Thực trạng lạm phát và các giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam thời gian vừa qua

LỜI MỞ ĐẦU Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ: làm suy vong nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày cà

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1501 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng lạm phát và các giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam thời gian vừa qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng leo thang. Hiện tượng lạm phát là một hiện tượng có nguyên nhân là sự tác động tổng hợp của các yếu tố cung, cầu và xu hướng tâm lí của các thành phần kinh tế. Để khắc phục được hiện tượng này, ta cần tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc để rút ra được các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp của nó, lấy đó làm cơ sở để đưa ra các chính sách quản lí vĩ mô thích hợp và tiến hành thực hiện dựa trên tình hình khách quan cụ thể. Lạm phát của Việt Nam tăng cao còn do sự ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới. Bởi vì hiện nay việt Nam đã hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu trong xu hướng toàn cầu hoá, vì vậy khi các nền kinh tế lớn gặp trục trặc thì ảnh hưởng nhiều đến kinh tế Việt Nam. Trước xu hướng lạm phát gia tăng – vấn đề nổi bật ở Việt Nam trong năm 2008, nhóm nghiên cứu chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu “Lạm phát và các giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam thời gian vừa qua”. Tiểu luận được chia làm 3 phần như sau: Phần 1: Lý thuyết chung về lạm phát Phần 2: Thực trạng lạm phát và các giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam thời gian vừa qua. Phần 3: Một số đề xuất, kiến nghị về các giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam PHẦN I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ LẠM PHÁT 1. Khái niệm và Phân loại lạm phát. 1.1. Khái niệm: - Lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung. - Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô và sự biến động của nó phản ánh quy mô và xu hướng của lạm phát. Đó chính là tốc độ tăng mức giá chung của thời kỳ nghiên cứu so với thời kỳ trước đó. Πt=(Pt-Pt-1)*100/Pt-1 Πt : Tỷ lệ lạm phát Pt: Chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu Pt-1: Chỉ số giá cả của thời kỳ trước đó 1.2. Phân loại lạm phát. Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động đáng kể đối với nền kinh tế Lạm phát phi mã: Xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm. Lạm phát này gây ảnh hưởng nghiêm trọng với nền kinh tế. Siêu lạm phát: là lạm phát rất cao, thường là từ 50% một tháng trở lên. Với mức lạm phát này, sau một năm giá cả hàng hoá tăng gấp khoảng 130 lần. Trên thực tế, siêu lạm phát thường xuất hiện khi chính phủ cần một số lượng lớn tiền để trang trải thâm hụt ngân sách. Siêu lạm phát thường là biểu hiện của mất cân đối ngân sách chính phủ chứ không phải là vấn đề tiền tệ. Trong một thế giới như vậy, những cải cách về ngân sách là cần thiết để đưa ngân sách chính phủ trở về thế cân bằng, tránh dựa dẫm quá nhiều vào thuế đúc tiền, và như vậy, sẽ khôi phục được niềm tin của dân cư vào chính phủ. 2. Một số lý thuyết và quan điểm lý giải những nguyên nhân gây ra, duy trì và thúc đẩy lạm phát. 2.1. Lạm phát cầu kéo: Lạm phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Lượng tiền trong lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả năng có giới hạn của mức cung hàng hoá. 2.2. Lạm phát chi phí đẩy: Lạm phát chi phí đẩy xảy ra khi giá cả các yếu tố đầu vào (tiền lương, nguyên liệu…) tăng lên và đường tổng cung dịch chuyển sang trái. Lạm phát cao đi liền với sản xuất đình trệ và thất nghiệp gia tăng, nên còn được gọi là lạm phát đình trệ. Các cơn sốt của thị trường đầu vào, đặc biệt là giá cả của xăng dầu, điện… là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đẩy đường tổng cung dịch chuyển sang trái. Tuy tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả đã tăng lên và sản lượng giảm xuống. 2.3. Lạm phát ỳ: Trong nền kinh tế thị trường, trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, với lạm phát vừa phải, giá cả tăng với một tỷ lệ tương đối ổn định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ, vì mọi người đã có thể dự tính trước mức độ của nó nên còn gọi là lạm phát dự kiến. Mọi hoạt động kinh tế đã được tính toán điều chỉnh (điều chỉnh lãi suất danh nghĩa, tiền lương danh nghĩa, các khoản chi tiêu ngân sách…). Lạm phát dự kiến xảy ra khi đường AS và đường AD dịch chuyển lên trên với cùng một tốc độ, vì lạm phát đã được dự kiến nên chi phí sản xuất cũng như nhu cầu chi tiêu đều được điều chỉnh cho phù hợp với tốc độ lạm phát nên sản lượng vẫn giữ nguyên, nhưng giá cả đã tăng lên theo dự kiến. 2.4. Lạm phát và tiền tệ: Tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào các nhân tố ngoại sinh như tăng dân số và tiến bộ công nghệ. Do đó, tỷ lệ lạm phát phụ thuộc vào tốc độ tăng của cung tiền. Nếu ngân hàng trung ương giữ cung tiền ổn định, giá cả cũng sẽ ổn định. Nói cách khác, nếu muốn tỷ lệ lạm phát bằng không, ngân hàng trung ương chỉ cần tăng cung tiền với tỷ lệ đúng bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong trường hợp đó, mỗi năm sẽ có thêm một lượng tiền vừa đủ để đáp ứng yêu cầu tiền tăng do có thêm giao dịch. 2.5. Lạm phát và lãi suất: - Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất chưa được loại trừ ảnh hưởng của lạm phát. - Lãi suất thực tế: là lãi suất đã được loại trừ ảnh hưởng của lạm phát Công thức điều chỉnh lãi suất danh nghĩa theo lạm phát là: r= i- π Hiệu ứng Fisher: Lưu ý rằng chúng ta rút ra hai hệ quả khi tiền tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn. Thứ nhất, theo lý thuyết số lượng, tăng tỷ lệ tăng cung tiền 1% thì tỷ lệ lạm phát cũng tăng 1%. Thứ hai điều này cũng hàm ý rằng lãi suất danh nghĩa cũng cần tăng 1%. Mối tương quan một- một giữa tỷ lệ lạm phát với lãi suất danh nghĩa được gọi là hiệu ứng Fisher. Phân tích ở trên thực ra không hoàn toàn thoả đáng. Khi mọi người ra quyết định cho tương lai, họ không biết chính xác tỷ lệ lạm phát sẽ là bao nhiêu. Điều này hàm ý rằng chúng ta phải sử dụng tỷ lệ lạm phát dự kiến chứ không phải là tỷ lệ lạm phát thực tế. Do vậy, lãi suất thích hợp đề điều chỉnh hành vi của các nhà tiết kiệm và đầu tư là lãi suất thực tế dự kiến được tính như sau: re= i- πe Còn chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát thực tế được gọi là lãi suất thực tế thực hiện. Phân tích ở trên cho thấy tiền đóng vai trò là phương tiện cất trã giá trị. Trong thời gian có lạm phát, chức năng này ít phát huy tác dụng. Nếu giá cả tăng, một đồng mua được ngày càng ít hàng hoá hơn. Lạm phát làm giảm giá trị của tiền gợi ra rằng nếu tỷ lệ lạm phát cao, dân cư sẽ ít giữ của cải dưới hình thái tiền tệ. Lợi thế của tiền là nó rất tiện lợi trong giao dịch. Tuy nhiên, nó cũng có những bất lợi đi kèm: nếu một cá nhân giữa của cải dưới hình thái tiền tệ, ảnh ta bỏ quên tiền lãi mà anh ta có thể nhận được nếu như giữ trái phiếu mà không giữ tiền. Tiền lãi mà lẽ ra anh ta có thể nhận được gọi là chi phí cơ hội của việc giữ tiền. 2.6. Chi phí của lạm phát: Mọi người thường cho rằng lạm phát là một vấn đề kinh tế nghiêm trọng vì khi giá cả tăng, họ không thể mua được lượng hàng hoá và dịch vụ như cũ với mức thu nhập hiện tại của mình. Do vậy, họ tin rằng lạm phát trực tiếp làm giảm mức sống. Tuy nhiên, quan điểm này không đúng vì mọi người kiếm được thu nhập nhờ việc bán các dịch vụ, chẳng hạn lao động. Thu nhập danh nghĩa thường tăng cùng giá cả. Bởi vậy, nhìn chung lạm phát không ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập thực tế của mọi người. Tuy nhiên, lạm phát có thể gây ra một số tác hại mà chúng ta không dễ phát hiện: - Chi phí mòn giày: Lạm phát cao hơn làm tăng lãi suất danh nghĩa mà hệ quả là mọi người sẽ giảm số tiền nắm giữ. Nếu mọi người giữ số dư tiền thực tế ít hơn, thì họ phải đến ngân hàng thường xuyên hơn để rút tiền. Điều này không hề thuận tiện và nó dẫn đến chi phí mòn giày. - Chi phí thực đơn: Lạm phát cao hơn làm cho các doanh nghiệp thay đổi giá cả thường xuyên hơn. Việc làm này là tốn kèm nếu họ phải in lại biểu giá và cataloge - Giá cả tương đối biến động mạnh hơn: Nếu các doanh nghiệp thay đổi giá cả không thường xuyên thì lạm phát sẽ làm cho giá cả tương đối biến động nhiều hơn. Do nền kinh tế thị trường dựa vào giá cả tương đối để phân bổ nguồn, lạm phát dẫn đến tính phi hiệu quả xét từ góc độ kinh tế vi mô. - Thay đổi gánh nặng thuế: nhiều luật thuế không tính đến tác động của lạm phát. Do đó, lạm phát có thể làm thay đổi gánh nặng thuế của các cá nhân và doanh nghiệp, ngoài dự kiến ban đầu của các nhà làm luật. Lạm phát ảnh hưởng đến hai loại thuế đánh vào tiết kiệm: + Lãi vốn là những khoản thu nhập có được từ việc bán một tài sản với giá cao hơn giá mua vào. Lãi vốn danh nghĩa là đối tượng chịu thuế. Giả sử bạn mua vào một cổ phiếu giá 20 đồng và bán cổ phiếu với giá 50 đồng. Nếu mức giá tăng gấp đôi trong thời gian sở hữu cổ phiếu đó, thì bạn chỉ thu được một khoản lãi thực tế trên vốn là 10 đồng nhưng bạn phải đóng thuế trên khoản thu nhập danh nghĩa là 30 đồng, vì luật thuế không tính đến lạm phát. + Tiền lãi danh nghĩa cũng bị đánh thuế, cho dù một phần tiền lãi danh nghĩa là để bù đắp lạm phát. Khi chính phủ đánh thuế theo một tỷ lệ phần trăm cố định của tiền lãi danh nghĩa, thì tiền lãi thực tế sau thuế giảm khi lạm phát tăng. Nguyên nhân ở đây là lãi suất danh nghĩa tăng theo tỷ lệ một- một với lạm phát và thuế tăng cùng với lãi suất danh nghĩa, làm cho lãi suất thực tế trước thuế không bị tác động bởi lạm phát. Kết quả là lãi suất thực tế sau thuế giảm Do thuế đánh trên lãi về vốn danh nghĩa và tiền lãi danh nghĩa cho nên lạm phát làm giảm lợi tức thực tế sau thuế từ tiết kiệm. Vì vậy, lạm phát làm cản trở tiết kiệm và tăng trưởng kinh tế. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng cách áp dụng chỉ số trượt giá trong hệ thống thuế sao cho thuế chỉ còn đánh vào thu nhập thực tế. - Sự nhầm lẫn và bất tiện: Với tư cách đơn vị hạch toán, tiền là một thước đo mà chúng ta sử dụng để đo lường và tính toán các giao dịch kinh tế. Khi ngân hàng trung ương tăng mức cung tiền và gây ra lạm phát, giá trị của tiền giảm và thước đo kinh tế này bị co lại. Điều này làm cho việc hạch toán lợi nhuận của các doanh nghiệp trở nên khó khăn hơn và việc lựa chọn đầu tư của các doanh nghiệp trở nên phức tạp hơn. Nó cũng làm cho các giao dịch hàng ngày trở nên dế nhầm lẫn hơn. - Tác hại đặc biệt của lạm phát không được dự tính trước- tái phân phối của cải một cách tuỳ tiện: Những tác hại của lạm phát mô tả ở trên tồn tại ngay cả khi lạm phát ổn định và được dự báo trước. Tuy nhiên, khi xảy ra bất ngờ, tức là nằm ngoài dự kiến của mọi người, lạm phát có thể gây ra một tác hại nữa đối với nền kinh tế bởi vì nó tái phân phối của cải một cách tuỳ tiền. Ví dụ, các điều kiện cho vay nói chung được tính theo các giá trị danh nghĩa dựa trên một tỷ lệ lạm phát dự kiến nhất định. Song nếu lạm phát cao hơn so với dự kiến, người đi vay hoàn trả tiền vay bằng những đồng tiền có sức mua thấp hơn dự kiến. Người đi vay được lợi, còn người cho vay bị thiệt. Ngược lại, nếu lạm phát thấp hơn dự kiến, người cho vay được lợi, còn người đi vay bị thiệt, vì người đi vay phải trả tiền vay bằng những đồng tiền có sức mua cao hơn dự kiến. Nếu lạm phát được dự kiến một cách chính xác, thì hiện tượng tái phân phối thu nhập như vậy không xảy ra, cho dù quy mô lạm phát là bao nhiêu. Lạm phát thấp bao giờ cũng tốt hơn, bởi vì nó ổn định hơn và có thể được dự kiến chính xác hơn. PHẦN 2. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VÀ CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM THỜI GIAN VỪA QUA 1. NGUYÊN NHÂN GÂY LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 1.1. Thứ nhất là do giảm nguồn cung của một số mặt hàng thực phẩm thiết yếu, cụ thể: là dịch cúm gia cầm và dịch lợn tai xanh trong nhưng năm 2007 và vẫn còn đang tái phát trong 2008 gần đây nhất là đợt rét đậm, rét hại làm chết 8.328 con trâu bò ở Tây Bắc Bộ 1.2. Thứ hai là lạm phát do cơ cấu: đó là tăng lương cơ bản 20% vào 1/1/2008. Áp lực này vừa là kết quả của lạm phát thời gian qua, lại vừa là một phần nguyên nhân quan trọng cho lạm phát trong thời gian tới. Có thể nói quyết định tăng lương đã hoàn thành chu trình tạo ra lạm phát hiện nay, báo hiệu nguy cơ tự tái tạo của hiện tượng này. Do đó, nếu Chính phủ không tiếp tục chống lạm phát một cách cứng rắn, đạt được mục tiêu trên có thể trở thành một nhiệm vụ khó khăn. 1.3. Thứ ba là do chi phí đẩy: lạm phát của Việt Nam tăng cao còn do sự ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới.Tình hình giá cả nguyên liệu thế giới đang nóng lên với việc giá xăng dầu tăng với tốc độ chóng mặt,gây ra rất nhiều khó khăn cho kinh tế Việt Nam. Nhất là trong tình hình lãng phí nhiên liệu trong sản xuất ở Việt Nam còn rất cao, phụ thuộc mạnh vào nhiên liệu có nguồn gốc từ dầu mỏ, chưa có các nguồn nhiên liệu thay thế như năng lượng mặt trời, sức gió, năng lượng thuỷ triều, năng lượng hạt nhân,… thì việc giá dầu tăng nhanh sẽ bắt đầu cho cơn bão giá cả, tạo điều kiện cho lạm phát theo quán tính. Về lâu dài có thể triệt tiêu khả năng tăng trưởng kinh tế. Giá dầu thế giới đã tăng cao trong năm 2007, và đầu năm 2008 đạt là 128USD/thùng vào 16/05/2008, mức mà chưa có dự báo nào trong năm 2007 đưa ra. Không riêng giá dầu, giá sắt thép tăng 21,4 (riêng phôi thép tăng 42,4%), đã làm tăng 259 triệu USD; giá phân bón tăng 71,3%, đã làm tăng 88 triệu USD; giá chất dẻo tăng 12,6%, đã làm tăng 54 triệu USD; giá sợi dệt tăng 14,2%, đã làm tăng 16 triệu USD; giá lúa mì tăng 55,5%, đã làm tăng 12 triệu USD; giá bông tăng 16,4%, đã làm tăng 10 triệu USD; giá giấy tăng 5,2%, đã làm tăng 6 triệu USD. Chỉ với những mặt hàng trên, do giá tăng đã làm kim ngạch nhập khẩu tăng gần 1 tỉ USD trong 2 tháng, chiếm gần một phần tư tổng kim ngạch nhập khẩu của các mặt hàng này. Trong khi đó, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam lại mang tính gia công rất cao, như dệt may, giày dép... có đến 80% nguyên liệu phải nhập khẩu. 1.4. Thứ tư là lạm phát do cầu kéo: Thực tiễn của nền kinh tế thị trường thế giới xác nhận rằng, lạm phát thường có mối liên hệ mật thiết với TTCK và thị trường bất động sản.Tình trạng này đã tác động quyết định đối với lạm phát xét trên các điểm chủ yếu sau đây: - Một là, tạo nên sự phân hoá hai cực, một cực là tình trạng bội thực vốn trong giới đầu cơ do thu được những khoản lợi nhuận rất lớn từ đầu cơ chứng khoán và bất động sản, hệ quả một mặt là tiền tiếp tục đổ vào thị trường bất động sản làm cho giá cả tăng vọt. Mặt khác là chuyển vào các kênh dự trữ như vàng, ngoại tệ mạnh hay chuyển ra nước ngoài do giá cổ phiếu giảm mạnh, gây thiếu hụt cung tiền làm tăng lãi suất; cực còn lại chủ yếu là các DN dân doanh, khu vực chủ yếu tạo ra tăng trưởng, thiếu vốn nghiêm trọng cho dù đã chấp nhận vay với lãi suất cao. Tình trạng này đương nhiên làm nảy sinh một hậu quả kép, một mặt, làm chệch hướng phân bổ đầu tư hiệu quả, do vậy làm giảm tăng trưởng. Mặt khác, gây nên tình trạng thiếu hụt tiền có thể coi là giả tạo trong lưu thông, khoảng cách cung và cầu tiền bị kéo doãng quá mức, vừa làm tăng giá hàng hoá vừa làm tăng chi phí đầu tư, do vậy lạm phát tăng. - Hai là, do siêu lợi nhuận có được từ đầu cơ trên cả hai TTCK và bất động sản đã làm nảy sinh phương thức tiêu dùng mà đặc trưng của nó, mua vét với khối lượng lớn trong một thời gian rất ngắn nhiều loại hàng hoá như đất đai, vàng, ngoại tệ... Mặt khác, tạo nên một kênh lưu chuyển riêng biệt về hàng hoá và tiền với khối lượng rất lớn trong giới đầu cơ, vừa làm biến dạng lưu thông tiền tệ, vừa tạo nên sự kích hoạt làm tăng giá đồng loạt nhiều loại hàng hoá một cách đột biến. Thêm vào đó, sự kích hoạt này được sự bổ trợ của hàng loạt tác nhân mà đáng kể nhất là tăng lương, tăng giá xăng dầu, giá nguyên liệu của nhiều loại hàng hoá nhập khẩu... sự chênh lệch giữa mặt bằng giá nội địa thấp và mặt bằng giá cao trên thị trường thế giới đã được khai thông theo nguyên lý bình thông nhau do độ mở của nền kinh tế, kết quả là mặt bằng giá của thị trường nội địa đã bị đẩy lên cao mang tính hệ thống để xích lại gần với giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới. Chưa hết, chính sách kiềm chế tăng giá của chính phủ trong một thời gian dài bất ngờ bị hụt hơi. Giá của nhiều loại hàng hoá rơi vào trạng thái gần như tăng tự do. Kết cục, giá cả tăng mạnh, lạm phát nhất thiết tăng cao. - Ba là, giá cổ phiếu giảm mạnh vốn là bài toán không xa lạ đối với các nhà đầu cơ. Họ chờ thời điểm chạm đáy và không vội vàng mua vào, một mặt do sự liên kết giữa họ. Mặt khác, họ kỳ vọng các phản ứng của Chính phủ, chẳng hạn như đổ tiền vào TTCK tạo nên sự kích hoạt tăng giá. Hậu quả đương nhiên là lạm phát gia tăng. - Bốn là, tạo nên tình trạng khó có khả năng kiểm soát. Sự tồn tại lâu dài của đầu cơ và lũng đoạn trên TTCK và thị trường bất động sản đã bao hàm trong nó cơ sở của tình trạng phân bổ vốn đầu tư vào lĩnh vực có nhiều rủi ro mà rất khó kiểm soát đương nhiên tự nó sẽ sản sinh ra lạm phát. Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng: sự yếu kém của hệ thống này thể hiện trên hai điểm chủ yếu: Nếu như trước đây hệ thống này có chức năng chủ yếu là cho các xí ngiệp quốc doanh vay tiền, nghiã là nguồn vốn chủ yếu của quốc gia được tập trung đầu tư vào lĩnh vực không có, hoặc ít có khả năng sinh lời, thì từ khi đổi mới đến nay, nó đã thực hiện một bước chuyển theo chiều ngược lại, chủ yếu tập trung cho vay ở lĩnh vực có khả năng sinh lợi cao nhất của nền kinh tế, cụ thể là tập trung cho vay mua cổ phiếu và bất động sản. Vì rằng mua cổ phiếu và bất động sản chủ yếu là nhằm mục tiêu đầu cơ, thành thử trên thực tế, hệ thống ngân hàng trở thành một bộ phận hay chỗ dựa của các hoạt động đầu cơ và lũng đoạn thị trường. Điều này hàm ý rằng, trong trường hợp giá cổ phiếu sụt giảm mạnh như hiện nay và thị trường bất động sản khó tránh khỏi khủng hoảng trong thời gian tới, ngân hàng đã và sẽ mất khả năng thanh toán, tạo ra tình trạng hoảng loạn, người gửi ồ ạt rút tiền để chuyển sang các hình thức dự trũ khác ít rủi ro hơn, như vàng hay những hàng hoá có khả năng đảm bảo khác làm cho thị trường tài chính rối loạn. Bên cạnh đó, tình trạng hàng loạt công ty đua nhau lập ngân hàng chủ yếu nhằm kinh doanh chứng khoán và bất động sản, từng dòng người chen chúc nhau mua vét vàng ở các hiệu vàng tư nhân không thể không làm suy yếu hệ thống ngân hàng và gia tăng thêm tình trạng hỗn loạn của thị trường tài chính. Vì rằng chính sách tài chính tiền tệ chỉ có thể phát huy tác dụng trong điều kiện hệ thống ngân hàng đủ mạnh, nên trong bối cảnh nêu trên, chính sách tài chính tiền tệ quốc gia hoặc là sẽ bị tê liệt, hoặc là không có thậm chí phản tác dụng, lạm phát như là kết quả tất nhiên không thể tránh khỏi. Mặt khác, việc tổ chức hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập với các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Quan sát vẻ bề ngoài thì dường như sự phân cấp của hệ thống ngân hàng hiện nay là tương thích với hệ thống ngân hàng của các nước có nền kinh tế thị trường. Thế nhưng trên thực tế, ngân hàng trung ương nước ta cũng chỉ giống như một bộ ngành thực hiện chức năng quản lý hành chính chứ không phải làm nhiệm vụ quản lý hệ thống ngân hàng chuyên doanh mà nhiệm vụ quan trọng nhất là định hướng các ngân hàng này chuyển tiền vào các lĩnh vực đầu tư có hiệu quả chứ không phải chủ yếu chuyển vào các cuộc chơi đầy may rủi như hiện nay. Thực tế của nền kinh tế thị trường xác nhận rằng, quy định lãi suất, mức dự trữ bắt buộc hay lớn hơn là quyết định mức cung tiền vẫn đơn thuần là các nghiệp vụ hành chính chừng nào không có khả năng định hướng các ngân hàng chuyên doanh nhằm vào mục tiêu tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Xét trên giác độ này, ngân hàng trung ương đã không thực hiện được chức năng định hướng các ngân hàng chuyên doanh hoạt động hiệu quả. Thực tế là, ngân hàng trung ương có rất ít mối quan hệ với các ngân hàng chuyên doanh. Mối quan hệ tương tác xét trên bình diện quản lý kinh tế thực sự là chưa được xác lập. Bằng chứng là, các hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng chuyên doanh, về cơ bản không có mối liên hệ nào với ngân hàng trung ương. Rõ ràng là các hoạt động tín dụng của ngân hàng vì mục tiêu đầu cơ trong TTCK và thị trường bất động sản đã tồn tại trong một thời gian dài, trong khi ngân hàng trung uơng thực ra chỉ tồn tại bên cạnh nó như một cơ quan quản lý hành chính bất lực trước các hoạt động đầu cơ của các ngân hàng chuyên doanh. Với một hệ thống ngân hàng như vậy, lạm phát chỉ là vấn đề thời gian ngay cả trong trường hợp giá nguyên liệu thế giới cũng như giá lương thực thực phẩm không tăng. Nói khác đi, lạm phát nhất định sẽ xảy ra mà không phụ thuộc vào tăng giá lương thực, thực phẩm cũng như tăng giá nguyên liệu trên thị trường thế giới ở mức độ nào. 1.5. Thứ năm là Lạm phát do chính sách tiền tệ: Lạm phát có được bước nhảy vọt ngoặt mục như thế phần lớn từ chính sách thiếu đồng bộ giữa ngân hàng và bộ tài chính. Vấn đề nhảy vọt có nguyên nhân khá rõ ràng. Ngân hàng (NH) phải mua vào số lượng lớn ngoại tệ (đầu tư trực tiếp và đặc biệt là đầu tư vào TTCK.Thời báo Kinh tế Sàigòn (số 10/2008) đã đưa thông tin rất quan trọng cho biết, Ngân hàng Nhà  nước (NHNN) nửa đầu năm 2007 đã tung ra 105 ngàn tỉ đồng để mua vào 6,5 tỉ USD làm dự trữ ngoại tệ, sau đó lại tung thêm 40 ngàn tỉ đồng để mua thêm 2,5 tỉ USD . Như vậy tổng số tiền tung ra mua 9 tỉ USD ngoại tệ là 145 ngàn tỉ đồng. Muốn tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi phải thúc đẩy đầu tư mạnh, thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều, như vậy lượng tiền đưa vào lưu thông cũng phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn thì áp lực lạm phát tiền tệ cũng sẽ nảy sinh. Như đã được đề cập, cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh trong năm 2007 là do vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến (gồm cả đầu tư và kiều hối), từ đó buộc Ngân hàng nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng. Việc mua đó đồng nghĩa với tung thêm tiền đồng Viêt Nam vào lưu thông, nhưng không thể không mua được vì một mặt để tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho nhập khẩu, mặt khác là để thu hút luồng vốn từ bên ngoài vào phát triển kinh tế.  Nhưng theo các nhà kinh tế, không mua USD vào còn tồi tệ hơn, làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư trong nước. Bởi vậy, hoạt động nghiệp vụ tiền tệ thu gom hơn 90 000 tỉ đồng trong năm 2007 là giải pháp đúng của Ngân hàng nhà nước. Nhưng lạm phát bùng lên trong năm 2007 và hai tháng đầu năm 2008 là do nhiều nguyên nhân, thậm chí có cả nguyên nhân tích tụ từ lâu do đầu tư kém hiệu quả (hệ số ICOR tăng), cuối cùng thể hiện ở chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền của Việt Nam đã ngày một dãn rộng trong vòng 3 năm qua. Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến cuối tháng 6-2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan là hầu như không đáng kể. 1.6. Thứ sáu là Lạm phát do tỉ giá hối đoái VND: Neo tỷ giá cứng nhắc với USD dẫn đến cung tiền tăng mạnh Kinh tế Việt Nam trẻ, được đánh giá có nhiều tiềm năng và triển vọng về cơ hội đầu tư do vậy sau khi gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng đột biến (chỉ tính riêng năm 2007 đã tới 20 tỉ USD). Về nguyên tắc khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tăng, Việt Nam Đồng (VNĐ) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng. Tuy nhiên, với chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu, NHNN Việt Nam phát hành VNĐ mua lại lượng ngoại tệ này với mục đích kìm tỉ giá của VNĐ với đồng Đô la Mỹ (USD) thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VNĐ yếu có thể coi là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu và phát huy ở trong những điều kiện kinh tế thế giới nhất định. Tuy nhiên, mặt trái thứ nhất của chính sách này là do phải tung VNĐ ra mua lại lượng ngoại tệ chảy vào, lượng cung tiền của Việt Nam từ năm 2005 đến nay tăng tổng cộng 135%. Đây là mức tăng rất lớn mặc dù NHNN đã có nỗ lực hút lại một phần cung tiền. Neo tỷ giá với USD đang mất giá mạnh trên toàn cầu khiến chi phí cho sản xuất trong nước tăng Tuy nhiên tỷ giá của VND trong thời gian này hầu như không biến đổi so với USD (tính đến cuối tháng 2/2008 chỉ tăng 0.24% so với 2006). Do đó qua việc neo tỉ giá, VNĐ cũng giảm trung bình 15% so với các ngoại tệ mạnh khác. Chính sách VNĐ yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu nhưng đồng thời lại góp phần “nhập khẩu lạm phát “vào Viet Nam. Lí do là sản xuất tại Việt Nam hiện nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi măng, sắt thép, máy móc…Sự mất giá của USD hay nói cách khác là sự tăng giá thành của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng VNĐ dưới chế độ tỷ giá neo là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo theo giá cả hàng hóa tăng theo. Chi phí cho sản xuất tăng cao, lượng cung tiền lớn do vậy lạm phát phi mã là không tránh khỏi. 1.7. Thứ bảy Lạm phát do bội chi ngân sách: Theo đánh giá của IMF thì bội chi ngân sách của Việt Nam là 6,6%GDP lớn hơn mức độ bội chi tối đa cho phép là 5%. Chính phủ có thể hồi phục sự ổn định tương đối nhanh chóng bằng kiểm soát chi tiêu công và tiền vay của doanh nghiệp nhà nước. Vào đầu những năm 90, lo lắng vì hoạt động kém hiệu quả của các công ty nhà nước khiến chính phủ quyết định thành lập các tổng công ty và tập đoàn kinh tế, theo hình mẫu keiretsu của Nhật và chaebol của Hàn Quốc. Ý định ban đầu là quy mô lớn sẽ giúp các công ty cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các NHTM đang phải huy động vốn trong dân với lãi suất từ 10-11%/năm. Trong khi bị bắt buộc mua tín phiếu của NHNN với lãi suất 7,8%. Điều này đồng nghĩa với việc chi phí sản xuất sẽ tăng cao, có nghĩa là giá thành sản phẩm sẽ không thể nào giảm được. Giá cả vì thế lại tiếp tục leo thang. Như vậy, nếu tình trạng này kéo dài, cuộc chiến chống lạm phát do NHNN khởi xướng với những công cụ tưởng như rất kịp thời và đúng tiêu chuẩn quốc tế nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô, giảm thiểu gánh nặng lạm phát cho doanh nghiệp và nâng cao đời sống người dân về bản chất đang trở thành cuộc đùn đẩy trách nhiệm và chi phí chống lạm phát sang cho chính họ (doanh nghiệp và người dân). Chống lạm phát như thế có thể được ngay hiệu quả trước mắt nhưng về lâu dài sẽ để lại hậu quả thật khó lường. Sản xuất đóng băng, tăng trưởng suy giảm, nền kinh tế rất dễ sa vào suy thoái, thất nghiệp gia tăng và đời sống người dân ngày càng chật vật. 2.THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Vấn đề lạm phát của nền kinh tế nước ta đã được đưa ra nhiều từ giữa năm 2007. Có thể thấy, liên tục từ 1998 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP năm sau đều cao hơn năm trước và năm 2007 đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm. Tuy nhiên, cũng đã có sự cảnh báo về sự tăng trưởng nóng, về sự bền vững của tăng trưởng.  Trước tình hình và diễn biến của nền kinh tế - xã hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên số hàng đầu. Giá cả leo thang làm cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp điêu đứng. Không chỉ giá lương thực thực phẩm leo lên vùn vụt, mà giá than, giá vật liệu xây dựng và giá một số dịch vụ cũng tăng lên. Hiện tượng mức giá chung tăng đều đặn được gọi là lạm phát. Người ta dùng nhiều chỉ số để đo lạm phát và chỉ số quen thuộc nhất là chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Chỉ số này được tính trên cơ sở theo dõi biến động giá theo thời gian của các mặt hàng nhất định (từ 2005 rổ hàng hoá này gồm gần 500 hàng hoá và dịch vụ). Chỉ số CPI đã liên tục tăng suốt 4 năm qua: Bắt đầu là 9,5% năm 2004; 8,4 % năm 2005; 6,6% năm 2006; 12,6% năm 2007 và trong 4 tháng đầu năm 2008 đã tăng 11%. Chỉ số CPI từ 2000 đến quí 1/2008 ( Nguồn: Tổng cục thống kê) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Quý1/2008 CPI -0.6 8 4 3 9.5 8.4 6.6 12.6 11 Thông qua bảng dữ liệu trên có thể rút ra nhận xét :            Thứ nhất, sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn quá yếu. Bằng chứng, cùng chịu chung áp lực biến động giá trên thị trường thế giới, nhưng 2 tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng ở các nước trong khu vực tăng không đáng kể: Thái Lan – 1,7%, Malaysia – 2,2%, Indonesia – 1,8%, Trung Quốc – 2,9%, trong khi con số này ở ta là – 6,19%.1 Dễ nhận thấy nhất là ở hiệu quả sản xuất. Trong khi những yếu tố lợi thế như lao động rẻ hay giá năng lượng thấp vẫn chưa được khai thác triệt để thì các chi phí khác lại quá cao. Nhiều chi phí cao đến mức phi lý như: chi phí thuê đất, chi phí vận tải, đặc biệt là các chi phí “bôi trơn”; công nghệ sản xuất thì lạc hậu (đi sau so các nước trong khu vực khoảng chừng 20-30 năm); cơ sở hạ tầng còn yếu, nền công nghiệp lệ thuộc gần như hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu... cộng thêm với năng lực quản lý còn yếu, quan liêu, tham nhũng (đặc biệt ở các DNNN). Tất cả đã đẩy giá thành các sản phẩm trong nước lên tới mức trần, có nghĩa là không còn khoảng trống an toàn để dự phòng về giá. Chính vì vậy, khi một yếu tố sản xuất nào đó thay đổi, ngay lập tức tác động trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam kém năng động bởi vì khi nhìn vào phản ứng của các chủ thể kinh tế cơ bản sẽ thấy Ngân hàng Nhà nước, cơ quan chịu trách nhiệm chính trong kiểm soát lạm phát, trước lượng tiền đầu tư nước ngoài tăng hơn dự kiến (7 tỷ USD trong 6 tháng) đã tỏ ra bối rối. Khi một quốc gia được các nhà đầu tư “ưu ái” bơm tiền - đó là cơ hội lớn. Nhiệm vụ của chúng ta là làm thế nào để hấp thụ lượng tiền này, biến nó thành sản phẩm, thành giá trị gia tăng thúc đẩy kinh tế phát triển. Các doanh nghiệp cũng vậy, trước áp lực lạm phát, vẫn giữ một chiêu duy nhất – tăng giá bán, khá hơn một chút là thực hành tiết kiệm Tình hình kinh tế - xã hội những tháng đầu năm 2008 đã và đang có những diễn biến bất lợi. Tăng trưởng kinh tế vẫn cao, nhưng không đạt mục tiêu đề ra, tăng trưởng của công nghiệp - xây dựng thấp. Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có biểu hiện xấu.Giá tiêu dùng liên tiếp tăng và tăng cao. Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đã là 9,19%, nêu tính cả tháng 4 đã là trên 11%, ảnh hưởng rất bất lợi đến sản xuất kinh doanh, đến đầu tư phát triển và tác động xấu đến đời sống nhân dân. Thị trường tài chính, thị trường chứng khoán có nhiều biến động bất thường, nhập siêu tăng cao, cán cân thương mại và cán cân thanh toán thiếu vững chắc,mới đây nhất là việc giá dầu tăng cao kỉ lục 128 USD/thùng .Nhóm hàng lương thực đã tăng 15,02%,nhóm hàng thực phẩm tăng 10,06% ,nhà ở và xây dựng tăng 11,01%... và chỉ có riêng nh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5984.doc
Tài liệu liên quan