Lời nói đầu
Luật doanh nghiệp ra đời (Quốc hội thông qua Ngày 12/6/1999) đã mở đường cho kinh tế ngoài quốc doanh phát triển . Sau gần 4 năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, cả nước đã có thêm gần 72.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) mới được thành lập. Một con số gần gấp đôi số DNNQD đã có trước đó . Đó là một dấu hiệu tốt đẹp đối với kinh tế Việt Nam nói chung và đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng.
Tuy nhiên, hầu hết các DNNQD đều là các doanh nghiệp vừa v
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1323 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng mở rộng cho vay đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à nhỏ chiếm tỷ lệ khoảng 95%, số doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu chiếm đến 95%, số doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm có khoảng 1,4%. Để các DNNQD tồn tại và phát triển mạnh trong kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp này cần một lượng vốn rất. Tuy nhiên, việc tiếp cận các nguồn vốn trong đó có nguồn vốn rất quan trọng vay từ ngân hàng của các DNNQD hiện nay là rất khó khăn do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Sau gần 4 năm học tập tại Khoa Ngân hàng – Tài chính, Trường Đại học Kinh tế quốc dân – Hà Nội và một thời gian ngắn thực tập tại NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long, em viết đề tài này với mục đích làm sáng tỏ một số những nguyên nhân làm các DNNQD gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng ở Chi nhánh Thăng Long .
Đề tài này gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
- Vài nét về các DNNQD và Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long.
- Thực trạng mở rộng cho vay của Chi nhánh Thăng Long đối với các DNNQD.
- Nguyên nhân và đề nghị một số giải pháp thực hiện.
Sinh viên : Nguyễn Hữu Nam
Nội dung
Chương I: Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
1.1.Vài nét về các doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
1.1.1.Khái niệm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (Luật doanh nghiệp – Quốc hội thông qua 12/6/1999)
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là doanh nghiệp có tính chất tư hữu (Không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài). Bao gồm : Các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và các đơn vị theo hình thức hợp tác xã.
1.1.2.Đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta.
Do hoàn cảnh lịch sử đất nước và tình hình kinh tế xã hội nước ta mà các DNNQD ở nước ta có nhiều nét đặc biệt, thể hiện ở những điểm sau :
Thứ nhất, Các DNNQD rất đông về số lượng và có tốc độ độ gia tăng cao.
Nếu như năm 1991, sau khi luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân ra đời 1 năm, cả nước mới có 414 DNNQD, đến năm 1999, con số này đă tăng lên 39.501 DNNQD và đến trước khi luật doanh nghiệp ra đời ( năm 1999), cả nước mới có 39501 doanh nghiệp. Bình quân trong giai đoạn 1991 – 1999 tốc độ tăng khoảng 30% năm. Đến nay - Sau gần 4 năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, cả nước đã có gần 72.000 DNNQD được thành lập mới gần gấp đôi con số doanh nghiệp đã tồn tại trước đó. Bình quân trong giai đoạn này tốc độ tăng đến 40% năm. Đó là những con số phản ánh mức độ phát triển ngày một mạnh mẽ của các DNNQD góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển chung của kinh tế đất nước.
Thứ hai, đa số các DNNQD đều mới được hình thành.
Trước đây trong thời kỳ kế hoạch hoá, tập trung thì Nhà nước độc quyền trong mọi lĩnh vực kinh tế, các thành phần kinh tế phi Nhà nước đều bị coi là bất hợp pháp nên không có một DNNQD chính thức được hoạt động. Cùng với sự phát triển đi lên của kinh tế xã hội thì Đảng và Nhà nước đã khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển nhất là thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Khi đó các DNNQD mới có điều kiện để phát triển mạnh mẽ. Như phần trên đã nói, chỉ trong vòng 4 năm gần đây con số các DNNQD được thành lập mới là khoảng 72000 doanh nghiệp, gần gấp đôi so với số doanh nghiệp thành lập trước đó. Như vậy, hầu hết các doanh nghiệp này dưới 4 tuổi, doanh nghiệp lớn tuổi nhất mới chỉ là 15 năm. Một con số quả nhỏ bé nếu so với các doanh nghiệp ở nước ngoài có những doanh nghiệp được thành lập từ hàng trăm năm nay.
Thứ ba, các DNNQD tuy đông về số lượng nhưng quy mô vốn và lao động nhỏ.
Mặc dù có số lượng lớn và có tốc độ tăng trưởng cao như đã nêu ở trên
nhưng đa số là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( Chiếm khoảng 95% ), số doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu chiếm đến hơn một nửa (51 %), còn số doanh nghiệp có vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 1,4%. Do các doanh nghiệp ít vốn như vậy nên các doanh nghiệp này hoạt động rất khó khăn nhất là khó khăn trong chống đỡ với các biến động bất lợi trong sản xuất, kinh doanh. Do đó khả năng phá sản của các này là rất lớn.
Quy mô lao động thì nhỏ bé, trung bình mỗi DNNQD sử dụng khoảng 20 lao động, số doanh nghiệp sử dụng trên 100 lao động chỉ từ 600 đến 700 doanh nghiệp mà đa số lao động này chưa có trình độ chuyên môn, kỹ thuật (Chiếm đến 83%).
Thứ tư, trình độ công nghệ và quản lý lạc hậu.
Theo điều tra ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thì chỉ có 17% thiết bị hiện đại, 52% thiuết bị trung bình còn lại là các thiết bị lạc hậu. Riêng ngành công nghiệp sản xuất, chế tạo thì có đến 62% máy móc, thiết bị lạc hậu từ những năm 50, 60. Công nghệ lạc hậu dẫn đến sản phẩm hàng hoá, dịch vụ có giá thành cao, chất lượng mẫu mã không đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng nên sản phẩm rất khó cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Cùng với công nghệ lạc hậu là trình độ quản lý yếu kém, có thể nói 100% các chủ doanh nghiệp tư nhân ở ta kiêm luôn giám đốc điều hành hoặc có người thân làm giám đốc điều hành chứ không có doanh nghiệp nào thuê giám đốc bên ngoài. Các chủ doanh nghiệp thì chỉ có số ít là có năng lực chuyên môn và kinh nghiệp kinh doanh thực sự còn đa số họ thiếu kinh nghiệp quản lý và kinh doanh. Thực tế có rất nhiều doanh nghiệp được thành lập từ các cơ sở sản xuất. Do cơ chế thông thoáng mà Luật doanh nghiệp mang lại và chính sách ưu đãi của Nhà nước nên nhiều cơ sở sản xuất được nâng cấp thành doanh nghiệp . Tuy được gọi là doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp vẫn không có thay đổi gì đáng kể, doanh nghiệp vẫn quản lý theo phương pháp kiểu gia đình như cở sở sản xuất trước đây.
Thứ năm, các DNNQD tuy hoạt động linh hoạt song thường kém hiệu quả.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động năng động, thích nghi cao với thị trường, dễ dàng chuyển đổi đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp này thường làm ăn kiểu “manh mún”, “chộp giật” mà không tính đến các lợi ích lâu dài của doanh nghiệp mình. Nhiều doanh nghiệp khi có cơ hội thì họ tận dụng, khai thác tối đa nhất, triệt để nhất các tới ích trước mắt mà không có các tính toán chiến lược. Điều đó làm cho họ luôn bị động, lúng túng khi gặp khó khăn, nhất là các khó khăn đến một cách bất ngờ. Nhiều các DNNQD không thực hiện đúng chế độ kế toán, thống kê...Nhiều doanh nghiệp lại có biểu hiện làm ăn phi pháp như : Trốn thuế, lừa đảo, làm hàng giả, hàng kém chất lượng...Điều đó làm cho xã hội có tâm lý thiếu tin tưởng gây khó khăn trước hết cho chính loại hình doanh nghiệp này.
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản nhất của các DNNQD ở nước ta . Đặc điểm này xuyên suốt và có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp này của ngân hàng .
1.1.3.Vài nhận xét về các DNNQD ở nước ta.
Qua phân tích đặc điểm và những ảnh hưởng của các DNNQD đến kinh tế xã hội nước ta những năm gần đây, ta có những nhận xét trên 2 góc độ ưu điểm và nhược điểm sau :
1.1.3.1.Những ưu điểm.
Thứ nhất, các DNNQD có những đóng góp lớn vào phát triển kinh tế đất nước.
Các DNNQD hoạt động trong hầu hết những nghành, những lĩnh vực kinh tế: Nông nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp,... đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Các DNNQD hoạt động linh hoạt, thích ứng nhanh, đáp ứng nhanh những nhu cầu của thị trường góp phần làm cho các hoạt động kinh tế trở lên linh động, làm thay đổi diện mạo nền kinh tế. Theo các nhà kinh tế ước tính thì thành phần kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay đóng góp đến 42% vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP ) và đóng góp vào tăng trưởng GDP cao hơn so với thành phần kinh tế Nhà nước. Đặc biệt từ năm 2001 trở lại đây, chỉ số đóng góp vào GDP của các DNNQD trung bình hàng năm tăng hơn 10%.
Tốc độ tăng trưởng của các thành phần kinh tế.
(Năm trước bằng 100%) Đơn vị tính : %
Thành phần kinh tế
1995
1999
2000
2001
2002
Tốc độ tăng trưởng chung
Trong đó :
DNNN
DN tư nhân
DN hỗn hợp
109,5
109,4
109,3
112,7
104,8
102,6
103,2
106,2
106,8
107,7
108,1
111,0
106,8
107,44
113,22
113,59
107,4
106,88
113,89
114,35
Nguồn:Tạp chí Khoa học ngân hàng số 2/2004
Thứ hai, Hoạt động của các DNNQD thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển.
Các DNNQD hoạt động linh động trên nhiều các lĩnh vực trong nền kinh tế đặc biệt là lĩnh vực thương mại, dịch vụ đã làm tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế và là chất “xúc tác”, lôi kéo các thành phần kinh tế khác nhất là kinh tế Nhà nước phải tự đổi mới, tự điều chỉnh để có thể cạnh tranh được trên thị trường.
Trước đây trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các nghành sản xuất kinh doanh đều do Nhà nước đảm nhận làm mất đi tính cạnh tranh, mất động lực để phát triển đi lên dẫn đến tình trạng trì trệ, kém hiệu quả trong khu vực kinh tế Nhà nước. Ngày nay, trừ một số doanh nghiệp Nhà nước cần nắm giữ độc quyền, còn lại hầu hết các ngành các lĩnh vức sản xuất kinh doanh đều có sự tham gia của các thành phần kinh tế khác. Điều này bắt buộc khu vực kinh tế Nhà nước phải tổ chức, sắp xếp lại, đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức sản xuất, kinh doanh nếu muốn tồn tại và phát triển. Các DNNQD vừa là đối tác làm ăn, vừa là đối thủ cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nên nó là nhân tố quan trọng thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển.
Thứ ba, các DNNQD góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
Một cơ cấu kinh tế hiện đại là cơ cấu kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ cao trong GDP. Các DNNQD hoạt động trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong thương mại và dịch vụ do đó nó là trung gian, là chiếc cầu nối để chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Bởi vì : Khi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ thì nó sẽ trực tiếp đóng góp vào lĩnh vực này, ngoài ra nó còn cung cấp cho nông nghiệp máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu...làm nâng cao năng suất trong lĩnh vực nông nghiệp . Khi đó lao động trong nông nghiệp sẽ dư thừa và chuyển sang lĩnh vực công nghệp và dịch vụ.
Thứ tư, các DNNQD phát huy tốt các nguồn lực của nền kinh tế.
Kinh tế Nhà nước không thể bao quát tất cả, không thể phát huy hết mọi nguồn lực của nền kinh tế .
- Có thể nói tiềm lực đầu tiên mà các DNNQD huy động đó chính là nguồn vốn rất lớn trong dân cư. ở nước ta lượng vốn trong dân cư rất lớn mà thành phần kinh tế Nhà nước không thể huy động hết, trong những năm gần đây cùng với sự gia tăng mạnh mẽ số DNNQD là số vốn đăng ký thêm rất lớn. Chỉ trong 4 năm gần số vốn đăng ký thêm của các DNNQD là 144.000 tỷ đồng, chưa kể số vốn vay của các doanh nghiệp này.
- Tiềm lực thứ 2 mà các doanh nghiệp này khơi dậy đó chính là lực lượng lao động. Trước đây có đến 80% lực lượng lao động là trong lĩnh vực nông nghiệp, làm việc chủ yếu là thủ công, năng suất thấp, con số thất nghiệp thực tế là rất lớn. Trong khi đó khu vực kinh tế Nhà nước lại chậm phát triển, khu vực công nghiệp và dịch vụ không thúc đẩy được nông nghiệp phát triển. Ngày nay, các DNNQD được khuyến khích phát triển mạnh ở cả các thành phố lớn và các địa phương không những góp phần giải quyết việc làm mà còn góp phần nâng cao trình độ của lực lượng lao động.
Những ưu điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất lớn do đó khuyến khích loại hình doanh nghiệp vày phát triển là một yêu cầu tất yếu và là nhiệm vụ của toàn xã hội.
1.1.3.2.Những hạn chế của các DNNQD.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng có nhiều hạn chế cần khắc phục.
Thứ nhất, Các DNNQD chỉ mới đạt được sự phát triển về bề rộng chứ chưa đạt được sự phát triển về chiều sâu.
Thời gian vừa qua, chúng ta ghi nhân sự tăng lên mạnh mẽ của các DNNQD trong nhiều lĩnh vực nhưng có đến 95% các doanh nghiệp này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; trình độ quản lý và công nghệ yếu kém, lạc hậu; Làm ăn theo kiểu manh mún, chộp giật... Đó là những hạn chế lớn, là trở lực cản trở sự phát triển cả về chất và về lượng của loại hình doanh nghiệp này.
Thứ hai, rất nhiều doanh nghiệp có biểu hiện làm ăn mờ ám.
Các hiện tượng làm ăn trái pháp luật như : Trốn thuế, làm hàng giả, hàng nhái, kinh doanh trái phép... diễn ra phổ biến đối với các DNNQD. Ngoài ra còn có nhiều các doanh nghiệp có hành vi lừa đảo gây mất ổn định xã hội. Nguy hiểm hơn khi các hành vi lừa đảo này có sự tiếp tay của một bộ phận công chức Nhà nước, một bộ phận những cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước. Khi đó hành vi lừa đảo trở lên khó lường hơn, gây hậu quả nghiêm trọng hơn.
Tất cả những điều đó làm suy giảm uy tín của các DNNQD, làm cho xã hội thiếu tin tưởng đối với các doanh nghiệp này. Muốn cho các doanh nghiệp này phát triển một cách bền vững đúng với vai trò của nó thì những hạn chế trên cần phải dần khắc phục. Đồng thời cần phải phát huy những mặt tích cực vốn có của thành phần kinh tế này.
1.2.Mở rộng cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
1.2.1.Quan niệm về mở rộng cho vay.
Cho vay, là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cho khách hàng sử dụng một khoản tiền vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Mở rộng cho vay của ngân hàng đối với các DNNQD chính là phản ánh sự gia tăng khối lượng cho vay đối vớ các DNNQD cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
- Mở rộng theo chiều rộng tức là sự tăng lên về quy mô của đối tượng, của các khoản vay như: số dư nợ tăng lên, số khách hàng tăng lên...
- Mở rộng theo chiều sâu là sự thay đổi về tính chất, cơ cấu theo hướng hợp lý của các khoản vay như: Cơ cấu của các khoản vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn hợp lý; Tỷ trọng dư nợ của các DNNQD so với các thành phần kinh tế khác...
1.2.2.Nội dung của mở rộng cho vay các DNNQD .
Nội dung của mở rộng được phản ánh thông qua các chỉ tiêu về dư nợ (số dư nợ, tỷ trọng dư nợ, cơ cấu của dư nợ, tốc độ tăng dư nợ, sự thay đổi cơ cấu, tỷ trọng dư nợ và chỉ tiêu về nợ quá hạn); về số doanh nghiệp có quan hệ vay vốn với ngân hàng; về sự đa dạng các hình thức cho vay, sự đa dạng các hình thức bảo đảm.
1.2.2.1.Các chỉ tiêu về dư nợ.
- Số dư nợ của các DNNQD phản ánh số tiền mà ngân hàng đã và vẫn đang còn cho vay các DNNQD. Số dư nợ mà càng lớn phản ánh mức độ mở rộng cho vay các đối tượng là DNNQD càng cao. Tuy nhiên, nghiên cứu mở rộng cho vay ta phải đặt trong mối quan hệ với các thành phần khác, đặt trong mối quan hệ về thời gian. Chính vì vậy mà số dư nợ không thể phản ánh hết thực chất của việc mở rộng cho vay các DNNQD của ngân hàng mà phải xem xét đồng thời các chỉ tiêu, các khía cạnh khác nhau của mở rộng cho vay.
- Tốc độ tăng dư nợ là tỷ lệ số dư nợ năm sau cao hơn năm trước so với số dư nợ năm trước. Tốc độ này phản ánh mức độ mở rộng cho vay nhanh hay chậm của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này dương có thể kết luận rằng thời điểm sau đã có sự mở rộng cho vay so với thời điểm trước, và nếu qua thời gian tỷ lệ này tăng dần thì có thể kết luận được rằng tốc độ mở rộng ngày một tăng. Tuy nhiên, cần so sánh với các thành phần kinh tế khác qua đó mới có thể biết được việc mở rộng cho vay có đầy đủ hay không. Nếu tốc độ tăng dư nợ cũng dương nhưng lại nhỏ hơn tốc độ tăng của các thành phần kinh tế khác thì sự mở rộng đó không phải là thực chất, đó chỉ là sự tăng lên đơn thuần của số dư nợ theo xu hướng chung.
- Tỷ trọng dư nợ của các DNNQD là tỷ lệ phần trăm của số dư nợ của các DNNQD so với tổng số dư nợ. Tỷ trọng dư nợ phản ánh sự mở rộng của cho vay các DNNQD so với các thành phần khác. Nếu tỷ trọng này cao chứng tỏ các DNNQD có quan hệ vay mượn nhiều hơn các thành phần khác có ưu thế hơn các thành phần khác. Tỷ lệ này tăng theo thời gian phản ánh ngân hàng đã ngày càng coi trọng cho vay các DNNQD. Có thể số dư nợ không tăng theo thời gian nhưng tỷ trọng cho vay các DNNQD tăng lên so với các thành phần kinh tế khác đã chứng tỏ sự thực sự quan tâm của ngân hàng đối với các doanh nghiệp này, đó cũng là sự mở rộng cho vay.
- Cơ cấu dư nợ của các DNNQD. Tuỳ từng cách phân loại dư nợ của các DNNQD mà ta có các loại cơ cấu dư nợ khác nhau. Chẳng hạn nếu phân các khoản vay của các DNNQD theo kỳ hạn thành dư nợ ngắn hạn, dư nợ trung hạn và dư nợ dài hạn thì ta sẽ có cơ cấu về kỳ hạn của các khoản vay. Ta không thể kết luận tỷ lệ các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo tỷ lệ nào mới là sự mở rộng mà tuỳ từng thời điểm, tuỳ từng điều kiện mà sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng hợp lý là sự mở rộng cho vay. Hợp lý ở đây chính là nhu cầu vay của các doanh nghiệp được ngân hàng đáp ứng đầu đủ, vừa có lợi cho ngân hàng, vừa có lợi cho cho doanh nghiệp. Có những trường hợp thì cơ cấu dịch chuyển từ dư nợ ngắn hạn sang dư nợ trung và dài hạn là sự mở rộng, lại có những trường hợp cơ cấu dịch chuyển từ dư nợ trung và dài hạn sang dư nợ ngắn hạn mới là mở rộng. Bởi vì: Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn tăng chứng tỏ nhu cầu vốn cho mua sắm tài sản lưu động lớn, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đạt năng suất và hiệu quả; còn tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn tăng chứng tỏ các doanh nghiệp có nhu cầu lớn về đầu tư cho các dự án mở rộng sản xuất, kinh doanh, có nhu cầu lớn cho đầu tư đổi mới công nghệ. Nhu cầu vốn nào tăng cũng là dấu hiệu tốt đối với các DNNQD. Miễn là, các doanh nghiệp sử dụng loại vốn nào có hiệu quả, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và ngân hàng thì tỷ trọng dư nợ ngắn hạn tăng hay tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn tăng cũng đều hợp lý và là sự mở rộng cho vay các DNNQD. Chẳng hạn, do đầu tư mở rộng sản xuất nên các doanh nghiệp có hiệu quả cao nên nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp này tăng cao làm tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn tăng cao, mặc dù có thể tổng dư nợ không tăng nhưng có sự chuyển dịch theo nhu cầu của các DNNQD từ vay ngắn hạn sang vay dài hạn thì đó cũng là sự mở rộng cho vay.
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn. Nợ quá hạn của các DNNQD là toàn bộ số dư nợ (cả gốc và lãi) của các DNNQD đã đến hạn thanh toán nhưng các doanh nghiệp này không thanh toán mà chưa được xử lý cho gia hạn nợ, xoá nợ… Tỷ lệ nợ quá hạn của các DNNQD là tỷ lệ giữa số dư nợ quá hạn trên tổng dư nợ của các doanh nghiệp này. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn không trực tiếp phản ánh sự mở rộng cho vay các DNNQD nhưng nó rất quan trọng trong đánh giá sự an toàn và hiệu quả của mở rộng cho vay. Mục tiêu của hoạt động ngân hàng là an toàn và hiệu quả do đó việc mở rộng cho vay cũng cần phải đảm bảo hiệu quả nên người ta thường khống chế mức nợ quá hạn dưới một mức nào đó chứ không phải là mở rộng bằng mọi giá.
1.2.2.2.Số DNNQD vay vốn ở ngân hàng.
Đó chính là số lượng các DNNQD có quan hệ vay vốn của ngân hàng trong một thời gian nhất định thường là một năm. Số lượng các doanh nghiệp là con số cụ thể nhất phản ánh quá trình mở rộng cho vay các doanh nghiệp của ngân hàng. Nghiên cứu quá trình mở rộng thông qua số doanh nghiệp cũng cần phải xem xét quá trình gia tăng của số doanh nghiệp vay vốn, đồng thời cũng phải xem sự biến động về số tiền mỗi làn vay vốn. Qua đó có thể đánh giá một cách bao quát việc mở rộng cho vay của ngân hàng.
1.2.2.3.Đa dạng các hình thức cho vay.
Đa dạng các hình thức cho vay chính là việc ngân hàng sử dụng nhiều hình thức cho vay. Việc đa dạng các hình thức cho vay đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng, cũng như từng điều kiện của điều kiện của khách hàng. Ngân hàng cần nghiên cứu nhu cầu của khách hàng qua đó phát triển hoặc đổi mới các phương thức cho vay cho phù hợp.
Có nhiều cách phân loại, nếu phân theo đặc điểm của món vay các doanh nghiệp thường sử dụng thì có các hình thức cho vay sau:
Cho vay từng lần.
Phương pháp này áp dụng đối với những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn từng lần. Đây là phương pháp cho vay phổ biến nhất. Mỗi lần vay vốn, khách hàng phải gửi đến ngân hàng các tài liệu :
Phương án, dự án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Chứng từ liên quan đến nhu cầu vay : Hợp đồng mua, bán, giấy báo giá...
Ngân hàng xác định mức cho vay theo công thức :
Mức Tổng nhu cầu Vốn tự có vốn khác
cho = vốn của phương - của khách - (nếu có )
vay án , dự án hàng tham gia
Vốn tự có được xác định là vốn có thực tham gia trực tiếp vào phương án , dự án hoặc từng lần rút vốn vay của doanh nghiệp : Vốn bằng tiền, tài sản là vật tư, hàng hoá...
Ngân hàng và khách hàng thoả thuận hợp đồng tín dụng cho cả phương án vay.
Phát tiền vay : Nói chung phương pháp cho vay từng lần thì phát tiền vay một lần. Tuy nhiên cũng có trường hợp phát làm 2 lần trở lên trường hợp này kèm theo hợp đồng tín dụng có thêm giấy nhận nợ.
Phương án này có nhược điểm là mỗi lần vay vốn, khách hàng phải lập đủ các thủ tục vay và hợp đồng tín dụng do vậy phương pháp này còn gây phiền hà cho khách hàng .
Cho vay theo hạn mức tín dụng .
Đây là hình thức tín dụng mà ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng. Hạn mức đó chính là số dư tối đa tại một thời điểm.
Phương thức này áp dụng đối với khách hàng vay ngắn hạn có nhu cầu vay vốn thường xuyên, sản xuất, kinh doanh ổn định.
- Xác định hạn mức tín dụng .
Ngân hàng sau khi nhận đủ các tài liệu của doanh nghiệp, nếu đồng ý thì ngân hàng xác định hạn mức tín dụng:
Nhu cầu vốn Doanh thu hoặc chi phí sản xuất kinh doanh (KH)
lưu động kỳ =
kế hoạch Vòng quay vốn lưu động trong kỳ (KH)
Hạn mức Nhu cầu vốn Vốn tự có vốn khác
tín dụng = lưu động - của khách - (nếu có )
(KH) trong kỳ (KH) hàng tham gia
Tổng doanh thu thuần
Số vòng quay của vốn lưu động =
Vốn huy động bình quân
Vốn tự có tham gia được xác định là toàn bộ vốn chủ sở hữu bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán hoặc vốn hoạt động thuần (Tài sản lưu động trừ đi nợ ngắn hạn)
- Phát tiền vay: Trong phạm vi hạn mức tín dụng, thời gian hiệu lực của hợp đồng tín dụng, mỗi lần vay vốn doanh nghiệp và ngân hàng lập giấy nhận nợ kèm theo các chứng từ phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng. Việc theo dõi phát tiền vay trên giấy nhận nợ phải cùng đồng thời theo dõi trên phụ lục hợp đồng tín dụng .
- Lãi suất cho vay: Căn cứ vào quy định lãi suất của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam, Chi nhánh Thăng Long và khách hàng thoả thuận để ghi vào hợp đồng tín dụng hoặc giấy nhận nợ kèm theo hợp đồng tín dụng
- Quản lý hạn mức tín dụng :
Chi nhánh Thăng Long phải quản lý chặt chẽ hạn mức tín dụng, bảo đảm mức cho vay không vượt quá hạn mức đã ký kết .
Trong quá trình vay vốn, trả nợ, nếu việc sản xuất, kinh doanh có thấy đổi và doanh nghiệp có nhu cầu điều chỉnh hạn mức, doanh nghiệp phải làm giấy đề nghị xác nhận lại hạn mức tín dụng và Chi nhánh Thăng Long nếu thấy hợp lý thì cùng doanh nghiệp thoả thuận bổ sung hợp đồng tín dụng .
- Ký kết hợp đồng mới: Trước 10 ngày khi hạn mức tín dụng cũ hết hiệu lực doanh nghiệp phải gửi cho Chi nhánh Thăng Long phương án sản xuất, kinh doanh kỳ tiếp theo. Chi nhánh Thăng Long sẽ xem xét nếu đủ điều kiện sẽ xác định hạn mức tín dụng và thời hạn tín dụng mới.
Trường hợp hạn mức tín dụng kỳ này thấp hơn hạn mức tín dụng kỳ trước thì doanh nghiệp phải giảm dư nợ thấp hơn hạn mức tín dụng kỳ này mới được vay tiếp theo hợp đồng tín dụng mới.
- Xác định thời hạn cho vay .
Thời hạn cho vay được xác định trên hợp đồng tín dụng hoặc xác định trên giấy nhận nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp, nguồn vốn của Chi nhánh Thăng Long. Nếu doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh tổng hợp thì chọn sản phẩm có chu kỳ kinh doanh dài nhất hoặc chiếm tỷ trọng chủ yếu để xác định thời hạn vay.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho cả ngân hàng và doanh nghiệp do thủ tục vay vốn đơn giản sau lần vay đầu tiên, ngân hàng và doanh nghiệp chủ động hơn trong việc cân đối và sử dụng vốn .
Cho vay trả góp.
Khi vay vốn, Chi nhánh Thăng Long và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải cộng với số gốc phải chia ra để trả nợ làm nhiều kỳ hạn trong thời gian vay.
Hình thức này chủ yếu dùng trong cho vay đời sống của cá nhân, hộ gia đình, còn đối với các doanh nghiệp việc cho vay trả góp thường phát sinh khi có các nhu cầu vay vốn như: Xây dựng các công trình phúc lợi cho cán bộ, công nhân viên (Nhà mẫu giáo, nhà văn hoá...)
Do hình thức này là vay trung và dài hạn nên ngân hàng cần phải chú ý cân đối ngồn vốn trung và dài hạn.
Cho vay theo hạn mức thấu chi .
Phương thức này hiện chưa được NHNo&PTNT Việt Nam quy định chi tiết nên Chi nhánh Thăng Long có nhu cầu thì phải lập đề án trình tổng giám đốc thì mới được thực hiện .
Phương thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay theo hạn mức thấu chi, có thu nhập ổn định và có tín nhiệm với ngân hàng .
- Tài khoản thấu chi: Muốn vay theo hình thức này khách hàng phải mở tài khoản thấu chi tại ngân hàng .
Số dư trên tài khoản thấu chi có thể dư nợ hoặc dư có. Dư có có nghĩa là khách hàng đang gửi tiền vào ngân hàng và được hưởng lãi theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn, dư nợ tài khoản thấu chi có nghĩa là khách hàng đang vay tiền ngân hàng và phải chịu lãi tiền vay theo thoả thuận.
Khách hàng phải có cam kết chuyển thu nhập của mình vào tài khoản thấu chi.
Khách hàng hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung vầ tính hợp pháp của các khoản chi của khách hàng trên tài khoản thấu chi .
- Hạn mức thấu chi.
Chi nhánh Thăng Long sau khi nhận đủ hồ sơ của khách hàng nếu đồng ý sẽ xác định hạn mức thấu chi.
Để bảo đảm an toàn vốn, ngân hàng quy định hạn mức thấu chi với từng khách hàng, đối tượng vay vốn.
- Thủ tục vay vốn.
Khách hàng có nhu cầu chi vượt số tiền có trên tài khoản thấu chi của mình thì lập giấy đề nghị vay tiền, giấy đề nghị vay tiền được lập một lần cho cả hạn mức thấu chi.
Trong phạm vi hạn mức thấu chi, mỗi lần rút vốn khách hàng chỉ cần mang đến ngân hàng các chứng từ : Phiếu chuyển khoản, giấy lĩnh tiền mặt. Căn cứ vào hạn mức thấu chi, kế toán lập thủ tục cho khách hàng rút vốn theo quy định.
- Quản lý hạn mức thấu chi.
Kế toán phải quản lý chặt chẽ hạn mức thấu chi, bảo đảm mức cho vay không vượt quá hạn mức đã ký kết.
Trong quá trình vay vốn, trả nợ nếu khách hàng có nhu cầu chỉnh hạn mức thì phải làm giấy đề nghị xác định lại hạn mức thấu chi. Ngân hàng xem xét nếu thấy hợp lý, chấp thuận thì cùng khách hàng thoả thuận, bổ sung hợp đồng tín dụng.
- Xác định thời hạn cho vay.
Thời hạn cho vay theo hình thức này tối đa không vượt quá 12 tháng.
Cho vay theo dự án đầu tư.
Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn và tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm, dịch vụ trong khoảng thời gian nhất định.
Ngân hàng có thể cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư để phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư, phục vụ đời sống.
Ngân hàng cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ hạn nợ, xác định lãi suất ...
Mức Tổng nhu cầu Vốn tự có vốn khác
cho = vốn của phương - chủ dự án - (nếu có )
vay án , dự án tham gia
Thời hạn cho vay = Thời gian XDCB + Thời gian trả nợ
Mức cho vay
Thời hạn trả nợ =
KH để trả nợ khác + LN +Nguồn
- Ngân hàng thực hiện giải ngân theo tiến độ thực hiện của dự án .
- Mỗi lần rút vốn vay, doanh nghiệp lập giấy nhận nợ tiền vay trong phạm vi mức cho vay đã thoả thuận, kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng.
- Lãi suất cho vay: Căn cứ thao quy định của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam, Chi nhánh Thăng Long và khách hàng thoả thuận ghi vào hợp đồng tín dụng hoặc giấy nhận nợ kèm theo hợp đồng tín dụng.
- Việc cho vay theo dự án đầu tư, ngân hàng cần phải kết hợp với các hình thức cấp tín dụng khác như: Thực hiện bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, có như vậy ngân hàng mới thu được doanh thu cao nhất.
- Cho vay theo phương thức này thường là các dự án lớn cần có nguồn vốn lớn, ngân hàng cần có thời gian huy động và trả lãi huy động do vậy ngân hàng và khách hàng thoả thuận mức phí trả trong trường hợp khách hàng trả trước hạn, phí cam kết trả một phần chi phí huy động của ngân hàng, trong trường hợp khách hàng đã ký hợp đồng tín dụng nhưng thực tế không vay.
Cho vay hợp vốn.
Cho vay hợp vốn là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng cho vay một dự án của khách hàng. Cho vay hợp vốn thường xảy ra trong các trường hợp sau:
- Nhu cầu xin vay của khách hàng vượt quá giới hạn cho vay của tổ chức tín dụng.
- Khả năng tài chính và nguồn vốn của tổ chức tín dụng không đáp ứng đủ nhu cầu vay của một dự án.
- Nhu cầu phân tán rủi ro của tổ chức tín dụng.
- Bên nhận tài trợ có nhu cầu huy động vốn từ nhiều tổ chức tín dụng khác nhau.
Chi nhánh Thăng Long cùng với các thành viên đồng tài trợ thống nhất với nhau về phương thức thẩm định là một trong các phương thức sau:
- Thành lập tổ thẩm định chung.
- Các tổ chức tín dụng tham gia hội đồng tài trợ thẩm định độc lập.
- Thống nhất giao cho tổ chức tín dụng đầu mối thực hiện thẩm định.
Do nhu cầu chia sẻ rủi ro nên phương pháp này ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trọng tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các dự án dầu tư lớn. Do có lợi thế về vốn tự có mà NHNo&PTNT Việt Nam thường được mời với tư cánh là thành viên đồng tài trợ.
Đó là các hình thức cho vay mà các doanh nghiệp đã thực hiện ở Chi nhánh Thăng Long .
1.2.2.4.Đa dạng hoá các hình thức bảo đảm.
Việc đa dạng hoá các hình thức bảo đảm cũng đảm bảo phù hợp hơn với nhiều doanh nghiệp. Bởi vì, mỗi một hình thức bảo đảm mang những đặc trưng riêng và phù hợp khác nhau với từng doanh nghiệp. Tuỳ từng điều kiện của mình mà các DNNQD lựa chọn hình thức bảo đảm cho phù hợp với doanh nghiệp mình Điều đó làm nhiều doanh nghiệp có thể vay vốn được của ngân hàng hơn, qua đó nâng cao được dư nợ các DNNQD hơn.
Hình thức bảo đảm do doanh nghiệp và ngân hàng thoả thuận nhưng phải theo quy định của pháp luật. Theo các quy định ở nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay, Nghị định 85/2002/NĐ-CP về sửa đổi một số điều của Nghị định 178/1999/NĐ-CP và các hướng dẫn của NHNo&PTNT Việt Nam về bảo đảm tiền vay thì NHNo&PTNT Việt Nam có thể cho vay có bảo đảm hoặc không có tài sản bảo đảm theo các hình thức sau:
Các hình thức bảo đảm bao gồm:
Thứ nhất, Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay: Tài sản cầm cố ._.thế chấp phải thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền quản lý của doanh nghiệp. Đồng thời, tài sản phải là tài sản dễ phát mại.
Cầm cố: Cầm cố là hình thức theo đó doanh nghiệp phải chuyển quyền kiểm soát tài sản sang cho ngân hàng trong thời hạn cam kết (thường là thời hạn vay).
Cầm cố thường áp dụng với những tài sản dễ kiểm soát, dễ bảo quản, đồng thời việc ngân hàng nắm giữ không ánh hưởng đến hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Như các loại chứng khoán, các hợp động, sổ tiết kiệm, kim loại quý, ngoại tệ mạnh...Ngân hàng yêu cầu cầm cố khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản bảo đảm là không an toàn cho ngân hàng, đó thường là các tài sản thanh khoản cao.
Khi thực hiện cho vay theo hình thức bảo đảm cầm cố ngân hàng kiểm tra tính tính hợp pháp, hợp lệ, tính an toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả năng chi trả của người cam kết (công ty phát hành chứng khoán, công ty bảo hiểm...). Ngân hàng và khách hàng thoả thuận định giá vật cầm cố, thoả thuận và ký hợp đồng cầm cố. Trong đó quy định rõ quyền và nghĩa vụ đối với các bảo đảm cầm cố như chuyển giao vật cầm cố, nghĩa vụ quản lý vật cầm cố, quyền phát mại vật cầm cố khi khách hàng vi phạm các cam kết trong hợp đồng tài trợ...
Thế chấp : Là hình thức theo đó doanh nghiệp vay vốn phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền về tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết.
Các tài sản bảo đảm theo hình thức này thường là tài sản tham gia vào quá trính sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp (máy móc, thiết bị, hàng hoá...). Những tài sản này thường cồng kềnh, phân tán, bán hoặc chuyển nhượng khó khăn.
Bảo đảm bằng phương pháp này doanh nghiệp có thể sử dụng tài sản cho hoạt động sản xuất, kinh doanh nên quá trình sử dụng có thể làm biến dạng tài sản, hơn nữa khả năng kiểm soát của ngân hàng gặp nhiều hạn chế nên ngân hàng có thể gặp nhiều rủi ro hơn so với phương pháp cầm cố. Do đó khi tài trợ ngân hàng phải xem xét thật kỹ vật thể chấp, trong hợp đồng thế chấp phải có phàn mô tả vật thế chấp và ngân hàng chỉ cho vay theo tỷ lệ nào đó giá trị vật thế chấp.
Thứ hai, Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba: Bên bảo lãnh phải có các điều kiện sau: Có năng lực pháp luật dân sự; có khả năng về vốn; có tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Việc bên bảo lãnh cầm cố, thế chấp tài sản hoặc không cầm cố thế chấp tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là do ngân hàng và bên bảo lãnh thoả thuận.
Bên thứ ba ở đây thường là các công ty mẹ bảo lãnh vay vốn cho các công ty thành viên. Bên thứ ba ở đây có thể là các tổ chức tài chính, tiền tệ có uy tín, có khả năng tài chính thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn. Trong trường hợp này thì doanh nghiệp muốn được bảo lãnh phải có thế chấp tài sản hoặc ký quỹ đồng thời phải trả phí bảo lãnh. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp vay vốn do tốn kém, việc ký quỹ làm ứ đọng vốn…
Thứ ba, Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Trường hợp này khách hàng phải có tín nhiệm với ngân hàng (theo quy định khách hàng tối thiểu phải xếp loại B), có mức vốn tự có tham gia tối thiểu theo quy định, có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh hiệu quả, có khả năng trả nợ trong thời hạn cam kết. Tài sản hình thành từ vốn vay trong quá trình sản xuất, kinh doanh thường làm tài sản hao mòn, biến dạng, làm giảm giá trị của tài sản như máy móc, thiết bị…Do đó chỉ những khách hàng có uy tín với ngân hàng mới được bảo đảm tiền vay theo cách này. Cũng có trường hợp khi sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay lại tăng giá trị như đầu tư vào gia súc, cây trồng… Việc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay rất có lợi cho doanh nghiệp vì tài sản của doanh nghiệp không phải thế chấp mà có thể sử dụng cho mục đích khác, trong nhiều trường hợp không làm ứ đọng vốn của doanh nghiệp.
Ngân hàng cũng áp dụng các biện pháp cho vay không cần tài sản bảo đảm.
Thứ nhất, Các doanh nghiệp có quan hệ truyền thống với ngân hàng; sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; tình hình tài chính đảm bảo yêu cầu trả nợ; có dự án, phương án sản xuất, kinh doanh hợp lý; cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích thì có thể được ngân hàng cho vay không cần bảo đảm bằng tài sản.
Thứ hai, tổ chức tín dụng cho vay không có bảo đảm do sự chỉ định của chính phủ. Đây là hình thức ưu tiên, trợ cấp của Nhà nước đối cới các thành phần kinh tế kếm phát triển, cần khuyến khích phát triển như : Hộ nông dân nghèo, các đối tượng vùng sâu, vùng xa, các lĩnh vực công ích…Do đó, các DNNQD thường không nằm trong đối tượng ưu tiên trên.
1.2.3.ý nghĩa của mở rộng cho vay các DNNQD của ngân hàng.
1.2.3.1.Đối với các DNNQD .
Mở rộng cho vay có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các DNNQD :
Thứ nhất, Mở rộng cho vay giúp các DNNQD có cơ hội huy động vốn, làm tăng quy mô vốn của doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh .
Như đã nói ở trên các DNNQD hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần rất nhiều vốn cả vốn ngắn hạn lẫn vốn trung và dài hạn để duy trì sản xuất, kinh doanh ; để đầu tư mở rộng sản xuất; đầu tư công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm...Trước hết ta xem các nguồn mà các DNNQD có thể huy động hiện nay là:
Nguồn vốn chủ sở hữu.
Vốn tự có ban đầu: Đây là số vốn mà chủ sở hữu hoặc các thành viên chủ sở hữu góp lại với nhau khi thành lập doanh nghiệp hình thành nên vốn điều lệ ban đầu. Như đã nói, trên một nửa các DNNQD có số vốn này dưới 500 triệu.
Vốn từ lợi nhuận để lại: Đây là nguồn vốn chủ sở hữu được bổ sung từ lợi nhuận doanh nghiệp. Nguồn vốn này không đáng kể bởi vì: Thứ nhất, muốn có nguồn vốn này thì doanh nghiệp phải có lãi, trong khi đó các doanh nghiệp thường bị lỗ hoặc lãi rất ít trong những năm đầu hoạt động mà các DNNQD ở ta hầu hết mới được thành lập trong vòng 4 năm qua. Thứ hai, đây là vấn đề nhạy cảm, lợi nhuận để lại đồng nghĩa với số lợi nhuận được chia ít hơn cho các thành viên. Điều này mâu thuẫn với lợi ích trước mắt của các thành viên và dễ làm tính hấp dẫn của cổ phiếu giảm (đối với các công ty cổ phần) làm ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp .
Vốn từ phát hành cổ phiếu: Có thể nói đây là ngồn vốn quan trọng và chiếm tỷ lệ cao ở nhiều nước. Tuy nhiên ở Việt Nam, nguồn vốn này các doanh nghiệp nhất là các DNNQD rất khó tiếp cận vì: Không phải DNNQD nào cũng được phát hành cổ phiếu, theo Luật Doanh nghiệp quy định chỉ có công ty cổ phần thì mới được phát hành cổ phiếu, công ty TNHH thì chỉ được phát hành trái phiếu, còn doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh thì không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Hầu hết các DNNQD đều không đủ các tiêu chuẩn, điều kiện niêm yết trên TTKH chính thức còn thị trường phi chính thức (Thị trường OTC) chưa được thành lập. Do đó các chứng khoán của các DNNQD khó lưu thông trên thị trường (tính thanh khoản không cao) cộng với tính rủi ro cao của các cổ phiếu này do vậy mà được rất ít nhà đầu tư quan tâm.
Vốn vay
Vay của bạn bè, người thân: Nguồn này có thể nói là rất nhỏ và không thường xuyên.
Nguồn từ tín dụng thương mại: Nguồn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua, bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Đây là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng. Nhưng không phải lúc nào cũng có thể mua chịu được hàng hoá, mặt khác doanh nghiệp mua chịu thì có thể cũng phải bán chịu nên vẫn thiếu vốn cho đầu tư, kinh doanh.
Nguồn vốn vay từ phát hành trái phiếu: Việc phát hành trái phiếu thì đòi hỏi các điều kiện ngặt nghèo về pháp lý, thủ tục phát hành, tài sản bảo đảm...Hiện nay chưa một DNNQD nào phát hành được do các điều kiện của việc phát hành trái phiếu.
Hầu hết các nguồn có thể huy động được của các DNNQD đều rất khó khăn. Vậy thì nguồn tín dụng của ngân hàng là một giải pháp thích hợp và hiệu quả để các DNNQD có thể huy động để phục vụ cho hoạt động của mình.
Nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng giúp các doanh nghiệp giả quyết những vấn đề sau:
Nguồn huy động từ các tổ chức tài chính – tín dụng có thể nói đây là nguồn vốn cho sản xuất , kinh doanh chủ yếu của các doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp có vốn hình thành từ ngân hàng chiếm đến 80% tổng vốn kinh doanh. Vốn này sử dụng để mua, sắm NVL, CC-DC, trả tiền công, tiền lương....thông qua các khoản vốn vay ngắn hạn.
Nguồn vốn từ ngân hàng đã góp phần giúp doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh ; đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để giành lợi thế trước đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp ở nước ta hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ sử dụng lạc hậu, hầu hết các máy móc, thiết bị đã lỗi thời . Do đó sản phẩm làm ra khó cạnh tranh. Do vậy nhu cầu mở rộng sản xuất, kinh doanh và nâng cao trình độ công nghệ của các doanh nghiệp ngày càng trở lên cấp thiết. Với việc mở rộng cho vay các doanh nghiệp DNNQD thì ngân hàng có thể hỗ trợ vốn giúp các doanh nghiệp từng bước nâng cao khả năng công nghệ thông qua vốn vay trung và dài hạn.
Thứ hai, Mở rộng cho vay khuyến khích các DNNQD sử dụng vốn hiệu quả hơn.
Hầu như doanh nghiệp cũng sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng vì nó không những giúp doanh nghiệp đủ vốn để sản xuất, kinh doanh mà còn làm giảm chi phí vốn. Lãi tiền vay được tính là chi phí hợp lý nên khi tính thuế thu nhập do đó doanh nghiệp sẽ được hưởng một phần lợi từ thuế. Mặt khác, vay ngân hàng thì doanh nghiệp không những phải trả gốc mà còn phải trả lãi tiền vay trong thời gian nhất định. Điều đó buộc các doanh nghiệp phải tính toán phương án sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả để có thể sau khi trả lãi ngân hàng thì vẫn còn lợi nhuận cho mình.
Thứ ba, Vai trò quan trọng nữa là giúp doanh nghiệp có thể chớp nhanh cơ hội mà thị trường mang lại. Những cơ hội không phải lúc nào cũng có mà chỉ xuất hiện ở từng thời điểm nếu doanh nghiệp không tận dụng hoặc không nhanh chân thì cơ hội đó sẽ qua đi. Sự tư vấn và nguồn vốn của ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp chớp được cơ hội và giành được hiệu quả cao.
Vai trò của ngân hàng đối với các doanh nghiệp là rất lớn, nó không cụ thể để có thể liệt kê đầy đủ ra được. Càng mở rộng quan hệ cho vay thì vai trò của ngân hàng đối với doanh nghiệp càng thể hiện rõ ràng.
1.2.3.2.Đối với ngân hàng .
Ngân hàng tiến hành mở rộng cho vay thì chắc chắn ngân hàng phải có lợi. Những lợi ích mà ngân hàng có được từ mở rộng cho vay các DNNQD là:
Thứ nhất, Chính là doanh thu và lợi nhuận từ lãi vay và phí dịch vụ khác.
Số dư nợ tăng là chỉ tiêu quan trọng của mở rộng cho vay, khi mà có số dư nợ tăng sẽ là cơ sở để tăng doanh thu và lợi nhuận. Khi ngân hàng không gặp rủi ro lớn từ các khoản vay này thì chắc chắn doanh thu và lợi nhuận sẽ tăng. Hơn nữa, các doanh nghiệp vay vốn thì tỷ trọng vay vốn trung và dài hạn sẽ tương đối cao do đó các khoản thu từ lãi tăng nhanh do lãi suất vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất vay ngắn hạn. Cùng với các khoản thu từ lãi là các khoản thu về dịch vụ như: Dịch vụ thanh toán, dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo lãnh...
Thứ hai, mở rộng cho vay giúp ngân hàng và khách hàng có quan hệ tốt hơn, qua đó mà ngân hàng có thể có nhiều khách hàng tốt, khách hàng truyền thống. Điều đó làm cho ngân hàng hoạt động có hiệu quả trước mắt cũng như lâu dài.
Thứ ba, mở rộng cho vay làm cho ngân hàng trở lên hoàn thiện hơn, có kinh nghiệm hơn trong phân tích khách hàng, thông thạo hơn trong nhiều nghiệp vụ, có nhiều thông tin hơn để phục vụ kinh doanh có hiệu quả.
1.2.3.3.Đối với nền kinh tế.
Khi mà các DNNQD và ngân hàng hoạt động có hiệu quả thì đương nhiên lợi ích kinh tế chung sẽ được nâng cao.
Ngân hàng hoạt động hiệu quả sẽ làm sôi động thị trường tài chính, tiền tệ; tăng cường huy động vốn trong nền kinh tế; phát huy tốt vai trò dẫn vốn từ những người có vốn đến những người cần vốn;…
Khi các DNNQD hoạt động tốt thì vai trò tích cức của nó được thể hiện: Nâng cao tính cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển; Các doanh nghiệp sẽ đóng góp vào tốc độ phát triển chung của nền kinh tế cao hơn; góp phần giải quyết việc làm, nâng cao khả năng của người lao động; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế; góp phần làm tăng ngân sách Nhà nước thông qua thuế và lệ phí...
1.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng cho vay của ngân hàng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
Quan hệ cho vay của ngân hàng đối với các khách hàng là một quan hệ kinh tế chịu chi phối, tác động của nhiều nhân tố . Có thể chia làm 2 loại nhân tố tác động đến quan hệ này là các nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan .
1.3.1. Các yếu tố khách quan .
Đây là các nhân tố vĩ mô có tác động rãi đến cả ngân hàng, cả khách hàng được, có ảnh hưởng lớn đến các quan hệ này. Cụ thể như sau :
1.3.1.1.Môi trường kinh tế, chính trị , xã hội kinh tế, luật pháp.
Môi trường kinh tế.
Một môi trường kinh tế phát triển ổn định thể hiện ở:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đều đặn.
Có sự ổn định của các chỉ số căn bản: Chỉ số giá, chỉ số về thu nhập, lãi suất, tỷ giá ...
Sự hội nhập kinh tế trong khu vực và quốc tế
Trình độ về công nghệ, việc làm...
Các chỉ số và diễn biến từ nền kinh tế có tác động rất lớn đến lĩnh vực nhạy cảm như hoạt động ngân hàng. Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm bởi vì: Thứ nhất, tài sản của ngân hàng chủ yếu hình thành từ tiền gửi, tiền vay (thuộc sở hữu của nhiều chủ thể ). Do đó bất kỳ một thông tin nào có ảnh hưởng đến tài sản của họ thì họ sẽ có phả ứng ngay lập tức. Trường hợp của Ngân hàng á châu (ACB) là một ví dụ điển hình. Khi khách hàng có “tin đồn” về Tổng giám đốc ngân hàng này bỏ trốn khách hàng đã túc trực ngày đêm để xin rút tiền ra khỏi ACB, điều đó đã gây khó khăn rất lớn cho ACB và nếu không có sự giúp đỡ của NHNN, UBND Thành phố Hồ Chí Minh và các NHTM khác thì hậu quả sẽ còn rất lớn. Thứ hai, Các tài sản của ngân hàng hầu hết là tài sản tài chính và có tính thanh khoản cao , dễ chuyển đổi nên nó phản ứng nhanh với những biến động nhỏ của nền kinh tế.
Kinh tế mà ổn định sẽ giúp các DNNQD phát triển mạnh và các ngân hàng kinh doanh có hiệu quả thì các doanh nghiệp có như cầu vốn nhiều hơn, có khả năng đáp ứng yêu cầu của ngân hàng tốt hơn; các ngân hàng hàng cũng có đủ các điều kiện về nguồn vốn và các điều kiện khác để sẵn sàng cho vay. Do đó việc mở rộng cho vay đối với các DNNQD trở lên dễ dàng hơn. Ngược lại, khi có sự bất ổn từ nền kinh tức thì việc cho vay các DNNQD trở lên rất khó khăn.
Sự hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực chính là sự tham gia của kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới thể hiện qua kim ngạch thương mại quốc tế. Sự hoà nhập kinh tế quốc tế là điều kiện tốt cho cả ngân hàng và doanh nghiệp, cả hai đều có cơ hội hợp tác, tìm kiếm khách hàng, tiếp cận công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý hiện đại. Các ngân hàng có thể mở rộng cho vay bằng ngoại tệ để các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá, trang bị máy móc, kỹ thuật công nghệ. Đồng thời, phát triển các dịch vụ như: kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế...
Trong những năm qua kinh tế Việt Nam có sự hội nhập mạnh mẽ có thể kể ra như: Việt Nam đã tham gia thị trường tự do thương mại Asian (AFTA); diễn đàn kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC); kí hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ... Và mục tiêu đến năm 2005 sẽ chính thức ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đó là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và ngân hàng nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Ngân hàng tăng thêm khả năng huy động vốn và cho vay bằng ngoại tệ, đồng thời có cơ hội phát triển nhiều dịch vụ trong kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế.
Môi trường an ninh, chính trị, xã hội.
Một môi trường mà chính trị, an ninh, xã hội ổn định thể hiện ở:
- Không có sự tranh giành quyền lực trái hiến pháp và pháp luật.
- An ninh quốc phòng được giữ vững.
- Pháp luật được mọi người tôn trọng.
- Những tệ nạn xã hội phải được đấu tranh và dần bài trừ, xoá bỏ...
Yếu tố này không thể tác rời yếu tố ổn định và phát triển kinh tế, không một quốc gia nào mất ổn định về an ninh chính trị lại có thể có kinh tế phát triển. Nước ta hiện nay có thể nói là có chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững, được thế giới đánh giá là có độ an toàn cao. Đó là hai điều kiện hết sức căn bản để phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, ở nước ta, tệ nạn xã hội thực tế còn nhiều nhất là nạn tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, sự hiểu biết pháp luật của người dân rất hạn chế. Điều đó là một trở lực đáng ngại của con đường phát triển kinh tế đất nước nói chung và mối quan hệ giữa ngân hàng và các DNNQD.
Môi trường luật pháp.
Luật pháp được coi là môi trường cho mọi hoạt động, pháp luật chặt chẽ và sự tôn trọng pháp luật của các thành viên trong xã hội là những điều kiện cơ bản cho mọi mối quan hệ diễn ra tốt đẹp. Luật pháp điều chỉnh mọi hành động do đó tác động trực tiếp dến các mối quan hệ trong đó có mối quan hệ giữa ngân hàng với các khách hàng là DNNQD. Hệ thống các văn bản pháp luật sẽ quy định điều chỉnh mọi họat động trong quan hệ đó, chẳng hạn quy định của pháp luật Việt Nam là các tổ chức tín dụng cho vay đối với 1 khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Do vậy pháp luật có mạnh, có hợp lý thì mối quan hệ đó sẽ trở nên dễ dàng và thuận tiện.
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành, bổ sung, chỉnh sửa nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến quan hệ cho vay của ngân hàng với các DNNQD. Có thể kể ra là Luật các tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp, Luật phá sản doanh nghiệp, Luật thương mại... cùng hàng loạt các nghị định, quyết định, thông tư và các văn bản pháp luật khác của chính phủ, các bộ nghành. Tất cả các văn bản pháp luật này điều chỉnh theo hướng khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi. Đó là điều kiện tốt để ngân hàng mở rộng cho vay các đối tượng này.
1.3.1.2.Hiệu quả hoạt động và khả năng của các DNNQD .
Các doanh nghiệp là người đi vay vốn, ngân hàng có cho họ vay tiền hay không là tuỳ thuộc vào nhu cầu của họ, tình hình hoạt động của họ và khả năng của họ.
Mục tiêu của ngân hàng là an toàn và lợi nhuận, chính bản thân các DNNQD sẽ là yếu tố chủ yếu để ngân hàng xem xét chính sách của mình. Nếu các DNNQD hoạt động có hiệu quả, họ có kế hoạch sản xuất, kinh doanh hợp lý có khả năng tài chính cũng như đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo tiền vay thì đương nhiên sẽ được vay vốn. Ngược lại, các DNNQD hoạt động yếu kém, rủi ro cao thì ngân hàng có muốn mở rộng cho vay các đối tượng này cũng khó có thể thực hiện được. Chính vì vậy, bản thân các DNNQD là một trong những nhân tố quyết định việc mở rộng cho vay này.
1.3.2.Các yếu chủ quan.
1.3.2.1.Quy mô, phạm vi, địa bàn hoạt động của ngân hàng.
- Thứ nhất, Địa bàn hoạt động của ngân hàng là nơi mà ngân hàng có trụ sở và chi nhánh. Điều này rất quan trọng vì nếu các ngân hàng không hoạt động ở địa bàn được tập chung nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì rất khó cho mở rộng cho vay với các DNNQD dẫn đến số dư nợ và tỷ trọng dư nợ của các DNNQD thấp. Vì địa phận có nhiều doanh nghiệp thì nhu cầu vay thường cao hơn, số doanh nghiệp có quan hệ với ngân hàng thường sẽ nhiều hơn.
- Thứ hai, Quy mô, phạm vi hoạt động của ngân hàng là độ rộng của mạng lưới ngân hàng đó, phạm vi về lĩnh vực hoạt động, quy mô về vốn… Phạm vi và quy mô hoạt động càng lớn, càng rộng thì sẽ có nhiều doanh nghiệp có khả năng tiếp cận được với ngân hàng, nhu cầu vốn sẽ cao hơn. Đồng thời, ngân hàng cũng có khả năng huy động vốn dễ dàng hơn, có khả năng cung ứng nhiều sản phẩm, dịch vụ hơn nên việc mở rộng cho vay các DNNQD sẽ thuận lợi hơn rất nhiều.
Nhiều ngân hàng có nhu cầu cho vay của các doanh nghiệp lớn nhưng do quy mô huy động vốn nhỏ nên không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng do có những quy đinh giới hạn của pháp luật như: Các ngân hàng chỉ được cho vay tối đa 15% vố tự có của ngân hàng đối với 1 khách hàng; hoặc không có khả năng cung ứng các sản phẩm, dịch vụ mà khách hàng cần.
1.3.2.2. Công nghệ ngân hàng.
Ngày nay công nghệ ngân hàng cũng ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng cho vay. Nếu ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại, các giao dịch diễn ra nhanh gọn, chính xác, thuận tiện thì sẽ có nhiều khách hàng đến với ngân hàng đó hơn do đó việc mở rộng cho vay sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn. Công nghệ ngân hàng cũng góp phần vào việc phát triển đa dạng các sản phẩm cho vay; đa dạng hoá các hình thức huy động vốn phục vụ tốt cho quá trình mở rộng cho vay các DNNQD.
1.3.2.3.Các yếu tố khác.
Các yếu tố như: Uy tín của ngân hàng, khả năng của cán bộ tín dụng, sự cạnh tranh của các ngân hàng trên địa bàn... cũng ảnh hưởng nhiều đến vấn đề này. Một ngân hàng có uy tín tốt đương nhiên được các doanh nghiệp tin tưởng nên dễ dàng mở rộng cho vay, khả năng của cán bộ nhất là cán bộ thẩm định sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả mở rộng cho vay. Sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề này, nếu các tổ chức tín dụng trên địa bàn có sự cạnh tranh quyết liệt thì thị trường hoạt động của ngân hàng mình bị thu hẹp qua đó rất khó khăn cho việc thực hiện mở rộng cho vay các DNNQD.
Chương II: Thực trạng mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở NHNo&PTNT Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long
2.1.Vài nét khái quát về chi nhánh Thăng Long .
2.1.1.Sự hình thành và phát triển của chi nhánh Thăng Long .
Trước đây, chi nhánh Thăng Long chính là Sở giao dịch I của NHNo&PTNT Việt Nam. Quá trình phát triển của chi nhánh được tóm lược qua các mốc thời gian sau:
- Ngày 24/5/1990, Chính phủ ban hành quyết định công nhận NHNo&PTNT Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước được xếp hạng đặc biệt, là một bước ngoặt để NHNo&PTNT Việt Nam thực sự là một ngân hàng thương mại có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính.
- Ngày 6/3/1991,Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam ban hành quyết định 15/QĐ-NHNo thành lập sở giao dịch I trực thuộc Trung tâm điều hành NHNo&PTNT Việt Nam.
- Ngày 1/4/1991, sở giao dịch đã khai trương hoạt đông tại C7, Trung Tự, quận Đống Đa, Hà Nội với 20 cán bộ, nhân viên được điều động từ các chi nhánh trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam về sở làm việc với 3 phòng: Phòng Kế toán, phòng Kinh doanh, phòng Ngân quỹ và tổ Hành chính.
Hoạt động với 3 nhiệm vụ chính được Tổng giám đốc đề ra là:
Một là, sở giao dịch là nơi triển khai và hoạt động thí điểm các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, thực hiện các thể lệ, chế độ mới ban hành của NHNo&PTNT Việt Nam trước khi áp dụng cho toàn hệ thống.
Hai là, trực tiếp kinh doanh tiền tệ - tín dụng (Phần nội tệ) trên địa bàn thủ đô Hà Nội.
Ba là, thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam giao.
Kết quả đạt được bước đầu là: Sau 21 tháng hoạt động đến 31/12/1992, Tổng dư nợ đạt 13 tỷ đồng, đạt dư nợ bình quân 650 triệu đồng/ nhân viên; Tổng nguồn huy động được là 33,6 tỷ đồng, đạt bình quân 1,7 tỷ đồng/ nhân viên.
- Tháng 1/1993 , ngoài 3 nhiệm vụ ban đầu,sở giao dịch I còn được Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam giao thêm nhiệm vụ quản lý 23 tỉnh phía bắc (Từ Hà Tĩnh trở ra). Sở giao dịch I được làm đầu mối thanh toán, điều chuyển vốn trong hệ thống quyết toán kế hoạch tín dụng và tài chính với các chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam. Do nhiệm vụ phức tạp nên số cán bộ ở sở đã tăng đến 40 người.
- Đến tháng 9/1994, sở giao dịch I được Tổng giám đốc giảm nhiệm vụ quản lý khu vực phía Bắc để tập trung vào nhiệm vụ trực tiếp kinh doanh, được nhận khoán tài chính như các đơn vị thành viên khác, đồng thời là nơi nhận các lệnh của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam về: Hạch toán vốn quỹ của NHNo&PTNT Việt Nam, hạch toán điều chuyển vốn nội tệ, đầu mối thanh toán với các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội và một số công việc khác.
Từ giữa năm 1998, sở giao dịch I được Tổng giám đốc cho phép kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế.
- Hết quí I năm 2001, sở giao dịch đã kỷ niệm 10 năm ngày thành lập với những kết quả rất đáng tự hào: Tổng dư nguồn đạt 2264 tỷ đồng, bình quân 29 tỷ/nhân viên tăng 65 lần so với thời điểm 31/12/1992.
Dư nợ đạt 403 tỷ đồng, đạt bình quân 5,5 tỷ/ nhân viên tăng 31 lần so với thời điểm 31/12/1992.
Bình quân mỗi cán bộ làm ra 1tỷ lãi ròng mỗi năm.
Số cán bộ đã tăng lên 84 trong đó 96% có trình độ đại học.
Số phòng đã là 5 phòng, 2 tổ, 2 chi nhánh
(Số liệu tính đến 31/12/2000)
- Từ tháng 4/2001 đến tháng 4/3003, sở giao dịch tiếp tục hoạt động hiệu quả với:
Tổng nguồn đạt 5939 tỷ đồng (Trong đó nguồn từ uỷ thác là 1350 tỷ đồng) tăng 2,6 lần so với cuối năm 2000.
Tổng dư nợ đạt 688 tỷ đồng (Không kể dư nợ tại các tổ chức tín dụng) tăng 1,7 lần so với cuối năm 2000.
(Số liệu tính đến 31/12/2002)
- Tháng 4/2003, NHNo&PTNT Việt Nam đã cơ cấu lại các đơn vị thành viên, qua đó sở giao dịch I được chuyển thành chi nhánh Thăng Long . Như vậy, đến 4/2003 chi nhánh Thăng Long mới chính thức ra đời với chức năng và nhiệm vụ mới. Đến 31/12/2003 (Tức là chưa đầy 1 năm hoạt động ), chi nhánh đã đạt được những thành tích rất tốt trong năm 2003:
Tổng nguồn đạt 6798 tỷ đồng (Trong đó nguồn uỷ thác là 950 tỷ đồng).
Tổng dư nợ đạt 2337 tỷ đồng.
2.1.2.Cơ cấu tổ chức của chi nhánh.
Chi nhánh Thăng Long là chi nhánh cấp 1 của NHNo&PTNT Việt Nam, trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam. Chi nhánh Thăng Long bao gồm 9 phòng nghiệp vụ, 9 chi nhánh và một phòng giao dịch được cơ cấu theo sơ đồ sau:
Chi nhánh
Thăng Long
Phòng Kế
toán
Phòng Kế hoạch
Phòng
Tổ chức cán bộ & Đào tạo
Phòng Vi
tính
Phòng Hành chính
Phòng Thanh toán quốc tế
Phòng Ngân quỹ
Phòng Kiểm tra , Kiểm toán nội bộ
Phòng Tín dụng
Chi nhánh Chợ Mơ
Chi nhánh NguyễnĐình Chiểu
Chi nhánh Định Công
Chi nhánh Lê Văn Hưu
Chi nhánh Tây Sơn
Chi nhánh Trung Yên
Chi nhánh Láng Thượng
Chi nhánh Nguyễn Khuyến
Chi nhánh Phan Đình Phùng
Phòng Giao dịch Hàng Gà
2.1.3.Vài nét về tình hình hoạt động của chi nhánh .
2.1.3.1.Tình hình huy động vốn.
Chi nhánh Thăng Long là chi nhánh cấp 1 của NHNo&PTNT Việt Nam - một ngân hàng thương mại lớn của Nhà nước có uy tín lâu năm. Hơn nữa Chi nhánh Thăng Long là một chi nhánh lớn, có mạng lưới rộng lại hoạt động trên địa bàn thủ đô - một trung tâm tài chính, tiền tệ lớn của cả nước nên việc huy động vốn gặp nhiều thuận lợi. Điều đó thể hiện rõ qua kết quả huy động vốn những năm vừa qua :
Tổng nguồn huy động (1999-2003)
Đơn vị : Triệu đồng.
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng nguồn huy động
2.053.158
1.664.034
2.049.157
4.589.414
5.848.597
Nội tệ
1.837.914
1.221.962
1.194.112
4.042.062
4.946.118
Ngoại tệ quy đổi
215.244
442.132
555.045
547.352
901.971
Nguồn : Báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh (1999-2003)
Ngoài ra Chi nhánh Thăng Long còn được NHNo&PTNT Việt Nam giao cho nguồn vốn để thực hiện cho vay uỷ thác rất lớn chiếm khoảng 20% tổng nguồn vốn (cả vốn huy động và vốn uỷ thác). Nguồn vốn uỷ thác của Chi nhánh Thăng Long cụ thể như sau :
Nguồn vốn uỷ thác của Chi nhánh Thăng Long (1999-2003)
Đơn vị : Triệu đồng.
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
Nguồn uỷ thác
500.000
600.000
1.300.000
1.350.000
950.000
Nguồn : Báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh (1999-2003)
Như vậy, nguồn vốn của Chi nhánh Thăng Long là tương đối lớn và phong phú, cả ngoại tệ và nội tệ, cả nguồn huy động và uỷ thác. Đồng thời có tốc độ phát triển nguồn tương đối cao. Biểu đồ sau cho ta hình dung dễ dàng hơn về tốc độ phát triển nguồn vốn của chi nhánh:
Biểu đồ biểu thị sự phát triển nguồn vốn ( Từ 1999 đến 2003 )
Tổng nguồn(Triệu đồng)
Năm
Nhìn vào biểu đồ ta thấy: Chỉ năm 2000 là nguồn vốn bị thu hẹp còn từ năm 2001 trở lại đây nguồn vốn có sự tăng trưỏng nhanh chóng và mạnh mẽ (Năm 2002 tăng trưởng nguồn vốn là: 23,97%; năm 2003 là 27,43%). Kế hoạch năm 2004 của Chi nhánh Thăng Long là nguồn huy động tăng từ 20% - 30% so với năm 2003. Như vậy, khả năng huy động vốn của Chi nhánh Thăng Long là rất lớn cả huy động nội tệ và huy động ngoại tệ có thể đáp ứng tốt nhiệm vụ kinh doanh của chi nhánh.
Để đi sâu vào phân tích nguồn vốn chúng ta xem xét cơ cấu của nguồn vốn theo kỳ hạn huy động. Chi nhánh Thăng Long phân loại nguồn theo kỳ hạn nguồn những năm qua trong bảng dưới đây:
Nguồn huy động phân theo kỳ hạn(1999-2003)
chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng nguồn huy động
2.053.158
1.664.034
2.049.157
4.589.414
5.848.097
Nguồn nội tệ
1.837.914
1.221.092
1.494.112
4.042.062
4.946.118
Không kỳ hạn
Dưới 12 tháng
Từ 12 thánh trở lên
1.477.670
162.198
198.055
997.152
173.128
51.622
966.752
208.127
319.233
2.564.533
735.489
742.040
3.286.581
1.017.116
642.421
Nguồn ngoại tệ
215.244
442.132
555.045
547.352
901.979
Không kỳ hạn
Dưới 12 tháng
Từ 12 thánh trở lên
38.397
73.061
103.786
44.956
100.398
296.778
37.785
153.548
363.739
28.739
156.452
361.927
393445
204.778
303.756
Đơn vị : Triệu đồng
Nguồn : Báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh (1999-2003)
Từ các số tuyệt đối trên bảng trên ta tính được tỷ trọng của từng loại nguồn, kết quả cho ở bảng dưới đây:
Tỷ trọng nguồn huy động phân theo kỳ hạn (1999-2003)
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng nguồn huy động
100%
100%
100%
100%
100%
Nguồn nội tệ
90%
73%
73%
88%
85%
Không kỳ hạn
Dưới 12 tháng
Từ 12 thánh trở lên
80%
9%
11%
82%
14%
4%
65%
14%
21%
63%
18%
19%
66%
21%
13%
Nguồn ngoại tệ
10%
27%
27%
12%
15%
Không kỳ hạn
Dưới 12 tháng
Từ 12 thánh trở lên
18%
34%
48%
10%
23%
67%
7%
28%
65%
5%
66%
29%
44%
22%
34%
Nguồn : Từ báo cáo các chỉ tiêu kinh doanh cơ bản của chi nhánh (1999-2003)
Kết quả cho thấy: Nguồn vốn không kỳ hạn và ngắn hạn của chi nhánh vẫn là chủ yếu (chiếm từ 80% trở lên), đặc biệt năm 2000, tỷ trọng nguồn trung và dài hạn chiếm đến 96% tổng nguồn huy động nội tệ. Điều này gây khó khăn cho chi nhánh trong việc sử dụng vốn nhất là nhu cầu vay vốn cho vay trung và dài hạn của các khách hàng luôn cao. Kết quả cũng cho thấy, đối với nguồn ngoại tệ thì lại khác. Nguồn trung và dài hạn luôn chiếm tỷ lệ khá cao. Điều đó là do sự ổn định của đồng ngoại tệ khuyến khích người gửi tiền gửi dài hạn để vừa hưởng lãi suất cao, vừa hưởng chênh lệch tỷ giá. Nguồn ngoại tệ này, đáp ứng tốt cho yêu cầu kinh doanh ngoại tệ và cho vay xuất nhập khẩu của Chi nhánh Thăng Long .
Tóm lại, khả năng huy động vốn của chi nhánh là tương đối lớn cả về nội tệ lẫn ngoại tệ. Vấn đề chính của chi nhánh là có những biện pháp thích hợp để nâng cao tỷ trọng nguồn vốn trung và dà._.thể tiếp cận, lôi kéo các sinh viên đó bằng nhiều phương pháp, hình thức khác nhau như : Tặng học bổng; cử cán bộ đến giao lưu, nói chuyện, hội thảo; giúp đỡ các sinh viên trong thực tập...Làm như vậy không những quảng bá được hình ảnh tốt đẹp của ngân hàng mình mà cao hơn là qua đó chi nhánh có thể tìm được những cán bộ tốt phục vụ cho mục tiêu lâu dài của ngân hàng mình.
Khâu đào tạo, rèn luyện sau tuyển dụng.
Cán bộ tín dụng phải thường xuyên được học tập, bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật chính sách, văn bản của Nhà nước, của chính phủ của các bộ, nghành ... đặc biệt là bồi dưỡng về kinh nghiệm, về xử lý trước các tình huống khó, phức tạp. Chi nhánh Thăng Long nên bố trí công tác theo nhóm mà mỗi nhóm bao gồm những người có kinh nghiệm và những cán bộ trẻ để họ có thể bổ sung cho nhau, tự học tập lẫn nhau cùng tiến bộ.
Về tổ chức , bố trí cán bộ tín dụng .
Thứ nhất, Chi nhánh Thăng Long cần phân thành các nhóm công tác, thẩm định theo hội đồng, chịu trách nhiệm theo nhóm và có ưu đãi thích đáng cho những cán bộ tín dụng làm tốt công việc đem lại nhiều lợi nhuận cho chi nhánh. Việc đó không chỉ có ý nghĩa học tập, rèn luyện lẫn nhau mà còn tránh tình trạng áp lực trách nhiệm nặng nề khi cán bộ tín dụng phải chịu trách nhiệm cá nhân dẫn đến tình trạng bỏ sót nhiều món vay đáng tiếc. Việc đó cũng giúp các cán bộ tín dụng tự tin hơn, trách nhiệm hơn, đồng thời kết quả thẩm định cũng chính xác hơn. Thứ hai, lãnh đạo Chi nhánh Thăng Long cần chỉ đạo các cán bộ tín dụng không có sự phân biệt, phải khách quan đối với mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Các cán bộ tín dụng phải khách quan trong các điều kiện, thủ tục vay. Sự phân biệt của cán bộ tín dụng chủ yếu do sợ trách nhiệm nên việc chỉ đạo, bảo đảm của cấp lãnh đạo sẽ làm các cán bộ tín dụng yên tâm, sẽ trở nên khách quan hơn trong việc xem xét cho vay đối với các DNNQD. Thứ ba, là đổi mới phong cách làm việc. Chi nhánh Thăng Long nên đổi mới phong cách làm việc của cán bộ nhân viên. Tình trạng nói chuyện, làm việc riêng, chơi games, vào tán gẫu trên mạng internet… trong giờ làm việc diễn ra phổ biến ở các phòng ban của chi nhánh. Chi nhánh Thăng Long nên có những biện pháp kiểm tra thích hợp và kỷ luật nghiêm các trường hợp trên. Đồng thời cần tạo ra không khí thi đua làm nâng cao hiệu quả làm việc của mọi cán bộ
ở bất kỳ nơi nào, bất kỳ lĩnh vực gì thì yếu tố con người cũng là quan trọng nhất. Quan tâm, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của cán bộ chính là chìa khoá dẫn đến thành công của Chi nhánh Thăng Long.
Trên đây là các biện pháp chủ yếu tác động tích cực đến việc mở rộng cho vay đối với các DNNQD. Việc mở rộng cho vay phải gắn liền với an toàn vốn và chi phí của việc mở rộng cho vay, hay nói cách khác là phải đảm bảo mở rộng cho vay có hiệu quả.
- An toàn vốn là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. An toàn tín dụng rất quan trọng nhất là trong giai đoạn đầu của mở rộng cho vay. An toàn tín dụng sẽ là động lực, là niềm tin, là tiền đề cho ngân hàng mở rộng hơn nữa. Do vậy mở rộng cho vay cần phải được khống chế bằng tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý. Tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý ở đây là do sự tính toán của ngân hàng dựa trên những mục tiêu, lợi ích trước mắt và lâu dài của chi nhánh. Do vậy, để mở rộng có hiệu quả, chi nhánh cấn nâng cao chất lượng thẩm định các dự án, thuê thẩm định với các dự án lớn, phức tạp. Đồng thời phải có biện pháp bảo đảm tiền vay phù hợp.
- Chi phí của việc mở rộng cho vay là rất lớn: chi phí cho hoạt động Marketing; chi phí của việc mở thêm chi nhánh, phòng giao dịch; chi phí cho công tác cán bộ; chi phí cho huy động vốn…Chi nhánh Thăng Long cần phải tính toán những lợi ích trước mắt và lâu dài để có từng bước mở rộng cụ thể.
3.2.Một số kiến nghị.
Như đã nói ở trên, quan hệ cho vay của ngân hàng đối với các DNNQD chịu sự tác động của nhiều chủ thể, nhiều nhân tố nên giải quyết vấn đề này thì không thể chỉ có sự cố gắng của ngân hàng . Do đó, chỉ thực hiện các giả pháp trên là chưa đủ phải có sự tham gia tích cực của các chủ thể có liên quan khác như : Các cơ quan thuộc Chính phủ, NHNN, các DNNQD ...
3.2.1.Kiến nghị với chính phủ.
Chính phủ là cơ quan điều hành vĩ mô nền kinh tế đất nước nên có ảnh hưởng lớn lao đến mọi quan hệ kinh tế nói chung và hoạt động cho vay của ngân hàng với các DNNQD nói riêng. Với các cơ chế chính sách và sự tác động của mình chính phủ tác động đến cả ngân hàng và DNNQD. Để Chi nhánh Thăng Long tăng cường mở rộng hoạt động cho vay với các DNNQD được thuận lợi thì chính phủ cần tạo các điều kiện như sau :
Thứ nhất, Chính phủ hoàn thiện các văn bản pháp luật và phổ biến rộng rãi các văn bản này. Đẩy mạnh chỉ đạo chống tham ô, quan liêu, cửa quyền đối với các công chức Nhà nước nhất là trong các thủ tục hành chính. Cải cách thủ tục hành chính theo hướng nhanh gọn. Qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động dễ dàng, dễ dàng thực hiện được quyền lợi của mình.
Thứ hai, Có những ưu đãi như ưu đãi về thuế đối với các DNNQD, đặc biệt đối với các DNNQD mới thành lập để các doanh nghiệp này tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ, cung cấp các thông tin về thị trường, giá cả giúp các doanh nghiệp này chủ động sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba,Tăng cường hội nhập, tham gia mạnh mẽ vào các các tổ, chức diễn đàn khu vực và quốc tế đề các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội học hỏi, tìm kiến đối tác, nhất là các doanh nghiệp hoạt động xuất, nhập khẩu.
Thưa tư, Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các DNNN, theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước chỉ nên tập chung vào các nghành kinh tế mũi nhọn, trọng yếu, đầu tàu cho kinh tế đất nước phát triển có ảnh hưởng đến quốc kế dân sinh hay những lĩnh vực công ích như : Vệ sinh môi trường, nước sạch , bệnh viện....mà do không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
Chủ trương là rất đúng đắn việc cổ phần hoá vừa khơi dậy nội lực của toàn dân vừa là sân chơi công bằng và lành mạnh cho các thành phần kinh tế. Tuy nhiên hiện nay quá trình chuyển dịch ở nước ta diễn ra rất chậm trễ, số DNNN được cổ phần hoá tăng chậm và trong các doanh nghiệp dã được cố phần hoá thì vốn của Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn khoảng 80%.
Thứ năm, Bộ Tài chính cần phải có những sửa đổi về cơ chế quản lý tài chính, về chế độ kế toán... cho phù hợp với đặc điểm của các DNNQD, đồng thời có biện pháp kiểm soát thích hợp để bắt buộc các DNNQD ghi chép, cập nhật sổ sách, phản ánh đúng tình hình tài chính. Qua đó làm lành mạnh hoạt động tài chính của doanh nghiệp đồng thời giúp các ngân hàng giảm thời gian, chi phí và tăng độ chính xác trong thẩm định cho vay đối với các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các ngân hàng mạnh dạn đẩy mạnh mở rộng cho vay.
Thứ sáu, Tiếp đó, triển khai việc đăng ký thế chấp bất động sản của các doanh nghiệp, các nhân tại các sở Tài nguyên và Môi trường và UBND xã, phường, thị trấn ở những nơi đăng kí theo quy định của pháp luật; Công bố công khai những nơi chưa thực hiện việc đăng ký. Điều đó sẽ giải quyết được khó khăn, vướng mắc trong vấn đề về tài sản bảo đảm.
Thứ bẩy, Nhà nước nên đẩy mạnh phát triển thị trường chứng khoán vì TTCK có quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, trong đó cần phải nhanh chóng thành lập thị trường chứng khoán phi tập chung (OTC). Thị trưòng OTC phát triển làm các chứng khoán của các DNNQD được lưu thông dễ dàng, làm tăng tính thanh khoản của nó vì hầu hết các DNNQD chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết trên thị trường chính thức. Việc đó làm cho các DNNQD tăng thêm cơ hội thu hút nguồn vốn nhờ phát hành chứng khoán, đồng thời cũng làm minh bạch hoạt động tài chính của DNNQD giúp cho NHNo&PTNT Việt Nam có nhiều thông tin để đánh giá được chính xác khách hàng của mình.
Trong cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước thì chính phủ cũng phải cố phần hoá các ngân hàng thương mại Nhà nước. Hiện nay có 5 ngân hàng thương mại Nhà nước là : NHCT Việt Nam , NHĐT&PT Việt Nam, NHNo&PTNT Việt Nam, NHNT Việt Nam, Ngân hàng phát triển nhà Đồng băng sông Cửu Long. Mặc dù chính phủ đã quyết định tăng vốn cho các ngân hàng này nhưng tổng số vốn tự có của các hàng này chưa được 1 tỷ đô la, tỷ lệ vốn trên tổng tài sản có là 4% thấp hơn nhiều so với mức an toàn tối thiểu là 8%. Hơn nữa, trong xu thế hội nhập của nền kinh tế nước ta hiện nay, các ngân hàng của ta phải cạnh tranh quyết liệt với các ngân hàng lớn có số vốn hàng tỷ đô la có công nghệ và trình độ quản lý hiện đại:
Chúng ta đã ra nhập khối Kinh tế Châu á Thái Bình Dương - APEC, Thị trường chung Asian – AFTA... Với những điều khoản về tự do thương mại buộc chúng ta mạnh lên để đủ sức cạnh tranh với các nước trong khu vực và quốc tế trong tất cả các lĩnh vực kinh tế trong đó có hoạt động ngân hàng .
Sắp tới chúng ta sẽ ra nhập tổ chức thương mại quốc tế (Mục tiêu là năm 2005) và đặc biệt là điều khoản trong hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực, với các điều khoản không hạn chế hoạt động của các ngân hàng Mỹ và hoạt động của các ngân hàng Mỹ tại Việt Nam không có gì khác biệt đáng kể so với các ngân hàng Việt Nam. Như vậy, chúng ta phải thực sự cạnh tranh với các ngân hàng Mỹ và thế giới .
Không chỉ chỉ là cạnh tranh với các ngân hàng Mỹ và thế giới mà các ngân hàng Nhà nước còn phải cạnh với các ngân hàng thương mại cổ phần đang dần lớn mạnh ở trong nước. Các ngân hàng thương mại cổ phần ở trong nước cũng nhanh chóng đổi mới công nghệ, đổi mới công tác quản lý và liên tục tăng vốn điều lệ. Trong năm 2003 vừa qua đă có đến 4 ngân hàng thương mại cổ phần tăng vốn điều lệ của mình (NHTMCP Sài Gòn thương tín tăng từ 462 tỷ lên 505 tỷ, NHTMCP quốc tế tăng từ 75 tỷ lên 175 tỷ, NHTMCP Việt á tăng tử 75,7 tỷ lên 115,4 tỷ, NHTMCP quân đội tăng từ 229 tỷ lên 280 tỷ) điều đó buộc các ngân hàng thương mại Nhà nước cũng phải chuẩn bị để đử sức cạnh tranh trên thị trường.
Trước mắt, chính phủ có thể tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng trên, hay giữ cổ phần chủ yếu, sau đó mới tiến hành giảm lượng cổ phần của mình. Và có cả việc xem xét sáp nhập một số ngân hàng thương mại Nhà nước với nhau.
3.2.2.Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước là công cụ của Nhà nước quản lý Nhà nước trực tiếp các hoạt động tín dụng, tiền tệ. Do đó, Ngân hàng Nhà nước có thể tác động trực tiếp vào hoạt động ngân hàng. Để các ngân hàng thương mại hoạt động tốt, tạo thuận lợi cho mở rộng cho vay các DNNQD thì họ cần Ngân hàng Nhà nước ở những điểm sau:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước phổ biến kịp thời các văn bản pháp luật của Nhà nước, của các Bộ, nghành có liên quan đến hoạt động của các ngân hàng để các ngân hàng chủ động trong hoạt động và trong chính sách tín dụng của mình.
Hiện nay, các ngân hàng thương mại đang cần Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn, triển khai thông tư liên tịch của bộ Tư pháp và bộ Tài nguyên – Môi trường về hướng dẫn trình tự, thủ tục đăng ký và cung cấp thông tin về thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để các ngân hàng thương mại chủ động trong hoạt động đồng thời hướng dẫn khách hàng của mình.
Thứ hai, Việc Ngân hàng Nhà nước thành lập trung tâm thông tin tín dụng (CIC) thuộc Vụ tín dụng là rất cần thiết, nó cung cấp tất cả các thông tin về tín dụng tiền tệ, ngoại hối... và đặc biệt là những thông tin về khách hàng để qua đó ngân hàng có thể có những thông tin khách quan nhất về khách hàng mặc dù trước đó không có quan hệ tín dụng với ngân hàng nhưng có quan hệ tín dụng với bất kỳ một ngân hàng nào đó. Tuy nhiên thời gian hoạt động thí điểm vừa qua có nhiều hạn chế, hạn chế lớn nhất là thông tin còn thiếu, chưa cập nhật, chưa phong phú do nguyên nhân chủ yếu là các ngân hàng thương mại còn thiếu thức tự giác trong chấp hành chế độ thông tin báo cáo. Trong khi đó Nhà nước chưa quy định rõ phạm vi, mức độ cung cấp thông tin. Do đó để hoạt động của CIC đạt hiệu quả thì có vai trò rất lớn của Ngân hàng Nhà nước.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước cần quan tâm, chú ý đến những khó khăn, vướng mắc, những đề nghị của các ngân hàng thương mại để có biện pháp trực tiếp giải quyết hoặc đề nghị các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Làm như vậy sẽ dần tháo gỡ được những vướng mắc tồn tại trong hoạt động ngân hàng nói chung và trong quan hệ cho vay giữa ngân hàng với các DNNQD nói riêng.
3.2.3. Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam.
Như trong phần Giải pháp thực hiện đã nói thì để việc mở rộng cho vay các DNNQD có hiệu quả thì NHNo&PTNT Việt Nam với tư cách là ngân hàng cấp trên chỉ đạo Chi nhánh Thăng Long thực hiện, có thể tóm tắt lại như sau :
Một là, Thành lập phòng Marketing cho các chi nhánh cấp 1 như chi nhánh Thăng Long.
Hai là, Chỉ đạo các cán bộ, nhân viên không có thái độ phân biệt trong việc xem xét cho vay đối với các DNNQD .
Ba là, Có các biện pháp thích hợp để chỉ đạo huy động vốn trung, dài hạn và thực hiện điều chuyển vốn hợp lý trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
Bốn là, Thực hiện đa dạng hoá các hình thức cho vay, đa dạng hoá các hình thức bảo đảm, lãi suất áp dụng linh hoạt để phù hợp với các nhu cầu, điều kiện khác nhau của doanh nghiệp.
Năm là, Chỉ đạo sát sao các chi nhánh trong việc đổi mới phong cách làm việc hiệu quả hơn.
Sáu là, Chỉ đạo các chi nhánh có các biện pháp thích hợp để tiếp cận khách hàng, tìm hiểu nguyện vọng khách hàng sau đó căn cứ vào điều kiện thực tế của ngân hàng mình để đưa ra các biện pháp thích hợp.
Kết luận
Trên đây, em đă trình bày một số nhận định của mình về thực tại và tương lai của quan hệ giữa ngân hàng thương mại nói chung và Chi nhánh Thăng Long nói riêng với các khách hàng là các DNNQD. Sự phát triển của các doanh nghiệp này trong tương lai là tất yếu của quá trìmh phát triển và các ngân hàng cần phải có sự chuẩn bị để có thể phát huy hiệu quả của mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp này. Cùng với sự phát triền của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các ngân hàng có sự chuẩn bị chu đáo thì việc mở rộng cho vay sẽ dễ dàng hơn góp phần vào bước phát triển của ngân hàng, các DNNQD và kinh tế đất nước. Đề tài có sự tham gia hướng dẫn, gợi ý của cô giáo, tiến sỹ Phan Thị Thu Hà. Do khả năng, kinh nghiệm hạn chế cộng với thời gian thực tập không được nhiều và một số lý do khách quan và chủ quan khác nên bài viết mới đánh giá được phần nào thực tế mở rộng cho vay các DNNQD của Chi nhánh Thăng Long và chắc chắn có nhiều thiếu sót. Em rất mong sự đóng góp của các thầy, cô và những ai quan tâm đến vấn đề này để bài viết trở lên hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tài liệu tham khảo
1.Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ – TS. Phan Thị Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Thu Thảo / NXB Thống Kê - 2002.
2.Tạp chí Ngân hàng – Số 1/2004
3.Tạp chí Khoa học Ngân hàng – Số 2/2004.
4.Luật Doanh nghiệp.
5. Luật các Tổ chức tín dụng .
6.Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ của NHNo&PTNT Việt Nam .
7.Nghị định 178/1999/NĐCP, Nghị định 85/2002/NĐCP, Nghị định 08/2000/NĐCP, Quyết định 1627/2000/QĐ-NHNN.
Phụ lục
Trong phần này đưa ra các mẫu văn bản của NHNo&PTNT Việt Nam phục vụ cho quan hệ tín dụng giữa Chi nhánh Thăng Long và các DNNQD.
Khi các DNNQD đén vay vốn tại NHNo&PTNT Việt Nam thì cần phải có ba loại hồ sơ là: Hồ sơ pháp lý, hồ sơ kinh tế và hồ sơ vay vốn.
Hồ sơ pháp lý.
Các DNNQD thì hồ sơ pháp lý bao gồm bản sao có công chứng các giấy tờ sau:
Điều lệ doanh nghiệp (trừ doanh nghiệp tư nhân).
Đăng ký kinh doanh.
Giấy phép hành nghề (đối với những nghánh Nhà nước quy định phải có giấy phép hành nghề).
Biên bản góp vốn, danh sách thành viên sáng lập (đối với công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh).
Quyết định bổ nhiệm chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc, kế toán trưởng.
Hồ sơ kinh tế.
Kế hoạch sản xuất, kinh doanh trong kỳ.
Báo cáo kề hoạch sản xuất, kinh doanh kỳ gần nhất.
Hồ sơ vay vốn.
Giấy đề nghị vay vốn.
Dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Các chứng từ có liên quan khi xuất trình vay vốn.
Hồ sơ bảo đảm tiền vay theo quy định.
Một số mẫu giấy tờ cụ thể như sau:
1.Giấy đề nghị vay vốn của các doanh nghiệp theo mẫu sau:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do – Hạnh phúc
Giấy đề nghị vay vốn
Kính gửi : NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long
Tên doanh nghiệp :
Địa chỉ trụ sở chính :
Quyết định thành lập số: Ngày: Do: quyết định.
Đăng ký kinh doanh số: Ngày: Do: cấp.
Họ, tên giám đốc hoặc người được uỷ quyền: …………
Quyết định bổ nhiệm số: ngày tháng năm Do: quyết định
Hoặc giấy uỷ quyền số: ngày tháng năm Do: uỷ quyền
Tài khoản tiền gửi số: Tại Chi nhánh Thăng Long
Tài khoản tiền vay số: Tại Chi nhánh Thăng Long
Tổng nhu cầu vốn để thực hiện dự án:
Vốn tự có tham gia vào dự án (phương án) xin vay:
Nhu cầu vay, số tiền:
Bằng chữ: ( )
Đối tượng vất tư, chi phí sản xuất kinh doanh cần vay vốn
STT
Đối tượng
Số lượng
Thành tiền
Thời hạn xin vay: tháng
Lãi xuất xin vay: %/tháng
Hình thức bảo đảm tiền vay: Không bảo đảm/có bảo đảm:
STT
Tên tài sản
Số lượng
Giấy tờ về
tài sản
Đặc điểm kỹ thuật
Giá trị
Chúng tôi cam kết: Sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả; trả nợ vay gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn; chấp nhận quy định cho vay hiện hành của NHNo&PTNT Việt Nam.
Đề nghị ngân hàng xem xét giải quyết cho vay.
Ngày…tháng…năm…
Giám đốc
(ký rõ họ tên và đóng dấu)
2.Hợp đông tín dụng của Chi nhánh Thăng Long với các doanh nghiệp được ký kết theo mẫu sau:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hợp đồng tín dụng
Căn cứ luật các tổ chức tín dụng
Căn cứ quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN của thống đốc NHNN
Căn cứ hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp và kết quả thẩm định của NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long
Hôm nay, ngày…tháng…năm…tại
Chúng tôi gồm:
Bên cho vay (Bên A)
Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long.
Địa chỉ:
Người đại diện là ông (bà): Chức vụ:
CMND số: Ngày cấp: Nơi cấp:
Giấy uỷ quyền (nếu có) số: do ông (bà): uỷ quyền
Hai bên thống nhất việc bên A cho bên B vay tiền theo nội dung thoả thuận dưới đây:
Điều 1. Phương thức cho vay, số tiền cho vay, mục đích sử dụng tiền vay.
Phương thức cho vay:
Mức dư nợ cao nhất:
Số tiền bằng số:
Bằng chữ:
Mục đích sử dụng tiền vay:
-
-
-
Điều 2. Lãi suất cho vay.
Lãi suất tiền vay là: %/ tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng.
Lãi tiền vay Bên B phải trả cho Bên A chỉ tính từ ngày vay đến ngày trả nợ.
Phương pháp trả lãi tiền vay:
+ Tính theo định kỳ riêng: /1 lần vào ngày
+ Hoặc trả lãi tiền vay cùng với kỳ trả nợ gốc.
- Lãi suất nợ quá hạn: Khi đến kỳ hạn trả nợ hoặc kết thúc kỳ hạn cho vay, nếu Bên B không có khả năng trả nợ đúng hạn cả gốc và lầim không được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc, lãi hoặc không được gia hạn nợ gốc, lãi thì Chi nhánh Thăng Long sẽ chuyển toàn bộ số dư nợ thực tế sang nợ quá hạn và Bên B phải chịu lãi suất nợ quá hạn bằng %/ đối với số tiền trả chậm.
Điều 3. Thời hạn cho vay, phương thức và kỳ hạn trả nợ
Thời hạn cho vay: …. tháng. Hoặc thơpì hạn của hạn mức tín dụng … tháng, kể từ ngày… tháng… năm…
Ngày nhận tiền lãi lần đầu là:
Kế hoạch phát tiền vay và kỳ hạn trả nợ (thực hiện theo phụ lục kèm theo).
Trường hợp Bên B trả nợ bằng đồng tiền khác với đồng tiền cho vay thì phải được Bên A chấp thuận.
Trương hợp Bên B rút tiền vay nhiều lần thì mỗi lần nhận tiền vay Bên B lập một giấy nhận nợ gửi Bên A.
Điều 4. Hình thức bảo đảm tiền vay: Cho vay có/ Không có tài sản bảo đảm bằng tài sản (Trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài sản được kèm hợp đồng bảo đảm tiền vay).
Điều 5. Quyền và nghĩa vụ Bên A.
5.1.Bên A có quyền:
Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của Bên B.
Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện Bên B cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng.
Có quyền định đoạt tài sản hình thành từ vốn vay và tài sản dùng làm bảo đảm trong những trường hợp sau:
+ Bên B không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
+ Không có chủ thể kế thừa nghĩa vụ của Bên B.
+ Xảy ra bất kỳ sự kiện pháp lý nào giải phóng Bên B khỏi nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng này.
Gia hạn nợ gốc, lãi; điều chỉnh kỳ hạn nợ gốc, lãi theo quy định của NHNN.
5.2.Bên A có nghĩa vụ:
Thực hiện đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật.
Điều 6. Quyền và nghĩa vụ của Bên B
6.1. Bên B có quyền:
Từ chối yêu cầu của Bên A không đúng với các thoả thuận trong hợp đồng này.
Khiếu nại, khởi kiện vi phạm hợp đồng này theo quy định của pháp luật.
6.2.Bên B có nghĩa vụ:
Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn và chịu trách nhiệm về tính chính xác.
Sử dụng tiền vay đúng mục đích và thực hiện đúng nội dung khác đã thoả thuận trong hợp đồng này.
Trả nợ gốc và lãi theo thoả thuận trong hợp đồng này.
Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng những thoả thuận về việc trả nợ vay.
Điều 7. Một số cam kết khác.
Điều 8. Sửa đổi, bổ sung, chuyển nhượng hợp đồng.
Khi một trong hai bên muốn có sự thay đổi nội dung điều khoản của hợp đồng này thì gửi đề xuất tới bên kia bằng văn bản. Nếu bên kia chấp thuận, hai bên sẽ ký bổ sung điều khoản thay đổi đó trong thoả thuận bằng văn bản đi liền với hợp đồng này.
Trường hợp chuyển nhượng hợp đồng tín dụng này phải được hai bên cùng thoả thuận theo quy định về mua, bán nợ của NHNN. Các điều khoản khác của hợp đồng này không thay đổi.
Điều 9. Cam kết chung.
Hai bên cam kết thực hiện đúng các điều khoản của hợp đồng. Nếu có tranh chấp hai bên sẽ giải quyết bằng thương lượng dựa trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. Trường hợp không thể giải quyết được bằng thương lượng, hai bên sẽ đưa tranh chấp ra giải quyết ở toà án kinh tế nơi có trụ sở chính của Bên A.
Hợp đồng này được thành lập làm 2 bản, các bản có giá trị như nhau, mỗi bên giữ một bản.
Hợp đồng có hiệu lực kể từ ngày ký và được thanh lý khi Bên B hoàn trả xong gốc và lãi.
Đại diện Bên A Đại diện Bên B
(Ký tên, đóng dấu) (Ký tên, đóng dấu)
Nếu hình thức phát vốn vay từ 2 lần trở lên thì mỗi lần vay doanh nghiệp phải lập giấy nhận nợ.
3.Giấy nhận nợ theo mẫu sau:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Giấy nhận nợ
Căn cứ hợp đồng tín dụng số: ngày… tháng… năm… đã ký giữa
NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Thăng Long và
Hôm nay, ngày… tháng… năm… tại NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long
Tên người vay:
Ông (bà): Chức vụ:
CMND số: , ngày cấp……………., nơi cấp
Theo giấy uỷ quyền (nếu có) số:……………ngày…. tháng… năm… .
Hạn mức tín dụng:
Dư nợ trước nhận nợ lần này:
Số tiền nhận nợ lần này (đề nghị vay lần này):
Bằng chữ:
Tổng dư nợ sau lần nhận nợ:
Mục đích sử dụng tiền vay:
-
-
-
Hạn trả cuối cùng:
Lãi suất:……….%/ tháng, lãi suất nợ quá hạn:………..%/ tháng.
Người vay NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long
(Ký tên, đóng dấu) Cán bộ Trưởng phòng Giám đốc
tín dụng tín dụng
(Ký, ghi rõ (Ký, ghi rõ (Ký tên và
họ, tên) họ, tên) đóng dấu)
4.Giấy đề nghị chuyển kỳ hạn nợ.
Trong quá trình vay vốn nếu thấy kỳ hạn trong hợp đồng tín dụng là không hợp lý thì doanh nghiệp có thể yêu cầu ngân hàng điều chỉnh lại kỳ hạn trả nợ gốc và lãi theo mẫu sau:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Giấy đề nghị chuyển kỳ hạn trả nợ gốc, lãi
Kính gửi: NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long .
Họ, tên người vay:
Đã vay NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long số tiền:
(Bằng chữ: )
Theo hợp đồng tín dụng số:……………….ngày…. tháng…. năm….
Theo phân kỳ, ngày…. tháng….năm…. Số tiền đến hạn trả nợ gốc là:
, lãi là: đến nay chúng tôi chưa trả được ngân hàng, vì lý do:
-
-
-
Đề nghị Chi nhánh Thăng Long cho chúng tôi được điều chỉnh kỳ hạn nợ gốc, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lãi như sau:
Kỳ hạn nợ theo cam kết
Đề nghị kỳ hạn trả nợ mới
Ngày, tháng
Số tiền gốc, lãi
Ngày, tháng
Số tiền gốc, lãi
Người vay
(Ký, ghi rõ họ, tên, đóng dấu)
Phần phê duyệt của ngân hàng
1.ý kiến của cán bộ tín dụng:
Qua xem xét thực tế và nội dung trình bày trong giấy điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, tôi thấy nguyên nhân khách hàng không trả được nợ là do:
-
-
-
Đề nghị cho chuyển kỳ hạn nợ như sau:
Kỳ hạn nợ theo cam kết
Đề nghị kỳ hạn trả nợ mới
Ngày, tháng
Số tiền gốc, lãi
Ngày, tháng
Số tiền gốc, lãi
Cán bộ tín dụng
(Ký, ghi rõ họ và tên)
2.ý kiến của phòng tín dụng:
Qua xem xét nội dung trình bày trong giấy đề nghị chuyển kỳ hạn nợ gốc, lãi của khách hàng và ý kiến của cán bộ tín dụng, tôi đồng ý/ không đồng ý.
Đề nghị giám đốc cho điều chỉnh kỳ hạn nợ/ không điều chỉnh kỳ hạn nợ.
Trưởng phòng tín dụng
(Ký và ghi rõ họ, tên)
3.Phê duyệt của giám đốc:
Căn cứ vào ý kiến đề xuất của cán bộ tín dụng và trưởng phòng tín dụng, tôi đồng ý cho điều chỉnh kỳ hạn nợ gốc, lãi/ Không đồng ý cho điều chỉnh kỳ hạn nợ gốc, lãi.
Yêu cầu cán bộ tín dụng và trưởng phòng tín dụng đôn đốc khách hàng chấp hành đúng kỳ hạn nợ đă được chấp nhận.
Hà Nội, ngày… tháng… năm….
Giám đốc Chi nhánh Thăng Long
(Ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu)
5.Giấy đề nghị gia hạn nợ.
Trong quá trình sử dụng vốn nếu doanh nghiệp thấy không thể trả gốc và lãi đúng hạn ghi trong hợp đồng tín dụng thì có thể đề nghị gia hạn nợ bằng văn bản theo mẫu sau:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Giấy đề nghị gia hạn nợ gốc, lãi
Kính gửi: NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long .
Họ, tên người vay:
Nợ vay NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long số tiền:
Tại hợp đồng số: ngày…., tháng…., năm…..
Đã trả nợ được , số tiền gốc: , số tiền lãi:
Còn nợ gốc: , còn nợ lãi:
Hạn trả vào ngày…., tháng…, năm….
Lý do trả chậm:
-
-
-
Đề nghị NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long gia hạn:
Số nợ gốc đến ngày…, tháng…, năm….
Số nợ lãi đến ngày…, tháng…, năm….
Chúng tôi cam kết trả đúng hạn trên.
Người vay
(Ký, ghi rõ họ và tên, đóng dấu)
Phần phê duyệt của ngân hàng
1.ý kiến của cán bộ tín dụng
Qua xem xét thực tế và nội dung trình bày trong giấy đề nghị gia hạn nợ của … …………………, tôi thấy nguyên nhân khách hàng không trả được nợ đúng hạn là do:
-
-
-
Đề nghị cho gia hạn/ không cho gia hạn
Số tiền gốc:…………….thời hạn:……….tháng. Hạn trả cuối cùng vào ngày…, tháng…, năm….
Số tiền lãi………………thời hạn:……….tháng. Hạn trả cuối cùng vào ngày…, tháng…, năm….
Cán bộ tín dụng
(ký và ghi rõ họ, tên)
2.ý kiến của trưởng phòng tín dụng
Qua xem xét thực tế nội dung trình bày trong giấy đề nghị gia hạn nợ của …… ……..và ý kiến của cán bộ tín dụng, tôi đồng ý/ không đồng ý.
Đề nghị giám đốc cho gia hạn nợ/ không cho gia hạn nợ.
Số tiền gia hạn:
Gốc……………… thời gian gia hạn…….. tháng; hạn cuối cùng vào ngày …, tháng…, năm….
Lãi……………… thời gian gia hạn…….. tháng; hạn trả cuối cùng vào ngày …. Tháng…, năm…..
Trưởng phòng tín dụng
(Ký và ghi rõ họ, tên)
Phê duyệt của giám đốc
Căn cứ vào ý kiến đề xuất của cán bộ tín dụng và trưởng phòng tín dụng, duyệt cho gia hạn/ không cho gia hạn nợ.
Số tiền gốc:…………….. thời gian……..tháng; hạn trả cuối cùng vào ngày…, tháng…, năm….
Số tiền lãi:……………… thời gian…….. tháng; hạn trả cuối cùng vào ngày…, tháng…, năm….
Yêu cầu cán bộ tín dụng và trưởng phòng tín dụng đôn đốc khách hàng chấp hành đúng thời hạn trên.
Hà Nội, ngày…, tháng…, năm…
Giám đốc Chi nhánh Thăng Long
(Ký, ghi rõ họ và tên, đóng dấu)
6.Giấy uỷ quyền.
Nếu vì lý do khách quan mà ngưới đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không có mặt để ký kết với ngân hàng thi người đó có thể uỷ quyền cho người đại diện của mình ký kết với ngân hàng. Việc uỷ quyền phải được thực hiện bằng văn bản theo mẫu sau:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Giấy uỷ quyền
Kính gửi: NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long .
Họ và tên người uỷ quyền:
CMND số:……………………, ngày cấp………………., nơi cấp
Hiện cư trú tại: uỷ quyền cho người có tên sau:
Họ và tên người được uỷ quyền:
CMND số:……………….., ngày cấp:……………….., nơi cấp:
Hiện cư trú tại:
Là đại diện cho doanh nghiệp trong mọi quan hệ vay vốn với ngân hàng (giao dịch, nhận tiền vay, trả nợ, xử lý tài sản bảo đảm…)
Giấy uỷ quyền này có thời hạn kể từ ngày……………….đến ngày
Người uỷ quyền Người được uỷ quyền
(Ký, ghi rõ họ và tên, đóng dấu) (Ký, ghi rõ họ, tên)
7.Quy định về phân loại doanh nghiệp.
Quy định của NHNo&PTNT Việt Nam về phân loại khách hàng là doanh nghiệp như sau: Hiện NHNo&PTNT Việt Nam phân loại khách hàng theo 3 loại A, B, C dựa vào 5 chỉ tiêu sau đây:
Lợi nhuận sau thuế.
Khả năng thanh toán ngắn hạn.
Quan hệ với NHNo&PTNT Việt Nam và các tổ chức tín dụng khác.
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/ Tổng nguồn vốn.
Doanh thu.
Việc phân loại doanh nghiệp dựa vào số điểm của mỗi doanh nghiệp .
Từ 40 – 50 điểm: Doanh nghiệp xếp laọi A (trừ những doanh nghiệp có nợ quá hạn với NHNo&PTNT Việt Nam hoặc các tổ chức tín dụng khác hay doanh nghiệp hoà vốn hoặc lỗ)
Từ 25 – 39 điểm: Doanh nghiệp xếp loại B
Dưới 25 điểm: Doanh nghiệp xếp loại C
Cách tính điểm cụ thể như sau:
Lợi nhuận sau thuế.
Doanh nghiệp có lãi 2 năm liền kề thời điểm vay vốn ( Kể cả doanh nghiệp lỗ được ngân sách cấp bù): 10 điểm.
Doanh nghiếp có lãi 1 năm hoặc hoà vốn: 5 điểm.
Doanh nghiệp lỗ: 0 điểm.
Chú ý: Đối với các doanh nghiệp có lãi 1 năm liền kề với thời điểm vay vốn hoặc hoà vốn nhưng có dự án khả thi, có tín nhiệm với ngân hàng thì tuỳ theo trường hợp cụ thể do giám đốc chi nhánh nơi cho vay quyết định số điểm (tối đa là 10) và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Khả năng thanh toán ngắn hạn
Tổng tài sản lưu động đầu tư ngắn hạn
Tỷ TTNH =
Tổng số nợ ngắn hạn
Tỷ suất thanh toán ngắn hạn từ 1 trở lên: 10 điểm
Tỷ suất thanh toán ngắn hạn từ 0,5 đến dưới 1: 5 điểm
Tỷ suất thanh toán dưới 0,5: 1 điểm
Quan hệ với ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
Thể hiện thông qua số nợ quá hạn:
Không có: 10 điểm
Có từ 6 tháng trở xuống : 5 điểm
Có trên 6 tháng hoặc dưới 6 tháng nhưng khó đòi: 0 điểm
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/ Tổng nguốn vốn
Từ 30% trở lên: 10 điểm (đốivới HTX, DNNQD : từ 50% trở lên)
Từ 10% - 30% : 5 điểm (đối với HTX, DNNQ : từ 30% - 50%)
Dưới 10% : 1 điểm (đối với HTX, DNNQD : dưới 30%)
Doanh thu
Doanh thu lớn hơn hoặc bằng năm trước liền kề: 10 điểm
Doanh thu nhỏ hơn năm trước liền kề: 1 điểm
mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29225.doc