy mô vốn. Đơn vị: Tỷ đồng. Năm 2004 2005 2006 Tổng số doanh nghiệp 91756 112950 131318 Tổng số doanh nghiệp nhà nước 4597 4086 3708 Tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh 84003 105167 123392 Số doanh nghiệp nhà nước có quy mô vốn < 10 tỷ 630 397 319 Số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vốn < 10 tỷ 23785 40936 63226 Tỷ trọng số doanh nghiệp nhà nước trên tổng số doanh nghiệp 5,01% 3,62% 2,8% Tỷ trọng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên tổng số doanh nghiệp 91,55% 93,11% 93,96% Tỷ trọng DNVVN trong khu vực kinh tế quốc doanh theo quy mô vốn 2,55% 0,95% 0,50% Tỷ trọng DNVVN trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh theo quy mô vốn 96,15% 97,8% 98,60% Tỷ lệ tăng trưởng DNVVN trong khu vực kinh tế nhà nước theo quy mô vốn -1,6% -0,45% Tỷ lệ tăng trưởng DNVVN trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh theo quy mô vốn +1,65% +0,8% Nguồn: thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2004, 2005, 2006- Tổng cục thống kê Qua bảng số liệu trên ta thấy, số lượng DNVVN trong khu vực nhà nước giảm, trong khi đó số lượng DNVVN tăng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên. Điều này phản ánh chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước: Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cắt giảm DNVVN thuộc khu vực kinh tế quốc doanh. Bên cạnh đó trong những năm vừa qua, Việt Nam luôn đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, cơ hội đầu tư nhiều khiến cho số lượng doanh nghiệp thành lập mới ngày càng tăng, đặc biệt là số lượng DNVVN thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh – một loại hình doanh nghiệp rất dễ thành lập bởi quy mô vừa và nhỏ của nó. Việc có ngày càng nhiều DNVVN được thành lập, mà chủ yếu là thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là một tín hiệu đáng mừng để khu vực kinh tế này từng bước đi vào cuộc sống, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó DNVVN cũng là một nhân tố hết sức quan trọng thu hút lực lượng lao động trong xã hội. Sự lớn mạnh của các DNVVN đặc biệt là các DNVVN ngoài quốc doanh đang thể hiện là nơi giải quyết việc làm cho người lao động một cách hiệu quả nhất, hạn chế tệ nạn xã hội, nâng cao đời sống văn hóa, vật chất cho mọi tầng lớp dân cư. 1.1.2 Đặc điểm của DNVVN Nhìn chung các DNVVN ở Việt Nam hiện nay có một số đặc điểm cơ bản sau: Một là: DNVVN có tính nhậy cảm cao với các hoạt động sản xuất kinh doanh, linh hoạt và ứng phó kịp thời trước tình hình biến động của thị trường. Thật vậy, bởi quy mô của nó nhỏ, vốn tự có ít nên dễ dàng thay đổi loại hình kinh doanh của mình khi tài chính biến động. Mặt khác, DNVVN tồn tại ở mọi loại hình kinh tế nên chỉ cần không thích ứng được với nhu cầu của thị trường, với tình hình kinh tế - xã hội ở loại hình này thì nó sẽ chuyển hướng sản xuất sang loại hình khác cho phù hợp với thị trường. Hai là: DNVVN có khả năng chấp nhận mọi rủi ro mạo hiểm có thể xảy ra: Cũng xuất phát từ quy mô nhỏ, vốn tự có ít nên doanh nghiệp có thể mạnh dạn đầu tư vào những ngành mới, những ngành mà lúc đầu đem lại lợi nhuận ít và những ngành sản xuất ra những sản phẩm chỉ đáp ứng những nhu cầu cá biệt. Ba là: DNVVN có vốn đầu tư ban đầu ít, thu hồi vốn nhanh và hiệu quả. Số vốn kinh doanh ban đầu ủa DNVVN không quá 10 tỷ đồng và chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngắn nên khả năng thu hồi vốn nhanh, tăng tốc độ quay vòng vốn để đầu tư vào công nghệ mới, tiên tiến hiện đại tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu quả. Bốn là: DNVVN tham gia vào hầu hết các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Các DNVVN hoạt động trên tất cả các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Các DNVVN hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế: Thương mại, dịch vụ, công nghiệp, xây dựng, nông-lâm-ngư nghiệp,…và hoạt động dưới mọi hình thức: DNNN, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cơ sở kinh tế cá thể. Năm là: DNVVN có bộ máy tổ chức sản xuất, quản lý gọn nhẹ: Với quy mô nhỏ, số lượng lao động ít, hầu hết mọi người đều được bố trí công việc hợp lý, công tác quản lý điều hành mang tính trực tiếp, quan hệ giữa người quản lý với người lao động khá chặt chẽ, từ đó tinh giảm được sự cồng kềnh của bộ máy so với các doanh nghiệp có quy mô lớn. Sáu là: Hiệu suất tạo việc làm cao: Với một số vốn đầu tư nhỏ nhưng doanh nghiệp lại cần một số lượng lao động lớn hơn rất nhiều so với cùng số vốn đó ở các doanh nghiệp lớn. Bảy là: Khả năng cạnh tranh thấp: Một trong những đặc điểm quan trọng mà Ngân hàng cần quan tâm khi mở rộng tín dụng cho DNVVN đó là khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này kém. Do hạn chế về năng lực quản lý, vốn, trình độ công nghệ, khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc điểm này chính là yếu tố tiềm ẩn rủi ro khi Ngân hàng thực hiện cho DNVVN vay. 1.1.3. Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế thị trường Từ những đặc điểm trên ta thấy DNVVN có vai trò rất quan trọng, đóng góp rất lớn cho sự tăng trưởng, phát triển của đất nước. Thứ nhất: DNVVN thu hút lao động, đóng góp vào thu nhập quốc dân của đất nước. Bởi vì kỹ thuật sản xuất của DNVVN chủ yếu là nửa cơ giới, lao động sống chiếm tỷ lệ khá cao. Mặt khác, phần lớn các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông, lâm, hải sản,…nên có khả năng thu hút nguồn lao động, tạo công ăn việc làm cho xã hội và tăng thu nhập đảm bảo đời sống cho người lao động. Giúp giải quyết được vấn đề xã hội của mọi quốc gia. Thứ hai: DNVVN đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng xã hội ngày càng phong phú đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được. Như chúng ta đã biết, hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN vô cùng phong phú và đa dạng trên hầu khắp các lĩnh vực kinh tế. Trong thực tế không phải mặt hàng nào cũng có nhu cầu tiêu dùng lớn, có những mặt hàng mà người tiêu dùng chỉ có những nhu cầu ít thậm chí cá biệt. Song chất lượng, chủng loại, mẫu mã, kiểu cách lại không ngừng thay đổi. Trong trường hợp đó các doanh nghiệp lớn không thể đáp ứng được. Trái lại các DNVVN do quy mô sản xuất nhỏ, có khả năng điều chỉnh hoạt động nên có thể đáp ứng những yêu cầu nói trên của người tiêu dùng một cách nhanh chóng, thuận tiện. Đặc biệt có những mặt hàng mà người tiêu dùng có nhu cầu không thể sản xuất được ở những doanh nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật hiện đại mà chỉ có thể sản xuất bằng lao động thủ công, phân tán trên cơ sở sản xuất nhỏ và hộ gia đình. Thứ 3: DNVVN có vai trò quan trọng trong phân phối lưu thông. Trong quá trình tái sản xuất xã hội, hàng hóa từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng phải qua khâu trung gian đó là khâu lưu thông. Các doanh nghiệp lớn khó có thể tổ chức riêng một mạng lưới bán lẻ để tiêu thụ hàng hóa của mình mà phải thông qua mạng lưới bán lẻ của các DNVVN, do lợi thế của các DNVVN rất thích hợp với lĩnh vực kinh doanh thương mại và thực hiện các dịch vụ bán lẻ, chỉ cần một số vốn ban đầu nhỏ cũng có thể hoạt động được, còn nơi làm cửa hàng có thể sử dụng ngay nhà của mình, nhân viên bán hàng thường cũng là người trong gia đình. Do đó, chi phí lưu thông hàng hóa thấp. Chính vì vậy, mà hệ thống cửa hàng kinh doanh thương mại- dịch vụ vừa và nhỏ được đặt ở hầu khắp các khu vực công nghiệp, tụ điểm dân cư để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân một cách nhanh chóng và thuận tiện. Thứ tư: DNVVN có vai trò đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng và thế mạnh của từng vùng. Do quy mô vừa và nhỏ nên các DNVVN có thể đặt văn phòng, nhà xưởng, nhà kho ở khắp mọi nơi trên đất nước, cả những nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển như vùng núi cao, hải đảo, ở vùng nông thôn rộng lớn nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh của từng vùng. Nhất là tài nguyên trên mặt đất thuộc ngành nông, lâm, hải sản. Để khai thác có hiệu quả lao động, tài nguyên và ngành nghề đang còn rất lớn của từng địa phương, từng vùng lãnh thổ cần tập trung đẩy nhanh sự phát triển của một số ngành mà nước ta còn nhiều tiềm năng như: các ngành nông-lâm-hải sản và ngành công nghiệp chế biến nông-lâm-hải sản. Trong những năm trước mắt, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn về vốn và kỹ thuật nên trong việc đầu tư khai thác các nguồn lực của đất nước Đảng ta đã “ chú trọng quy mô vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít” thu hồi nhanh theo phương châm “lấy ngắn nuôi dài”. DNVVN với đặc điểm ít vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém nên tỷ lệ lao động trong các DNVVN thường lớn rất thích hợp với những ngành cần nhiều lao động thủ công như chế biến thủy sản đông lạnh, may mặc, giày da, công nghệ chế biến. Thứ năm: DNVVN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH đất nước. Phát triển DNVVN sẽ đem lại những chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu kinh tế, từ nền sản xuất thuần nông sang nền kinh tế công nghiệp phát triển mạnh, kéo theo sự phát triển của các ngành thương mại, dịch vụ, làm tăng tỷ trọng khu công nghiệp, dịch vụ, thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Thứ sáu: DNVVN là nơi đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tế một đội ngũ doanh nhân mới trong kinh tế thị trường. Bắt đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ song được làm quen với môi trường kinh doanh, một số doanh nghiệp đã trưởng thành và phát triển thành những doanh nghiệp có quy mô lớn, hình thành nên những nhà doanh nghiệp lớn có tài và có kinh nghiệm đưa doanh nghiệp của mình nhanh chóng phát triển. Như vậy, vai trò của DNVVN trong nền kinh tế là không thể phủ nhận, song vấn đề thiếu vốn để thực hiện sản xuất kinh doanh đang là vấn rất cấp thiết, gây khó khăn trở ngại cho DNVVN. Để giúp DNVVN thoát khỏi tình trạng này con đường dẫn vốn cho DNVVN tối ưu nhất, hiệu quả nhất là thông qua NHTM. Do đó trong thời gian trước mắt cả DNVVN và Ngân hàng cần phải nỗ lực hơn nữa để vốn tín dụng đến được các DNVVN. 1.2. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VẤN ĐỀ MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNVVN 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức tín dụng Ngân hàng * Khái niệm tín dụng Ngân hàng Trước hết ta cần hiểu NHTM là gì? Theo luật các tổ chức tín dụng: NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Như vậy, tín dụng là một mảng rất quan trọng trong hoạt động Ngân hàng.Vậy tín dụng là gì? Người ta có thể hiểu tín dụng theo các nghĩa sau: -Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả. -Tín dụng là sự chuyển dịch vốn dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật của một tổ chức hay cá nhân này cho một tổ chức hay cá nhân khác sử dụng trong một thời gian nhất định trên nguyên tắc hoàn trả. -Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một khoảng thời gian nhất định được quay lại với người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn. Như vậy tùy theo từng góc độ nghiên cứu mà người ta có thể hiểu tín dụng theo những cách khác nhau nhưng bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa một bên là người cho vay với một bên là người đi vay trên cơ sở có hoàn trả cả gốc và lãi. Và như vậy, tín dụng Ngân hàng có thể được định nghĩa như sau: Tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (Ngân hàng) và bên đi vay (các cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. *Đặc điểm của tín dụng Ngân hàng Từ khái niệm trên ta rút ra một số đặc điểm cơ bản của tín dụng Ngân hàng sau: - Tín dụng là lòng tin: Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt thì càng cần phải có lòng tin mới đảm bảo cho quan hệ tín dụng. - Tín dụng Ngân hàng có tính thời hạn: Tín dụng chỉ là sự chuyển nhượng tạm thời, để thực hiện được một hành vi cấp tín dụng Ngân hàng phải tạo lập cho mình một lượng vốn mà Ngân hàng tạo lập được chủ yếu từ bên ngoài. Tính thời hạn nó còn được hình thành dựa trên khoản thu của khách hàng. - Tín dụng Ngân hàng mang tính hoàn trả: Đặc điểm này xuất phát từ tính chuyển nhượng tạm thời, tính sở hữu về vốn trong quá trình chuyển nhượng; xuất phát từ sự bảo toàn vốn, sự tồn tại phát triển của mỗi Ngân hàng. - Tín dụng Ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro: Vì tín dụng không chỉ phụ thuốc vào yếu tố người cho vay và người đi vay mà nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến môi trường hoạt động của Ngân hàng và khách hàng, nó nằm ngoài dự đoán của họ. * Các hình thức của tín dụng ngân hàng Trong nền kinh tế thị trường, nhiều hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa dạng, phong phú. Để đáp ứng sự đa dạng, phong phú đó của nền kinh tế, đòi hỏi Ngân hàng phải đưa ra những hình thức tín dụng cho phù hợp với từng hoạt động kinh tế đó. Theo từng hình thức khác nhau Ngân hàng có thể chia tín dụng Ngân hàng ra nhiều loại: - Căn cứ vào thời hạn cho vay: Có tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn. + Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng, được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Hình thức cấp tín dụng chủ yếu là cho vay bằng tiền. + Tín dụng trung hạn: Là hình thức cấp tín dụng có thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư vào TSCĐ cho các doanh nghiệp để khai thác, tận dụng năng lực hiện có, mở rộng, hiện đại hóa những tài sản đã có của doanh nghiệp. + Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20 hoặc 30 năm, cá biệt lên đến 40 năm. Nó bao gồm đầy đủ các hình thức cấp tín dụng như tín dụng trung hạn nhưng khác về thời gian. - Căn cứ vào đối tượng cấp tín dụng: + Tín dụng vốn lưu động: Là tín dụng có thời hạn nhỏ hơn 12 tháng, vốn Ngân hàng cấp ra gắn với tài sản lưu động. + Tín dụng vốn cố định: Vốn Ngân hàng cấp ra gắn với tài sản cố định, trên cơ sở xác định đối tượng cụ thể thì quan hệ tín dụng mới diễn ra. - Căn cứ vào mục đích sử dụng: + Tín dụng cho sản xuất: Là loại tín dụng phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và cá nhân, được chia theo nhiều ngành kinh tế ( công nghiệp, nông nghiệp, giao thông…). + Tín dụng cho tiêu dùng: Là loại tín dụng nhằm mục đích tài trợ cho các nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân như: mua xe, mua nhà… - Căn cứ vào hình thái giá trị: + Tín dụng bằng tiền: Là loại tín dụng mà hình thái cấp tín dụng là bằng tiền. + Tín dụng bằng hiện vật: Là loại tín dụng mà hình thái cấp tín dụng là bằng hiện vật. Tùy theo từng đối tượng khách hàng, từng nhu cầu, mục đích sử dụng vốn cũng như khả năng nguồn vốn của mình mà Ngân hàng và khách hàng có sự thỏa thuận về các loại tín dụng cho phù hợp. 1.2.2. Vai trò tín dụng Ngân hàng đối với DNVVN Cùng với việc phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa, tín dụng Ngân hàng ngày càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng. Một là: TDNH là công cụ tích tụ tập trung vốn hỗ trợ cho các doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và chiều sâu. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, việc mở rộng sản xuất theo chiều rộng và chiều sâu là yêu cầu khách quan của việc tồn tại của các doanh nghiệp nhất là các DNVVN. Thực hiện yêu cầu này nếu chỉ dựa vào lợi nhuận thu được trong nội bộ doanh nghiệp được tích lũy thì mất rất nhiều thời gian và không phải doanh nghiệp nào cũng làm được. Nhưng nếu thông qua sự hỗ trợ từ NHTM thì việc đó được thực hiện một cách nhanh chóng. Hai là: TDNH giúp doanh nghiệp tự do di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác. Trong cơ chế thị trường Mác đã chỉ rõ “ Việc sản xuất kinh doanh vì động cơ lợi nhuận tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau”. Trong mỗi ngành kinh doanh khác nhau do điều kiện kinh tế, kỹ thuật, tổ chức quản lý khác nhau nên cùng một lượng vốn đầu tư vào các ngành như nhau nhưng khối lượng lợi nhuận thu được trong cùng một khoảng thời gian lại không như nhau. Từ đó, dẫn đến sự cạnh tranh di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Tuy nhiên, việc di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác không phải doanh nghiệp nào muốn là có thể làm được, vì phải có những điều kiện nhất định. Song điều kiện khó khăn nhất tiên quyết là điều kiện đổi mới vốn cố định tức là loại bỏ những thiết bị, kỹ thuật công nghệ sản xuất mặt hàng cũ, mua sắm thiết bị kỹ thuật và công nghệ mới để sản xuất mặt hàng mới. Việc TCTD cung ứng vốn cho doanh nghiệp thuộc các ngành sản xuất khác nhau trong việc tự do di chuyển vốn từ ngành này, lĩnh vực này sang ngành khác, lĩnh vực khác có ý nghĩa về nhiều mặt. Một mặt, TDNH với chức năng phân phối thực hiện sự phân phối lại vốn giữa các ngành phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế quốc dân một cách hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Mặt khác, TDNH góp phần vào việc bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận giữa các doanh nghiệp thuộc ngành trong nền kinh tế quốc dân một cách hợp lý. Ba là: TDNH góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNVVN. Trong điều kiện nền kinh tế có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các DNVVN muốn đứng vững được trên thị trường thì phải nỗ lực để tồn tại và không ngừng phát triển nhưng do ít vốn, trình độ quản lý yếu kém, trình độ công nghệ lạc hậu gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh và mở rộng phát triển. Để có được lượng vốn lớn phục vụ cho đầu tư phát triển doanh nghiệp, trong khi vốn tự có là có hạn mà khả năng tích lũy của doanh nghiệp thấp buộc các doanh nghiệp phải tìm đến vốn TDNH Nguồn vốn từ Ngân hàng sẽ mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp với lãi suất. phù hợp đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có lãi, giúp doanh nghiệp thực hiện được mục đích của mình, mở rộng sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thị phần. Bốn là: TDNH góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho DNVVN. Trong nền kinh tế thị trường, hiếm có doanh nghiệp nào sử dụng vốn tự có của mình để sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn vay của Ngân hàng sẽ giúp cho DNVVN tối ưu hóa được hiệu quả sử dụng vốn, với chi phí hợp lý nhằm nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Năm là: TDNH góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNVVN. Một nguyên tắc bất di bất dịch khi doanh nghiệp sử dụng vốn tín dụng của Ngân hàng đó là: Doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng, phải có trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi tiền vay đầy đủ đúng hạn cho dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không, nếu quá hạn doanh nghiệp không trả được nợ vay thì phải hoàn toàn chịu tổn thất về kinh tế do phạt lãi suất quá hạn rất cao, đặc biệt là làm mất lòng tin của Ngân hàng cấp tín dụng. Hơn nữa, khi thực hiện cho vay, Ngân hàng cũng chỉ quan tâm đến những khách hàng làm ăn có hiệu quả, có khả năng tài chính lành mạnh và có khả năng hoàn trả nợ cho Ngân hàng. Chính vì vậy, ngay từ khi thiết lập phương án sản xuất kinh doanh doanh nghiệp đã phải quan tâm tới việc: Kinh doanh cái gì? Bằng cách nào? Thị trường đầu vào và đầu ra như thế nào?. Doanh nghiệp cũng không chỉ quan tâm đến việc thu hồi vốn như thế nào mà còn phải quan tâm tới việc sử dụng vốn ra sao để làm tăng nhanh vòng quay của vốn đảm bảo tỷ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất tiền vay thì kinh doanh mới có lãi. Như vậy, TDNH là động lực thúc đẩy các DNVVN làm ăn có hiệu quả hơn. 1.2.3. Vấn đề mở rộng tín dụng đối với các DNVVN 1.2.3.1. Quan niệm về mở rộng tín dụng đối với các DNVVN Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, bất cứ một doanh nghiệp nào muốn đứng vững và phát triển trong hoạt động kinh doanh, đòi hỏi doanh nghiệp đó phải không ngừng mở rộng và cải thiện chất lượng sản phẩm- dịch vụ của mình nhằm đáp ứng tốt nhu cầu đặt ra của nền kinh tế. Ngân hàng là loại hình kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng, nhằm tìm kiếm lợi nhuận nên cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tuy nhiên để thực hiện được việc mở rộng tín dụng trước hết ta phải hiểu được mở rộng tín dụng là gì? Có thể nói, cách hiểu đơn giản nhất đối với mở rộng tín dụng đó là: Mở rộng là làm cho quy mô phạm vi lớn hơn trước và theo cách hiểu đó thì mở rộng tín dụng là sự tăng lên về mặt quy mô, khối lượng, số lượng tín dụng tức là nói đến sự tăng trưởng tín dụng theo chiều ngang. Và như vậy, mở rộng tín dụng đối với các DNVVN chính là làm thế nào để quy mô, khối lượng, số lượng tín dụng ngày càng lớn hơn, đáp ứng nhiều nhất nhu cầu về vốn ngày càng tăng của các DNVVN, làm cho tỷ trọng tín dụng đối với các DNVVN trong tài sản của Ngân hàng tăng lên. Việc mở rộng tín dụng đối với DNVVN được thể hiện: - Mở rộng tín dụng phải thỏa mãn tối đa các nhu cầu hợp lý của khách hàng về khối lượng tín dụng, đa dạng hóa các hình thức cấp tín dụng cũng như các dịch vụ bảo lãnh. - Mở rộng tín dụng phải được xác định trên cơ sở: Đa dạng hóa đối tượng khách hàng (ở mọi thành phần kinh tế, mọi lĩnh vực hoạt động), các sản phẩm dich vụ cũng như các đối tượng cho vay. - Mở rộng tín dụng phải đi cùng với nỗ lực tìm kiếm thị trường, mở rộng mạng lưới cấp tín dụng cho DNVVN. 1.2.3.2. Các tiêu thức để đánh giá việc mở rộng tín dụng đối với DNVVN * Mở rộng số lượng khách hàng là các DNVVN. a.Mức tăng số lượng khách hàng là các DNVVN MSL = St - St-1 Trong đó: MSL: là mức tăng số lượng khách hàng là các DNVVN. St: là số lượng khách hàng DNVVN năm thứ t. St-1: là số lượng khách hàng DNVVN năm thứ t-1. b. Tốc dộ tăng số lượng khách hàng là DNVVN Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ thay đổi số lượng khách hàng DNVVN năm nay so với năm trước. c. Tỷ trọng số lượng khách hàng là DNVVN Trong đó: TTSL: Tỷ trọng số lượng khách hàng là DNVVN. S*: Số lượng khách hàng DNVVN được vay vốn NH. S: Số lượng khách hàng có quan hệ tín dụng với NH. Chỉ tiêu này phản ánh số lượng khách hàng DNVVN chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng số khách hàng có quan hệ vay vốn tại NH. * Mở rộng doanh số cho vay dối với DNVVN Doanh số cho vay đối với DNVVN là số tiền mà NH đã thực hiện giải ngân cho khách hàng DNVVN trong một khoảng thời gian nhất định. a.Mức tăng doanh số cho vay đối với DNVVN MDS = DSt - DSt-1 Trong đó: MDS: là mức tăng doanh số cho vay đối với DNVVN. DSt: là doanh số cho vay đối với DNVVN năm thứ t. DSt-1: là doanh số cho vay đối với DNVVN năm thứ t-1. b.Tốc độ tăng doanh số cho vay đối với DNVVN Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ thay đổi doanh số cho vay đối với DNVVN năm nay so với năm trước. c.Tỷ trọng doanh số cho vay đối với DNVVN Trong đó: TTDS: là tỷ trọng doanh số cho vay đối với DNVVN. DS*: là doanh số cho vay đối với DNVVN. DS: là doanh số cho vay của hoạt động tín dụng. Chỉ tiêu này cho biết doanh số cho vay đối với các DNVVN chiếm tỷ trọng bao nhiêu phần trăm trong tổng doanh số cho vay. * Mở rộng dư nợ tín dụng đối với các DNVVN Dư nợ tín dụng đối với DNVVN phản ánh quy mô tín dụng NH đối với DNVVN tại một thời điểm nhất định. a.Mức tăng dư nợ tín dụng đối với DNVVN MDN = DNt - DNt-1 Trong đó: MDN: là mức tăng dư nợ tín dụng đối với DNVVN. DNt: là dư nợ tín dụng đối với DNVVN năm thứ t. DNt-1: là dư nợ tín dụng đối với DNVVN năm thứ t-1. Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về số tuyệt đối của dư nợ tín dụng đối với DNVVN. b.Tốc độ tăng dư nợ tín dụng đối với DNVVN Chỉ tiêu này cho biết tốc độ tăng của dư nợ tín dụng đối với DNVVN năm nay so với năm trước. c.Tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với DNVVN Trong đó: TTDN: là tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với DNVVN. DN*: là dư nợ tín dụng đối với DNVVN. DN: là tổng dư nợ cho vay của NH. Chỉ tiêu này phản ánh chi tiêu dư nợ tín dụng đối với DNVVN chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng dư nợ tín dụng của NH. 1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng đối với DNVVN Việc tìm ra những nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng đối với DNVVN là điều rất có ý nghĩa, từ đó để tìm ra các giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn để thực hiện mục tiêu chung của NHTM là mở rộng quy mô tín dụng an toàn và hiệu quả. 1.2.4.1. Các nhân tố khách quan - Nhân tố kinh tế: Đó là những biến động của nền kinh tế, trình độ phát triển cũng như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tác động mạnh mẽ tới hoạt động TDNH nói chung và TDNH đối với các DNVVN nói riêng. Thật vậy, khi nền kinh tế ở trạng thái tăng trưởng cao và ổn định, môi trường kinh doanh ít biến động, hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi thì nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tăng lên tạo cơ hội cho Ngân hàng mở rộng tín dụng và ngược lại sẽ làm cho TDNH bị thu hẹp hoặc có thể không phát triển được. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng của các NHTM còn chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các công cụ chính sách tiền tệ của NHNN. Các công cụ chính sách tiền tệ đều tác động trực tiếp vào dự trữ của hệ thống NHTM và qua đó tác động đến mức lãi suất thị trường tiền tệ liên Ngân hàng. Lãi suất thị trường tiền tệ liên Ngân hàng sẽ tăng lên khi NHNN thực hiện nghiệp vụ bán các chứng khoán, tăng lãi suất tái chiết khấu, thắt chặt các điều kiện tái chiết khấu hoặc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Điều này xảy ra làm cho các NHTM buộc phải tăng lãi suất cho vay và thu hẹp tín dụng đối với các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng. Lãi suất thị trường tiền tệ liên Ngân hàng giảm xuống khi NHNN điều tiết các công cụ của nó theo chiều hướng ngược lại và sẽ có tác động mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp. - Nhân tố chính trị- Xã hội: Tình hình chính trị, an ninh trật tự, an toàn xã hội…ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ TDNH. Thật vậy, nếu ở một nơi nào đó chính trị không ổn định, an toàn xã hội không đảm bảo sẽ gây tâm lý không yên tâm cho các chủ đầu tư, dẫn đến nhu cầu vay vốn cũng hạn chế, ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng của Ngân hàng. Ngược lại sẽ kích thích các chủ đầu tư mở rộng quy mô hoạt động của mình. Và như vậy làm cho nhu cầu vốn tín dụng tăng lên tạo cho ngân hàng có cơ hội mở rộng tín dụng. - Nhân tố pháp lý: Các quy định của pháp luật đồng bộ, nhất quán và ổn định thì sẽ tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng của Ngân hàng thuận tiện, góp phần vào sự cạnh tranh lành mạnh giữa các Ngân hàng trong hoạt động tín dụng và đó cũng là cơ sở pháp lý để các Ngân hàng giải quyết các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xảy ra. Giúp Ngân hàng an toàn mở rộng tín dụng cho nền kinh tế. 1.2.4.2. Các nhân tố chủ quan * Từ phía Ngân hàng Việc mở rộng tín dụng đối với các DNVVN không chỉ chịu tác động bởi những nhân tố bên ngoài mà còn chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi những nhân tố bên trong từ chính bản thân Ngân hàng như: Nguồn vốn của Ngân hàng, các chính sách tín dụng, quy trình tín dụng, quy mô hoạt động… - Về nguồn vốn của Ngân hàng: Đó là yếu tố tiền đề để mở rộng tín dụng cho DNVVN, trong đó: + Vốn huy động: Là nguồn chủ yếu để Ngân hàng cho vay nhưng mỗi loại tiền gửi lại có đặc điểm riêng và có sự biến động khác nhau. Tiền gửi không kỳ hạn và ngắn hạn thì thường xuyên biến động còn tiền gửi có kỳ hạn và dài hạn thì ổn định hơn. Vốn huy động càng lớn, càng ổn định thì khả năng mở rộng tín dụng của Ngân hàng càng lớn. + Vốn tự có: Đối với mỗi NHTM thì việc mở rộng tín dụng còn phụ thuộc vào mức vốn tự có của mỗi Ngân hàng. Luật của các TCTD đã quy định rõ: Tổng dư nợ cho vay của một khách hàng không vượ._.t quá 15% vốn tự có của các NHTM. Vì vậy, vốn tự có của các NHTM quyết định khối lượng tín dụng tối đa mà Ngân hàng có thể đầu tư cho một doanh nghiệp. - Các chính sách tín dụng: Đó là các yếu tố về hạn mức cho vay, kỳ hạn của khoản vay, lãi suất cho vay… tất cả các yếu tố đó tác động trực tiếp tác động tới việc mở rộng tín dụng của Ngân hàng. Nếu một chính sách tín dụng linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng về vốn sẽ giúp cho Ngân hàng thực hiện được mục tiêu mở rộng tín dụng và đảm bảo chất lượng tín dụng. - Quy trình tín dụng: Mở rộng tín dụng trên cơ sở tôn trọng các bước trong quy trình tín dụng. Song không phải cứ tuân thủ một cách cứng nhắc theo từng công đoạn mà phải linh hoạt trong từng trường hợp cụ thể để bảo vệ lợi ích cho cả Ngân hàng và khách hàng. Điều này cũng để hạn chế việc bỏ lỡ những khách hàng tốt cho vay khách hàng xấu, thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng. - Quy mô hoạt động của Ngân hàng: Cũng ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng nói chung và tín dụng cho DNVVN nói riêng, Ngân hàng nào có quy mô càng lớn, địa bàn hoạt động càng rộng, có danh tiếng và uy tín cao trên thị trường thì sẽ thu hút khách hàng đến giao dịch, tạo điều kiện để mở rộng tín dụng. * Từ chính bản thân các DNVVN Việc mở rộng tín dụng Ngân hàng đối với DNVVN còn chịu ảnh hưởng rất lớn từ phía bản thân doanh nghiệp: Mặc dù các DNVVN hoạt động trong môi trường pháp lý mới, hoàn thiện hơn. Song Ngân hàng cũng không dám cho vay mà không có sự xem xét và đánh giá kỹ lưỡng, vì vấn đề quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập, tình trạng “doanh nghiệp ma” vẫn thường xuyên xảy ra không phải là nhỏ, buôn lậu, trốn thuế thường xuyên xảy ra, thậm chí có nhiều doanh nghiệp sử dụng giấy tờ giả mạo để thành lập doanh nghiệp lừa đảo vay vốn Ngân hàng. Chính những lý do đó nên Ngân hàng rất e ngại khi mở rộng cho vay DNVVN. Bên cạnh đó, một yếu tố nữa xuất phát từ chính bản thân các doanh nghiệp cũng ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM. Đó là chiến lược quản trị tài chính của doanh nghiệp. Chiến lược quản trị tài chính của doanh nghiệp bao gồm hai loại: Chiến lược tài chính bảo thủ và chiến lược tài chính năng động. Nếu một doanh nghiệp có chiến lược tài chính bảo thủ thì phần lớn nhu cầu vốn của doanh nghiệp sẽ được tài trợ bằng vốn lưu động ròng (đối với nhu cầu vay ngắn hạn) hay các khoản nợ từ bên thứ ba, còn doanh nghiệp rất hạn chế vay Ngân hàng. Điều này cũng làm cho khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM trở nên khó khăn hơn. Còn nếu doanh nghiệp có chiến lược quản trị năng động thì nguồn vốn vay của Ngân hàng sẽ chiếm tỷ trọng lớn và do đó mà khả năng mở rộng tín dụng của NHTM cũng được nâng cao hơn. Ngoài ra, còn rất nhiều các nhân tố khác ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng của Ngân hàng. Ngân hàng cần phải quan tâm đến các nhân tố ảnh hưởng để tìm ra hướng giải quyết cho riêng Ngân hàng mình, thực hiện tốt mục tiêu mở rộng tín dụng. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng cần phải học hỏi kinh nghiệm từ các nước trong khu vực và trên thế giới, có như vậy công tác mở rộng tín dụng mới thực sự hiệu quả và có ý nghĩa. 1.3. Kinh nghiệm của các NHTM ở một số nước trong việc mở rộng tín dụng đối với DNVVN và bài học rút ra đối với Việt Nam 1.3.1. Kinh nghiệm của NHTM ở một số nước Ở mỗi quốc gia, việc mở rộng tín dụng để đáp ứng nhu cầu vốn cho DNVVN là khác nhau, tùy thuộc vào trình độ phát triển của hệ thống tài chính Ngân hàng và chính sách kinh tế mỗi nước. Vì vậy, mỗi nước sẽ có những chính sách hỗ trợ huy động vốn khác nhau đối với DNVVN nhằm giúp các doanh nghiệp này tăng khả năng tiếp cận được với vốn của Ngân hàng đồng thời tạo cho Ngân hàng tăng trưởng về tín dụng. 1.3.1.1. Ở Nhật Bản Nhật Bản đi lên từ một nước nghèo tài nguyên, thiên nhiên khắc nghiệt nhưng với tiềm lực kinh tế đủ mạnh như hiện nay, Nhật Bản đã tự khẳng định mình, không ai có thể phủ nhận tài năng kinh doanh cuả người Nhật. Vào đầu những năm 1950, Nhật đã có những chính sách dành cho DNVVN, trong đó dành một sự ưu ái đặc biệt cho việc mở rộng tín dụng đối với DNVVN nhằm tháo gỡ những khó khăn cản trở việc tăng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh như: Hệ thống hỗ trợ tín dụng thấp, thiếu sự bảo đảm vốn vay…Các biện pháp hỗ trợ được thực hiện thông qua: Hệ thống hỗ trợ tín dụng và các tổ chức tài chính công cộng phục vụ cho DNVVN. Hệ thống hỗ trợ tín dụng giúp doanh nghiệp tiếp cận được vốn TDNH, tạo điều kiện cho họ vay vốn của các TCTD tư nhân thông qua bảo lãnh của hiệp hội bảo lãnh tín dụng trên cơ sở của hợp đồng bảo lãnh. Ngoài ra, hiệp hội bảo lãnh tín dụng còn có chức năng mở rộng các khoản tín dụng bổ sung cho các DNVVN. 1.3.1.2. Ở Đài Loan Ngay trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, Đài Loan đã chú trọng phát triển DNVVN. Đặc biệt, khuyến khích phát triển DNVVN ở một số ngành sản xuất như: Nhựa, dệt, kính, xi măng, gỗ để giải quyết lao động và tăng khả năng thích ứng của doanh nghiệp từ đó vươn ra chiếm lĩnh một số lĩnh vực ở thị trường thế giới. Hiện nay, số lượng DNVVN ở Đài Loan chiếm khoảng 70% trên tổng số doanh nghiệp, tạo ra khoảng 50% sản lượng công nghiệp, 40% giá trị xuất khẩu và chiếm hơn 70% chỗ làm việc. Để đạt được những thành tựu đó, Đài Loan đã giành nhiều nỗ lực để xây dựng và thực thi chính sách mở rộng tín dụng đối với DNVVN. Cho đến nay có rất nhiều Ngân hàng quốc doanh và Ngân hàng tư nhân đứng ra tài trợ vốn cho DNVVN. Đồng thời nhận thức được những khó khăn của DNVVN trong việc thế chấp tài sản vay vốn Ngân hàng. Năm 1974, Đài Loan đã thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng nhằm chia sẻ rủi ro đối với các TCTD, tạo cho các TCTD tin tưởng hơn vào việc tài trợ vốn cho DNVVN, tránh được sự e ngại trong mở rộng tín dụng cho DNVVN. Ngoài ra, Đài Loan còn áp dụng nhiều biện pháp khác như: Giảm lãi suất cho vay đối với những khoản vay để mua sắm máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất, mời các chuyên gia đến giúp các DNVVN. Với những giải pháp này, Ngân hàng đã xây dựng cho mình một hình ảnh đẹp trong doanh nghiệp, tạo cho doanh nghiệp cảm giác an tâm, tin tưởng, từ đó giúp Ngân hàng mở rộng tín dụng cho DNVVN. 1.3.2. Bài học rút ra đối với Việt Nam Qua một số kinh nghiệm của các nước đã trình bầy ở trên, Việt Nam có thể xây dựng cho mình những chính sách hỗ trợ nói chung và hỗ trợ tài chính nói riêng đối với DNVVN. Trên cơ sở học hỏi có chọn lọc và sáng tạo để phù hợp điều kiện cụ thể của đất nước, có thể tổng kết một số nội dung sau: Thứ nhất: Cần tạo ra môi trường bình đẳng cho các DNVVN ngoài quốc doanh với DNNN khi vay vốn Ngân hàng. Nhà nước cần có chính sách trợ giúp Ngân hàng mở rộng tín dụng, cho vay ưu đãi hoặc ít nhất cũng có sự bình đẳng về thủ tục, thời hạn vay, lượng vốn vay và lãi suất vay giữa DNVVN với doanh nghiệp lớn, DNVVN ngoài quốc doanh với DNNN. Các NHTM nên thành lập kênh tín dụng riêng cho DNVVN nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tiếp cận được với vốn tín dụng của Ngân hàng. Thứ hai: Triển khai rộng rãi mô hình quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN giúp Ngân hàng đảm bảo khoản vay thu hồi được nợ một cách chắc chắn, tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng tín dụng cho DNVVN. Thứ ba: Mở rộng hình thức thuê mua giúp các DNVVN tháo gỡ tình trạng vốn bị đóng băng và giảm bớt rủi ro. Để hình thức tín dụng này thực thi hiệu quả các NHTM này phải am hiểu nhu cầu của các DNVVN cũng như thị trường máy móc, thiết bị, công nghệ mà họ còn nhu cầu đồng thời hệ thống văn bản pháp quy phải được hoàn thiện, quy định chặt chẽ quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia. Thứ tư: Bên cạnh đó, Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa các văn bản pháp luật, các giấy tờ như: Giấy phép kinh doanh, quyền sử dụng đất, hồ sơ sổ đỏ đất đai…cần được quản lý chặt chẽ. Có như vậy, Ngân hàng mới không gặp rủi ro khi mở rộng tín dụng cho DNVVN. Tóm lại: Qua phần lý luận cơ bản đã trình bầy ở trên, ta đã phần nào hiểu được vai trò quan trọng của DNVVN trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước cũng như những đóng góp to lớn của TDNH đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của DNVVN. Qua tìm hiểu kinh nghiệm của một số quốc gia cho thấy, quốc gia nào quan tâm đến sự phát triển của DNVVN thì quốc gia đó sẽ có nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NHCT BA ĐÌNH 2.1. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CHI NHÁNH NHCT BA ĐÌNH 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của chi nhánh NHCT Ba Đình Chi nhánh NHCT Ba Đình- tiền thân là chi nhánh Ngân hàng Đội Cấn, được thành lập năm 1958, là một trong những đơn vị Ngân hàng được thành lập đầu tiên trên địa bàn thủ đô Hà Nội, thực hiện hai chức năng chủ yếu là quản lý Nhà nước và kinh doanh tiền tệ. Nghị định 53/HĐBT ban hành ngày 26/3/1988 với nội dung đổi mới hoạt động Ngân hàng đã chính thức chuyển hoạt động của NHCT Ba Đình sang thời kỳ kinh doanh tiền tệ chuyên nghiệp. Ngày 14/11/1990 chủ tịch hội đồng bộ trưởng ra quyết định 402/CT về việc thành lập NHCT Việt Nam, NHCT Ba Đình trở thành một chi nhánh của NHCT Thành phố Hà Nội. Ngày 24/3/1993 tổng giám đốc NHCT Việt Nam đã ra quyết định số 93/ NHCT- TCCB về việc giải thể chi nhánh NHCT Thành phố Hà Nội. Đồng thời chuyển giao hoạt động của chi nhánh NHCT trên địa bàn thủ đô trực thuộc NHCT Việt Nam. Theo đó, chi nhánh có tên gọi mới là chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình hoạt động với tư cách là chi nhánh trực thuộc NHCT Việt Nam. Ngay từ khi mới thành lập NHCT khu vực Ba Đình đã gặp phải rất nhiều khó khăn, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, tổ chức bộ máy cồng kềnh, biên chế lao động quá đông, trình độ cán bộ còn nhiều yếu kém ( trên 80% trình độ sơ cấp và chưa qua đào tạo ), phương tiện làm việc thiếu thốn, phương thức lao động thủ công là chủ yếu… Nhưng trong quá trình hoạt động của mình, NHCT khu vực Ba Đình đã luôn bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nắm bắt kịp thời các thông tin của thị trường, kết hợp với hoàn cảnh thực tế để có chiến lược kinh doanh phù hợp, vừa kinh doanh tín dụng và dịch vụ trong cơ chế thị trường có hiệu quả an toàn, vừa góp phần tăng trưởng kinh tế và thực hiện chính sách của Nhà nước. Nhờ đó cho đến nay chi nhánh đã trở thành một trong những chi nhánh hoạt động có hiệu quả nhất của NHCT Việt Nam. Phạm vi hoạt động của chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình không chỉ bó hẹp trong địa bàn quận Ba Đình mà nó còn vươn ra toàn thành phố Hà Nội, hoạt động kinh doanh của chi nhánh là hoạt động đa năng, đầu tư vốn trên tất cả các lĩnh vực, các thành phần kinh tế. Ngân hàng thực hiện mục tiêu tăng trưởng vốn huy động cả bằng VND và ngoại tệ tạo điều kiện thay đổi cơ cấu vốn huy động nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn đa dạng của khách hàng. Chính sách khách hàng luôn được coi trọng, Ngân hàng tạo mọi điều kiện phục vụ khách hàng một cách thuận lợi, nhanh chóng, chính xác nhất, có những chính sách ưu đại thích hợp, tích cực tìm kiếm khách hàng đến vay vốn trên địa bàn và cả các vùng lân cận. Đồng thời Ngân hàng cũng có những biện pháp đầu tư mua sắm thiết bị, cải tiến kỹ thuật nghiệp vụ, phát triển các nghiệp vụ ngày càng hiện đại, thuận tiện và chính xác. Chính vì vậy, mà Ngân hàng đã mở rộng được thị trường cho vay và thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng. Đến nay, chi nhánh đã có gần 90.000 khách hàng đến gửi tiền và vay vốn Ngân hàng. Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và quyết tâm đổi mới, nhờ đó mà hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình trong 10 năm qua ( 1997- 2007) đã có sự phát triển vượt bậc, trở thành một trong những chi nhánh dẫn đầu của hệ thống NHCT Việt Nam, có nhiều đóng góp quan trọng cho hệ thống NHCT, nhiều cán bộ lãnh đạo chi nhánh đã trưởng thành đi lên giữ những vị trí lãnh đạo chủ chốt của NHCT Việt Nam hiện nay. Uy tín của chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình với xã hội, với Ngành và với địa phương luôn được trân trọng và là địa chỉ đáng tin cậy của mọi khách hàng. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình Khối kinh doanh Phòng khách hàng doanh nghiệp lớn Phòng khách hàng vừa và nhỏ Phòng khách hàng cá nhân Ban giám đốc Khối quản lý rủi ro rủi ro Khối Tác nghiệp Khối hỗ trợ Phòng quản lý rủi ro Phòng kế toán giao dịch Phòng tổng hợp Phòng tiền tệ kho quỹ Phòng thanh toán Phòng tổ chức hành chính Phòng thông tin điện toán Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức các phòng ban của NHCT Ba Đình 2.1.3. Khái quát hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình trong 3 năm trở lại đây (2005-2007) Trong những năm vừa qua, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đó là thiên tai xảy ra liên tục, sự bất ổn định của kinh tế, chính trị thế giới ( khủng bố, chiến tranh…) cùng với việc cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường đã gây ra những ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Chính phủ đã thực thi nhiều chính sách và giải pháp để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô cũng như kích cầu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng trong một số ngành, lĩnh vực vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn. Vốn là một lĩnh vực kinh doanh hết sức nhạy cảm với sự biến động của cơ chế thị trường, trước tình hình kinh tế như vậy, hoạt động Ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thử thách và điều này cũng đã xảy ra đối với chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình. Năm 2005 tình hình kinh tế chính trị thế giới có nhiều bất ổn, lũng đoạn của các tập đoàn kinh tế lớn và sự biến động của các đồng tiền chủ chốt đã làm giá của nhiều nguyên liệu, vật liệu tăng cao, nhưng nền kinh tế Viêt Nam vẫn tiếp tục phát triển với tốc độ khả quan, GDP tăng 8,4%. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam cũng gặp rất nhiều khó khăn: Hạn hán kéo dài, dịch cúm gia cầm tái phát trên phạm vi rộng, sức ép tăng giá bán nhiều loại vật tư, hàng hóa trong nước đặc biệt là những mặt hàng quan trọng như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thép, than, xăng dầu…đã tác động đến chỉ số giá tiêu dùng, đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm. Một số ngành hiệu quả sản xuất kinh doanh có dấu hiệu giảm sút, xuất hiện tình trạng khó khăn về tài chính. Trong ngành giao thông vận tải còn xảy ra tình trạng nợ đọng của các dự án, trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, vật liệu xây dựng, một số dây truyền sản xuất gạch ốp lát phải tạm ngừng sản xuất do sản phẩm còn tồn kho lớn không tiêu thụ được…, nợ đến hạn không trả được, nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng hoạt động kinh doanh của NHTM nói chung và chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình nói riêng. Năm 2006 hoạt động kinh doanh của NHTM diễn ra rất sôi động. Nhiều chi nhánh, điểm giao dịch của NHTM được mở ra, một số NHTMCP nông thôn được chuyển thành NHTMCP đô thị đã vươn ra hoạt động tại các thành phố lớn, nhiều NHTMCP tăng vốn điều lệ. Giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán liên tục tăng trên cả thị trường niêm yết chính thức và thị trường chứng khoán phi tập trung. Trong bối cảnh đó hoạt động kinh doanh của các NHTM trên địa bàn thủ đô vẫn tiếp tục ổn định, phát triển đạt được kết quả cao. Tuy nhiên do lãi suất trên thị trường thế giới có nhiều biến động, đặc biệt là đồng USD. Trong năm FED đã nhiều lần điều chỉnh tăng lãi suất và hiện đang ở mức 5,25%/ năm, đã có tác động trực tiếp tới quan hệ tỷ giá và lãi suất của VND. Mặt khác do quan hệ cung cầu vốn trên thị trường, sự biến động của giá cả, lãi suất huy động của các NHTMCP đều áp dụng vượt các mức lãi suất đã thỏa thuận của Hiệp hội ngân hàng. Một số doanh nghiệp có nguồn tiền gửi lớn đang gửi vốn tại Chi nhánh lại là nhà cổ đông chiến lược của một số NHTMCP nên đã tạo ra sự cạnh tranh, dịch chuyển vốn từ Ngân hàng này sang Ngân hàng khác. Tình hình đó đã làm cho lãi suất huy động vốn VND luôn không ổn định, cạnh tranh giữa các Ngân hàng ngày càng trở nên mạnh mẽ và gay gắt hơn. Năm 2007 trái ngược với tình hình 2006, thị trường chứng khoán bớt nóng, giá cổ phiếu sụt giảm. Đặc biệt FED nhiều lần điều chỉnh giảm lãi suất, do đó tỷ giá đồng USD giảm, các Ngân hàng hạn chế mua ngoại tệ vào. Trong thời buổi cạnh tranh điều này ảnh hưởng lớn đến các NHTM bởi vì nhiều khách hàng truyền thống, khách hàng có uy tín, có kim ngạch xuất khẩu lớn thường bán ngoại tệ, chiết khấu bộ chứng từ, thanh toán quốc tế, vay vốn, gửi tiền tại Ngân hàng mình, nay không mua vào USD thì dễ bị khách hàng bỏ đi sang Ngân hàng khác. Đứng trước những khó khăn đó, cùng với những định hướng phát triển của đất nước, của ngành và sự nỗ lực cố gắng không mệt mỏi của ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên hoạt động của chi nhánh NHCT Ba Đình đã đạt nhiều thành tích, kết quả to lớn đáng khích lệ, duy trì và đưa hoạt động kinh doanh của chi nhánh không ngừng phát triển về mọi mặt và có uy tín đối với doanh nghiệp và nhiều khách hàng xa gần, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển kinh tế trên địa bàn thành phố. Ta có thể xem xét tình hình hoạt động của Ngân hàng thông qua một số nghiệp vụ cơ bản sau: 2.1.3.1. Về công tác huy động vốn Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ một trong những đặc trưng cơ bản là “ đi vay để cho vay” do đó nguồn vốn huy động hay còn gọi là đầu vào của Ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng, là điều kiện tiên quyết cho hoạt động của Ngân hàng. Một nguồn vốn lớn, ổn định là cơ sở để Ngân hàng tổ chức mọi họat động kinh doanh, nó quyết định đến quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác, quyết định đến khả năng thanh toán, chi trả và năng lực cạnh tranh của mỗi Ngân hàng. Nhận thức được tầm quan trọng đó, chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình đã luôn coi trọng công tác huy động vốn tiếp tục tăng trưởng nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Tuy không có lợi thế về cơ sở kinh tế, lại có rất nhiều tổ chức tín dụng có trụ sở để huy động vốn nhưng với sự nỗ lực chủ động tìm kiếm, khai thác nguồn vốn nhàn rỗi với các hình thức hấp dẫn, mở rộng mạng lưới quỹ tiếp kiệm ở những nơi dân cư tập trung đông, xây dựng phong cách giao dịch văn minh… sự năng động, sáng tạo của Ban lãnh đạo và đội ngũ CBCNV nên công tác huy động vốn đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Ta có thể thấy rõ ở bảng sau: Bảng 3: Tình hình huy động vốn tại chi nhánh NHCT Ba Đình từ năm 2005- 2007. Đơn vị: Tỷ đồng. Năm 2005 2006 2007 Chỉ tiêu Số tiền Số tiền Mức tăng/ giảm % tăng giảm Số tiền Mức tăng/ giảm % tăng giảm Tổng nguồn vốn 4164 4350 1864 4,47% 5141 791 18,18% 1.Theo đối tượng khách hàng - TG của TCKT 2050 1962 - 88 - 4,29% 2817 855 43,58% - TG của dân cư 2114 2388 274 12,96% 2324 - 64 - 2,68% 2. Theo loại tiền gửi - VND 3469 3497 28 0,81% 4040 534 15,53% - Ngoại tệ 695 853 158 22,73% 1101 248 29% Nguồn: Phòng tổng hợp tiếp thị - NHCT Ba Đình Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy: Tình hình huy động vốn của chi nhánh NHCT Ba Đình nói chung tăng dần qua các năm, tổng nguồn vốn huy động năm 2006 đạt 4350 tỷ tăng 1864 tỷ đồng, tốc độ tăng 4,47% so với năm 2005. Đến ngày 31/12/2007, tổng nguồn vốn huy động đã đạt đến 5141 tỷ đồng, tăng lên so với năm 2006 là 791 tỷ đồng. Đây là một thành tích to lớn trong công tác huy động vốn của chi nhánh NHCT Ba Đình. Sự tăng lên mạnh mẽ trong công tác huy động vốn tại Ngân hàng có thể do một số nguyên nhân sau: - Tình hình kinh tế - chính trị trên thế giới bất ổn xong kinh tế - chính trị Việt Nam vẫn diễn biến theo tình huống tích cực, các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. - Chính sách tiền tệ của NHNN cho phép thực hiên cơ chế lãi suất thỏa thuận trong cho vay VND, nới lỏng biên độ tỷ giá +/- 2% tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng mở rộng quyền tự chủ. - Sự nỗ lực và quyết tâm lớn của toàn thể CBCNV chi nhánh NHCT Ba Đình tìm kiếm, khai thác có chọn lọc với lãi suất hấp dẫn từ nhiều nguồn khác nhau. - Mở rộng thêm mạng lưới tiết kiệm nhằm đảm bảo phục vụ khách hàng chính xác kịp thời. Nhìn chung hoạt động kinh doanh của chi nhánh trong cơ chế thị trường hiện nay là vô cùng khó khăn cả về thế và lực. Nằm trên địa bàn có quá nhiều các cơ quan hành chính sự nghiệp và rất ít các đơn vị sản xuất kinh doanh, đặc biệt là sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng để giành giật thị phần, trên địa bàn có nhiều tổ chức tín dụng cùng cho vay một doanh nghiệp tạo ra sự cạnh tranh gay gắt cho Ngân hàng. Nhưng bằng sự nỗ lực và quyết tâm lớn của Ban lãnh đạo và đội ngũ CBCNV Ngân hàng, trong những năm vừa qua Ngân hàng đã đạt được nhiều thành tích đáng kể, từng bước thích ứng với môi trường cạnh tranh khốc liệt, với những chính sách khách hàng hợp lý bảo đảm quyền lợi cho người gửi tiền bằng cơ chế lãi suất linh hoạt hấp dẫn và phù hợp với điều kiện cạnh tranh, công tác tiếp thị, tuyên truyền, quảng cáo nhằm huy động tối đa mọi nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời của dân cư cũng như tổ chức kinh tế được chú trọng, đội ngũ các bộ nhiệt tình năng nổ… Từ bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng, qua 3 năm nguồn vốn huy động theo từng đối tượng khách hàng của Ngân hàng đều có chiều hướng biến động khác nhau. -Trong năm 2006 tiền gửi của các TCKT tại chi nhánh là 1962 tỷ đồng, giảm 88 tỷ đồng so với năm 2005 (tương đương với 4, 29%). Trong khi đó số dư tiền gửi của dân cư trong năm 2006 là 2388 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm 2005 tăng 274 tỷ đồng (tương đương với 12,96%). Nguyên nhân tăng do các yếu tố chủ yếu sau: + Chi nhánh thường xuyên có những chính sách khuyến mại hấp dẫn thích hợp với từng đối tượng khách hàng, nên đã thu hút được khách hàng với lượng tiền gửi lớn. Đồng thời triển khai được tốt các đợt huy động vốn phát hành kỳ phiếu dự thưởng, phát hành chứng chỉ tiền gửi ngoại tệ của NHCT Việt Nam. Cụ thể phát hành kỳ phiếu VND 11 tháng dự thưởng đạt 158 tỷ, vượt kế hoạch 43%, phát hành chứng chỉ tiền gửi USD đạt 5,33 triệu, vượt 18% mức kế hoạch được giao. + Khai thác tiền đền bù cho dân từ các dự án xây dựng đường giao thông Hà Nội, chi nhánh đã thực hiện 31 đợt nhận chi trả, qua đó huy động được trên 97 tỷ đồng tại các phường Phúc Xá, Ô Chợ Dừa, Hàng Bột, Thịnh Quang, Kim Mã, Tây Hồ… + Các dự án có nguồn vốn tài trợ ODA, WB… do chi nhánh khai thác vẫn tiếp tục tăng. Do vậy nguồn vốn ngoại tệ của chi nhánh từ cuối năm 2005 đến nay không những đáp ứng đủ vốn cho các doanh nghiệp nhập khẩu, mà còn vốn ngoại tệ về quỹ điều hòa của NHCT Việt Nam. - Tuy nhiên, sang năm 2007 số dư tài khoản tiền gửi của các TCKT đã đạt được là 2817 tỷ đồng, tăng hơn so với năm 2006 là 855 tỷ đồng ( tương đương với 43,58% ). Trong khi đó, số dư tài khoản tiền gửi của dân cư trong năm này là 2324 tỷ đồng, giảm hơn so với năm 2006 là 64 tỷ đồng ( tương đương với 2,68% ). * Nguyên nhân của tình trạng trên là do: + Tiền gửi của các TCKT tại chi nhánh trong năm 2007 so với các năm trước có mức tăng đột biến do huy động vốn từ các doanh nghiệp có nhiều tiềm năng được quan tâm chú trọng hơn. Đặc biệt từ cuối quý II/2007 chi nhánh đã phân công cụ thể cho từng phòng nghiệp vụ có liên quan tới khách hàng về chỉ tiêu huy động vốn, hàng tháng có kiểm điểm, đánh giá kết quả nên huy động vốn của các TCKT đã có chuyển biến tăng lên rõ rệt. Nhiều khách hàng vay vốn có tiềm năng về tiền gửi đã chuyển vốn về gửi tại chi nhánh với khối lượng rất lớn. Mặt khác, chi nhánh đã có những chính sách khuyến mại thích hợp đối với từng doanh nghiệp nên nhiều doanh nghiệp có vốn lớn vẫn duy trì được mức tiền gửi khá ổn định hoặc đã chuyển thêm vốn về gửi tại chi nhánh. Do vậy năm 2007, huy động vốn từ TCKT của chi nhánh rất thành công và có mức tăng trưởng rất cao. + Trong khu vực tiền gửi dân cư, chi nhánh đã phối hợp chặt chẽ với UBND các phường tuyên truyền trên các đài phát thanh để quảng bá các sản phẩm, dịch vụ về tiền gửi dân cư. Mặt khác, chi nhánh cũng tiến hành chỉnh sửa lại một số quỹ tiết kiệm cho khang trang, đẹp đẽ hơn. Đồng thời rất coi trọng công tác giao tiếp với khách hàng… nên đợt huy động kỳ phiếu dự thưởng từ ngày 22/2 đến ngày 24/4 2007, chi nhánh đã huy động vượt 141 tỷ VND so với kế hoạch, đợt phát hành chứng chỉ tiền gửi ngoại tệ vào cuối năm 2007 đã huy động được 5,62 triệu USD đạt 97% kế hoạch mà NHCT Việt Nam đã giao. Tuy nhiên do tác động cạnh tranh của các TCTD và các tổ chức định chế tài chính, giá thị trường nhà đất hồi phục tăng cao trở lại, đặc biệt là giá vàng, giá tiêu dùng tăng liên tục vào những tháng cuối năm, nên vốn huy động từ tiền gửi dân cư đã không giữ được mức tăng 8,5% vào thời điểm 30/6/2007 mà còn bị sụt giảm 2,68% vào cuối năm 2007. Đây là thách thức không nhỏ trong công trong công tác huy động vốn từ khu vực tiền gửi dân cư của chi nhánh trong thời gian tới. Cũng từ bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng: Nguồn vốn huy động bằng VND có xu hướng tăng lên và ngoại tệ có xu hướng giảm vào năm 2007 cụ thể: Tiền gửi VND năm 2006 đạt 3497 tỷ đồng tăng 28 tỷ đồng so với năm 2005 (tương đương với 0,81%), đến ngày 31/12/2007 đạt 4040 tỷ đồng tăng lên 534 tỷ đồng (tương đương với 15,53%) so với năm 2006. Trong khi đó tiền gửi ngoại tệ quy VND năm 2006 đạt 853 tỷ đồng, tăng 158 tỷ đồng (tương đương 22,73%) so với năm 2005, nhưng đến năm 2007 chỉ đạt 1101 tỷ đồng tăng 248 tỷ đồng (tương đương 29%) so với năm 2006. Nguyên nhân chủ yếu là do: Năm 2006 do ảnh hưởng của việc tăng lãi suất của FED, đồng thời là sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng làm cho lãi suất huy động vốn VND luôn không ổn định nên tiền gửi VND tăng rất ít (chỉ 0,81%), trong khi huy động ngoại tệ tăng mạnh (22,37%). Nhưng vào năm 2007, FED đã cắt giảm lãi suất làm tỷ giá đồng USD giảm, Ngân hàng hạn chế mua ngoại tệ vào do đó huy động ngoại tệ chỉ tăng 29% so với năm trước. Như vậy tốc độ tăng trưởng tiền gửi huy động bằng VND nhiều hơn so với tốc độ huy động tiền gửi bằng ngoại tệ quy ra VND. Mặc dù như vậy nhưng trong công tác huy động vốn, chi nhánh NHCT Ba Đình luôn là một trong những đơn vị dẫn đầu của toàn hệ thống NHCT Việt Nam. Nguồn vốn lớn, ổn định, vững chắc và được phát triển thường xuyên đã góp phần quan trọng trong việc cân đối vốn và đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng. Nâng cao vị thế của Ngân hàng trên thương trường, giúp Ngân hàng dễ dàng mở rộng công tác tín dụng tạo đà cho sự phát triển của Ngân hàng. 2.1.3.2. Về tình hình sử dụng vốn Song song với việc huy động vốn thì nghiệp vụ sử dụng vốn có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nếu như huy động vốn được coi là điều kiện cần thì sử dụng vốn được coi là điều kiện đủ, quyết định đến sự sống còn của Ngân hàng. Ngân hàng huy động vốn để cho vay nên nếu huy động được nhiều mà không cho vay ra được thì dẫn đến hậu quả “ách tắc vốn” nhưng ngược lại cho vay được mà không thu hồi được nợ thì lại càng không tốt. Do vậy nghiệp vụ sử dụng vốn chỉ cần một sai lầm nhỏ có thể dẫn đến hậu quả khôn lường thậm chí có thể đi tới phá sản đối với bất cứ một Ngân hàng nào. Nhận thức đúng đắn vấn đề này, NHCT Ba Đình luôn coi trọng nghiệp vụ sử dụng vốn, đặt công tác tín dụng lên hàng đầu theo đúng chủ trương, chính sách của NHCT Việt Nam với phương trâm “phát triển- an toàn- hiệu quả”. Chi nhánh chú trọng tăng trưởng tín dụng phải kiểm soát được vốn cho vay. Trên cơ sở chọn lọc khách hàng, giảm dần dư nợ đối với những doanh nghiệp có tình hình tài chính yếu kém, vốn chủ sở hữu nhỏ, nâng cao chất lượng thẩm định dự án, coi trọng hiệu quả kinh tế và thực hiện nghiêm túc các quy chế về tín dụng hiện hành. Trong những năm qua, công tác tín dụng của Ngân hàng đã đạt được nhiều kết quả rất khả quan. Ta có thể thấy được điều đó qua bảng số liệu sau: Bảng 4: Tình hình sử dụng vốn tại NHCT Ba Đình từ 2005- 2007. Đơn vị: Tỷ đồng. Chỉ tiêu Số tiền Tỷ trọng Số tiền Mức tăng Tỷ trọng Số tiền Mức tăng Tỷ trọng Tổng dư nợ 2816 100% 2360 -456 100% 2643 283 100% Theo thời gian Ngắn hạn 1850 65,7% 1861 11 78,9% 2195 334 83,05% Trung dài hạn 966 34,3% 499 -467 21,2% 448 - 11 16,95% Theo TPKT DNNN 1708 60,65% 986 -722 41,78% 1120,6 134,6 42,4% DNNQD 1108 39,35% 1374 266 58,22% 2522,4 1148,4 57,6% Nguồn: Phòng tổng hợp tiếp thị- NHCT Ba Đình Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy: Sự tăng trưởng và phát triển dư nợ cho vay của chi nhánh qua các năm: 2005 là 2816 tỷ đến năm 2006 chỉ đạt 2360 tỷ giảm 456 tỷ đồng. Nguyên nhân chủ yếu là do: Trong năm này, doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn lớn được duyệt hạn mức cho vay thấp hơn, một số doanh nghiệp trả nợ nhiều hơn so với số vay, hoặc một số doanh nghiệp xây dựng cầu đường, nhập khẩu phân bón…có tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính yếu kém phải giảm dần dư nợ. Những doanh nghiệp có dư nợ giảm nhiều là VINAFOOD giảm 411 tỷ, nhà máy đạm Phú Mỹ giảm 43 tỷ, VINACHEM 40 tỷ, công ty TRAENCO giảm 14 tỷ, công ty Kim Khí Hà Nội giảm 74 tỷ, Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông I giảm 71 tỷ…Mặt khác việc tìm kiếm, khai thác khách hàng tốt để cho vay còn nhiều hạn chế, nên dư nợ năm 2006 không tăng trưởng mà còn bị suy giảm. Một số doanh nghiệp tình hình kinh doanh, tài chính vẫn còn nhiều khó khăn, không trả được nợ đúng hạn, và không thể xử lý dứt điểm trong năm 2006. Tuy nhiên, sang năm 2007 doanh nghiệp đã có sự tăng trưởng đáng kể, tổng dư nợ đạt 2643 tỷ tăng hơn so với năm trước là 283 tỷ. Điều này phản ánh xu hướng phát triển, sự nỗ lực đáng mừng của chi nhánh, sự vươn lên vượt qua khó khăn thử thách để đạt được hiệu quả, tạo đà phát triển cho những năm tiếp theo. Trong tổng dư nợ của chi nhánh thì: Cho vay ngắn hạn năm 2005 đạt 1850 tỷ đồng, đến năm 2006 đạt 1861 tỷ, và đến năm 2007 đạt 2195 tỷ. Như vậy có thể nói hoạt động cho vay ngắn hạn của doanh nghiệp tăng đều qua ba năm, đây là một sự cố gắng lớn của chi nhánh. Đối với cho vay trung dài hạn, trong 3 năm gần đây lại có sự giảm sút năm 2006 chỉ đạt 499 tỷ đồng, giảm hơn so với năm trước là 467 tỷ đồng, sang năm 2007 tình hình vẫn chưa có gì khả quan hơn chỉ đạt có 448 tỷ đồng, giảm hơn năm trước 11 tỷ đồng. Nguyên nhân là do: Trong năm Ngân hàng đã thực hiện phân tích tình hình SXKD, tình hình tài chính của các doanh nghiệp để từ đó đánh giá xem những doanh nghiệp nào có tình hình SXKH tốt, tình hình tài chính lành mạnh để cho vay tiếp còn đối với những doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu thấp, nhiều lần xin gia hạn nợ thì chi nhánh giảm dần số dư cho._.ể có thể giảm lãi suất cho vay thì chi nhánh cần có những biện pháp giảm chi phí đầu vào, một trong những biện pháp là: Tăng cường huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, hạn chế tối đa chi phí không cần thiết để có thể giảm lãi suất đầu ra, tăng trưởng tín dụng cho DNVVN đem lại nguồn thu cho Ngân hàng. * Về thời hạn cho vay. Hiện nay, thời hạn cho vay ngắn hạn được áp dụng tại chi nhánh NHCT Ba Đình là rất linh hoạt. Chi nhánh đã đưa ra các biện pháp điều chỉnh thời hạn cho vay linh hoạt đối với từng loại hình doanh nghiệp, việc xác định thời hạn cho vay không cần phụ thuộc vào đối tượng cho vay mà chi nhánh đã tiến hành thỏa thuận với khách hàng căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và còn phải phụ thuộc vào nguồn vốn cho vay của chi nhánh nữa. Từ đó, Ngân hàng đã có thể xác định được thời hạn cho vay chính xác đảm bảo khoản vay có thể trả đúng hạn. Tuy nhiên, thời hạn cho vay dài hạn được áp dụng tại chi nhánh NHCT Ba Đình còn chưa được linh hoạt như thời hạn cho vay ngắn hạn. Như đã biết, các DNVVN hiện nay đang có nhu cầu rất lớn về vốn tín dụng trung, dài hạn để đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị cho sản xuất kinh doanh, do đó chi nhánh cần tăng cường dư nợ cho vay dài hạn, sử dụng nguồn vốn lưu động trung, dài hạn và 30% nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn. Ngoài ra việc xác định thời hạn cho vay trung và dài hạn cũng nên linh hoạt hơn nữa để nhằm giúp doanh nghiệp có vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh theo phương châm “ sự thành đạt của khách hàng là sự thành đạt của Ngân hàng”, nhưng việc xác định kỳ hạn cho vay trung, dài hạn cũng phải phù hợp với khả năng sinh lời và tuổi thọ của máy móc, thiết bị. *Về phương thức cho vay Chi nhánh có thể áp dụng những phương thức cho vay tuỳ theo từng đối tượng khách hàng vay vốn như: Cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay hợp vốn, cho vay theo dự án đầu tư… Hiện nay, hầu hết các DNVVN thường chỉ được Ngân hàng cho vay theo phương thức cho vay từng lần, phương thức này rất phức tạp vì mỗi lần vay doanh nghiệp lại phải đưa ra những thủ tục cần thiết để thực hiện vay vốn theo quy định của Ngân hàng, điều này gây phản ứng e ngại cho doanh nghiệp, mất thời gian, đôi khi bỏ lỡ cơ hội đầu tư của doanh nghiệp. Để mở rộng cho vay đối với DNVVN, chi nhánh nên cho vay các doanh nghiệp thường xuyên giao dịch với mình, có uy tín, hoạt động kinh doanh hiệu quả, có thể cho vay theo hạn mức tín dụng. Một số kỹ thuật cho vay theo hạn mức tín dụng mà chi nhánh có thể áp dụng đó là: - Cho vay luân chuyển vật tư hàng hoá: Chi nhánh cùng khách hàng sẽ cùng ký với nhau một hợp đồng tín dụng thoả thuận về hạn mức tín dụng, cách thức giải ngân, thu nợ, thu lãi, phương thức thanh lý hợp đồng, tài sản đảm bảo và các điều kiện khác, việc xác định thời hạn vay vốn, thời hạn trả nợ dựa trên kế hoạch tiêu thụ và kế hoach doanh thu của khách hàng. - Thấu chi: Việc áp dụng kỹ thuật thấu chi cho phép khách hàng vay vốn quá số dư trên tài khoản vãng lai của họ đến một mức nhất định, họ có thể chủ động rút tiền vào bất cứ lúc nào họ có nhu cầu sử dụng vốn và cũng chủ động trả nợ vào bất cứ lúc nào họ có tiền. Sử dụng kỹ thuật thấu chi giúp cho doanh nghiệp có thể sử dụng tài khoản một cách linh hoạt và chủ động, khi số tiền mà doanh nghiệp trả nợ Ngân hàng lớn hơn dư nợ thì trên tài khoản sẽ xuất hiện dư có cho doanh nghiệp, đối với Ngân hàng khi giao dịch với những khách hàng có năng lực tài chính lành mạnh, có uy tín, tài khoản tiền gửi phát sinh thường xuyên trong khi phát sinh nợ chỉ trong một thời gian ngắn điều đó cho phép Ngân hàng có được nguồn vốn ổn định với chi phí thấp để cho vay. Tuy nhiên nghiệp vụ này hiện nay chưa được áp dụng rộng rãi, hầu hết mới chỉ áp dụng với những khách hàng là những doanh nghiệp lớn có quan hệ thường xuyên với Ngân hàng, có trình độ quản trị tài chính tương đối tốt và được xếp hạng tín nhiệm tương đối cao, các DNVVN có quan hệ với chi nhánh hiện nay hầu như chưa đủ điều kiện để sử dụng. Trong thời gian tới, chi nhánh sẽ cố gắng để các DNVVN có thể tiếp cận rộng rãi hơn với nghiệp vụ này. * Về tài sản đảm bảo: Thực tế hiện nay cho thấy, các NHTM nói chung và chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng khi xem xét giải quyết cho vay hầu như chỉ quan tâm đến khách hàng có tài sản đảm bảo hay không có tài sản đẩm bảo, điều này gây không ít khó khăn cho DNVVN trong việc tiếp cận vốn tín dụng của Ngân hàng. Thực ra, nếu chỉ dựa vào tài sản đảm bảo thôi thì vẫn không đủ để đảm bảo khoản vay có thể thu hồi được nợ. Bởi lẽ, trong quan hệ tín dụng thì quyền cho vay thực tế thuộc về Ngân hàng còn quyền trả nợ thực tế lại thuộc về người vay, do đó việc khách hàng có trả nợ hay không lại phụ thuộc vào thiện chí và khả năng trả nợ của khách hàng, nếu khách hàng làm ăn không hiệu quả, thua lỗ thì cũng không có khả năng trả nợ dẫn đến Ngân hàng vẫn có thể bị đọng vốn thậm chí bị mất vốn vì việc giải quyết tài sản đảm bảo không đơn giản và dễ dàng chút nào. Ngược lại, nhiều doanh nghiệp đặc biệt là các DNVVN không đủ tài sản để thế chấp nhưng làm ăn có hiệu quả, có uy tín trên thị trường thì vẫn có thể trả nợ đúng hạn cho Ngân hàng. Do vậy, để mở rộng tín dụng đặc biệt là cho vay DNVVN chi nhánh NHCT Ba Đình cần linh hoạt trong việc yêu cầu có hay không có tài sản đảm bảo cho khoản vay, vấn đề quan trọng để ra quyết định cho vay là phương án, dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có khả năng trả nợ Ngân hàng chứ không phải tài sản đảm bảo. Hơn nữa, Nghị quyết TW5 đã nhấn mạnh “ kinh tế tư nhân được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp vay vốn Ngân hàng”. Do đó việc thế chấp tài sản được linh hoạt và thông thoáng hơn. 3.3.2. Đa dạng hoá các hình thức cho vay đối với DNVVN Trong điều kiện có rất nhiều Ngân hàng với hình thức sở hữu, quy mô hoạt động khác nhau, nhiều chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh và các TCTD cùng hoạt động, đã tạo ra sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các Ngân hàng, Ngân hàng nào muốn tồn tại, phát triển, đạt được, lợi nhuận cao và tạo ra vị thế của mình trong cạnh tranh đều phải thay đổi, cải tiến hoạt động sao cho đáp ứng kịp thời và thuận tiện các nhu cầu phong phú, đa dạng để thu hút được nhiều khách hàng. Muốn làm được điều đó, chi nhánh cần mở rộng và tìm kiếm các hình thức cho vay mới. Trong công cuộc cạnh tranh này, nếu Ngân hàng chỉ hoạt động đơn điệu với những nghiệp vụ truyền thống mà hầu hết các Ngân hàng khác đều có thì rất dễ bị phá sản hoặc đi đến chỗ đóng cửa. Việc mở rộng và tìm kiếm các hình thức cho vay nhằm đa dạng hoá các hình thức cho vay là cần thiết và là điều kiện quan trọng. Một mặt, nó giúp chi nhánh có thể đứng vững trên thương trường. Mặt khác, nó giúp cho chi nhánh có thể mở rộng được quy mô tín dụng một cách vững chắc. 3.3.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng Nguồn thu và lợi nhuận của các NHTM hiện nay chủ yếu có được là nhờ vào kết quả của việc đầu tư vốn cho vay vào các thành phần kinh tế. Như vậy, có thể khẳng định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng phụ thuộc vào quyết định bởi việc đầu tư vốn có hiệu quả và an toàn. Chất lượng tín dụng cao hay thấp, một trong những nguyên nhân quan trọng đó là do đội ngũ cán bộ tín dụng Ngân hàng. Nhận thức được vấn đề này, chi nhánh NHCT Ba Đình sẽ tích cực nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng, có trình độ và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, xử lý công việc tốt, phân tích thẩm định tốt để có quyết định cho vay đúng đắn, vừa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng vừa đảm bảo an toàn tín dụng. Theo đó, cán bộ tín dụng không chỉ thực hiện tốt nghiệp vụ chuyên môn mà còn phải có khả năng để thực hiện vai trò tư vấn, giúp đỡ khách hàng trong việc thực hiện các phương án, dự án sản xuất kinh doanh. Nên có sự bổ sung xen kẽ những cán bộ tín dụng có nhiều kinh nghiệm với những cán bộ tín dụng mới được đào tạo cơ bản về kiến thức trong kinh tế thị trường để có thể học hỏi trao đổi với nhau những kiến thức và kinh nghiệm. Bên cạnh đó chi nhánh cũng nên thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo để trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp, tổ chức các cuộc thi cán bộ chuyên môn giỏi nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của cán bộ trong chi nhánh. Ngoài ra, chi nhánh cũng cần có những hình thức thưởng phạt hợp lý để kích thích lòng say mê, hăng say và ý chí sáng tạo của mỗi cán bộ nhân viên Ngân hàng. 3.3.4. Triển khai hoạt động dịch vụ thanh toán Tiếp cận và triển khai các dịch vụ Ngân hàng đặc biệt là dịch vụ thanh toán đối với các DNVVN có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác mở rộng tín dụng của Ngân hàng. Với số lượng các DNVVN đang ngày càng lớn như hiện nay, việc thu hút các đơn vị này vào quan hệ giao dịch thanh toán với Ngân hàng sẽ mang lại lợi ích kinh tế rất lớn cho cả hai phía Ngân hàng và khách hàng và tác động hiệu ứng đối với toàn bộ nền kinh tế gắn liền với hiệu quả của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. Một số dịch vụ mà Ngân hàng áp dụng là: - Triển khai các dịch vụ thanh toán, chi trả lương cho cán bộ công nhân viên hộ doanh nghiệp. - Xem xét phát triển hệ thống máy ATM tại khu vực công nghiệp nơi có nhiều DNVVN hoạt động. - Quảng cáo, thu hút các doanh nghiệp tham gia giao dịch bằng chính sự tiện ích, thuận lợi nhờ thủ tục đơn giản, nhanh chóng và chính xác trong nhiệm vụ thanh toán. Làm tốt công tác này, chi nhánh sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch và tạo mối quan hệ thân quen gắn bó là cơ sở mở rộng tín dụng về sau. 3.3.5. Khai thác tốt các chương trình hỗ trợ cho các DNVVN Nhà nước đang có những chính sách, chủ trương khuyến khích hỗ trợ phát triển DNVVN, vì thế ngành Ngân hàng nói chung và chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng cần bám sát những chủ trương chính sách đó để tận dụng cơ hội đầu tư một cách tốt nhất. Hiện nay đang xảy ra tình trạng vốn của Ngân hàng thừa nhưng thiếu những dự án khả thi; vì vậy, đặt ra cho chi nhánh là cần phải làm tốt hoạt động tư vấn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình lập và xây dựng dự án khả thi. Ngân hàng cũng có thể chủ động đầu tư cùng doanh nghiệp để kinh doanh, tư vấn tốt khách hàng về thực hiện các thủ tục vay vốn, quan hệ giao dịch với Ngân hàng. Hạn chế tối đa những vướng mắc, lúng túng không cần thiết từ các doanh nghiệp có khi quan hệ tín dụng với Ngân hàng, loại bỏ những trung gian (nếu có), những dịch vụ gây sự phiền hà tốn kém cho doanh nghiệp. 3.3.6. Nâng cao chất lượng tín dụng Với phương châm hành động: “Việc mở rộng tín dụng phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng tín dụng”, Ngân hàng cần phải quan tâm hơn nữa đến việc nâng cao chất lượng tín dụng, đây là cơ sở để mở rộng và tăng trưởng tín dụng, là yếu tố tiên quyết, quyết định hiệu quả tín dụng nói chung và tín dụng DNVVN nói riêng. Để có thể mở rộng thì trước hết chất lượng của từng món vay phải tốt để giảm thiểu tổn thất cho Ngân hàng. Khi rủi ro tín dụng xảy ra Ngân hàng cần thực hiện một số vấn đề sau: 3.3.6.1. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng Thẩm định tín dụng là khâu đầu tiên nhưng lại có tính chất quyết định tới hiệu quả cho vay trong quy trình tín dụng. Vì sau khi kết thúc khâu thẩm định Ngân hàng phải ra quyết định tín dụng, có chấp nhận hay không chấp nhận cho vay, công việc này cực kỳ quan trọng, nó không những ảnh hưởng tới tiến trình hoạt động của khách hàng mà còn ảnh hưởng đến cả uy tín của Ngân hàng. Trong thực tế Ngân hàng rất sợ gặp phải hai loại sai lầm: Thứ nhất: Ra quyết định chấp thuận mà khách hàng lại không có khả năng hoàn trả vốn tín dụng đúng hạn thì sẽ gây thiệt hại cho Ngân hàng; mất cơ hội tăng thu nhập, mất đi một khách hàng – mất đi cơ hội mở rộng thị phần cho mình. Chính vì lẽ đó, khâu thẩm định tín dụng cần phải được thực hiện một cách nghiêm túc với độ chính xác cao. Thẩm định tín dụng gồm hai bước cơ bản là thu thập và xử lý thông tin. * Thu thập thông tin: Việc thu thập thông tin tốt đặc biệt là những thông tin về DNVVN sẽ tạo điều kiện cho chi nhánh có được những quyết định cho vay đúng, hạn chế rủi ro. Bên cạnh đó, thu thập được nguồn thông tin tốt chi nhánh sẽ phân tích, đánh giá “định lượng” được rủi ro, có thể dự báo, dự đoán được diễn biến của tình hình thị trường và của nền kinh tế. Dự báo, dự đoán được tính hiệu quả, khả thi của dự án trong tương lai từ đó đưa ra quyết định đầu tư hay không đầu tư đối với những dự án lớn, dự án vay trung, dài hạn. Như vậy, thông tin đã trở thành tài nguyên, là nguồn động lực đối với sự phát triển của Ngân hàng. Ngân hàng có thể thu thập thông tin từ những nguồn khác nhau: nguồn thông tin thu thập được từ các doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ các cơ quan hữu quan có liên quan đến khoản vay và từ những nguồn khác như: hàng xóm, cán bộ chính quyền địa phương, bạn hàng có quan hệ mua bán với doanh nghiệp…. Tuy nhiên, thực tế hiện nay có rất nhiều nguồn thông tin mà Ngân hàng nhận được là không đầy đủ, cập nhật với độ tin cậy không cao gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc sàng lọc những thông tin chính xác nhất. Hơn nữa, nguồn thông tin Ngân hàng nhận được chủ yếu lại dựa vào phía khách hàng cung cấp, mà muốn vay được vốn Ngân hàng thì họ đưa ra những thông tin tốt về mình để có thể được chấp thuận cho vay, điều này sẽ gây ra hiện tượng thiếu trung thực trong việc cung cấp thông tin của khách hàng cho Ngân hàng. Vì vậy, trong quá trình thu thập thông tin chi nhánh không chỉ dừng lại ở những thông tin mà khách hàng cung cấp, mà còn có thể mở rộng phạm vi thu thập các nguồn khác nhau về thông tin tín dụng nhưng phải biết chọn lọc để tránh loãng thông tin. Ngân hàng cần thực hiện: - Thực hiện trao đổi thông tin tốt với các chi nhánh khác và với NHNN. - Phát triển mạng nội bộ, tổ chức thông tin nội bộ, tăng cường kết nối Internet nhằm nắm bắt kịp thời diễn biến của tình hình thị trường, của doanh nghiệp. - Tham gia tích cực vào hệ thống thông tin tín dụng của NHNN với tư cách là một thành viên, thực hiện nghiêm túc các quy định về thông tin tín dụng mà NHNN ban hành. - Có quy định bắt buộc đối với doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với Ngân hàng định kỳ phải gửi báo cáo tài chính đầy đủ, kịp thời và chính xác cho chi nhánh. Làm tốt công tác này sẽ cho phép chi nhánh thu thập được những thông tin tốt đảm bảo tính cập nhật và chính xác giúp cho quá trình xử lý thông tin được nhanh chóng, chính xác và hiệu quả. Các thông tin thu thập được sẽ được kiểm tra đối chiếu, làm sạch để đảm bảo tính trung thực, minh bạch và có nguồn gốc rõ ràng trước khi đưa vào phân tích xử lý thông tin, có như vậy, công việc thu thập thông tin mới thực sự có ý nghĩa. * Xử lý thông tin: Sau khi có được những thông tin cần thiết thì việc xử lý thông tin để ra quyết định lựa chọn khách hàng nào là rất quan trọng; Ngân hàng cần quan tâm, lựa chọn những khách hàng có uy tín, có hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả và sẵn lòng trả nợ; việc lựa chọn được áp dụng cho mọi thành phần kinh tế, không có sự phân biệt đối xử trong cho vay, không vì DNNN mà cứ cho vay không quan tâm đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đó trong khi quá khắt khe đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Việc xử lý thông tin để lựa chọn đúng khách hàng cho vay là một việc không đơn giản và không phải chỉ có một lời giải đáp mà còn tùy thuộc vào năng lực, trình độ, vào cách nhìn nhận riêng của cán bộ tín dụng, họ sử dụng những phương pháp phân tích khác nhau, nhấn mạnh quan hệ này hoặc quan hệ khác mà có một số ra quyết định chấp thuận, một số khác lại từ chối. Do vậy chi nhánh nên thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo chuyên sâu về công tác thẩm định, giúp cán bộ tín dụng có được những phán quyết đúng trong phân tích, xử lý thông tin. Bên cạnh đó, chi nhánh nên giao cho cán bộ tín dụng quyền tự quyết trong quá trình xét duyệt cho vay, giải ngân và thu hồi nợ để đảm bảo tính chủ động và thống nhất trong công việc. Để tránh những tiêu cực xảy ra từ phía các cán bộ tín dụng, chi nhánh cũng nên quy rõ trách nhiệm cho từng người trong phạm vi quyền hạn cho phép. 3.3.6.2. Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay Công tác kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay là rất quan trọng và cần thiết đối với chi nhánh NHCT Ba Đình để đảm bảo an toàn và hiệu quả cho khoản vay, khi chi nhánh mở rộng tín dụng thì công tác này cũng phải được tăng cường theo mức độ mở rộng của chi nhánh. Trong công tác kiểm tra, kiểm soát, giám sát món vay, chi nhánh phải thường xuyên theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đánh giá tiến độ thực hiện của phương án vay vốn. Việc này là hết sức cần thiết, giúp cho chi nhánh phát hiện sớm những vấn đề phát sinh, kịp thời đề ra những biện pháp xử lý thích ứng với tình hình. Trong thực tế hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng DNVVN khó tránh khỏi gặp rủi ro phát sinh nợ xấu. Do đó, không thể phê phán cán bộ tín dụng về tất cả các quyết định cho vay mà họ đã đưa ra nhưng việc giám sát tín dụng để sớm nhận ra những dấu hiệu báo động mà đề ra các biện pháp kịp thời để khắc phục tình hình vì không phải cán bộ tín dụng nào cũng có thể làm tốt, điều đó phụ thuộc vào khả năng, trình độ và từng điều kiện cụ thể của từng cán bộ tín dụng. Vì vậy, chi nhánh cần có những chương trình giám sát tín dụng riêng, với những cán bộ tín dụng có đủ năng lực để đánh giá hoạt động tín dụng ở cả hai phía Ngân hàng và khách hàng, những người làm công tác này phải độc lập với những hoạt động cho vay và thu nợ. Ngân hàng cần thanh lọc những cán bộ thoái hóa biến chất, cố tình làm sai cơ chế cho vay, gây thất thoát vốn của Ngân hàng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và uy tín của Ngân hàng. 3.3.7. NHCT Ba Đình cần chủ động cạnh tranh, mở rộng thị phần và tăng trưởng tín dụng Để mở rộng được thị phần, tăng trưởng tín dụng thì cần phải có hai yếu tố đó là: Chủ động được nguồn vốn và thu hút được nhiều khách hàng tốt vay vốn đặc biệt là các DNVVN. Với phương châm của chi nhánh là nhu cầu vốn tín dụng quyết định huy động vốn và hiện nay, nguồn vốn của chi nhánh đang trong trạng thái chủ động, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng. Vì vậy, chi nhánh nên tập trung chú ý làm tốt các công tác nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng sử dụng vốn của Ngân hàng an toàn và hiệu quả. 3.3.7.1. Ngân hàng cần chủ động tìm đến khách hàng Việc chủ động tìm đến khách hàng vay vốn là vấn đề trọng tâm và cần phải trở thành phương châm hành động của chi nhánh. Khi Ngân hàng chủ động tìm đến khách hàng thì Ngân hàng phải có những thông tin về khách hàng trước, hay nói cách khác là Ngân hàng đã chủ động thẩm định trước về khách hàng để lựa chọn. Điều đó sẽ tránh được sự phân tán vào những thông tin do khách hàng chủ động cung cấp (các thông tin này thường đã được điều chỉnh có lợi cho khách hàng để được vay vốn) và bị giới hạn bởi thời gian thẩm định trong từng trường hợp khách hàng tìm đến Ngân hàng, hạn chế rủi ro cho Ngân hàng. Mặt khác, việc chủ động tìm đến khách hàng là một biện pháp tiếp thị có hiệu quả, nhất là đối với những khách hàng mới thành lập hoặc mới vay của Ngân hàng lần đầu mặc dù đã từng vay ở các Ngân hàng khác, sự có mặt của Ngân hàng vào đúng thời điểm khách hàng đang phân vân lựa chọn Ngân hàng, sẽ nắm được cơ hội đầu tư cho Ngân hàng. Ngân hàng cần có những chính sách linh hoạt , mềm dẻo để tiếp cận với các DNVVN như: Trực tiếp tiếp xúc với từng khách hàng, gặp gỡ, họp mặt một khu vực khách hàng như trong khu chế xuất, khu công nghiệp, làng nghề truyền thống… Để hiểu rõ những khó khăn trở ngại của họ khi giao dịch với Ngân hàng để tìm cách tháo gỡ. Với những chính sách của Đảng và Nhà nước như hiện nay, các DNVVN đang được hình thành ngày càng nhiều thì công tác này rất hiệu quả giúp cho họ không còn e ngại khi đến giao dịch với Ngân hàng, Ngân hàng sẽ trở thành điểm đến cho các DNVVN, thực hiện được mở rộng tín dụng cho mình. 3.3.7.2. Đẩy mạnh công tác Marketing trong cho vay một cách thiết thực và hiệu quả Chi nhánh cần lựa chọn và đưa ra những hình thức tiếp thị phù hợp cho đối tượng DNVVN. Hiện nay, chi nhánh mới chỉ tập trung chủ yếu vào việc quảng cáo trên báo, tạp chí… với những lượng thông tin ngắn và rất vắn tắt, đối tượng người đọc bị giới hạn chủ yếu là các cơ quan hành chính sự nghiệp. Việc áp dụng nhiều hình thức tiếp thị khác nhau sẽ giúp cho DNVVN có được những thông tin cần thiết, đầy đủ và chính xác nhất để quan hệ giao dịch với Ngân hàng, cụ thể: Chi nhánh cần tăng cường giới thiệu về mình trên các phương tiện thông tin đại chúng để sao cho nhiều người tiếp cận được thông tin nhất, hiểu rõ về Ngân hàng; cho đến nay, trong suy nghĩ của nhiều người còn chưa hiểu đầy đủ về Ngân hàng và về những sản phẩm dịch vụ mà Ngân hàng đang cung cấp, đối với họ cho dù có đủ điều kiện để vay vốn Ngân hàng thì họ vẫn cứ e ngại tiếp cận vốn của Ngân hàng bởi những ấn tượng về cán bộ tín dụng thời bao cấp còn để lại trong tâm trí họ như: Thái độ hách dịch, quan liêu cửa quyền… Vì vậy, chi nhánh cần sử dụng phương tiện thông tin đại chúng để cho khách hàng đặc biệt là DNVVN hiểu rõ hơn về sản phẩm dịch vụ, về những tiện ích và về con người của chi nhánh là điều cần thiết: - Chi nhánh cần giới thiệu các tiện ích và hoạt động tín dụng của mình thông qua các Bộ, Sở, Ban, Ngành; tham gia để tìm kiếm, giới thiệu với khách hàng tại các hội chợ triển lãm. - Giới thiệu kỹ các thủ tục, điều kiện vay vốn và chính sách tín dụng của chi nhánh, đồng thời niêm yết trên bảng ghi tại trụ sở, nơi giao dịch của chi nhánh tại trụ sở UBND phường và các phường lân cận. - Tiếp cận gián tiếp thông qua chính khách hàng đang quan hệ giao dịch với chi nhánh bằng việc cải tiến các thủ tục, nhanh, gọn về thời gian, quan tâm làm giảm các chi phí cho khách hàng trong việc làm thủ tục vay, trả nợ… Bằng quy luật lây lan, họ sẽ tự giới thiệu cho bạn hàng của họ. Bên cạnh đó, để thu hút khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng, chi nhánh cần quan tâm tới chú ý tới thái độ phục vụ và phong cách giao tiếp của nhân viên Ngân hàng. Dưới con mắt của khách hàng thì nhân viên Ngân hàng là hình ảnh của chi nhánh. Cán bộ tín dụng không những phải giỏi nghiệp vụ mà còn phải hiểu được tâm lý của khách hàng, sự lịch sự trong phong cách giao tiếp và thái độ phục vụ ân cần, cởi mở, nhiệt tình, đúng mực sẽ tạo nên cảm giác thoải mái và hài lòng của khách hàng khi đến giao dịch với Ngân hàng. Ngoài ra, chi nhánh còn phải chú ý tới hình thức bề ngoài của trụ sở hay các điểm giao dịch, nhìn một Ngân hàng khang trang, sạch đẹp với những thiết bị hiện đại khách hàng có cảm giác an tâm, tin tưởng hơn trong quan hệ với Ngân hàng; có điểm đỗ xe thuận tiện và an toàn tiện cho khách hàng khi vào Ngân hàng; tạo cho cán bộ tín dụng phong cách ăn mặc đặc trưng để mỗi khi nhắc đến là người ta có thể nghĩ ngay đến chi nhánh NHCT Ba Đình. Làm tốt công tác này giúp cho chi nhánh có thể thu hút ngày càng nhiều khách hàng đặc biệt là DNVVN đến giao dịch với Ngân hàng, tạo nên sự tăng trưởng và mở rộng tín dụng cho Ngân hàng, là cơ sở vững chắc cho sự phát triển về sau của Ngân hàng. 3.4.Kiến nghị Để tạo cho chi nhánh mở rộng tín dụng một cách có hiệu quả, ổn định đối với các DNVVN, hộ kinh doanh thì không chỉ dựa trên những giải pháp mà chi nhánh đưa ra nó còn cần có sự quan tâm của Nhà nước, của NHNN và NHCT Việt Nam. Có như vậy, mới giúp cho chi nhánh thực hiện một cách có hiệu quả những giải pháp mà chi nhánh đưa ra. 3.4.1. Kiến nghị đối với Nhà nước Thứ nhất: Nhà nước cần nhận thức được tầm quan trọng của DNVVN trong công cuộc CNH-HĐH đất nước từ đó đưa ra những chính sách tạo điều kiện cho các DNVVN phát triển mạnh mẽ, giúp cho Ngân hàng có nhiều cơ hội để đầu tư vào DNVVN. Thứ hai: Để tạo cho sự an toàn cho vốn của Ngân hàng cho vay, Nhà nước cần quản lý chặt chẽ việc cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp đặc biệt là các DNVVN, phải kiểm tra kỹ hồ sơ, giấy tờ xin phép thành lập, thẩm định, nắm chắc nhân thân, tình hình thực tế của người xin thành lập. Khi đã cấp giấy phép thành lập rồi thì Nhà nước còn cần phải có những biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh theo giấy phép, theo chức năng, ngành nghề…của doanh nghiệp tránh tình trạng doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trái với chức năng cho phép hay tình trạng doanh nghiệp “ mất tích” tại trụ sở đăng ký thành lập, thậm chí cả việc giả mạo giấy tờ, lừa đảo để thành lập doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng xong rồi thì bỏ trốn gây thất thoát vốn cho Ngân hàng. Thứ ba: Xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng trong đó xóa bỏ phân biệt tín dụng bởi hàng rào lãi suất hay hạn mức tín dụng. Thứ tư: Nhà nước cần có những biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các DNVVN, yêu cầu các doanh nghiệp này phải thực hiện đúng pháp lệnh kế toán thống kê, thực hiện ghi chép sổ sách kế toán đầy đủ, khoa học, tiến hành hạch toán rõ ràng; kiểm tra kế toán theo các tiêu chuẩn quốc tế để các thông tin công khai, minh bạch về tình hình tài chính giúp cho Ngân hàng có những thông tin công khai, minh bạch để ra quyết định đầu tư đúng đắn. Thứ năm: Đối với tài sản đảm bảo là bất động sản hiện còn nhiều bất cập, việc giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất, hồ sơ sổ đỏ đất đai đạt tỷ lệ rất thấp hoặc chưa có cơ quan nào xác nhận làm cho việc mở rộng cho vay của Ngân hàng đặc biệt là cho vay đối với DNVVN còn gặp rất nhiều khó khăn. Vì thế, Nhà nước cần có những biện pháp quản lý chặt chẽ vấn đề này, ban hành kịp thời những quy định về quyền sử dụng đất hợp lý, thống nhất nhằm mở rộng nguồn tài sản đảm bảo cho doanh nghiệp. Thứ 6: Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ để sớm thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN, tuy nhiên Nhà nước cũng cần phải nhận thấy được những khó khăn cần tháo gỡ của những quy định trong việc góp vốn vào quỹ bảo lãnh tín dụng hiện nay, ví dụ như: Việc góp vốn để thành lập quỹ này lại càng chủ yếu dựa vào vốn trung dài hạn trong khi nguồn vốn này của Ngân hàng lại rất hạn chế. Hơn nữa, quỹ này hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận trong khi nguồn vốn trung dài hạn lại phải huy động với lãi suất rất cao. Bên cạnh đó, việc thành lập quỹ này là do Ngân hàng song lại cho các DNVVN vay do quỹ này bảo lãnh, khác nào “cho vay tay này bảo lãnh tay kia”. Vì thế, trong thời gian tới Nhà nước cần có những cơ chế bảo lãnh hợp lý hơn để tháo gỡ những khó khăn đó giúp cho quỹ bảo lãnh này ngày càng hoàn thiện trở thành công cụ hữu hiệu giúp cho việc mở rộng tín dụng của Ngân hàng đối với DNVVN được hiệu quả và an toàn. Thứ bảy: Nhà nước cần có những chính sách đẩy mạnh hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt như: Ban hành những bộ luật đảm bảo quyền lợi cho các DNVVN khi họ gửi và mở tài khoản tại Ngân hàng, Nhà nước cũng cần cho phép NHNN thay đổi mệnh giá đồng tiền in ấn lại đồng tiền để có thể sử dụng được qua máy rút tiền tự động (khi sử dụng máy rút tiền tự động, khách hàng muốn nạp tiền vào tài khoản qua máy thì tiền phải in lại để máy có thể sử dụng được)…nhằm đẩy mạnh hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, không những giúp cho Ngân hàng tạo mối quan hệ với khách hàng mà còn giúp Ngân hàng thu hút được nguồn vốn đáng kể từ dịch vụ này để cho vay mở rộng tín dụng cho Ngân hàng. 3.4.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Thứ nhất: NHNN cần tiếp tục đổi mới nội dung các quy chế cấp tín dụng (cho vay, cho thuê tài chính, bảo lãnh) để ban hành đồng bộ theo hướng thông thoáng, phù hợp với quan hệ dân sự: tiếp tục có hướng dẫn về đơn giản hóa thủ tục, điều kiện cho vay, bổ sung một số đặc điểm cơ bản trong quy chế bảo đảm tiền vay…có liên quan trực tiếp đến các doanh nghiệp. Thứ hai: Trong khuôn khổ các quy định về kinh tế, tài chính, tín dụng, môi trường kinh doanh thực sự bình đẳng cho DNVVN còn nhiều hạn chế điều đó thể hiện trong các chính sách tín dụng của hệ thống Ngân hàng như: chính sách lãi suất, tài sản đảm bảo hay hạn mức tín dụng. Vì vậy, để khuyến khích các DNVVN vay vốn, mở rộng tín dụng cho Ngân hàng thì NHNN cần phải xem xét để ra quy định cho vay một cách linh hoạt với lãi suất cho vay thực sự bình đẳng. Thứ ba: Nắm bắt được nhiều thông tin tốt là đều rất cần thiết cho các NHTM để có thể ra quyết định cho vay đúng đắn, an toàn và hiệu quả. Hiện nay, Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN là nơi cung cấp thông tin cho các NHTM, tuy nhiên chất lượng và cả số lượng của thông tin chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của Ngân hàng, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.Vì vậy, NHNN cần có những biện pháp để hoạt động của Trung tâm này phát huy hiệu quả. Ngoài ra, NHNN cũng nên cho phép thành lập các cơ quan chuyên cung cấp thông tin tín dụng nhằm tăng nguồn thông tin đáng tin cậy cho các NHTM. 3.4.3. Kiến nghị đối với NHCT Việt Nam Thứ nhất: NHCT Việt Nam cần tiếp tục rà soát các cơ chế, nghiệp vụ, có những biện pháp cụ thể đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết cho vay nhất là quá trình thẩm định. Thứ hai: NHCT Việt Nam nên xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc và lãi cho phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của DNVVN, nâng cao khả năng hoàn trả vốn cho Ngân hàng, tránh “đảo nợ”. Thứ ba: NHCT Việt Nam cần quan tâm hơn nữa đến tài sản đảm bảo, cần chủ động mở rộng nguồn tài sản đảm bảo, nên mở rộng diện cho vay bằng tín chấp đối với những DNVVN có uy tín, có hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, thường xuyên giao dịch với Ngân hàng. Thứ tư: Ban hành, hoàn thiện đồng bộ hóa các văn bản về hoạt động tín dụng của các chi nhánh trong hệ thống, tạo điều kiện thuận lợi cho các chi nhánh mở rộng hoạt động cho vay với các DNVVN. Có những chính sách hỗ trợ về tài chính giúp các Ngân hàng xử lý nợ đọng, nợ khó đòi của các DNVVN, NHCT Việt Nam cần kiến nghị lên Chính phủ về việc tăng cường hiệu lực của các Trung tâm bán đấu giá giúp các chi nhánh giải quyết nhanh tài sản bảo đảm, xử lý nợ, lành mạnh hóa các khoản vay. Theo tôi, những vướng mắc nói trên cần sớm được Chính phủ, NHNN, NHCT Việt Nam và các cơ quan có liên quan sớm quan tâm tháo gỡ để giúp cho NHTM nói chung, chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng định hướng lại cơ cấu dư nợ, thực hiện tốt các giải pháp mở rộng tín dụng đối với DNVVN, tạo điếu kiện cho DNVVN có vốn, máy móc, thiết bị để thực hiện sản xuất kinh doanh, ổn định, tăng trưởng và bền vững góp phần đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33417.doc
Tài liệu liên quan