Thực trạng lạm phát ở Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay của nền kinh tế Việt Nam trong những thập niêm gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường. Các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề n

doc42 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1769 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng lạm phát ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các nhà doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động. ở nước ta hiện nay, chống lạm phát, giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và đề xuất các phương án khắc phục. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả của hầu hết các hàng hoá đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh. Nhìn lại lịch sử lạm phát, từ cuối thể kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. ở nước ta lạm phát diễn ra nghiêm trọng và kéo dài mà nguồn gốc của nó là do hậu quả nặng nề của chiến tranh, cơ cấu kinh tế bất hợp lý kéo dài. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ kế hoạch của nền kinh tế, phương hại đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế - xã hội. Vì giới hạn của một đề án môn học nên trong đề án này tôi chỉ nghiên cứu một cách chung nhất về lạm phát và vấn đề lạm phát ở Việt Nam, không có điều kiện đi sâu vào phân tích một số cuộc lạm phát điển hình trên thế giới như lạm phát ở Đức năm 1922. Và cũng không có điều kiện để đi sâu hơn về các vấn đề khác liên quan đến lạm phát vì lạm phát là một vấn đề kinh tế vĩ mô nên tác động của nó là rất rộng, trong đề án này tôi chỉ nghiên cứu những tác động chính. Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề án gồm 3 chương Chương I: Tổng quan về lạm phát Chương II: Thực trạng kiểm soát lạm phát ở Việt Nam Chương III : Một số biện pháp nhằm kiềm chế và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam Tôi xin cám ơn Thạc sỹ Nguyễn Thị Minh Huệ đã giúp đỡ tôi hoàn thiện đề tài này. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT 1.1. Khái niệm và phân loại Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng, nhất là quy luật lưu thông tiền tệ. Ơ đâu còn sản xuất hàng hoá, còn tồn tại những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn ẩn náu khả năng lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm. Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình". Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện. Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường : "Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian" Để xác định lạm phát, cần xác định 3 yếu tố: Thứ nhất, để biết được tình trạng tăng giá, người ta phải so sánh giá cả hàng hóa giữa thời điểm này và thời điểm khác làm mốc. Trong khoảng thời gian giữa hai điểm nếu giá tăng, đó là lạm phát. Nếu gọi Pt1 là giá cả hàng hóa ở thời điểm t1 và Pt0 là giá cả hàng hóa ở thời điểm to thì phần tăng giá sẽ bằng Pt1 - Pt0. Thứ hai, trong một nền kinh tế thì có nhiều hàng hóa khác nhau nằm trong khoảng giữa t1 và to, mỗi loại hàng hóa có những mức tăng giá khác nhau. Cho nên, để tính được tỉ lệ lạm phát chung cho tất cả hàng hóa trong nền kinh tế, người ta lấy chỉ số giá cả bình quân của cả nước làm chuẩn. Có ba loại chỉ số giá cả bình quân thường sử dụng : Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI. CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trưòng, các nhóm chính đó là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, đất đai,chất đốt, vật tư y tế. Để tính CPI, người ta phải dựa vào tỷ trọng của phần chi cho từng mặt hàng trong tổng chi tiêu cho tiêu dùng của thời kỳ có lạm phát. Chỉ số giá cả hàng sản xuất PPI, đây là chỉ số giá bán buôn. PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn định. Chỉ số này có ích vì nó được tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế. Chỉ số giá bán lẻ RPI, thường được tính bằng tỉ lệ %. Cách tính như sau: Pt1- Pto In%=----------- x 100% Pt0 1.2. Phân loại lạm phát Tùy theo quan điểm và dựa trên những tiêu thức khác nhau sẽ có các cách phân loại lạm phát khác nhau. 1.2.1. Tiêu chí định lượng - Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xẩy ra với tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn. . . Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh. - Lạm phát phi mã: lạm phát xẩy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm. ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. - Siêu lạm phát: xẩy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xẩy ra. Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và trầm trọng hơn. Vì vậy các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại: Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dướ 50% một năm; lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50%; siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm. 1.2.2. Theo tiêu chí định tính - Lạm phát thuần túy : là trường hợp đặc biệt khi giá cả hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa sản xuất đều tăng lên gần như cùng tỉ lệ 5 trong một đơn vị thời gian. Đây là trường hợp mà nhu cầu tiền thực tế tăng cùng chiều và khá tương đương với cung tiền thực tế. - Lạm phát cân bằng và không cân bằng: * Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy lạm phát không ảnh hưởng tới đời sống của người lao động. * Lạm phát không cân bằng: tỉ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường xảy ra nhất. - Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường: * Lạm phát dự đoán trước : xảy ra trong một thời gian đủ dài với một tỉ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn và ổn định khiến cho dân chúng có tâm lý và sự chờ đợi trở thành quán tính, người ta đã sống quen đần với lạm phát. Do vậy người ta có thể dự đoán được tỉ lệ lạm phát của những năm tiếp theo và đã có những chuẩn bị để thích nghi với tình trạng lạm phát này. * Lạm phát bất thường: lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa hề xuất hiện. Do vậy, về tâm lý, cuộc sống và thói quen của người dân đều chưa thích nghi được. Lạm phát bất thường xảy ra thường tạo nên những cú sốc về kinh tế và sự mát tin tưởng của người dân vào chính quyền đương đại. 1.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Chẳng hạn thời tiết không thuận, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá lương thực tăng lên. Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá cả hàng tiêu dùng tăng lên. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng theo, dẫn đến giá các mặt hàng cũng tăng. Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung và có thể giải thích theo 3 cách. - Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung tiền. - Theo học thuyết Keynes, lạm phát xẩy ra do thừa cầu về hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế (do cầu kéo). - Theo học thuyết chi phí đẩy, lạm phát sinh ra do tăng chi phí sản xuất (chi phí đẩy) Trên thực tế lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên, mỗi nguyên nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau. Mức cung tiền là một biến số duy nhất trong đẳng thức tỷ lệ lạm phát, mà dựa vào đó ngân hàng Trung ương đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp. Trong việc chống lạm phát, các ngân hàng Trung ương luôn giảm sút việc cung tiền. Tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách: - Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi suất thấp và điều kiện kinh doanh tốt). hoặc - Các ngân hàng thương mại có thể tăng tín dụng Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về mặt trung hạn và dài hạn, điều đó dẫn tới cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu, thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy nhiên, giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng. Ví dụ: Năm 1966 - 1967 chính phủ Mỹ đã sử dụng việc tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh tại Việt Nam, lạm phát tăng từ 3% (năm 1967) đến 6% (năm 1970). Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản lượng thực tế (y) đạt mức cân bằng, nghĩa là (i) và (y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với tỷ lệ tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây là lý do tại sao ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này. 1.3.1 Cung ứng tiền và lạm phát “ Lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ”, đây là một câu nói nổi tiếng của Friedman, qua đó ông đã nêu được bản chất sâu xa, cái nguyên nhân sâu thẳm của lạm phát. Những nhà kinh tế học đầu tiên quan tâm đến nguyên nhân của giá cả tăng đều cố gắng giải thích hiện tượng đố bằng tiền tệ. Đó là trường hợp của John Bodin ở thế kỷ thứ XVI, ông cho rằng “mọi cái mắt đỏ” là do vàng, bạc ở châu Mỹ dồn về, mặc dùu ông cũng không giới hạn sự phân tích của mình về vai trò của bản thân tiền tệ. Vào thế kỷ XVII và XVIII, William Petty, ohn Locke, David Hume, rồi David Ricacdo vào đầu thế kỷ thứ XIX, hệ thống hóa cách giải thích : Mọi biến động của mặt bằng giá cả danh nghĩa bằng biiến động của khối lượng tiền tệ. Thật vậy, trong “câu chuyện hoang tưởng” của mình, Hume đã chỉ ra rằng : Nếu do một “phép lạ” lượng tiền tăng lên gấp đôi trong một đêm thì sáng hôm sau toàn bộ giá cả cũng tăng lên gấp đôi. Và theo Ricacdo, tổng giá trị hàng hóa trao đổi được xác định bằng khối lượng dự trữ đang có. Ông cho giá cả tăng chỉ do khối lượng dự trữ đó tăng hoặc tăng các phương tiện dự trữ mà mỗi phương tiện đại diện cho một khối lượng nhỏ vàng hoặc bảcTong trường hợp thứ nhất, giá cả hàng hóa tăng làm giảm sức mau của đồng tiền quá nhiều, còn trong trường hợp thứ hai, sự mất giá của đồng tiền xác nhận rằng nó đại diện cho một đương lượng vàng rất thấp. Đến đây chúng ta có thể phân tích cung ứng tiền gây ra lạm phát như thế nào ? Các nhà kinh tế theo thuyết tiền tệ cho rằng khi cung tiền tệ tăng lên và kéo dài sẽ làm cho giá cả tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát họ đã sử dụng công thức của Irving Fisher : MV= PY để giả thích hiện tượng như sau : Với M : khối lượng tiền tệ lưu thông P. Y : tổng chi tiêu danh nghĩa để mua hàng hóa và dịch vụ P : giá cả Y : tổng sản phẩm thực tế = tổng thu nhập thực tế V : tốc độ lưu thông tiền tệ ( có nghĩa là cùng một đơn vị tiền tệ có thể qua nhiều chu trình chi trả trong một thời gian nhất định ) Và theo họ : “ tốc độ lưu thông tiền tệ thay đổi theo thời gian một cách có thể đoán trước được và không liên quan đến những thay đổi trong cung tiền tệ”. Như vậy V thường ít biến đổi theo thời gian. Với điều này thì ứng với mỗi mức cung tiền tệ ta sẽ có một tổng chi tiêu danh nghĩa để mua hàng hóa và dịch vụ P. Y là không đổi. Bởi vậy với mỗi mức giá, ta sẽ có một mức tổng sản phẩm thực tế. Giá càng tăng thì sản phẩm thực tế càng giảm và để thể hiện mối quan hệ này họ xây dựng đường tổng cầu trong nền kinh tế. Và theo thuyết tiền tệ thì để thay đổi đường tổng cầu này chỉ do một nguyên nhân duy nhất đó là cung ứng tiền thay đổi và như vậy lạm phát xảy ra khi cung ứng tiền tăng. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng ta xét một ví dụ sau : P1 P2 P3 P 3 2’ 2 1 1’ Yn Yt AD1 AD2 AD3 y Tổng sản lượng AS1 AS2 AS3 Tổng mức giá Giả sử ban đầu nền kinh tế đang ở điểm cân bằng cung cầu (Điểm 1) khi cung ứng tiền tăng làm cho tổng chi tiêu danh nghĩa để mua hàng hóa và dịch vụ P. Y tăng làm đường tổng cầu tăng dịch chuyển sang phải từ AD1 tới AD2. Tại đây điểm cân bằng của nền kinh tế là 1’ với mức sản lượng lớn hơn mức sản lượng tự nhiên và mức giá P2 cao hơn mức giá P1. Do nền kinh tế đạt mức sản lượng lớn hơn mức sản lượng tự nhiên nên tỉ lệ thất nghiệp nhỏ hơn tỉ lệ thấ nghiệp tự nhiên làm cho chi phí tăng dẫn tới đượng cung dịch phải vào trong từ AS1 tới AS2 với điểm cân bằng mới (Điểm3). Mức sản lượng đạt mức sản lượng tự nhiên như cũ nhưng giá cả tăng từ P2 lên P3. Nếu như cung ứng tiền tiếp tục tăng một quy trịnh như vậy lại diễn ra và làm cho giá cả tăng lên liên tục và gây ra lạm phát. Nhưng một vấn đề đặt ra là trường phái của Keynes lại cho rằng không chỉ có cung tiền tăng mới làm dịch chuyển đường cầu mà theo họ còn có rất nhiều các yếu tố khác cũng làm dịch chuyển nó, ví dụ như chính sách tài chính, xuất khẩu ròng, lạc quan tiêu dùng, lạc quan kinh doanh. . . Song những vấn đề của chính sách tài chính lại có những giới hạn của nó, chính phủ không thể chi tiêu quá 100% GNP cũng như không thể cắt giảm thuế dưới 0%. và như vậy việc tăng lên của tỉ lệ lạm phát trong trường hợp này chỉ là tạm thời. Hay trong một lập luận khác của Keynes về các cú sốc cung bất lợi làm dịch trái đường tổng cung làm giá cả tăng lên, sản lượng giảm. Nhưng nếu cung tiền không tăng tức là AD không dịch phải thì theo thời gian dường AS sẽ lại dịch chuyển về vị trí ban đầu bởi một lẽ do sản lượng thực tế nhỏ hơn sản lượng tiềm năng ( tự nhiên) và làm cho chi phí sẽ rẻ trở lại. Và đây cũng là hiện tượng lạm phát tạm thời. Với những phân tích như vậy, quan điểm của Keynes cũng thống nhất với phái tiền tệ là lạm phát cao có thể xảy ra chỉ với một tỉ lệ tăng trưởng tiền tệ cao. 1.3.2 Chỉ tiêu công ăn việc làm cao và lạm phát Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà hầu hết các chính phủ theo đuổi là chỉ tiêu công ăn việc làm cao nhưng đây cũng chính là một nguyên nhân gây nên lạm phát. Có hai loại lạm phát là kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao : lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy. Lạm phát cầu kéo xảy ra khi những nhà hoạch định chính sách theo đuổi các chính sách làm đường tổng cầu dịch chuyển sang phải , còn lạm phát chi phí dẩy xảy ra khi có những cú sốc cung tiêu cực hoặc do công nhân đòi tăng lương cao hơn gây nên. Bây giờ chúng ta có thể sử dụng cách phân tích tổng cung và tổng cầu để xem xét một chỉ tiêu công ăn việc làm có thể đưa đến lạm phát chi phí đẩy và lạm phát cầu kéo như thế nào ? 1.3.3. Lạm phát cầu kéo Giả sử ban đầu nền kinh tế đang đạt được mức sản lượng tiềm năng, tỉ lệ thất nghiệp đang ở mức thất nghiệp tự nhiên, nền kinh tế đạt mức cân bằng tại điểm 1. Nếu các nhà hoạch định chính sách sẽ hoạch định và theo đuổi một tỉ lệ thất nghiệp dưới mức tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên. Để đạt được mục tiêu này, các nhà hoạch định chính sách sẽ phải đưa ra các biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức sản lượng tiềm năng, mức chỉ tiêu sản lượng cần đạt được đó là Yt (Yt>Yn). Các biện pháp mà họ đưa ra sẽ tác động lên tổng cầu và làm tăng tổng cầu, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển ra AD2, nền kinh tế chuyển đến điểm 1’ ( giao điểm giữa đường tổng cầu AD2 và đường tổng cung AS1). Sản lượng bây giờ đã đã đạt được tới mức Yt lớn hơn sản lượng tiềm năng và mục tiêu tỉ lệ thất nghiệp nhỏ hơn tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên đã đạt được. P1 P2 P3 P 3 2’ 2 1 1’ Yn Yt AD1 AD2 AD3 y Tổng sản lượng AS1 AS2 AS3 Tổng mức giá Vì hiện nay tỉ lệ thất nghiệp thực tế trong nền kinh tế là thấp hơn tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên nên tiền lương tăng lên và đường tổng cung sẽ dịch chuyển đến AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1’ đến điểm 2’. Nền kinh tế quay về mmức sản lượng tiềm năng và tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở một mức giá cả P2 cao hơn P1. Đến lúc này tỉ lệ lại cao hơn tỉ lệ mà các nhà hoạch định chính sách đã đề ra. Do đó, họ lại tiếp tục thực hiện các chính sách làm tăng tổng cầu. Quá trình này cứ tiếp diễn liên tục đảy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn. Như đã phân tích trên đây, do giới hạn của những chính sách tài chính nên việc tăng lên liên tục của tổng cầu chỉ có thể là kết quả của một quá trình tăng cung ứng tiền liên tục. Do đó lạm phát cầu kéo là một hiện tượng tiền tệ. 1.3.4. Lạm phát chi phí đẩy Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng tăng thêm thất nghiệp nên còn gọi là lạm phát "đình trệ" Hình thức của lạm phát này phát sinh ra từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn. Ví dụ: Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ. Nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên, điều đó tạo thành vòng xoáy lượng giá. Một yếu tố chi phí chính khác là giá cả nguyên vật liệu đặc biệt là dầu thô. Trong năm 1972 - 1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên toàn thế giới. Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy. Bên cạnh những yếu tố gây nên lạm phát đó là giá nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu càng trở nên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác. Ngoài ra yếu tố tâm lý dân chúng, sự thay đổi chính trị, an ninh quốc phòng... Song nguyên nhân trực tiếp vẫn là số lượng tiền tệ trong lưu thông vượt quá số lượng hàng hoá sản xuất ra. Việc tăng đột ngột của thuế (VAT) cũng làm tăng chỉ số giá. y y y1 y0 y0 y* y* AD1 AD0 P P1 P0 E1 E0 E0 ASSL ASRL P1 P0 E1 ASLR AD P ASSR1 ASSR2 Chi tiêu quá khả năng cung ứng - Khi sản lượng vượt tiềm năng đường AS có độ dốc lớn nên khi cầu tăng mạnh, AD - AD1, giá cả tăng P0 - P1 Chi phí tăng đẩy giá lên cao - Cầu không đổi, giá cả tăng sản lượng giảm xuống Y0 - Y1 AS1 - AS2 Theo cách phân tích của Keynes, những chính sách tài chính luôn có những giới hạn của nó, nên mặc dù những chính sách này cũng gây ra những tác động làm tăng tổng cầu nhưng đó chỉ là từng đợt không thể sử dụng trong thời gian dài. Như vậy, nó không thể được sử dụng để dịch chuyển liên tục đường tổng cầu. Việc dịch chuyển liên tục đường tổng cầu chỉ có thể là việc tăng cung ứng tiền liên tục, do đó lạm phát chi phí đẩy cũng là một hiện tượng tiền tệ. 1.3.5. Lạm phát do thâm hụt ngân sách Trong những phân tích trước đây, chúng ta thấy rằng lạm phát chỉ có thể mở rộng khi lượng tiền tăng lên liên tục. Một thâm hụt ngân sách được trang trải bằng việc in thêm tiền có thể tạo ra lạm phát không ? câu trả lời là có nếu thâm hụt đó xảy ra trong một thời gian khá dài. Chính phủ có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước bănngf niện pháp phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường để vay vốn trong dân chúng, bù đắp cho phần bị thiếu hụt. Biện pháp này không nhả hưởng đến cơ số tiền tệ và do đó, không tăng cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát. Một biện pháp khác chính phủ có thể sử dụng bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà nước đó là phát hành tiền. Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ, do đó tăng cung ứng tiền tệ, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỉ lệ lạm phát. Tuy nhiên,ở các nước đang phát triển, do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm bù đắp cho thiếu hụt nngân sách nhà nước là rất khó thực hiện. Đối với các quốc gia này, con dường duy nhất đối với họ đó là “in thêm tiền”. Vì thế, khi tỉ lệ thâm hụt nhân sách nhà nước của các quốc gia đó tăng cao thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng. ở các nước kinh tế phát triển, thị trường vốn phát triển, vì vậy một khối lượng lớn trái phiếu Chính phủ có thể bán ra và nhu cầu trang trải cho thâm hụt ngân sách nhà nước thực hiện từ nguồn vốn vay của Chính phủ. Tuy nhiên nếu Chính phủ cứ tiếp tục phát hành trái phiếu ra thị trường, cầu về vốn vay sẽ tăng và do đó, lãi suất sẽ tăng cao. Để hạn chế việc tăng lãi suất trên thị trường, ngân hàng Trung ương sẽ phải mua vào các prái phiếu đó, điều này lại cho cung tiền tệ tăng. Do vậy, trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sáchnhà nước cao, kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền gây ra lạm phát. 1.3.6. Lạm phát theo tỉ giá hối đoái Tỉ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát. Khi tỉ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của người sản xuất trong nước, muốn kéo giá cả lên cao theo mức tăng của tỉ giá hối đoái. Thứ hai khi tỉ giá hối đoái tăng, giá nguyên liệu, hàng hóa nhập khẩu cũng tăng cao, đẩy chi phí nguyên liệu tăng lên, lại quay trở về lạm phát chi phí đẩy như đã phân tích trên đây. Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hóa nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá cả ở rất nhiều hàng hóa khác, đặc biệt là các hàng hóa của những ngành có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. 1.4. Tác động của lạm phát Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của nó. 1.4.1. Lạm phát đối với lĩnh vực sản xuất: Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất ở một vài danh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. 1.4.2. Lạm phát đối với lĩnh vực lưu thông: Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do có nhiều người tham giâ vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng. 1.4.3. Lạm phát đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàn bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt. 1.4.4. Lạm phát đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước: Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm... các ngành, các lĩnh vực dự định đựơc chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 2.1. Giai đoạn 1986- 1993 2.1.1 Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát 2.1.1.1 Tình hình kinh tế: Sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu nhiều kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế thời chiến tập trung quan liêu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất hàng hoá. XHCN không tiến hành hạch toán kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội tới 3 con số. Nhưng kể từ năm 1999 đến nay với sự chỉ đạo đúng đắn của nhà nước thì lạm phát hiện nay chỉ còn dừng lại ở mức độ tốt cho sự phát triển nền kinh tế tức là chỉ ở mức 15-17% có thể nói đây cũng là một thành công không nhỏ của nhà nước ta. Năm 1985, Gorbacher đã nên nắm chính quyền tại Liên xô, cùng với sự sụp đổ của các nước Đông Âu cũ, Việt Nam bị cắt giảm nguồn viện trợ từ nước ngoài và đến năm 1991 thì bị cắt hẳn. Do đó, gic nguyên vật liệu đầu vào như sắt thép, dầu hỏa, máy móc thiết bị. . . . Việt Nam hoàn toàn phải mua với giá cao làm cho chi phí sản xuất tăng nhanh. Lạm phát chi phí đẩy xảy ra. Khi lạm phát chi phí đẩy xảy ra, càng đẩy các doanh nghiệp sản xuất gặp khó khăn và để hỗ trợ nền sản xuất trong nước, đặc biệt là các xí nghiệp quốc doanh, Chính phủ Việt Nam lại in thêm tiền làm tăng mức cung ứng tiền trong nền kinh tế lại dẫn đến lạm phát tiền tệ, điều đó càng đẩy tỉ lệ lạm phát lên cao. Đồng thời năm 1985, Việt Nam thực hiện cuộc cải cách giá, tiền lương, tiền mà đỉnh cao là sự kiện đổi tiền vào tháng 9 và lạm phát cũng bùng nổ ngay sau đó. Năm 1986 chúng ta đã rơi vào tình trạng siêu lạm phát với ba chữ số 775% vào năm 1986 trong khi đó tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 2,33%. Đến năm 1987 do thiên tai, sản lượng lương thực cuối năm giảm 3,5% và đầu năm 1988 một số địa phương miền Bắc bị đói, giá cả lên cao, lạm phát chi phí đẩy lại tiếp diễn. Đứng trước tình hình đó, dân chúng tích trữ hàng hóa, lương thực, vàng và đô la càng nhièu vì lo sợ rằng đồng Việt Nam sẽ còn mất giá tạo nên cầu giả tạo, giá cả tăng cao dẫn đến lạm phát cầu kéo, với tỉ lệ lạm phát là 223,1%, mức tăng trưởng GDP chỉ là 3,78%. Từ năm 1989 đến năm 1991, lạm phát tuy có giảm nhưng vẫn còn khá cao với mức tăng 67% liên tiếp trong hai năm 1990 và 1991, phải từ năm 1992 trở đi tình hình mới lắng dịu và tạm ổn định cho đến năm 1995. Như vậy, trong giai đoạn này lạm phát xảy ra ban đầu là do chi phí đẩy, sau đó là do tăng mức cung ứng tiền, năm 1987 lại là lạm phát chi phí đẩy, tiếp tục sau đó lạm phát cầu kéo xảy ra. Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 Tăng trưởng(%) 2,33 3,78 5,1 8 0,1 6 8,6 Lạm phát(%) 748 223,1 394 34,7 67,4 67,6 17,6 Bảng tỉ lệ tăng trưởng và tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 1986-1992 2.1.1.2 Nguyên nhân dẫn đến lạm phát: Nhìn vào quá trình trên ta có thể rút ra 5 nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn này: Thứ nhất: Nguyên nhân của lạm phát từ trong chính các thể chế kinh tế quan liêu bao cấp mệnh lệnh, đóng cửa... thể chế này hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển các ngành có chi phí cao, tách rời cầu thị trường, cô lập với thế giới bên ngoài dẫn đến sự mất cân đối giữa cung và cầu, thu và chi ngân sách... thể hiện nền kinh tế thích xu hướng phát triển kém hiệu quả, các xi nghiệp làm ăn thua lỗ... Đó là nguyên nhân sâu xa đưa nền kinh tế lâm vào lạm phát phi mã. Thứ hai: Do điều hành sai lầm của bộ máy nhà nước, như xác định cơ cấu không xuất phát từ hiệu quả. Sự đổi tiền và tăng giá năm 1985 là chính sách phá giá đồng tiền, làm giảm niềm tin của dân vào đồng tiền của nhà nước. Chính sách lãi suất thấp so với mức trượt giá làm cho người dân không muốn g ửi tiết kiệm. Sự mất cân đối tài chính gây lạm phát qua kênh tín dụng, ngân hàng nhà nước luôn phải phát hành tiền để cân đối các nguồn vốn cho vay của ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của các ngành kinh tế và xây dựng cơ bản ngày càng tăng. Nhà nước lại không chủ động được việc cung cầu hàng hoá, gây ra sự rối loạn trên thị trường, giá cả thay đổi một cách bất hợp lý so với giá quốc tế. Mặt hàng giá cả bị nhích lên do cơn sốt xi măng, thép, xăng dầu, vàng và ngoại tệ. Thứ ba: Cho đến nay, xương sống của nền kinh tế Việt Nam vẫn là các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp này đóng góp 37% vào ngân sách nhà nước. Trong số gần 6000 doanh nghiệp nhà nước thì chỉ riêng 18 tổng công ty lớn với hơn 300 thành viên đã đóng góp trên 70% tổng nộp ngân sách của khu vực kinh tế quốc doanh. Việc làm ăn của nhiều công ty xuất nhập khẩu hàng năm nhà nước phải bù lỗ, bù giá quá lớn có năm chiếm gần 40% tổng số chi cho ngân sách, không những không làm thêm mà còn phải chi ra. Thứ tư: Môi trường đầu tư chậm được cải tiến, tích luỹ ở trong nước còn ở mức thấp, mới ở khoảng 25 ¸ 26% GDP. Đầu tư những công trì._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26703.doc