Tài liệu Thực trạng liên kết du lịch sinh thái vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Mà vấn đề cốt lõi là do giữa các điểm du lịch này chưa có sự liên kết tốt, chưa có một hoạch định rõ ràng trong hoạt động. Làm cho du lịch giữa các địa phương trở nên rời rạc, kém chất lượng. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho du lịch ĐBSCL gần như đứng yên không có những bước tiến vượt bật tương xứng với tiềm năng của nó.
Chính vì vậy, vấn đề phát triển du lịch ĐBSCL không thể nào được thực hiện tốt được khi mà vẫn với thói quen “tỉnh nào làm theo tỉnh ấy”. Do vậy, liên kết du lịch chí... Ebook Thực trạng liên kết du lịch sinh thái vùng Đồng bằng sông Cửu Long
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2349 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng liên kết du lịch sinh thái vùng Đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh là một trong những vấn đề quan trọng để phát triển du lịch của mỗi tỉnh nói riêng và du lịch vùng ĐBSCL nói chung. Đây cũng chính là lý do em tiến hành chọn làm đề tài “Thực trạng liên kết du lịch sinh thái vùng Đồng bằng sông Cửu Long” làm chuyên đề nghiên cứu.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung:
Thông qua tìm hiểu, đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái của các tỉnh ĐBSCL, tiến hành phân tích thực trạng liên kết du lịch của một số tỉnh trong vùng mang tính đại diện cao. Trên cơ sở đó sẽ đưa ra những giải pháp, kiến nghị phù hợp tạo sự liên kết du lịch chặt chẽ giữa các tỉnh nhằm tạo sự phát triển một cách đồng bộ, góp phần đưa du lịch sinh thái ĐBSCL lên một tầm cao mới khai thác một cách triệt để những tiềm năng của vùng.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
- Đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái của các tỉnh ĐBSCL.
- Phân tích thực trạng liên kết du lịch sinh thái của các tỉnh ĐBSCL.
- Giải pháp, kiến nghị cho liên kết du lịch sinh thái các tỉnh ĐBSCL.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Phương pháp thu thập số liệu
Chuyên đề được sử dụng phương pháp thu thập thông tin, số liệu thứ cấp trên internet, các loại sách, tạp chí chuyên ngành, các bài viết và những nghiên cứu có liên quan.
3.2. Phương pháp xử lí số liệu
Phương pháp so sánh:
Phương pháp so sánh bằng số liệu tuyệt đối
Phương pháp so sánh bằng số liệu tương đối
Phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá thông qua số liệu và nguồn thông tin thu thập.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Không gian
Các tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, do nghiên cứu hạn hẹp nên chỉ tiến hành nghiên cứu trên một số tỉnh mang tính đặc thù có tính bao quát như (Bến Tre, VĩnhLong, Tiền Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp)
4.2. Thời gian
Thời gian tiến hành nghiên cứu đề tài từ ngày 1/6 đến 30/6 năm 2009
Số liệu nghiên cứu được thu thập qua 3 năm 2006, 2007, 2008.
4.3. Đối tượng nghiên cứu
Loại hình du lịch sinh thái tại các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH SINH THÁI, MỘT SỐ NGUÔNG TÀI NGUYÊN DU LỊCH CỦA ĐBSCL
1.1 Các khái niệm
1.1.1 Du lịch
Có rất nhiều định nghĩa về du lịch, sau đây là những định nghĩa về du lịch tương đối đầy đủ và được sử dụng nhiều nhất.
Hội nghị Liên hợp Quốc tế về Du lịch ở Roma năm 1963 đã đưa ra định nghĩa: "Du lịch là tổng hòa các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ"
Định nghĩa của Hội nghị Quốc tế về thống kê du lịch ở Owata, Canada (tháng 06/1991): "Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm."
Theo Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam, tại điều 10 thuật ngữ "Du lịch" được hiểu như sau: "Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định."
(Nguồn: Gv Phạm Lê Hồng Nhung (2008). Bài giảng kinh tế du lịch)
Du lịch là đi đến một nơi khác xa nơi thường trú, để giải trí, nghỉ dưỡng… trong thời gian nhàn rỗi. Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là làm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.
(Nguồn: Bách khoa toàn thư Wikipedia)
Như vậy, có thể thấy rõ du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch vừa có đặc điểm của ngành kinh tế, vừa mang đặc điểm của ngành văn hóa - xã hội.
1.1.2 Du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương.
Hiện nay, du lịch sinh thái là một loại hình được nhiều du khách cả nội địa và quốc tế ưa chuộng. Bởi vì với tốc độ cuộc sống diễn ra nhanh như hiện nay cùng với môi trường công nghiệp hóa và đô thị hóa thì nhu cầu nghỉ ngơi và giải trí của họ rất cao. Mà du lịch sinh thái thỏa mãn tốt những mong muốn đó. Nên hiện nay du lịch sinh thái là sự lựa chọn tuyệt vời cho quyết định đi du lịch.
Số lượng du khách mong muốn được tìm hiểu thiên nhiên thông qua du lịch sinh thái ngày càng tăng. Du khách sinh thái đặc biệt quan tâm tìm hiểu thiên nhiên, tìm hiểu cuộc sống thực của người dân nông thôn. Họ muốn nhìn thấy, cảm nhận, và tìm hiểu được sự hoang dã của thiên nhiên. Tuy là ngành du lịch sinh thái có trách nhiệm cung cấp dịch vụ, xây dựng các chương trình và đưa ra các điểm tham quan để đáp ứng nhu cầu, đồng thời chúng ta phải tìm hiểu ý nghĩa xã hội, môi trường và kinh doanh của loại hình hoạt động đang phát triển này. Thế nhưng hiện nay có rất ít những nghiên cứu chi tiết về cơ cấu thị trường của ngành du lịch sinh thái này.
1.1.3 Tài nguyên du lịch
Tài nguyên tự nhiên
Tài nguyên tự nhiên là các đối tượng và hiện tượng trong môi trường tự nhiên bao quanh chúng ta. Tự nhiên tác động đến người quan sát qua hình dạng bên ngoài của bản thân nó.
Khi nói đến tài nguyên tự nhiên, người ta thường xét đến từng thành phần của tự nhiên, các thể tổng hợp tự nhiên và các hiện tượng đặc sắc của thiên nhiên. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến điểm du lịch, góp phần tạo nên phong cảnh và sự đa dạng của phong cảnh nơi đó.
Tài nguyên tự nhiên bao gồm các yếu tố: địa hình, khí hậu, thủy văn, thế giới động, thực vật. Mỗi yếu tố có sự tác động khác nhau đối với hoạt động du lịch tùy thuộc vào loại hình du lịch và những đặc tính riêng của loại hình đó.
Tài nguyên nhân văn
Nhóm tài nguyên nhân văn do con người tạo ra, hay nói cách khác nó là nhóm đối tượng và hiện tượng do con người tạo ra một cách nhân tạo. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho tài nguyên du lịch nhân văn có những đặc điểm khác biệt so với nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên.
Giá trị văn hóa lịch sử, các thành tựu chính trị và kinh tế có ý nghĩa đặc trưng cho sự phát triển của du lịch ở một địa điểm, một vùng hoặc một đất nước. Chúng có sức hấp dẫn đặc biệt với số đông khách du lịch với nhiều nhu cầu và mục đích khác nhau của chuyến đi du lịch.
Các tài nguyên có giá trị lịch sử có sức thu hút đặc biệt đối với du khách có trình độ cao, ham hiểu biết. Các tài nguyên có giá trị văn hóa thu hút khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu. Ngoài ra, các thành tựu kinh tế của đất nước hoặc vùng có sức hấp dẫn đối với phần lớn khách du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm các dạng sau: di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội, nghề và làng nghề thủ công truyền thống, các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học, các đối tượng văn hóa nghệ thuật, thể thao hay những hoạt động có tính nhận thức khác.
1.2. Du lịch sinh thái ĐBSCL và những mặt đạt được
1.2.1 Giới thiệu về tiềm năng du lịch sinh thái ĐBSCL
ĐBSCL có nhiều cảnh quan độc đáo, là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô giá. Thật vậy, lưu vực sông Cửu Long ngày càng được quan tâm trong tuyến du lịch xanh, hằng năm đón hàng trăm nghìn lượt khách nước ngoài đến đây. Do cảnh quan thiên nhiên nhiệt đới đất rừng phương Nam ưu đãi cho vùng đồng bằng phì nhiêu đa dạng tính sinh học, lắm vẻ mỹ quan, cỏ cây hoa trái, chim muông, khí hậu trong lành thoải mái chưa bị can thiệp nhiều bởi bàn tay con người; với núi non, sông biển đượm màu sắc rực rỡ luôn gắn bó cùng đất nước mang những thần tích, huyền thoại.
Thiên nhiên ban tặng cho vùng đất này sự phì nhiêu, màu mỡ, quanh năm cây trái xanh tốt. Với hơn 40 nghìn héc-ta cây ăn trái, với hệ thống kênh rạch chằng chịt đã hình thành sức hấp dẫn đặc trưng. Tham quan du lịch ĐBSCL, khách du lịch có thể len lỏi trong rừng tràm bạt ngàn với nhiều loại thủy sinh, chim cò, để được đến với tắm mình trong thiên nhiên an lành. Hệ thống kênh rạch đặc thù cũng đã hình thành nên những khu chợ nổi ở những giao điểm của các nhánh sông để trao đổi hàng hóa tạo nên nét đẹp không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được nhiều quốc gia trên thế giới biết đến.
Là vùng đồng bằng, nhưng miền Tây cũng hấp dẫn du khách bằng những dãy núi trập trùng, hữu tình với nhiều câu chuyện kỳ bí và đến các huyện đảo để chứng kiến cuộc sống của người dân xứ biển sinh sống bằng nghề đánh bắt thủy sản, thưởng thức những loại hải sản tươi nguyên vừa được mang từ dưới biển lên.
Phần lớn du khách trong và ngoài nước đến ĐBSCL là muốn tìm tòi, bồi dưỡng kiến văn, tình cảm, di dưỡng tinh thần sau những tháng ngày lao động vất vả trong cuộc sống đời thường. Một trong những nét đẹp hấp dẫn nhất hiện nay là những sân chim, vườn cò. Nổi bật và mang tính biểu trưng là Tràm chim Đồng Tháp, Sân chim Bạc Liêu, Vườn cò Bằng Lăng (Cần Thơ), cù Lao Thới Sơn (Tiền Giang)…Ngoài ra, du khách cung có thể đến tham quan một số làng nghề truyền thống như mỹ nghệ, kẹo dừa (Bến Tre); nghề làm gốm (Vĩnh Long); …
Mỗi tỉnh thuộc ĐBSCL là một miền đất với những tiềm năng riêng biệt, mang đến cho du khách những khoảng thời gian thư giãn và những ấn tượng sâu sắc cho du khách.
Có thể nói ĐBSCL là vùng đất hội tụ vẻ đẹp của các vùng khác trong cả nước, nhưng nó cũng có nét độc đáo riêng, khó hòa lẫn, mỗi tỉnh có một vẻ đẹp đặc thù của nó mà thiên nhiên đã ban tặng. Đúng với tên gọi là vùng đất Chín Rồng, ĐBSCL một trong những trọng điểm du lịch thu hút số lượng lớn du khách trong và ngoài nước.
1.2.1.Giới thiệu một số những địa điểm du lịch sinh thái hấp dần ở ĐBSCL
Chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ)
Cái Răng là một trong những chợ trên sông nổi tiếng ở miền Tây Nam Bộ. Chợ chuyên mua bán các loại trái cây, nông sản của vùng. Vào buổi sáng, hàng trăm chiếc thuyền lớn bé đậu san sát. Bán sản vật gì người ta treo sản vật đó lên cây sào trên mũi thuyền. Mua hàng ở đây không cần phải rao như các chợ trên đất liền. Chợ nổi ở đây có bán đủ các loại hàng hóa, sản phẩm, các loại trái cây. Ngoài ra nơi đây còn có nhiều loại dịch vụ khác: phở, hủ tiếu, cà phê, quán nhậu nổi... Các xuồng dịch vụ phục vụ khách đi chợ tận tình và chu đáo, ngay cả khi sóng rập rình. Sự độc đáo của chợ nổi đã để lại nhiều ấn tượng cho du khách nước ngoài, họ quay phim chụp ảnh liên tục những cảnh sinh hoạt rất thực của người dân miền sông nước, đây được xem là một điều thú vị với du khách mà đặc biệt là những du khách nước ngoài. Chợ Cái Răng thường họp khá sớm, thường từ lúc mờ sáng và đến khoảng 8, 9 giờ thì vãn. Trên sông có đủ các loại ghe bầu lớn nhỏ để mua lại các mặt hàng về bán lại cho người dân miệt vườn ở xa
Trên miền sông nước của các tỉnh miền Tây Nam Bộ, chiếc xuồng là phương tiện đi lại chủ yếu của mỗi gia đình, giống như chiếc xe đạp, xe máy của người dân ở các thành phố. Phần lớn các xuồng đều gắn máy đuôi tôm, thỉnh thoảng mới gặp những xuồng chèo tay và thậm chí cả những xuồng trèo bằng... chân một cách điệu nghệ.
Chính những nét độc đáo này đã giúp chợ nổi Cái Răng là điểm đến hấp dẫn của mọi du khách.
Vườn cò Bằng Lăng (Cần Thơ)
Thuộc Thới Thuận, huyện Thốt Nốt cách Cần Thơ 45 km, vườn rộng hơn 2 ha có trên 20 loài chim, 10 giống cò với số lượng đông hàng chục ngàn con sinh sống trong vườn. Ðó là vườn cò Bằng Lăng của ông Nguyễn Ngọc Thuyền, ngụ tại ấp Thới An (xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt).
Ðàn cò nơi đây được chăm sóc rất chu đáo, cá, tép, cua, tôm, được thả thêm vào mương nước trong vườn để làm thức ăn thêm cho cò. Mỗi ngày từ 6 - 7 giờ sáng cò tỏa ra bay đi kiếm ăn, đến chiều tà (16 - 17 giờ) lại lũ lượt bay về vườn, chen chúc đậu trên những tán cây cao tạo thành cảnh quan độc đáo. Mỗi khi cò về tạo nên cảnh tượng đẹp như tranh vẽ bởi hàng ngàn cánh cò nhỡn nhơ chao nghiêng, gọi đàn sôi động cả khu vực. Ngay khoảnh khắc tuyệt vời đó du khách có thể chụp một bức ảnh lưu niệm để giới thiệu với bạn bè. Vườn cò Bằng Lăng còn hấp dẫn du khách vì các dịch vụ ăn uống rẻ và cung cách phục vụ chu đáo tận tình.
Cù lao Thới Sơn ( Tiền Giang)
Nằm ở hạ lưu sông Tiền, thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.Từ năm 1990 cù lao Thới Sơn được xây dựng thành khu du lịch tìm hiểu về cuộc sống của người dân đồng bằng sông Cửu Long. Sau khi đi bằng một đoạn đò ngắn trên sông Mêkông, du khách có thể tiếp cận với cuộc sống thật của người dân: một căn nhà ngói 3 gian với một gia đình nhiều thế hệ. Những ngôi nhà của người dân Thới Sơn vẫn giữ được nét cổ kính, xưa cũ. Ðiểm du lịch của nhà ông Tám Cho là một tiêu biểu về kiểu nhà xưa. Ngôi nhà của ông được xây dựng với hàng cột gỗ, mỗi mái nhà có chín cây đòn tay bố trí theo thuật phong thủy: Kiên - Trừ - Mãn - Bình - Ðịnh - Chấp - Phá - Nguy - Thành. Trong nhà, cách bài trí cũng theo phong cách cổ với chiếc tủ thờ cẩn xà cừ lóng lánh, tràng kỷ chạm trổ tinh xảo, cùng với đôi liễn chạm câu đối sơn son thếp vàng... Xung quanh nhà là vườn cây cảnh với nhiều cây bonsai được trồng tỉa công phu.
Đây là vùng đất mới, được bồi đắp bởi phù sa sông Tiền nên cây cối xanh tốt quanh năm. Đến đây, du khách có thể tự tay hái trái ngon, nghe nhạc tài tử, thưởng thức những món ăn đậm đà chất Nam bộ và có thể ngủ ngon qua đêm với các gia đình trên đất cù lao này. Hiện nay thì Du lịch Tiền Giang đã xây dựng cù lao Thới Sơn thành 3 khu riêng biệt, có khả năng đón tiếp cùng một lúc từ 300 – 500 khách. Với 5 nhà nghỉ kiểu bungalow đang dược xây dựng trên cù lao. Lượng du khách đến với Thới Sơn ngày càng tăng, đặc biệt là du khách nước ngoài. Thới Sơn thu hút được du khách là nhờ có nhiều sản phẩm du lịch độc đáo, đa dạng, mới lạ, phong cách phục vụ chu đáo. Thới Sơn là một trong nhiều điểm du lịch hấp dẫn ở Tiền Giang.
Chùa Dơi (Sóc TRăng)
Chùa thu hút du khách không chỉ bởi kiến trúc đẹp, cầu kỳ trong một khuôn viên xanh, rộng; mà còn bởi đến đây người ta còn được chiêm ngưỡng một loại dơi quạ, trông rất lạ mắt.
Chùa Ma-ha-tuc hay gọi theo tiếng Việt là chùa Mã Tộc, tọa lạc ở số 73B đường Lê Hồng Phong, phường 3, thị xã Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Trong khuôn viên của chùa sinh sống đàn dơi có đến hàng vạn con, vì thế còn gọi là chùa Dơi. Ở đồng bằng sông Cửu Long có chừng 600 ngôi chùa của đồng bào dân tộc Khmer, thì chùa Dơi nổi lên như một quần thể kiến trúc đẹp vào bậc nhất
Chùa được dựng vào khoảng thế kỷ XVI và đã được trùng tu nhiều lần. Mái chùa gồm hai tầng lớp ngói mầu. Phía đầu hồi, bốn đầu mái được chạm trổ tinh xảo hình rắn cong vút. Trên đỉnh chùa có một ngọn tháp nhọn. Hàng cột đỡ bao quanh chùa, mỗi cột có một tượng tiên nữ đôi tay chắp trước ngực.
Trong chính điện có một pho tượng Phật Thích Ca bằng đá nguyên khối trên một tòa sen cao khoảng hai mét. Khắp trên tường chùa là những bức tranh miêu tả cuộc đời Đức Phật.
Dơi trong chùa thuộc loại dơi quạ, có trọng lượng từ 1 - 1,5kg với sải cánh rộng đến 1,5m. Đàn dơi treo mình trên những cành cây trong khuôn viên chùa suốt ngày. Từ khoảng 6 giờ sáng đến 6 giờ 30 chiều dơi bay đi kiếm ăn, để 5 giờ sáng hôm sau lại quay về. Đặc biệt, Dơi không bao giờ ăn các trái cây ở trong chùa.
Với những đặc điểm hấp dẫn như thế hiện nay số lượng du khách đến thăm chùa và tận mắt nhìn đàn dơi quạ ngày càng đông mang đến cho du lịch Sóc Trăng một tiềm năng lớn.
Làng cây trái Cái Mơn (Bến Tre)
Cái Mơn thuộc xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, là khu vực nổi tiếng về trái cây và cây kiểng ở ĐBSCL. Cái Mơn nước ngọt quanh năm, đất đai màu mỡ, cây xanh trái ngọt bốn mùa. Nơi đây hội tụ những nghệ nhân hình thành làng bonsai truyền thồng với thế mạnh là các cây xanh tạo dáng nai, dáng rồng và các cây tắc trĩu quả trong ngày Tết. Đến với vùng đất cây trái này du khách được thoải mái vào nhà vườn tận tay hái những chùm trái chín mộng, tươi mát thưởng thức. Với đặc thù khí hậu cùng điều kiện thổ nhưỡng giúp vùng có thể trông được nhiều loại cây trái suốt bốn mùa, với đủ các chủng loại hấp dẫn làm thỏa mãn thú vui cho du khách. Và đặc biệt vào Mùng 5 tháng 5 hàng năm tại trung tâm huyện Chợ Lách diễn ra lễ hội trái cây ngon thu hút hàng trăm nhà vườn đến tham gia đấu xáo trái cây. Dịp này thu hút hàng ngàn du khách đến tham quan và mua sắm. Đây là điểm mạnh cho du lịch vùng cần phải được tiếp tục phát huy.
CHƯƠNG 2
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ LIÊN KẾT DU LỊCH SINH THÁI TẠI CÁC TỈNH ĐBSCL
2.1 Tình hình liên kết du lịch sinh thái các tỉnh ĐBSCL hiện nay
ĐBSCL là khu vực có tiềm năng du lịch khá đa dạng, có điều kiện phát triển mạnh loại hình du lịch sông nước, du lịch sinh thái với hệ thống sông ngòi chằng chịt, vườn cây ăn trái, sân chim; hệ thống biển, đảo, đồi núi và hàng trăm di tích lịch sử, văn hóa hoặc du lịch cộng đồng gắn kết với lợi ích của dân cư địa phương. Thế nhưng hiện nay, các tỉnh thành ĐBSCL chưa khai thác đúng mức tiềm năng đó thành sản phẩm du lịch hấp dẫn. Chính vì vậy, lượng khách trong nước và quốc tế đến tham quan và đi du lịch tại ĐBSCL hiện nay rất ít. Theo số liệu cho thấy một tỉ lệ nhỏ khoảng 15% khách du lịch đến ĐBSCL so với lượng khách du lịch của cả nước. Đây là một vấn đề cần được quan tâm giải quyết vì thực chất tiềm năng du lịch của vùng theo đánh giá là rất lớn.
Tổng cục du lịch Việt Nam có kế hoạch phát triển vùng du lịch này. Nhưng theo thông tin từ các công ty lữ hành quốc tế cung cấp phần lớn du khách quốc tế đến du lịch ĐBSCL chỉ dừng lại ở Mỹ Tho hoặc cùng lắm đến Cần Thơ trong khi tiềm năng du lịch sinh thái của các tỉnh khác ở ĐBSCL còn rất nhiều và cơ hội phát triển rất cao. Điều này cho ta thấy sự phát triển không đồng bộ giữa các tỉnh trong khu vực.Theo số liệu thống kê năm 2006, vùng ĐBSCL đón tiếp 5 triệu lượt khách du lịch trong nước và 1,5 triệu lượt du khách quốc tế. Khách du lịch tập trung với số lượng khá lớn ở một số khu vực Cần Thơ, Tiền Giang, Kiên Giang, An Giang. Còn một số tỉnh khác như Bến Tre, Trà Vinh,Vĩnh Long thì lượng du khách còn chưa cao.
Bảng 1: Số lượng du khách đến một số tỉnh ĐBSCL năm 2006
Tỉnh
Lượng du khách
Nội địa
Quốc tế
Tổng
Cần Thơ
440.540
134.700
575.240
Tiền Giang
197.971
321.340
519.131
An Giang
1.345.000
615.000
2.025.000
Kiên Giang
1.090.041
338.959
1.429.000
Bến Tre
206.500
138.500
345.300
Vĩnh Long
300.522
137.676
461.064
(Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch các tỉnh ĐBSCL)
Đến năm 2008 một số tỉnh có kinh tế du lịch phát triển mạnh, số lượng du khách cả nội địa và quốc tế điều tăng nhanh. Bến Tre đón nhận khoảng 415.000 lượt khách du lịch, tăng 10,1%; doanh thu ước đạt 158,6 tỷ đồng, tăng 22,6% so với cùng kỳ. Thống kê đến 1/2009 đến nay, lượng khách du lịch đến Bến Tre đã tăng gấp 3 lần so với cùng kỳ, đạt khoảng 213.000 du khách, trong đó có gần 70.781 lượt khách quốc tế.
Năm 2008 Tiền Giang thống kê khoảng 750 ngàn lượt khách, trong đó trên 60% khách quốc tế. Cụ thể năm 2008 Tiền Giang đón gần 800 ngàn lượt khách du lịch, tăng 13,01% so với năm 2007, trong đó có 470 ngàn lượt khách quốc tế. Trong năm du lịch.
Quốc gia 2008, doanh thu của ngành du lịch của Vĩnh Long đạt 76 tỷ đồng, tăng 113% so với năm 2007. Tỉnh Vĩnh Long hiện có 5 doanh nghiệp du lịch hoạt động du lịch lữ hành quốc tế và một doanh nghiệp lữ hành nội địa, 51 cơ sở khách sạn đạt chuẩn với 781 phòng. Trong năm, Vĩnh Long đã đón 431.700 lượt khách , trong đó có 155.162 lượt khách quốc tế. (Thống kê Sở Văn Hóa-Thể Thao- Du lịch Vĩnh Long).
Riêng TP Cần Thơ một quả tim của nên du lịch ĐBSCL theo số liệu thống kê cho thấy lượng khách quốc tế đến với Cần Thơ chỉ chiếm 4.31% tổng số khách quốc tế đến số Việt Nam. Đây thực sự là một thách thức đối với du lịch Cần Thơ cần quan tâm giải quyết. Nhưng so thống kê năm 2007 thì khách quốc tế đến Cần Thơ chỉ đạt 3.68% so với cả nước thì vấn đề này từng bước được khắc phục hiệu quả.
Hiện nay, tốc độ tăng trưởng bình quân của du lịch ĐBSCL hàng năm từ 15-20% nhưng chưa tạo được bước đột phá thu hút du khách ở lại dài ngày. ĐBSCL tăng trưởng GDP 10% - 11%
Các tỉnh trong khu vực đều lấy mô hình du lịch miệt vườn để khai thác, nhân rộng đại trà, giống nhau một cách tự phát và thiếu kiểm soát, tạo ra sự đơn điệu và gây nên tâm lý nhàm chán cho du khách. Phần lớn các tỉnh chưa tạo ra nét riêng từ những điểm chung đó để phát huy thế mạnh du lịch cho riêng tỉnh mình. Vẫn với hình thức kinh doanh truyền thống, mỗi vùng theo kiểu riêng của mình mà làm xem nhẹ vấn đề liên kết. Hiện nay, nhiều nhà vườn chạy theo lợi nhuận và thị hiếu nhất thời đã có những cách thức kinh doanh chỉ với mục tiêu lợi nhuận, chạy theo nhu cầu thị trường mà bất chấp hậu quả. Chẳng hạn một số chủ vườn làm du lịch sinh thái cố gắng nhồi nhét trong khu vườn của mình nhiều chủng loại cây hoặc nhiều loại dịch vụ vui chơi, giải trí nhưng thật sự họ chưa thấy được tính không thích hợp. Những việc làm ăn cá nhân của họ đã trực tiếp hoặc gián tiếp phá vỡ tính liên kết hoạt động du lịch, để lại những hình ảnh không tốt cho du lịch ĐBSCL nói riêng và du lịch Việt Nam nói chung.
ĐBSCL được biết đến là vùng đất giàu tiềm năng, có nhiều loại hình du lịch phong phú như miệt vườn, sông nước, núi, biển... Tuy nhiên, sản phẩm du lịch chưa rõ ràng và chưa thật sự hoàn thiện đưa vào phục vụ tốt cho du khách. Ngay cả mô hình du lịch miệt vườn cũng chưa đầu tư đúng mức. Chẳng hạn, làng du lịch Mỹ Khánh ở huyện Phong Điền (TP.Cần Thơ) với loại hình nhà vườn, sông nước nhưng đan xen dịch vụ hội nghị, tiệc tùng, karaoke...nhưng đó vẫn được xem là hình thức du lịch sinh thái. Hay vườn cò Thạnh Trị (Sóc Trăng), vốn chỉ có vài đàn cò trong khoảnh vườn nhỏ, thiếu hẳn sự chăm sóc, quy hoạch lâu dài nhưng vẫn trưng bảng du lịch sinh thái lành của miệt vườn. Có chứa đựng yếu tố của loại hình du lịch sinh thái nhưng vẫn chưa được đầu tư, phát triển phù hợp. Điều này cho thấy rõ các tỉnh đã nhận thấy tiềm năng và bắt đầu khai thác nhưng chưa thật sự đúng và phù hợp nên gây ra nhiều hạn chế chưa được giải quyết.
ĐBSCL hầu như địa phương nào cũng lấy điểm nhấn là đưa khách xuống tàu, đò đi tham quan trên các sông rạch nhỏ, len lỏi vào các thôn xóm, làng xã, chợ nổi và ghé thăm vườn cây ăn trái. Những người đi du lịch cho rằng sản phẩm du lịch dường như vẫn rất ít thay đổi. Đi thuyền trên sông, thăm vườn cây ăn trái, ăn cơm, nghe đờn ca tài tử. Tức là chỉ khai thác những cái sẵn có, còn cái đặc sắc của từng vùng chưa hề được đầu tư. Điển hình, 21 điểm du lịch ở 4 xã cù lao thuộc huyện Long Hồ (Vĩnh Long) cũng na ná nhau: vườn cây, hoa kiểng, sông nước, đờn ca tài tử.
Mà hiện nay các chương trình liên kết du lịch giữa các tỉnh trong khu vực chưa thật sự đạt hiệu quả cao. Thông thường vẫn là hình thức hợp tác ngắn hạn trong những thời vụ du lịch nở rộ hay vào thời gian có sự kiện du lịch đặc biệt trong vùng diễn ra. Mà vấn đề liên kết này đòi hỏi phải được tiến hành thực hiện trong khoảng thời gian dài hạn, nhằm đảm bảo được tính gắn kết thật sự chặt chẽ và bền vững.
Vấn đề quan trọng của ngành là phải tạo những sản phẩm đặc trưng và độc đáo, phù hợp với từng loại đối tượng du khách. Thế nhưng, 13 tỉnh vùng đồng bằng sông nước vẫn chưa thực hiện được điều đó. Hiện tượng các tour chồng chéo, lặp đi lặp lại... Thậm chí, một nơi nào đang hút khách thì nơi khác tiến hành ý tưởng kinh doanh một cách khuông khổ máy móc hoàn toàn, gây nhàm chán với du khách. Và đây cũng chính là lí do mà thời gian qua, lượng khách quốc tế đến vùng ĐBSCL chỉ chiếm khoảng 15% so với lượng khách cả nước. Trên 95% số khách này là do các doanh nghiệp ở TP Hồ Chí Minh và Hà Nội đưa đến. Các doanh nghiệp lữ hành của ĐBSCL chủ yếu chỉ đóng vai trò nối tua cho các doanh nghiệp lữ hành trong nước. Hiện nay, 13 tỉnh, thành ĐBSCL mới có 18 doanh nghiệp lữ hành quốc tế trong tổng số 629 doanh nghiệp của cả nước, chiếm khoảng 2,8%. Trong đó, Tiền Giang có đến 9 doanh nghiệp, chiếm phân nửa số doanh nghiệp lữ hành quốc tế của cả vùng. Cần Thơ, thành phố lớn trung tâm của vùng, chỉ có 1 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, 6 tỉnh trong vùng chưa có doanh nghiệp lữ hành quốc tế là: Long An, Bạc Liêu, Cà Mau, Hậu Giang, Trà Vinh và Sóc Trăng.
Chính từ những đầu tư thiếu đồng bộ, liên kết giữa các tỉnh lại rất kém trong tình hình kinh tế phát triển nhanh và đòi hỏi xã hội cao như hiện nay. Một nhận định chung về liên kêt du lịch tai khu vực ĐBSCL hiện nay còn rất hạn chế. Với sợi dây liên kết mỏng như thế này thì không thể nào giúp đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng du lịch của vùng được. Các tour liên kết tuyến du lịch trong vùng qua ít, hình thức chưa thật hấp dẫn và gây ấn tượng sâu sắc đối với khách du lịch. Do vậy, để phát triển đông bộ du lịch vùng đòi hỏi các tỉnh nói chung và mỗi địa phương nói riêng cần phải có những thống nhất liên kết bền vững nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch vùng đất tiềm năng này.
2.2 Nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém trong liên kết du lịch sinh thái ĐBSCL
Tiềm năng du lịch ĐBSCL thì rất lớn nhưng khai thác sử dụng thì hiệu quả không cao. Nguyên nhân của tình hình trên được nhiều đại biểu tham dự hội thảo phát triển du lịch ĐBSCL lý giải với những ý kiến từ những khía cạnh khác nhau.
Trước hết, do chưa có những định hướng liên kết bền vững, lâu dài từ phía các cơ quan chuyên ngành lãnh đạo. Đồng thời, chưa có những hướng dẫn thực hiện cụ thể cho từng vùng, từng địa phương trong những giai đoạn khác nhau. Hạn chế lớn của du lịch các tỉnh là rời rạc trong hoạt động kinh doanh, chính vì vậy nên vai trò định hướng càng trở nên quan trọng hơn hết. Nó đóng vai trò như một đầu tàu định đích đến cuối cùng cho cả toa tàu phía sau. Đầu tư cho liên kết còn rất han chế và phân bổ không đồng đều cho các vùng. Các nguồn đầu tư phải mất những khoảng thời gian khá lâu để huy động được. Nhưng đây lại là hoạt động không thể trì hoản lâu được nó mang tính cấp thiết.
Lực lượng tham gia hoạt động kinh doanh du lịch cũng ảnh hưởng khá lớn đến chất lượng liên kết du lịch của khu vực. Đội ngũ nhân lực đảm nhận công tác du lịch của cả vùng còn quá ít, thiếu chuyên nghiệp, chưa chủ động, thương hiệu du lịch trong vùng cũng chưa vững. Nhưng vấn đề đáng quan tâm nhất là tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực của vùng vì đây là những người trực tiếp mang những sản phẩm du lịch đến giới thiệu và phục vụ cho du khách. Lực lượng lao động ở ĐBSCL chiếm 21,44% so với lực lượng lao động cả nước. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm 83,25% (tỷ lệ chung cả nước là 74,6%). Nhưng theo kết quả thống kê được thì trong tổng số 100% cơ cấu tham gia ngành du lịch tại ĐBSCL thì tỉ lệ 11,3% có trình độ đại học và trên đại học; trình độ cao đẳng và trung cấp 25,37%; đã qua đào tạo du lịch 21,74%; tỉ lệ chưa qua đào tạo khá cao 41,59%. Và một yếu kém đáng lo cho du lịch, theo thống kê của Tổng cục du lịch có hơn 45% hướng dẫn viên và nhân viên điều hành tour chưa thông thạo tiếng Anh, tỉ lệ này ở nhân viên lễ tân chiếm 69% và nhân viên nhà hàng gần 90%. Ngành du lịch vùng đang thiếu trầm trọng đội ngũ nhân viên biết các thứ tiếng Nhật, Hàn,…Do đó, khả năng thu hút khách trực tiếp còn rất yếu.Và đây thực sự là những con số đáng quan tâm của du lịch vùng, khi muốn liên kết du lịch vùng chặt chẽ hơn thì yêu cầu đặt ra là đội ngũ nhân viên phải có đủ trình độ và năng lực đảm nhiệm những công việc đó.
So với nhiều vùng trong cả nước, du lịch ĐBSCL có nhiều tiềm năng để phát triển. Nhưng thực tế vẫn còn rất đơn điệu, rời rạc, tốc độ tăng trưởng chậm. Nhiều khách nước ngoài đến với ĐBSCL chủ yếu trong tâm trạng tìm lại quá khứ của cuộc chiến tranh, hoặc dò tìm vùng đất chưa được biết tường tận. Điều này có nghĩa ĐBSCL chưa hình thành thị trường du lịch hấp dẫn, lợi thế từ tiềm năng sông nước, đất đai trù phú và đa dạng hệ sinh thái chưa được kết tinh thành những sản phẩm du lịch có tầm vóc để thu hút và lôi cuốn du khách. Các sản phẩm du lịch đơn sơ, chủ yếu lợi dụng yếu tố thiên nhiên và tài sản riêng lẻ của các hộ dân để khai thác, chưa có quy hoạch và đầu tư hợp lý, làm cho sản phẩm, đơn điệu, thiếu các điều kiện sinh hoạt căn bản gây ấn tượng không đẹp trong mắt khách du lịch về du lịch đồng bằng.
Du lịch ĐBSCL hiện tại đang tự phát. Mỗi địa phương tự làm, tổ chức tour tuyến chủ yếu là nối tour với TP.HCM, chứ chưa thật sự phát huy được thế mạnh của vùng. Các đơn vị cạnh tranh chứ chưa chú ý tạo ra sản phẩm du lịch, nên chưa có sản phẩm du lịch độc đáo, thể hiện nét riêng của từng địa phương, nếu có thì trùng lắp. Chưa có tour cao cấp. Thị trường khách xuất chủ yếu làm đại lý, còn khách nhập thì nối tua. Thương hiệu ĐBSCL đã sớm hình thành nhưng vẫn còn rất mờ nhạt. Các sản phẩm du lịch của nhiều địa phương quá giống nhau mà không có nét đột phá riêng, chưa nắm bắt được tâm lí, nhu cầu của du khách.
Bên cạnh đó , yếu tố ý thức du lịch của người dân địa phương hiện nay chưa cao. Vấn đề khai thác kinh doanh du lịch đối với họ chỉ là hình thức kinh doanh mang tính lợi nhuận hơn so với ý nghĩa lớn đối với vùng về nhiều mặt văn hóa- xã hội. Hay đúng hơn người dân địa phương chưa thật sự hiểu đúng và đủ ý nghĩa của du lịch sinh thái vùng. Quan niệm liên kết du lịch đối với họ mang ý nghĩa trước tiên là không tốt sẽ như chia một phần lợi nhuận của họ cho đối tượng hợp tác. Chính từ những tư tưởng lệch lạc này đã làm cho liên kết du lịch vùng khó có thể nâng cao hơn, bởi vì lực lượng làm du lịch tại ĐBSCL đa phần là người dân địa phương làm tại gia. Họ chỉ học tập hay sao chép lại những hình thức làm du lịch mà từ bên ngoài họ nhìn thấy mang đến hiệu quả chư không tiến hành nghiên cứu.
Theo khảo sát của Cty dịch vụ Lữ hành SaiGonTuorist -một doanh nghiệp đã nhiều năm khai thác tuyến điểm tham quan ĐBSCL, thì nhiều du khách cả trong và ngoài nước đang than phiền tình trạng nhiều điểm tham quan du lịch tại ĐBSCL đang dần bị thương mại hóa, các Tour chồng chéo, lặp đi lặp lại. Đáng chú ý hơn là tình trạng cò du lịch đang ngày càng hoạt động khá mạnh ở ĐBSCL, chèo kéo, gây khó chịu cho các du khách trong và ngoài nước. Vẫn chưa có qu._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NGOC_LINHnop_-CHINH_QUY.doc