Thực trạng kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty dệt - May VN giai đoạn 1998-2001

II. Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với việt nam. Trước khi tìm hiểu vai trò của xuất khẩu chúng ta phải xác định được nhiệm vụ của chúng đó là: - Phải biết khai thác có hiệu quả lợi thế của đất nước, kích thích các ngành kinh tế phát triển. - Phải góp phần tăng tích luỹ, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân. - Xuất khẩu là cải thiện đời sống nhân dân thông qua việc tạo công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập. - Phải biết khai thác những thị trường hiện có và quan tâm

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1211 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty dệt - May VN giai đoạn 1998-2001, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tới thị trường chưa được khai thác. - Lợi dụng khối lượng mua hàng lớn lao của nước ngoài. - Tìm thị trường cho sản phẩm khi lượng bán giảm sút. - Mở rộng nền tảng bán hàng để trải rộng chi phí bán hàng. - Sử dụng năng lực sản xuất thừa. - Biết được những phương pháp kỹ thuật tiên tiến được sử dụng ở nước ngoài. - Theo dõi sự cạnh tranh của các đối thủ có sản phẩm cùng loại trên thị trường. Ngoài ra hoạt động kinh doanh xuất khẩu còn phải có nhiệm vụ góp phần thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước: “Đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ quốc tế, tăng cường hợp tác khu vực “. Để thực hiện tốt nhiệm vụ kể trên thì công tác xuất khẩu phải nhận rõ các vai trò quan trọng sau: - Thu ngoại tệ về cho đất nước, đây là nguồn vốn quan trọng để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất. Thật vậy, nhập khẩu cũng như vốn đầu tư của một nước thường dựa vào ba nguồn chủ yếu là viện trợ, đi vay, xuất khẩu. Trong khi mức viện trợ là bị đọng và có hạn, còn đi vay sẽ tạo thêm gánh nặng cho nền kinh tế thì xu hướng phát triển xuất khẩu để tự đảm bảo và phát triển được coi như một chiến lược quan trọng mà hầu hết các nước đều ứng dụng. - Xuất khẩu là công cụ giải quyết thất nghiệp trong nước; theo International Trade 1980-1993 ở Mỹ và các nước công nghiệp phát triển cứ xuất khẩu 1tỷ USD thì tạo được 40 nghìn việc làm trong nước, còn ở các nước tư bản đang phát triển khác có thể tạo ra 45-50 nghìn chỗ việc làm. ở nước ta nền công nghiệp còn lạc hậu, năng suất lao động thấp nên xuất khẩu 1 tỷ USD thì sẽ tạo được trên 50 nghìn chỗ làm việc trong nước. - Xuất khẩu làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước và tăng hiệu quả sử dụng vốn thông qua tác động ngược chiều đối với việc đổi mới trang thiết bị hiện đại và phương thức quản lý tiên tiến. - Khai thác các tiềm năng, phát huy các lợi thế của đất nước, kích thích các ngành lts phát triển cả về quy mô lẫn chiều sâu. Đặc biệt là sự tác động đến sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng ngày càng sử dụng có hiệu quả các lợi thế đất nước. Phát triển các ngành công nghiệp, áp dụng kỹ thuật tiên tiến giúp có thêm nguồn lức công nghiệp mới, tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí lao động xã hội. - Tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của quốc gia. - Đẩy mạnh xuất khẩu còn có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước, nâng cao địa vị và uy tín của Việt Nam trên thương trường quốc tế. Nhờ có những hàng xuất khẩu mà nhiều Công ty nước ngoài biết đến năng lực của ta và sẵn sàng thiết lập quan hệ buôn bán và đầu tư. Như vậy, xuất khẩu nó không chỉ đóng vai trò xúc tác, hỗ trợ phát triển mà nó có thể thành yếu tố bên trong của sự phát triển; trực tiếp tham gia vào việc giải quyết các vấn đề bên trong của nền kinh tế quốc dân như vốn, kỹ thuật, lao động, nguyên liệu, thị trường... III. thị trường cho hàng may mặc và xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới. 1. Về thị trường may mặc Việt Nam. 1.1. thị trường EU: Thị trường EU với dân số 340 triệu là nơi tiêu thụ lớn và đa dạng các loại quần áo. Mức tiêu thụ thị trường này là khá cao: 17 kg / người / năm. ở đây, người ta có thấy đủ loại hàng hoá từ các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Hồng Kông, Đài Loan. Hàng năm EU nhập khoảng 63 tỷ USD quần áo vừa qua hạn ngạch mà EU dành cho công nghệ là 22 nghìn tấn hàng dệt may giá trị khoảng 450 triệu USD và hiệp định ký cho giai đoạn tới 2001-200 giá trị sẽ tăng 40% và so với giá trị hiệp định cũ (chi giai đoạn 1996-2000). Đây là thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam và EU ký hiệp định buôn bán dệt may từ năm 1995 trong đó có hạn ngạch gia công thuần tuý (TPP). Có nghĩa là khách hàng gửi nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba thuê gia công tại Việt Nam, sau đó xuất sang EU. Còn nếu khách hàng EU gửi nguyên phụ liệu từ EU sang gia công tại Việt Nam, sau đó xuất ngược lại sang EU thì không tính vào hạn ngạch. Qua 5 năm thực hiện hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU sản xuất hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường này đã có bước tiến vững chắc. Năm 1996 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vào EU đạt được khoảng 250 triệu USD, năm 1999 đạt 400 triệu USD và dự kiến năm 2001 sẽ đạt 650 triệu USD. Bảng 5: Một số chủng loại hàng đạt mức xuất khẩu cao của Việt Nam vào EU qua các năm (Đơn vị: Triệu chiếc) Tên hàng Chủng loại 1998 1999 2000 Jacket Cat 21 8,9 9,4 11,7 T- Shirt Cat 4 2,9 3,71 áo len Cat 5 1,65 1,81 Quần Cat 6 1,65 2,4 áo sơ mi nữ Cat 7 0,91 1,49 áo khoách nữ Cat 15 0,13 0,17 áo dài nữ Cat 26 0,19 0,39 Váy ngắn Cat 27 0,14 0,23 (Nguồn: Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.) Cũng như các năm trước đây mặt hàng áo Jacket luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu may mặc đi EU và thường chiếm 50% trong tổng kim ngạch. Chất lượng hàng may mặc Việt Nam đã được khách hàng chấp nhận, chỉ tính riêng năm 1999 hàng dệt-may Việt Nam đã xuất sang tất cả các nước EU với giá trị hàng trăm triệu USD, đứng đầu là Đức ( 150 triệu USD), Pháp (60 triệu USD), Tây Ban Nha ( 16 triệu USD), Bỉ ( 10 triệu USD), Thuỵ Điển (7,5 triệu USD), Bồ Đào Nha ( 1,3 triệu USD)... Thị trường may mặc EU có tiềm năng và triển vọng rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để có được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ những quy định khá nghiêm ngặt khi xuất khẩu vào thị trường này như: - Không được mua bán, chuyển nhượng hạn ngạch để xuất khẩu các mặt hàng có xuất xứ từ các nước khác vào EU. - Các doanh nghiệp Việt Nam không được lợi dụng thuế ưu đãi, giá nhân công trong nước rẻ để bán hàng rẻ hơn mức giá hiện hành gây bất lợi cho các nhà sản xuất cùng loại hàng đó hoặc các mặt hàng trực tiếp bị cạnh tranh của EU. Có thể sẽ bị áp dụng quy định cụ thể đã được hai bên thoả thuận. - Các doanh nghiệp Việt Nam không được phép bán hàng cho nước thứ ba để tái xuất vào EU. - Đối với hàng gia công tại Việt Nam khi xuất sang EU phải ghi rõ phí gia công, giá trị nguyên vật liệu mua tại Việt Nam để làm căn cứ giảm thuế nhập khẩu vào EU. Trong hiệp định cũng quy định rõ danh mục hàng hoá và kim ngạch mà Việt Nam đưa vào EU ( tổng cộng 151 nhóm mặt hàng với 108 nhóm thoe hạn ngạch và 43 nhóm tự do). Hạn ngạch năm trước không dùng hết có thể chuyển sang năm sau. Đặc biệt trong hiệp định này còn quy định hàng năm Việt Nam và EU sẽ xem xét khả năng xuất khẩu của Việt Nam để nới lỏng hạn ngạch cấp cho Việt Nam. Bởi vậy, đây là thị trường tiềm năng lớn, các doanh nghiệp của ta cần tuân thủ tốt các quy định này, tránh làm tổn hại đến quan hệ buôn bán giữa nước ta và cộng đồng kinh tế Châu Âu. 1.2. Thị trường Nhật Bản Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế giới và đây là thị trường phi hạn ngạch. Nhưng đây cũng là một thị trường khó tính với những đòi hỏi khắt khe cả về chất lượng và giá cả, họ thường yêu cầu kiểm tra chất lượng chi tiết và quan tâm nhiều tới mẫu mốt. Ví dụ như: - Đồ lót, tất: mốt chiếm 70,5% - Quần áo nữ: 56,4%là mốt; 37,5% là giá và còn lại là phẩm chất. - Comple nam: 50% là phẩm chất; 43,7% là mốt và còn lại là giá cả. Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người 26 nghìn USD/năm thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ, hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khoảng 7-8 tỷ USD hàng may mặc. Năm 1997 hàng may Việt Nam xuất sang Nhật xấp xỉ 130 triệu USD, năm 1999 xuất sang Nhật chiếm 90% kim ngạch của mảng thị trường không hạn ngạch và đạt 500 triệu USD. Mặt khác, xuất sang Nhật thường là áo Jacket, quần áo sơ mi do các đơn vị phía Bắc gia công, áo Kimono do các đơn vị phía Nam thực hiện. Đây tuy là thị trường đòi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, neus như đầu tư tốt, nâng cao được chất lượng, mẫu mã phong phú, màu sắc đa dạng, nắm vững thị hiếu thì có khả năng hàng may mặc của ta sé phát triển mạnh ở thị trường này. 1.3. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt-may vì dân số Mỹ khá đông, hiện có 253 triệu người, đa số sống ở thành thị có mức thu nhập quốc dân cao. Do đó người Mỹ có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Riêng hàng dệt may nhu cầu nhập khẩu hàng năm lên tới 30-36 tỷ USD như năm 1999 là 34 tỷ USD. Nguồn nhập chủ yếu là từ các nước Châu á: Bảng 6: Một số nguồn nhập khẩu chính về hàng may mặc tại Châu á của Hoa Kỳ. Nước Giá trị ( tỷ USD) Trung Quốc 6,1 Hồng Kông 5 Hàn Quốc 1,8 Đài Loan 2,3 Các nước ASEAN khác 4,5 (Nguồn: Tổng Công ty dệt may Việt Nam.) Tháng 2/1997 Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, tháng 8/1997 Mỹ bỏ cấm vận viện trợ và tháng 7/1998 Mỹ bình thường hoá mối quan hệ với Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta đang mong chờ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN-The Most Favourel Nation) cho hàng nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam. Đây cũng là điều kiện chìa khoá để xâm nhập thị trường Mỹ. Phải nói rằng, thị trường may mặc Bắc Mỹ là một miếng mồi béo bở, hấp dẫn ngay bởi mức cầu lơn, tính thời trang, mẫu mốt và thị hiếu thể hiện rất rõ phong cách của người Mỹ; đó là sự phong phú và khác biệt. Song với Việt Nam sự lạc quan đó vẫn nằm trong nỗi ô âu vì Mỹ chưa dành cho Việt Nam MFN và như vậy hàng may Việt Nam qua Mỹ phải chịu thuế nhập khẩu còn rất cao, từ 40-49% giá trị nhập khẩu. Trong khi Trung Quốc và một số nước khác được hưởng quy chế này chỉ phải chịu thuế 25%. Ưu thế cạnh tranh đã không tthuộc về các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác, ngân hàng hai nước chưa có mối quan hệ bạn hàng bang giao chặt chẽ nên việc thanh toán còn là một vấn đề bất cập. Trường hợp này đã có thực tế khi có một Công ty Mỹ muốn trả tiền cho Công ty may Phương Đông, họ không thể mở L/C từ Mỹ mà phải sang tận Việt Nam yêu cầu Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh cho phép vừa mở vừa nhận tiền và họ phải trả bằng tiền mặt. Do những hạn chế nêu trên, kim ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ mới chỉ là mức tương đối. Năm 1997 đạt 2 triệu USD, năm 1998 đạt 5 triệu, năm 1999 đạt 25 triệu và năm 2000 đạt trên 30 triệu USD. Đây mới chỉ là những con số rất nhỏ bé so với nhu cầu của thị trường Mỹ và khả năng xuất khẩu của ta. Vậy chúng ta phải làm gì để tích cực xâm nhập được vào thị trường đầy triển vọng này đang là câu hỏi đặt ra là hết sức cấp bách cho nhiều nhà quản lý và cả phía doanh nghiệp. 1.4. Thị trường SNG và một số nước Đông Âu Trong những năm trước khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan vỡ thì tỷ trọng kim ngạch của ta vào thị trường này chiếm vị trí khá lớn và đóng vai trò quan trọng, xuất khẩu theo những hiệp định hàng đổi hàng. Qua thời gian dài đó nhà xuất khẩu của ta phần nào nắm bắt được thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng ở khu vực này và người tiêu dùng cũng đã phần nào quen với hàng may mặc của ta. Tuy nhiên, kể từ khi các nước XHCN Đông Âu tan vỡ thì kim ngạch hàng may mặc của ta vào thị trường này giảm mạnh. Hiện nay, hàng may mặc của ta vào thị trường này chủ yếu do các thương gia buôn theo từng chuyến còn về phía doanh nghiệp thì chỉ mức thấp do chưa tìm được phương thức thanh toán hợp lý thây thế cho phương thức hàng đổi hàng trước đây. Như vậy có thể nói, với Việt Nam đây là thị trường truyền thống mà mấy năm vừa qua chúng ta để vượt khỏi tầm tay. Cần nhanh chóng tìm ra giải pháp cần thiết để nối lại quan hệ với thị trường không kém phần hấp dẫn này. Các doanh nghiệp cần mạnh dạn triển khai phương thức thanh toán mới phát huy lợi thế vốn có của ta trong nhiều năm qua trên thị trường này. 1.5. Thị trường các nước ASEAN Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và đang trên tiến trình thực hiện AFTA, bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cũng còn nhiều thách thức. Phải tiến hành cắt giảm thuế quan và hàng hoá được lưu chuyển tự do giữa các nước ASEAN tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá Việt Nam, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực cải tiến công nghệ, áp dụng phương thức quản lý hiện đại và phải tạo được cho mình một nền tảng vững chắc về mọi mặt để trụ vững trên thương trường. Sản phẩm có được thị trường chấp nhận hay không quyết định đến sự tốn tại của Công ty. Dưới sức ép đó sẽ xoá bỏ đi được các Công ty làm ăn trì trệ. Tuy nhiên về phía Việt Nam chắc chắn sẽ có nhiều Công ty cần phải “lột xác “. Bù lại, thị trường ASEAN với 430 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người hàng năm 1.608 USD, tốc độ phát triển bình quân 6-8%/ năm, thì đây quả là một thị trường lớn cho hàng may mặc. ASEAN còn là một thị trường có nền văn hoá tương đồng lẫn nhau. Do đó thị hiếu, lối sống cũng tương đối giống nhau, điều này là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam xâm nhập dế ràng hơn. 1.6. Thị trường trong nước Chúng ta chủ yếu chú trọng đến sản xuất hàng may xuất khẩu và đã có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Song chúng ta đã để lại khoảng trống sau lưng mình đó là thị trường nội địa. Hiện nay, dân số Việt Nam trên 75 triệu người, chỉ tính khiêm tốn sức mua cũng vào khoảng 750 triệu USD/năm (10 USD/người/năm). Đây là con số không nhỏ có sức hấp dẫn đối với bất kỳ nhà đầu tư nào. Thực tế trên thị trường Việt Nam còn nhiều mặt hàng second-hand của nước ngoài, chứng tỏ rằng nhu cầu đã vượt khả năng cung cấp trong nước. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam một mặt tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu, một mặt phải chú ý đến sản xuất hàng phục vụ nhu cầu nội địa. Nhà nước chỉ có biện pháp như giao chỉ tiêu cho một số doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc đáp ứng tiêu dùng trong nước. Tránh bỏ trống thị trường ngay trong tầm tay. Trên đây là một số thị trường lớn mà chúng ta đã và đang có được. Cần phải có biện pháp và định hướng đúng đắn để khai thác nó một cách triệt để. Mặt khác phải tăng cường mở rộng và tìm kiếm những thị trường đang bị bỏ ngỏ, đây cũng là mục tiêu mà chúng ta đang đặt ra. Chẳng hạn sẽ tìm cách tiếp cận thị trường Trung Cận Đông và Mỹ La Tinh là một ví dụ. 2. Xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới. Thị trường thế giới sau nhiều năm vận hành độc lập nay đã trở nên có tổ chức và đang hoạt động trong sự ràng buộc chặt chẽ các thể chế sau: - Các định chế kinh tế như WTO. GSP. MFA, các công ước về lao động, về sở hữu trí tuệ... - Các thể chế về khu vực: EU, NAPTA, ASEAN... - Các thể chế về tài chính: WB,IMF, ADB và các hiệp định liên ngân hàng. - Các hiệp định về hàng hoá như về cao su thiên nhiên, cà phê, dầu mở , hàng dệt may... - Các trung tâm giao dịch: Sỏ giao dịch hàng hoá ở Luân Đôn, Paris, Singapore, Chicago... - Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế (ICAO), tổ chức du lịch quốc tế, các tính chất liên lạc viễn thông quốc tế, các mạng lưới và trung tâm dịch vụ tiêu thụ... Hoạt động của các thể chế quốc tế và khu vực đã đưa lại hiệu quả giúp cho thương mại quốc tế được ổn dịnh và phát triển. Trong tương lai các định chế này sẽ không thể không tham gia một cách tích cực vào các định chế thế giới và khu vực nói trên. Với cơ chế hoạt động của thị trường thế giới như vậy đã ảnh hưởng tới việc sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may trên thế giới. Như khu vực EU đã có các mức thuế ưu đãi đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển xuất khẩu vào thị trường này. Hiệp định các nước EU đã có hiệp định về hàng may mặc với từng nước cụ thể, dưới các quy định các sản phẩm Dệt may của Trung Quốc. Với các định chế này, nó tạo ra sự công bằng giữa các nước có nền công nghiệp may phát triển và các nước đang phát triển. Trong bối cảnh chung của thị trường thế giới như hiện nay, tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều biến động và nổi lên một số đặc điểm sau: + Năm 2000 đã kết thúc hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU hạn ngạch 22 nghìn tấn dệt may đạt giá trị 450 triệu. Gần đây, Việt Nam đã ký hiệp định trong lĩnh vực này cho giai đoạn 2001-2003, điều đó sẽ mở ra một triển vọng to lớn về xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. + Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ được cải thiện một cách cơ bản, song quy chế tối huệ quốc cho Việt Nam vẫn còn là một câu hỏi chưa chính xác. Nếu chế độ này được áp dụng thì đây sẽ là cơ hội lớn về thị trường hàng dệt may cho Việt Nam. + Kinh tế khu vực phát triển chận lại : việc trao trả Hồng Kông cho Trung Quốc vào 1/7/2000 vừa qua có thể ảnh hưởng đến kinh tế thị trường khu vực. Hiện nay một số khách hàng Hồng Kông đang đặt gia công hàng may mặc tại Việt Nam như vậy sẽ ít nhiều bị biến động. Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu á vừa qua làm ảnh hưởng nặng nề tới việc tiêu thụ cũng như khả năng sản xuất trên thị trường các mặt hàng nói chung và hàng may mặc nói riêng. + Trước đây khách hàng EU tập trung vào thuê gia công áo Jacket ba lớp (cat 21) và sơ mi (cat 8) tại Việt Nam. Thời gian tới xu hướng chung là giảm cat 21 và cat 8, đi vào một số cat khác như quần (cat 78), áo (cat 161). + Xí nghiệp may không ngừng cải tiến trang thiết bị, máy móc nâng cao năng suất lao động. Bên cạnh đó một số xí nghiệp liên doanh sản xuất hàng may mặc đã đi vào hoạt động. + Mọi năm các xí nghiệp có quota cat 21 thì bắt buộc các khách hàng nước ngoài phải làm gia công ở xí nghiệp đó để tận dụng quota cat 21. Thời gian tới, những xí nghiệp nào làm chất lượng tốt, đảm bảo thời gian giao hàng đúng hạn thì khách hàng mới đặt hàng. + Giá cả sợi để dệt vải trên thế giới tăng cao đã ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm quần áo và liên quan tới gia công. Trong khi đó, giá cả sản phẩm bán ra lại hạ mà giá gia công của Việt Nam nói chung thì ngày càng cao do yêu cầu của đời sống và lượng thu nhập ngày càng tăng lên của nhân dân. Nó đã tạo sự mâu thuẫn giữa phía Việt Nam và phí các khách hàng nước ngoài. + Bộ Thương mại có chủ trương sắp tới bỏ hoạt động cấp quota cho các doanh nghiệp sản xuất mà tổ chức đấu thầu quota. Thông tư liên bộ Thương mại - Công nghiệp điều chỉnh cơ chế giao quyền sử dụng hạn ngạch hàng dệt may xuất đi EU. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự quyết định giá cả. + Đặc biệt, Viện Mốt của Việt Nam đã đi vào hoạt động đang từng bước nghiên cứu các kiểu mốt được thịnh hành trên các thị trường thế giới và trong nước. + Hàng may mặc của Việt Nam xuất đi chủ yếu dưới hình thức gia công, xuất khẩu trực tiếp còn rất thấp. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong việc cung cấp nguyên liệu dầu vào các ngành dệt cho ngành may mặc. Tính theo kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thì hàng may mặt Việt Nam có tốc độ tăng trưởng lớn nhất. Năm 1998 tăng gấp 5 lần so với năm 1994. Đây là con số khả quan đánh giá sự phát triển ngành may mặc xuất khẩu, song nhìn vào thực tế thì giá trị ngoại tệ thực thu từ gia công đem lại là 150 triệu USD trên tổng giá trị xuất khẩu là 874 triệu USD, còn năm 1999 là 194 triệu USD trên tổng số kim ngạch xuất khẩu là 1,1 tỷ USD thì quả là xuất khẩu kiểu này không mấy hiệu quả. Hiện nay năng lực sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể đạt 2,15 tỷ USD. Đó là kết quả của sự đầu tư không ngừng của các doanh nghiệp, xí nghiệp Việt Nam - hầu hết các địa phương đều có xí nghiệp may ra đời, các xí nghiệp may như : Công ty may 10, Công ty may Việt Tiến, Công ty may Đức Giang, Công ty may Nhà Bè.. không ngừng cải tiến trang thiết bị, đào tạo đội ngũ quản lý, công nhân phục vụ quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm chất lượng cao. Hiệp hội các xí nghiệp may của Việt Nam hoạt động tích cực, mới đây đã thành lập Viện mốt với nhiệm vụ tạo mốt, mẫu mã kỹ thuật phục vụ các Công ty may sản xuất có hiệu quả. Bên cạnh sự đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam các Công ty nước ngoài cũng đã tham gia đáng kể trong việc đầu tư vào ngành may mặc, nhiều liên doanh trong lĩnh vực may mặc đã đi vào hoạt động thu kết quả khả quan. Tất cả đã tạo ra một năng lực sản xuất mới cho ngành may mặc Việt Nam. Quy mô sản xuất được mở rộng, tay nghề công nhân không ngừng được nâng lên, mẫu mã được cải tiiến phong phú, đa dạng. Các yếu tố này gây nên sự hấp dẫn đối với các khách hàng có ý định hợp tác. 3. Một số kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất hàng may mặc. Ngành công nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ và được nhiều đơn vị, thành phần kinh tế tham gia. Hệ thống các Công ty , xí nghiệp may từ Trung ương đến địa phương đều trưởng thành đáng kể. Năm 2000 có trên 400 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu dự kiến 2001 con số này sẽ là gần 500 doanh nghiệp. Không những đội ngũ may xuất khẩu tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp mà quy mô doanh nghiệp công nghệ sản xuất, chất lượng, đội ngũ công nhân lành nghề đang từng bước được nâng cao. Tất cả những điều này đang là dấu hiệu tốt cho sự khởi sắc của ngành may Việt Nam khi vươn ra thị trường thế giới. Tuy nhiên, để làm tốt hơn nữa chứng từ xuất khẩu may mặc, phát huy hết mọi sức mạnh tiềm tàng của đất nước thì bên cạnh các biện pháp chuyên môn các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm từ các cơ sở may xuất khẩu trong nước và ngoài nước. Thường xuyên coi trọng công tác tự đánh giá và rút ra những bài học chính mình để kịp thời điều chỉnh những vấn đề còn yếu kém, tránh thua thiệt trong cạnh tranh, tránh xu hướng đầu tư sai lầm mà trong thời gian ngắn khó có thể thay đổi được.. Cụ thể trong thực tiễn hoạt động của chúng ta đang còn nổi cộm lên một số vấn đề lớn sau và cần được nhìn nhận lại một cách nghiêm túc. Trong đầu tư mua sắc, chuyển giao máy móc công nghệ một số đơn vị do nguồn vốn hạn hẹp phải mua thiết bị Second-hand đã để khách hàng nước ngoài lợi dụng đưa thiết bị quá cũ, tân trang lại nên hiệu quả sử dụng rất hạn chế ; nguy cơ là bãi thải công nghiệp với những cỗ máy lạc hậu tới hàng thế kỷ. Bên cạnh đó công tác lập luận chứng đầu tư còn phiến diện, thiếu đồng bộ. Có trường hợp khi mua thiết bị sợi về thấy thiếu thiết bị lạnh lại phải chờ lập luận chứng mua thiết bị lạnh nên phải mất thêm 2 năm mới sử dụng được, hoặc thiếu sự phối hợp giữa các khâu trong đầu tư dẫn đến máy móc thiết bị nhập về rồi mới tính chất đào tạo công nhân. Tình trạng đã dẫn tới thời gian vay nợ kéo dài nhiều khi ảnh hưởng lớn tới uy tín Công ty vì nguồn vốn vay đầu tư không được trả đúng hạn thậm chí có trường hợp mất khả năng chi trả. Khi giao nhận nguyên vật liệu và thành phẩm có trường hợp Công tylàm hàng gia công trong nước do sơ xuất trong việc cụ thể hoá các chỉ tiêu như : định mức tiêu hao vật liệu, kiểu cách kết hợ gam màu thời gian và địa điểm giao nhận, phương thức thanh toán nên khi thực hiện hợp đồng đã để xảy ra những kết cục tranh chấp đáng tiếc. Như chúng ta đã biết, hàng may mặc luôn đi kèm với yếu tố thời trang, khi tham gia thị trường trên thế giới thì các yếu tố đó lại càng phức tạp. Do đó tăng cường thực hiện chiến lược sản phẩm là con đường thiết thực nhất, thường xuyên cách tân, thay đổi mẫu mốt, kiểu dáng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Hãy để chính sản phẩm lên tiiếng là việc làm hiệu quả hơn bất cứ nỗ lực nào. Đây cũng là bí quyết tất cả các doanh nghiệp thành công nhất trên trường quốc tế. Học hỏi kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài cũng đang được coi là việc làm cần thiết. Công tác đàm phán cần được chuẩn chu đáo bởi đây sẽ là thời điểm xác định lợi ích kinh tế của các bên. Muốn đạt được lợi ích lớn trước hết phải có nghệ thuật đàm phán khôn khéo, nhiều khi khách hàng đang có rất nhiều mối hàng nhưng do nghệ thuật thuyết phục của ta mà họ vẫn chấp nhận đặt hàng với những điều kiện có lợi cho chúng ta. Trong đàm phán rất cần thiết phải hiểu rõ đối phương (về văn hoá, tài chính, thái độ, phong tục..); tuỳ theo từng đối tượng mà sử dụng các chiến lược đàm pháp kiểu cứng, chiến lược đàm phán kiểu mềm hay chiến lược đàm phán kiểu hợp tác. Ngoài ra còn phải chủ ý tới việc nên áp dụng chiến thuật đàm phán gì ? chiến thuật tri thức hay chiến thuật tâm lý. Kinh nghiệm tạo uy tín và tạo khả năng xâm nhập vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp thành đạt cho thấy cần phải thực hiện song song hai chiến lược đó là : chiến lược marketing và chiến lược sản phẩm một cách tốt nhất. Thực hiện chiến lược marketing hợp lý sẽ cho phép sản phẩm của Công ty được mọi người quan tâm, chú ý. Khi sản phẩm đã được nhiều người biết đến cần tiếp tục củng cố lòng tin và uy tín với khách hàng bằng chính với yếu tố nội tại sản phẩm, nhất là với hàng may mặc cần luôn luôn tạo ra tính đặc thù, có như vậy mới mong duy trì được trên thị trường một cách bền vững. Có câu nói thấy triết lý mà bao hàm toàn bộ nội dung trên, đó là : “Hãy tạo dựng uy tín so cho khách hàng sẽ mua sản phẩm của Công ty như một thói quen”. Ngoài ra kinh nghiệm xuất khẩu một số nước cũng cho thấy: trong thời gian mới đầu các đơn vị tham gia xuất khẩu may mặc còn gặp nhiều hạn chế về vốn, công nghệ, thị trường.. do đó cần phải tăng cường chính sách hỗ trợ xuất khẩu từ phía Nhà nước. Các nước đã đi lên từng bước, từ chỗ nhận hàng gia công đến xuất khẩu trực tiếp, từ chỗ chỉ xuất được một số lượng nhỏ với những mặt hàng may mặc thấp cấp tới việc xuất đi những sản phẩm cao cấp nhất đạt giá trị cao mà cụ thể là các nước châu á đã làm được điều đó như: Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan.. với Việt Nam hiện nay sản phẩm may mặc xuất khẩu chủ yếu dưới dạng nhận gia công do đó thị trường xuất khẩu của ngành may Việt Nam thực chất là của người đặt ra công. Việc phân phối sản phẩm hoàn chỉnh đi thị trường nào là quyền của họ. Như vậy dưới hình thức này Việt Nam sẽ bị tước đi rất nhiều quyền lợi, vừa hạn chế sử dụng nguyên liệu trong nước vừa mất đi khả năng xâm nhập thị trường chưa kể đến giá trị lợi nhuận xuất khẩu thu về là rất nhỏ. Do đó Nhà nước cần có chính sách tập trung đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp là việc làm thiết thực và cấp bách. Có nhiều nước đã thực hiện thành công bước nhảy này bằng con đường liên doanh liên kết, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may mặc bước đầu tạo sức mạnh bứt phá về công nghệ, kiểu cách, ấn tượng sản phẩm. Phương pháp phát huy nội lực kết hợp với sử dụng ngoại lực cần được chúng ta xem xét vận dụng để sớm tìm ra hướng đi và chỗ đứng vững chắc cho hàng may Việt Nam trong thị trường may thế giới. Chương II Thực trạng kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty dệt - may VIệT NAM giai đoạn 1998-2001. I. Những nét khái quát về Tổng Công ty Dệt-May ViệT Nam. 1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Dệt-may Việt Nam: Ngành Dệt - May xuất khẩu Việt Nam ra đời từ những năm 58 ở miền Bắc và những năm 70 ở miền Nam, nhưng mãi tới năm 1975 sau khi thống nhất đất nước thì ngành mới có sự phát triển đáng kể. Năm 1978, Liên hiệp các xí nghiệp dệt toàn quốc được thành lập trên cơ sở thống nhất Liên hiệp các xí nghiệp Dệt phía Bắc và Tổng Công ty Dệt phía Nam, đã phát huy vai trò tích cực trong công tác quản lí ngành kinh tế kĩ thuật, tạo ra những khả năng liên kết sản xuất giữa hai miền. Năm 1987-1989, từ tổ chức Liên hiệp các xí nghiệp Dệt chuyển thành Liên hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu Dệt để kết hợp sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. Đến ngày 5/3/1996 Liên hiệp sản xuất, xuất nhập khẩu Dệt được chuyển thành Tổng Công ty Dệt Việt Nam với chức năng nhiệm vụ là: - Trung tâm thương mại của ngành dệt, lấy xuất nhập khẩu là trung tâm hoạt động để thúc đẩy sự phát triển của ngành. - Làm đầu mối của ngành kinh tế kĩ thuật và là hạt nhân của hiệp hội Dệt Việt Nam. Với mô hình này, không đáp ứng được yêu cầu củng cố và phát triển ngành Dệt, không phát huy được sức mạnh tổng hợp, không tạo được thế và lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Mặt khác, Nghị định 388/HĐBT ra đời tạo cho các cơ sở phát huy lợi thế chủ động nhưng lại thiếu sự liên kết với nhau thành sức mạnh, xuất hiện việc tranh mua tranh bán cục bộ bản vị trong sản xuất kinh doanh, dẫn đến không có một sự chỉ huy thống nhất trong ngành. Do quản lí phân tán nên không đủ sức có đại diện ở nước ngoài, một cuộc triển lãm ở nước ngoài có nhiều đơn vị tham gia mặt hàng trùng lặp, giá cả chào hàng không giống nhau. Nhiều Công ty nước ngoài đã lợi dụng sơ hở về mặt tổ chức và quản lí của ta chèn ép, thủ đoạn dẫn đến thua thiệt cho nền kinh tế nói chung và cho từng cơ sở ngành dệt nói riêng. Tiến gần đến thế kỷ 21, công nghiệp dệt may đã và đang có thêm những thuận lợi để phát triển sôi động với tốc độ ngày càng cao. Song song cùng phát triển các nguồn lực trong nước, các doanh nghiệp quốc doanh cũng đang trong quá trình tích cực thay đổi về tổ chức quản lí, sắp xếp lại sản xuất theo hướng liên kết nhiều đơn vị cùng ngành nghề hoặc cùng cấp quản lí thành những Tổng Công ty, Công ty lớn : đổi mới thiết bị và công nghệ, tăng cường đào tạo cán bộ quản lí kỹ thuật, tiếp thị, thiết kế mẫu mã nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Trên tinh thần này, ngày 29 tháng 4 năm 1998 Chính Phủ Việt Nam đã quyết định thành lập Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam (VINATEX) trên cơ sở thống nhất Tổng Công ty Dệt Việt Nam và Liên hiệp các xí nghiệp sản xuất-xuất nhập khẩu May nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, tạo được thế và lực để thúc đẩy sản xuất-kinh doanh hàng Dệt-May phát triển. Tổng Công ty Dệt May Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là Vietnam National Textile and Garment Corporation, viết tắt là VINATEX. Trụ sở chính của Tổng Công ty đặt tại 25 Bà Triệu Hà Nội. Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam là một trong 18 Công ty quốc gia hoạt động theo hướng tập đoàn, chịu sự quản lí trực tiếp của Chính phủ và Bộ công nghiệp. Tổng Công ty có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự theo luật định, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong tổng số vốn do Tổng Công ty quản lý, có con dấu, có tài sản và các quĩ tập trung, được mở tài khoản tại ngân hàng trong nước và nước ngoài theo luật định của Nhà nước, được tổ chức và hoạt động theo điều lệ Tổng Công ty. Tổng Công ty Dệt May Việt Nam thực hiện nhiệm vụ kinh doanh hàng dệt, hàng may mặc (từ đầu tư, sản xuất, cung ứng, tiêu thụ, xuất khẩu, nhập khẩu), tiến hành các hoạt động kinh doanh ngành nghề khác nhau theo qui định của pháp luật. Liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Lựa chọn, khai thác mở rộng thị trường trong và ngoài nước, hướng dẫn và phân công thị trường cho các đơn vị thành viên. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, đổi mới công nghệ, thiết bị theo chiến lược chung. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lí, kĩ thuật và công nhân lành nghề. Các ngành nghề kinh doanh cụ thể là : Công nghiệp dệt may : sản xuất kinh doanh từ nguyên liệu vật tư, thiết bị phụ tùng, phụ liệu hoá chất, thuốc nhuộm và các sản phẩm cuối c._.ùng của ngành dệt may, xuất nhập khẩu hàng dệt may gồm các chủng loại tơ, sợi vải hàng may mặc, dệt kim, chỉ khâu, khăn bông, len thảm đay tơ, tơ tằm, nguyên liệu, thiết bị phụ tùng, phụ liệu hoá chất, thuốc nhuộm, hàng công nghệ thực phẩm, nông lâm hải sản, thủ công mĩ nghệ, ô tô xe máy, các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng khác, kinh doanh kho vận, khu ngoại quan. Thiết kế, thi công xây lắp phục vụ ngành dệt may và xây dựng dân dụng. Dịch vụ khoa học công nghệ, du lịch khách sạn, nhà hàng văn phòng, vận tải, du lịch lữ hành trong nước, xuất nhập khẩu thiết bị, phụ tùng ngành dệt may, trang thiết bị văn phòng, thiết bị tạo mẫu thời trang, phương tiện vận tải, vật liệu điện, điện tử cao su. Với tổng số vốn khi thành lập là 1.562.500 triệu đồng, trong đó: -Vốn lưu động: 547.140 triệu đồng -Vốn cố định : 1.015.360 triệu đồng Hiện tại, Tổng Công ty có 40 doanh nghiệp thành viên tham gia sản xuất từ kéo sợi dệt vải, hoàn tất và may mặc, một Công ty tài chính, ba xí nghiệp sửa chữa và sản xuất phụ tùng, một viện thiết kế kĩ thuật dệt may, một viện mẫu và thời trang, ba trường đào tạo công nhân. Có các chi nhánh ở thành phố Hải Phòng và Đà Nẵng và hai Công ty du lịch và dịch vụ thương mại ở Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. Một số đại diện ở nước ngoài. Bên cạnh đó, Tổng Công ty còn có Công ty tài chính TFC là tổ chức tạo nguồn vốn cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Sự đổi mới tổ chức như trên có ý nghĩa kết hợp hai ngành dệt và may trước đây vốn hoạt động riêng lẻ thành một tổ chức chung để giảm dần sự cạnh tranh phân tán, manh mún trong đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng thời có thể tích tụ, tập trung vốn cho sự phát triển lâu dài vừa chuyên môn hoá vừa đa dạng hoá một cách cân đối, hài hoà. Trong tương lai không xa, với sự ra đời của hiệp hội Dệt May Việt Nam đã tạo mái nhà chung cho các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế có thể liên kết và hỗ trợ nhau tốt hơn trong sản xuất kinh doanh. 2.Chức năng, nhiệm vụ của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam. Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam có quyền quản lí, sử dụng vốn, đất đai và các nguồn lực đã được giao theo qui định của pháp luật để thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ do Nhà nước giao. Mặt khác, Tổng Công ty có quyền giao lại cho các đơn vị thành viên quản lí, sử dụng các nguồn lực mà Tổng Công ty đã nhận của Nhà nước, điều chỉnh các nguồn lực đã giao cho các đơn vị thành viên trong trường hợp cần thiết, phù hợp với kế hoạch phát triển chung của toàn Tổng Công ty. Ngoài những quyền hạn trên, Tổng Công ty còn có những nhiệm vụ sau đây: - Thực hiện nhiệm vụ kinh doanh hàng dệt và hàng may theo qui hoạch và kế hoạch phát triển ngành dệt và ngành may của Nhà nước và theo yêu cầu của thị trường, bao gồm : xây dựng kế hoạch phát triển, đầu tư, tạo nguồn vốn đầu tư sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, cung ứng nguyên vật liệu, xuất nhập khẩu phụ liệu, thiết bị phụ tùng, liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước, phù hợp với pháp luật và chính sách của Nhà nước. - Nhận và sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước giao, gồm cả phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp khác, nhận và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất đai và các nguồn lực khác do Nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh và những nhiệm vụ khác được giao. - Tổ chức quản lí công tác nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, khoa học công nghệ và công tác đào tạo cán bộ, bồi dưỡng cán bộ và công nhân trong Tổng Công ty.Tổ chức các hoạt động dịch vụ thông tin, tư vấn đầu tư, đào tạo trong và ngoài Tổng Công ty. - Xác định chiến lược đầu tư, thẩm định các luận chứng hợp tác, đầu tư, liên doanh với nước ngoài của các doanh nghiệp thành viên trình Nhà nước xét duyệt, làm chủ các công trình đầu tư mới. - Điều tra nghiên cứu, mở rộng thị trường trong và ngoài nước về cung cấp vật tư, nguyên liệu chính, thực hiện hợp tác quốc tế, kinh doanh đối ngoại, thị trường xuất nhập khẩu. 3. Hệ thống cơ cấu tổ chức, chức năng các phòng ban của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam Hệ thống tổ chức của Tổng Công ty gồm có: - Hội đồng quản trị, ban kiểm soát - Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc - Các đơn vị thành viên Tổng Công ty Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lí các hoạt động của Tổng Công ty, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng Công ty theo nhiệm vụ của Nhà nước giao. Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ do Hội đồng quản trị giao về việc kiểm tra giám sát hoạt động điều hành của Tổng giám đốc, bộ máy giúp việc và các đơn vị thành viên Tổng Công ty trong hoạt động tài chính, chấp hành pháp luật, điều lệ Tổng Công ty, các nghị quyết và quyết định của Hội đồng quản trị. Tổng giám đốc do Thủ Tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm khen thưởng, kỉ luật theo đề nghị của Hội đồng quản trị. Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của Tổng Công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước Thủ Tướng Chính phủ và trước pháp luật về điều hành hoạt động của Tổng Công ty, Tổng giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong Tổng Công ty. Phó Tổng giám đốc là người giúp Tổng giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của Tổng Công ty theo phân công của Tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được Tổng giám đốc phân công thực hiện. Kế toán trưởng Tổng Công ty giúp Tổng giám đốc chỉ đạo thực hiện công tác kế toán, thống kê của Tổng Công ty, có các quyền và nhiệm vụ theo qui định của pháp luật. Văn phòng Tổng Công ty, các ban chuyên môn, nghiệp vụ có các chức năng tham mưu, giúp việc Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong quản lí điều hành công việc. Đơn vị thành viên là doanh nghiệp hạch toán độc lập và Tổng Công ty có quyền tự chủ kinh doanh và tự chủ tài chính, chịu sự ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ đối với Tổng Công ty theo luật định tại điều lệ của Tổng Công ty. Thành viên là các đơn vị hạch toán phụ thuộc: có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của Tổng Công ty chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với Tổng Công ty. Được kí kết các hợp đồng kinh tế, được chủ động thực hiện các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, tổ chức và nhân sự theo phân cấp của Tổng Công ty. Quyền hạn nhiệm vụ của các đơn vị hạch toán phụ thuộc được cụ thể hoá trong điều lệ tổ chức của đơn vị này. Tổng Công ty có 8 ban, bao gồm các ban sau đây: - Ban tổ chức cán bộ lao động - Ban kế hoạch đầu tư - Ban tài chính kế toán - Ban hợp tác quốc tế - Ban trung tâm thông tin - Văn phòng Tổng Công ty - Ban khoa học công nghệ và môi trường - Ban xuất nhập khẩu Ban tổ chức cán bộ lao động: có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc và hội đồng quản trị trong các lĩnh vực tổ chức cán bộ, đào tạo công tác lao động tiền lương và công tác thanh tra, góp phần bảo đảm cho công tác quản lí của Tổng Công ty hoạt động thông suốt và có hiệu quả. Ban kế hoạch tài chính: Là bộ môn nghiệp vụ có chức năng tham mưu giúp Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị trong các lĩnh vực kế hoạch, kế hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng toàn Tổng Công ty. Ban tài chính kế toán: Là cơ quan chuyên môn của Tổng Công ty tham mưu giúp ban lãnh đạo Tổng Công ty thực hiện hai chức năng chủ yếu sau: - Quản lí các đơn vị thành viên của Tổng Công ty về tài chính, kế toán, giá cả trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ bản, hành chính sự nghiệp. -Tổ chức thực hiện công tác tài chính kế toán, giá cả và tín dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ bản của cơ quan Tổng Công ty. Văn phòng Tổng Công ty: Là bộ môn chức năng tham mưu giúp việc Tổng giám đốc và hội đồng quản trị trong lĩnh vực hành chính quản trị, tổng hợp, làm cầu nối giữa Nhà nước với Tổng Công ty và kinh doanh trong lĩnh vực đối nội đối ngoại, bảo đảm cho hoạt động của Tổng Công ty được tiến hành có hiệu quả. Ban kỹ thuật đầu tư: Có chức năng tham mưu giúp Tổng giám đốc và hội đồng quản trị trong lĩnh vực quản lí khoa học công nghệ-môi trường và công tác chất lượng sản phẩm của Tổng Công ty. Ban xuất nhập khẩu: Là bộ môn chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị trong lĩnh vực quản lí ngành. Giúp đỡ các đơn vị thành viên trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu nhằm tạo nguồn thu và thúc đẩy sự phát triển của Tổng Công ty. Nhiệm vụ của ban là: -Xây dựng chiến lược phát triển và mục tiêu phát triển kinh doanh xuất nhập khẩu của Tổng Công ty trong từng giai đoạn. -Nghiên cứu tình hình thị trường, giá cả, khách hàng, sự biến đổi, xu hướng phát triển của ngành Dệt-May thế giới. -Nghiên cứu hệ thống quản lí, các chính sách và công cụ của nó như quota (giá tối thiểu, giá nhập tối đa) đối với những sản phẩm chính để Tổng giám đốc và hội đồng quản trị duyệt. -Hướng dẫn các đơn vị thành viên thực hiện khung giá, giá đã duyệt, theo dõi tình hình giá cả thị trường để đề xuất Tổng giám đốc và hội đồng quản trị thay đổi kịp thời, đáp ứng yêu cầu kinh doanh trong cơ chế thị trường. -Xây dựng các chính sách của Tổng Công ty đối với thương nhân, khách hàng, chính sách đối với từng khu vực để Tổng giám đốc duyệt phục vụ cho công tác kinh doanh xuất nhập khẩu. -Phối hợp với ban kế hoạch đầu tư xây dựng kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu của cơ quan Tổng Công ty. -Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu tìm mọi khả năng khai thác nguồn hàng xuất nhập khẩu bằng các hình thức tự doanh, đổi hàng xuất nhập khẩu uỷ thác... bảo đảm kế hoạch kinh doanh của Tổng Công ty. -Tổng hợp dự kiến nhu cầu bông xơ, nguyên liệu chính hàng năm, có kế hoạch nhập bông dự trữ chiến lược đồng thời đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. -Thực hiện tốt luật cũng như chế độ chính sách trong kinh doanh xuất nhập khẩu. -Theo dõi tổng hợp, kiểm tra tình hình thực hiện công tác pháp chế trong xuất nhập khẩu của Tổng Công ty. ( Sơ đồ cơ cấu tổ chức Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam - Xem trang sau) Bảng 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Tổng Công ty Dệt May Việt Nam 4. Đặc điểm và xu thế ngành may Việt Nam. 4.1. Đặc điểm. Ngành may Việt nam có truyền thống lâu đời gắn bó với truyền thống nhân dân từ nông thôn đến thành thị, đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nhằm đảm bảo hàng hoá cho tiêu dùng trong nước, có điều kiện mở rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động tạo ra ưu thế cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu, hàng năm mang về cho Nhà nước một lượng ngoại tệ đáng kể, kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau dầu khí và đã trở thành một ngành công nghiệp then chốt của nước ta. Đây là một ngành phù hợp với điều kiện nền kinh tế nước ta, vì: Một là: Sản xuất hàng may mặc cần nhiều lao động, không đòi hỏi trình độ tay nghề cao. Trong khi lao động giản đơn ở nước ta thừa rất nhiều. Hơn nữa, để đào tạo một lao động trong ngành may mặc chỉ cần từ hai đến hai tháng rưỡi và lao động trong ngành may mặc thường sử dụng nhiều nữ. Hai là: Vốn đầu tư cho một chỗ làm việc ít, đồng thời ngành may mặc có thể tạo nhiều công ăn việc làm so với các ngành khác với cùng một lượng vốn đầu tư, thời gian thu hồi vốn nhanh. Chỉ cần khoảng 700-800 USD là có thể tạo ra một chỗ làm trong ngành may, so với 1500-1700 USD để cho một nông dân có thể cấy ở vùng Đồng Tháp Mười. Thời hạn thu hồi vốn chỉ 3-3,5 năm. Ba là: Thị trường rộng lớn ở cả trong và ngoài nước. ở trong nước thì đời sống nhân dân được nâng lên, nhu cầu về mặc chuyển từ “ấm” sang “đẹp”, “mốt” tức là nhu cầu hàng may mặc ngày càng tăng và nhanh biến đổi. Còn trên thế giới thì xu thế ngành may mặc phổ thông đang chuyển dần sang các nước đang phát triển do ở những nước này có lợi thế về lao động rẻ hơn những nước phát triển. Bốn là: Nước ta có điều kiện để phát triển trồng bông, đay, thúc đẩy ngành dệt may phát triển vì nguyên liệu cung cấp trong nước thường rẻ hơn nhập khẩu. Với những đặc điểm trên mà ngành may Việt Nam đã ngày càng phát triển, thu hút được nhiều lao động xã hội - gần 50 vạn người, chiếm 22,7% lao động công nghiệp toàn quốc, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo sự ổn định chính trị-kinh tế-xã hội, do đó được Đảng và Nhà nước quan tâm. Hiện nay ngành may vẫn đang chiếm một vị trí quan trọng về ăn mặc của nhân dân, quốc phòng và tiêu dùng trong các ngành công nghiệp khác. 4.2. Thực trạng ngành may Việt Nam. Do có những đặc điểm phù hợp với điều kiện nước ta, nên ngành may Việt nam và may xuất khẩu phát triển rất cao trong thời gian qua cả về mặt sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau dầu thô và liên tục tăng, có thể thấy rõ qua bảng dưới đây: Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng qua các năm Năm 1997 1998 1999 2000 2001 Kim ngạch xuất khẩu(tr.USD) 550 750 1150 1250 1350 Tốc độ tăng trưởng(%) 36 53 8,7 14,0 Đồng thời cũng là ngành mang tính xã hội cao, sử dụng mọi lao động trên khắp mọi miền đất nước, đặc biệt là lao động nữ. Số lao động công nghiệp của ngành vào loại đứng đầu trong cả nước: khoảng 300 lao động chính và nhiều lao động phụ khác. Về mặt hàng: Sản phẩm ngành may rất đa dạng, có tính chất thời trang vừa có tính quốc tế vừa có tính dân tộc. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, nhu cầu hàng may mặc lại càng phong phú và chất lượng cao hơn. Bên cạnh những mặt hàng truyền thống, thông qua gia công cho các nước, các doanh nghiệp may Việt Nam có điều kiện làm quen với công nghệ may các mặt hàng phức tạp, thời trang của thế giới. Công nghiệp may Việt Nam tiến bộ nhanh, từ chỗ may quần áo lao động xuất khẩu, các loại quần áo đơn giản như vỏ chăn, áo gối, quần áo ngủ, quần áo học sinh... đến nay đã may được nhiều mặt hàng cao cấp được nguời tiêu dùng chấp nhận, khách nước ngoài tín nhiệm đặt hàng đi tiêu thụ tại các thị trường khó tính trên thế giới. Tính đến năm 1998, sản phẩm may Việt Nam đã xuất khẩu sang 46 nước, riêng thị trường EU chiếm 40%, tiếp sau là Nhật Bản 16%, Đài Loan 11%, Hàn Quốc 9%, các nước SNG 6%, các nước khác 8%. Ngoài ra còn có Nauy và Canada cấp hạn ngạch xuất khẩu hàng may cho ta. Việc có được hạn ngạch may là rất có ý nghĩa, đặc biệt là hiệp định may với EC (European community), nay đổi là EU (European Union) bởi vì: Thứ nhất: EU là thị trường rất rộng lớn, khả năng tài chính, tiêu thụ cũng rất lớn. Một thị trường với hơn 350 triệu dân có mức sống cao, nhu cầu về hàng may mặc hàng năm lên tới 22-23 ngàn tấn vải, quả là một thị trường lý tưởng cho ngành may Việt Nam. Thứ hai: là hiệp định may tạo ra thị trường ổn định để phát triển ngành may, trị giá hạn ngạch lên tới 300-400 triệu USD/năm. Đồng thời thị trường hạn ngạch thường hiệu quả hơn vì có giá ổn định và cao hơn. Ví dụ: giá gia công một chiếc Jackét ( cat 21) ở thị trường EC là 4,2-4,6 USD thì ở thị trường khác chỉ 2,5-2,8 USD. Thứ ba: là phần nào khẳng định uy tín chất lượng của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường thế giới. Có hạn ngạch tức là khách hàng sẽ tìm đến chứ không chỉ người sản xuất Việt Nam đi tìm khách như trước nữa. Ngành may Việt nam cũng đẩy mạnh xuất khẩu theo hình thức gia công hoặc phương thức thương mại thông thường với một số nước có nền công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Canada, các nước công nghiệp mới như Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapo và gần đây khi Mỹ bỏ cấm vận và bình thường hoá quan hệ đối với Việt Nam, hàng may của ta có thêm thị trường Mỹ. Tuy có những thuận lợi trong việc mở rộng thị trường nhưng thử thách đối với hàng may của ta với thị trường thế giới còn rất lớn. Đó là khả năng thích ứng về mẫu mốt, chất lượng, giá cả, thời hạn giao hàng theo thời vụ và tập quán buôn bán còn rất hạn chế. Số lượng sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu nguời tiêu dùng ở các nước phát triển chưa nhiều. Thị trường truyền thống có dung lượng lớn như Liên Xô và các nước Đông Âu chưa tìm được phương thức làm ăn thích hợp, nhất là phương thức thanh toán. Cho đến nay, ngành may Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với hơn 200 Công ty thuộc hơn 40 nước trên thế giới và khu vực. Tuy vậy, thị trường xuất khẩu vẫn không ổn định, đặc biệt là đối với thị trường phi hạn ngạch. 5. Mục tiêu và định hướng phát triển. Theo quy luật của sản xuất hàng hoá, thị trường là yếu tố quyết định của sản xuất. Để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển, hoà nhập được vào thị trường may của khu vực và thế giới, trong những năm tới ngành may Việt Nam coi trọng phương châm “hướng ra xuất khẩu-coi trọng thị trường nội địa” để tổ chức sản xuất. Sau khi mất thị trường truyền thống là Liên Xô và Đông Âu cũ, ngành may đã cố gắng khai thác thị trường mới là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, EU... song còn nhiều hạn chế. Để duy trì và phát triển sản xuất-xuất nhập khẩu, Tổng Công ty phải tổ chức tìm kiếm thị trường một cách chủ động, khắc phục tính thụ động ngồi chờ, giữ vững, khai thác, mở rộng các thị trường hiện có, nhanh chóng tìm kiếm, khai thác thị trường mới, đặc biệt là thị trường Mỹ và thị trường truyền thống cũ. Trước mắt có thể làm gia công, nhưng phải chuẩn bị các điều kiện để chuyển dần từng bộ phận, từng doanh nghiệp khi đủ khả năng sang phương thức xuất FOB. Trong hai thập kỷ tới, ngành may Việt Nam vẫn hướng ra xuất khẩu để thu hút ngoại tệ, tự cân đối để tồn tại và phát triển, đồng thời coi trọng thị trường nội địa để làm cơ sở cho sự phát triển. Trên thực tế hiện nay, có thể tạm chia thị trường may Việt Nam thành hai khu vực. 5.1. Thị trường nội địa. Trên lĩnh vực này, ngành may Việt nam cũng gặp phải không ít những khó khăn khi phải thi đấu với những đối thủ trên sức mình. Vì Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức và thực hiện các điều khoản của hiệp định AFTA, thị trường nội địa là “sân chơi” của các nước trong khu vực. Trong khi ngành dệt Việt Nam đang ở mức thấp hơn so với các nước trong khu vực: về phần cứng ta sau bạn từ 7-8 năm, về phần mềm thì sau 15-20 năm. Như vậy, để giữ được thị trường trong nước, không để hàng các nước trong khu vực tràn vào cạnh tranh, ngành dệt may phải có những bước đi và giải pháp thích hợp trong thời gian tới. 5.2.Thị trường xuất khẩu. Đây là thị trường có nhu cầu lớn nhưng lại có yêu cấu rất cao về chất lượng và mẫu mã, đặc biệt là thị trường Mỹ, Nhật Bản và EU. Để vào được thị trường này, ngành may phải đi từng bước từ dễ đến khó, từ gia công đến xuất hàng FOB ( năm 2010 hàng vào EU là 70% FOB ) và thương mại. Với tình hình thực tế ngành may của ta hiện nay, chỉ có thể đi vào các chủng loại mặt hàng chất lượng thấp và trung bình, một số ít mặt hàng đạt đến khá. Các loại mặt hàng cao cấp của thị trường này ta chưa thể làm được và rất khó cạnh tranh. Đặc biệt vào năm 2005, thị trường Mỹ sẽ không còn hạn ngạch, với lợi thế nhân công rẻ, ngành may Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thâm nhập vào thị trường này. Thâm nhập và tìm kiếm thị trường là nhiệm vụ hàng đầu, là công việc khó khăn phức tạp nên phải phát huy khả năng của mọi doanh nghiệp để mở rộng và phát triển thị trường. Đồng thời ngành may Việt nam cũng phải từng bước đầu tư hợp lý, tổ chức lại quản lý sản xuất để tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh và uy tín trên thị trường. Trong những năm tới, ngành may Việt Nam phải đầu tư phát triển để đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân 1999-2003 là 15%/năm. Đến năm 2003 xuất khẩu hàng may mặc đạt 1,2-1,3 triệu USD, tăng ba lần so với năm 1998. Sản phẩm xuất khẩu bằng vải do Việt Nam sản xuất chiếm khoảng 40-50%. Tạo việc làm cho khoảng một triệu lao động. Đến năm 2010 xuất khẩu hàng may mặc đạt 3 tỷ USD, tăng gấp hai lần so với năm 2003. Sản phẩm xuất khẩu bằng vải do Việt nam sản xuất chiếm 60-70%. Tạo ra công ăn việc làm cho gần hai triệu lao động với mức thu nhập bình quân trên 100 USD/1tháng/1người. II. Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty Dệt- May thời kỳ 1998-2001. Mặt hàng may mặc Việt nam trong nhiều năm qua chiếm một vị trí quan trọng trong đóng góp cho xuất khẩu và nâng cao giá trị sản lượng của toàn bộ ngành công nghiệp Việt nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc tăng vọt từ năm 1996, là năm bắt đầu thực hiện Hiệp định may mặc giữa Việt nam với EC (Europed Community). Hiệp định này đã đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc cả về số lượng, chất lượng và thị trường của sản phẩm may mặc "Made in Vietnam" trên thị trường thế giới. Nếu như năm 1996 kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc đạt 350 triệu USD thì năm 1997 tăng lên 554 triệu USD, chiếm 85% kim ngạch hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, chiếm khoảng 13-14% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 1998 vẫn giữ tỉ trọng này nhưng về mặt giá trị đã tăng lên 750 triệu USD. Với sự ra đời của Tổng Công ty Dệt- May Việt nam trên cơ sở thống nhất Tổng Công ty Dệt Việt nam và Liên hiệp các xí nghiệp sản xuất- xuất nhập khẩu hàng may mặc đã phát huy được sức mạnh tổng hợp, tạo được thế và lực. Từ năm 1998 tới nay, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc không ngừng tăng lên và đã đứng hàng thứ hai trong danh mục hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam. Cụ thể qua bảng sau: Bảng 3: Giá trị xuất khẩu hàng may Việt nam 1994-2001. (Đơn vị: triệu USD) 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Giá trị XK toàn quốc 2.087,1 2.580,7 2.985,0 4.054,3 5.200,0 7.255,8 8.850,0 8.910,0 Giá trị XK ngành may Việt nam 116,0 180,0 350,0 550,0 750,0 1.150,0 1.250,0 1.310,0 Tỷ lệ so với XK toàn quốc (%) 5,6 7 11,7 13,6 14,4 15,8 14,1 14,7 (Nguồn: Dự án qui hoạch tổng thể ngành công nghiệp Dệt- May đến năm 2010, tr. 17.) Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam phải kể đến hàng Dệt-May. Tuy đứng ở vị trí thứ hai sau dầu thô, nhưng đây là mặt hàng có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát triển cao. Năm 2000 tỷ lệ xuất khẩu hàng Dệt-May chiếm 14,1% so với toàn quốc đến năm 2001 tỷ lệ này tăng lên 14,7% mặc dù bị ảnh hưởng không ít bởi cơn khủng hoảng tài chính ở Đông Nam á. Đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của toàn Tổng Công thuốc thú y, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu hàng may mặc. Điều này góp phần giải quyết việc làm, tích cực đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. 1. Tình hình xuất khẩu hàng may mặc theo mặt hàng. Trong những năm qua, Tổng Công ty Dệt-May Việt nam thực hiện kinh doanh đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, khách hàng có xu hướng tăng lên. Tổng Công ty có khả năng tạo nguồn hàng với khối lượng lớn và đang mở ra một hướng kinh doanh mới phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế trong nước và thế giới. Các hình thức xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty chủ yếu là xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu trả nợ, liên doanh với các đơn vị để xuất, giao hàng đổi thiết bị, mua bán đứt đoạn. Các nhóm mặt hàng chủ yếu bao gồm: - Nhóm mặt hàng mặc thường ngày: sơ mi, quần âu, áo váy... - Nhóm mặt hàng lót nam, nữ - Nhóm mặt hàng thường dùng ở nhà: các loại bộ ngủ nam, nữ; vỏ chăn, ga, gối. - Nhóm quần thể thao: quần áo vải thun, quần áo bò (Jean) - Nhóm thời trang hiện đại (quần áo mode) - Nhóm trang phục đặc biệt: quân đội, bảo hộ lao động cho các loại ngành nghề. Các nhóm hàng trên với nhiều chất liệu vải và phụ liệu, với tay nghề tốt, khéo léo nên sản phẩm xuất khẩu ra đạt yêu cầu về chất lượng của khách hàng. Bảng 4: Cơ cấu hàng xuất khẩu qua các năm Mặt hàng 1999 2000 2001 Tr. USD % TKN Tr. USD % TKN Tr. USD % TKN 1. Sơ mi 108,871 14,25 236,028 20,52 257,043 20,56 2.Jacket và áo khoác các loại 118,459 15,79 225,742 19,63 241,978 19,36 3. Quần các loại 58,630 7,82 110,483 9,61 157,142 12,57 4. Dệt kim các loại 57,799 7,71 92,421 8,03 107,664 8,6 Sau mỗi đợi xuất hàng, Tổng Công ty đều tổ chức hạch toán kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ ở các công đoạn xem có đúng, đầy đủ, chính xác không để kịp thời phát hiện, bổ sung thiếu sót. Do vậy, hoạt động xuất khẩu hàng may mặc liên tục hoàn thiện và phát triển. Có thể thấy rõ hơn sự biến động tăng giảm của từng sản phẩm qua các năm qua (Bảng 4). Qua bảng trên cho thấy, tình hình xuất khẩu các mặt hàng may mặc nói chung có triển vọng tốt, chẳng hạn đối với mặt hàng sơ mi năm 1999 giá trị đạt hơn 100 triệu USD, chiếm 14,52% tổng kim ngạch thì năm 2000 đã tăng lên hơn 200 triệu USD, chiếm 20,52% và năm 2000 là 20,56%. Trong cơ cấu hàng may mặc xuất khẩu trên thì xu hướng hàng may mặc sẵn có xu hướng tăng lên nhiều bởi Tổng Công ty ngoài việc thực hiện xuất khẩu còn thực hiện làm hàng trả nợ cho các nước SNG và Đông Âu. Bằng sự tranh thủ mọi nguồn vốn và sự hỗ trợ của các đối tác, Tổng Công ty không ngừng đầu tư đổi mới trang thiết bị, dây truyền công nghệ, thay thế các thiết bị cũ, lạc hậu, lắp đặt các thiết bị hiện đại. Chính vì vậy mà chất lượng sản phẩm được nâng cao, sản phẩm đa dạng (sơ mi, jacket, đồ thể thao...) từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường. Đặc biệt đối với mặt hàng sơ mi nam cao cấp đã có mặt và đứng vững trên thị trường EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Bắc Mỹ. Đối với mặt hàng dệt kim, những năm trước kia có giá trị xuất khẩu rất lớn, do khi đó chưa đòi hỏi kỹ thuật cao cấp và nhu cầu ở các nước bạn hàng rất lớn. Còn hiện nay, hàng dệt kim đòi hỏi kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, trên thị trường lại có nhiều đối thủ cạnh tranh gay gắt. Do đó mặt hàng này hiện nay xuất khẩu chủ yếu là để trả nợ . Bên cạnh đó, mặt hàng này phần lớn là được xuất sang các nước SNG, vì vậy khi các nước này tan rã, thì thị trường cho mặt hàng này bị thu hẹp nhanh chóng. Nếu như năm 1996 xuất khẩu chiếm 39,1% thì từ năm 1998 đến nay chỉ đạt từ 7 đến 8%. Trên đây là các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Tổng Công ty. Hiện nay Tổng Công ty đang tiếp tục củng cố và tiến tới nâng cao tỉ trọng hàng dệt kim, hoàn thiệnvà phát triển hàng may mặc, đảm bảo chất lượng cao, chủng loại đa dạng phong phú, giá thành giảm dần. Bên cạnh những thành công đạt được, vẫn còn một số hạn chế, tồn tại cần giải quyết. Tuy kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc cao nhưng hình thức xuất khẩu hàng gia công là chủ yếu, do đó hiệu quả chưa cao (75-80% là gia công xuất khẩu). So với các nước nói chung, mặt hàng may mặc của ta chưa cạnh tranh được (trong đó có Trung Quốc, Thái Lan). Một trong những mục tiêu phấn đấu của Tổng Công ty là từng bước giảm gia công, tăng bán sản phẩm hoàn chỉnh. Để thực hiện được mục tiêu này, Tổng Công ty hướng ưu tiên đầu tư cho khâu kéo sợi, dệt vải, in, nhuộm để tạo ra nhiều loại vải có chất lượng cao (hiện nay, vải đủ tiêu chuẩn chỉ có 10-15% nhu cầu chủng loại) và đầu tư vào sản xuất phụ liệu, khâu thiết kế mẫu mã, nhãn mác và phải đẩy mạnh công tác tìm kiếm thị trường, tìm kiếm khách hàng mua sản phẩm hoàn chỉnh của Việt Nam. Năm 1999 toàn Tổng Công ty xuất khẩu sản phẩm theo điều kiện FOB được khoảng 30%, năm 2000 đã tăng lên 40%. Đây là một cố gắng lớn của Tổng Công ty. 2. Tình hình xuất khẩu hàng may mặc theo thị trường . Thâm nhập tìm kiếm thị trường là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Tổng Công ty Dệt-May Việt nam. Trong những năm qua, hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc luôn được Tổng Công ty chú trọng nhằm mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài. Đến nay Tổng Công ty đã có quan hệ buôn bán với trên 40 nước. Tổng Công ty đang củng cố vị thế và mở rộng thị trường hơn nữa. Giá trị hàng may mặc không ngừng tăng lên qua các năm. Bên cạnh đó, nhu cầu hàng may mặc không ngừng tăng lên ở các nước trên thế giới vì sau nhu cầu ăn là nhu cầu về mặc. Tổng khối lượng lưu chuyển hàng hoá này chiếm tỉ trọng lớn trong cán cân thương mại quốc tế, chỉ đứng sau khoáng sản tài nguyên và chế tạo máy, điện tử. Khi trình độ khoa học kỹ thuật của con người ngày càng phát triển ở mức độ cao sẽ dẫn tới sự phân hoá thế giới về sản xuất. Các nước phát triển sẽ chuyển sang các ngành công nghiệp hiện đại, nhường chỗ cho các nước đang phát triển trong công nghiệp sản xuất hàng may mặc. Nhu cầu may mặc cũng ngày càng đòi hỏi nhiều hơn, mẫu mã, chất liệu phong phú hơn, đặc biệt xã hội càng văn minh lịch sự bao nhiêu thì yêu cầu về mặc lại càng được chú ý cầu kỳ bấy nhiêu. Nhận biết được các yếu tố đó đã giúp cho Tổng Công ty trong hoạt động xuất khẩu đạt được những kết quả đáng khích lệ. Để hiểu rõ hơn hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty sang các thị trường trong thời gian qua, ta hay xem xét qua bảng 5 dưới đây: Bảng 5: Cơ cấu xuất khẩu hàng may mặc theo thị trường chủ yếu 1998-2001 Thị trường 1998 1999 2000 Tr. USD % TKN Tr. USD % TKN Tr. USD % TKN TT có hạn ngạch Trong đó: - EU 310 41,3 420 36,52 650 52 - Canada 17,85 2,38 15,97 1,39 12,89 1,03 - Nauy 9,53 1,27 5,82 0,51 4,93 0,39 TT Phi hạn ngạch Trong đó: - Thuỵ Sĩ 27,6 3,68 8,64 0,75 8,51 0,68 - Hungary 57,5 7,70 102,59 8,93 105,58 8,44 - Ucraina 37,21 4,97 119,12 10,35 121,3 9,7 - Séc 39,87 5,32 189,22 16,45 69,07 5,53 - Nga 50,53 6,74 43,75 3,8 39,87 3,19 - Nhật 59,28 7,90 79,85 6,94 29,54 2,36 - Hàn quốc 36,71 4,89 9,87 0,9 8,75 0,7 - Đài loan 47,66 6,35 25,69 2,23 30,42 2,43 - Hồng Kông 29,21 3,89 97,54 8,48 112,37 9,04 - Mỹ 5,48 0,73 9,74 0,85 14,28 1,14 - Các nước khác 21,57 2,88 22,2 1,90 42,49 3,41 Tổng 750 100 1150 100 1250 100 Qua bảng số liệu trên cho thấy, hàng may mặc xuất khẩu của Tổng Công ty chiếm tỉ trọng lớn ở các thị trường Nga, Nhật, EU, Séc, Ucraina, Hungary. Tuy nhiên hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở các thị trường trên vẫn chưa thật ổn định. Trong số các thị trường có hạn ngạch, thì EU là thị trường lớn nhất của Tổng Công ty. Đây là một thị trường đông dân (350 triệu người) lại có sức tiêu dùng vải cao (17 kg/ 1 người). Yêu cầu về hàng may mặc đặc biệt cao. Nhu cầu tiêu dùng để bảo vệ thân thể chỉ chiếm 10- 15% giá trị sản phẩm, còn 80- 90% là theo mốt, nên hàm lượng chất xám trong sản phẩm may là chính. Trong ba năm 1998, 1999, 2000, quota xuất khẩu hàng may mặc Việt nam vào EU không ngừng tăng lên. Điều đó chứng tỏ chất lượng hàng may mặc đã ngày một cao hơn. Nhưng so với các nước có quota vào EU thì số lượng của ta còn rất nhỏ bé (mới chỉ chiếm 0,7% tổng kim ngạch nhập hàng may mặc vào EU) và chỉ bằng 5% đối với Trung Quốc, 10- 20% so với các nước ASEAN. Tuy nhiên, ta cũng còn gặp nhiều khó khăn như nhiều mặt hàng lớn thì bị hạn chế về số lượng như Jacket, áo sơ mi mới chỉ đạt 50% công suất của ngành. Số hạn ngạch còn hạn chế: Hiệp định Việt nam- EU 1996- 1998 qui định 151 cat. Giá trị xuất khẩu năm 1998 đạt 310 triệu._.nh tranh vốn có trong cơ chế thị trường càng thêm quyết liệt, sức mua giảm sút, giá gia công và giá bán sản phẩm giảm. Thị trường hàng free quota trong năm 2002 tiếp tục thu hẹp, trong khi đó khả năng các thị trường Nga và Mỹ vẫn chưa được khaiong. Thị trường trong nước do thời tiết mưa bão lanm cho người dân các vùng miền Trung và miền Nam bị thiệt hại nhiều nên sức mua cũng sẽ giảm sút. Các biện pháp chống hàng nhập lậu, hàng trốn thuế, hàng giả chưa có dấu hiệu sẽ đạt được kết quả khả quan... Bên cạnh những thách thức trên Tổng Công ty cũng đang đứng trước nhiều thời cơ lớn như: Việt Nam đã được trỏ thành thành viên chính thức của các bnước ASEAN, AFTA... Việt Nam có quyền ký hiệp định song phương đối với các nước khác trong khu vực, đặc biệt các nước ASSEAN đang có xu hướng giảm thuế xuất khẩu hàng Dệt-May đối với các nước ASEAN xuống còn từ 0-5%. Hơn nữa, theo hiệp định hàng dệt (ATC) ký tại vòng đàm phán thương mại đa biên tháng 4-1997 ở Maraket ghi nhận rằng ATC sẽ thay cho hiệp định đa sợi (MFA) đến ngày 1-1-2005 tất cả hàng dệt may phải được hoà nhập trở lại theo nguyên tắc thương mại thông thường của WTO và như vậy hàng rào hạn ngạch hàng may vào Mỹ sẽ được loại bỏ và thuế trung bình sẽ giảm 9%. Đây là một thời cơ lơn mà Tổng Công ty Dệt-May cần phải chuẩn bị đầu tư đón trước thời cơ để có thể đi vào thị trường đầy tiềm năng này. II. Những giải pháp chủ yếu về phía tổng Công ty Dệt-May Việt Nam. Qua phân tích thực trạng xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam, đồng thời có tham khảo bài học kinh nghiệm của một số nước, có thể thấy rằng đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tông Công ty là một vấn đề rất quan trọng góp phần thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, và phát triển kinh tế. Phát triển xuất khẩu ở đây có nghĩa là làm sao để thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tận dụng được nhiều nhất các lợi thế so sánh của đất nước, tăng số lượng và chất lượng từng mặt hàng xuất khẩu nhằm thu ngoại tệ và nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Xét trên góc độ thương mại, thúc đẩy xuất khẩu là thúc đẩy bán hàng nên nguyên lý chung là mở rộng thị trường xuất khẩu và thực hiện tốt việc tạo nguồn hàng, giảm chi phí. Trên cơ sở thực trạng kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty và cũng theo hướng trên, tôi xin đưa ra một số biện pháp sau: 1. Đa dạng hoá mặt hàng và thị trường 1.1. Mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá, thị trường có ý nghĩa cực kì quan trọng. Đó là nhân tố quyết định sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Mở rộng thị trường xuất khẩu, khách hàng của hàng xuất khẩu còn làm tăng tính cạnh tranh của khách hàng, tăng khả năng lựa chọn của doanh nghiệp, từ đó tăng được hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Bởi vì, mở rộng thị trường, khách hàng, tức là tăng cầu, mà cầu tăng sẽ kéo theo cung tăng lên và giá cũng tăng lên. Theo qui luật của nền sản xuất hàng hoá, không còn tồn tại khái niệm tính toán áp đặt một nhu cầu để bố trí sản xuất, mà cần nắm bắt được diễn biến của thị trường đểt phát triển sản xuất theo qui luật khách quan của nó. Phương châm của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam là: Hướng ra xuất khẩu và coi trọng thị trường nội địa-nên phải hoà mình vào thị trường may mặc thế giới và khu vực để đặt ra mục tiêu chiến lược phát triển và khi hiệp định AFTA có hiệu lực thì hàng may mặc vẫn đủ sức cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước và có sức vươn lên hơn nữa. Do đó, phát triển thị trường may mặc thực sự là một yêu cầu cấp thiết hiện nay cả về mặt lý luận và thực tiễn. Để giải quyết vấn đề này Tổng Công ty cần thực hiện một số giải pháp sau: Một là: Uy tín sản phẩm. Việc tạo được uy tín cho một loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trường quốc tế là cực kỳ khó khăn. Nó bao gồm từ mẫu mã, chủng loại, kiểu cách đến chất lượng sản phẩm. Đối với Tổng Công ty Dệt-May, hiện tại việc thực hiện xuất khẩu sản phẩm được thực hiện dưới hai hình thức: gia công xuất khẩu và mua nguyên liệu bán sản phẩm. Việc xuất khẩu theo hình thức gia công đã góp phần quan trọng vào giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, song hiệu quả thấp. Tuy vậy, ở giai đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều phải trải qua hình thức này. Đây cũng là cơ hội để Tổng Công ty tập dượt, làm quen với cách thức làm ăn trên thị trường quốc tế, từ việc tiếp nhận nguyên phụ liệu gia công sản xuất đến tiến độ giao hàng ... để tiến đến hình thức xuất khẩu sản phẩm cao hơn: mua nguyên liệu, bán sản phẩm. Để đạt được việc xuất khẩu sản phẩm theo hình thức này, Tổng Công ty cần phải huy động một lực lượng tổng lực từ điều tra nhu cầu thị trường nước ngoài để tạo ra các mẫu mốt ăn khách, hợp thị hiếu, đến tổ chức sản xuất đúng với tiến độ tiêu dùng của thị trường mà sản phẩm cần tới. Làm được điều này, ngoài việc giải quyết lao động như hình thức trên, nó còn gòp phần thúc đẩy bản thân ngành Dệt (cung cấp các loại vải cho may mặc) và nhiều ngành công nghiệp khác phát triển. Đồng thời hiệu quả về thu ngoại tệ cũng tăng lên nhiều. Hai là: Quan hệ với các nhà phân phối lớn, có uy tín để lợi dụng uy tín của họ nâng uy tín hàng may mặc Việt Nam, đồng thời đưa hàng xuất khẩu Việt Nam vào các kênh tiêu thụ hợp lý (trên cơ sở kinh nghiệm từ kiến thức của nhà phân phối ) qua đó xâm nhập và chiếm lĩnh được thị trường. Ba là: Đặt những đại diện, các cửa hàng chào bán các sản phẩm may mặc của Tổng Công ty tại các thị trường lớn ở nước ngoài. Lập kho hàng ở các cảng lớn để giao nhận hàng kịp thời. Bốn là: Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài hoặc Việt kiều để làm cơ sở đẩy mạnh hàng xuất khẩu may mặc ra thị trường thế giới. Một điều đáng chú ý ở đây là tiềm năng của Việt kiều và người Việt Nam định cư ở nước ngoài: có nhiều người là các ông chủ lớn với các doanh nghiệp sở tại, như ở Nga và một số nước Trung Đông. Đây là một thị trường không nhỏ cho hàng may mặc của Tổng Công ty. Năm là: Đẩy mạnh hoạt động mốt, đào tạo đội ngũ tiếp thị, tăng cường các hoạt động quảng cáo, khuyến mãi, tuyên truyền nhằm bán trước sản phẩm. Các hoạt động dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng tạo điều kiện thuận lợi cho người mua nhằm thắng được đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường. Sớm hoà nhập vào thị trường quốc tế và khu vực bằng đầu tư phát triển và tổ chức lại hoạt động xuất khẩu hàng may mặc theo cơ chế thị trường, theo hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO 9000, bằng tiếp thị, hội thảo, hội trợ, triển lãm, gia nhập các hiệp hội Dệt-May quốc tế và khu vực, giao lưu với thời trang thế giới. Để hỗ trợ đảm bảo cho hoạt động trên đem lại kết quả mong muốn thì trước tiên doanh nghiệp phải tự bảo đảm được chất lượng, qui cách chủng loại của sản phẩm, phù hợp với "thượng đế ngoại". Một thị trường vừa hé mở nhưng rất có triển vọng đối với Tổng Công ty đó là thị trường Mỹ và đằng sau đó là khối mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA: Mỹ-Canada-Mehico). Trong ba năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty sang Mỹ không ngừng tăng lên. Tuy hiện tại giá trị xuất khẩu có nhỏ hơn EU, song đây là một thị trường rất hấp dẫn nếu biết khai thác sẽ đem lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, Tổng Công ty cần chú trọng hơn nữa tới một số thị truờng truyền thống như Nhật Bản, SNG và một số nước Đông Âu... Tăng cường tìm kiếm các thị trường không hạn ngạch và có chính sách sản phẩm đối với từng thị trường. Việc đề ra chính sách sản phẩm đúng đắn đối với từng thị trường có ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc tiêu thụ sản phẩm, đến chi phí, giá thành và lợi nhuận của Tổng Công ty. Chính sách sản phẩm đúng đắn sẽ làm tăng khả năng xâm nhập, chiếm lĩnh thị trường và tăng lợi nhuận của Tổng Công ty. 1.2. Mở rộng năng lực sản xuất hàng xuất khẩu và giảm chi phí. Dễ thấy rằng việc mở rộng thị trường xuất khẩu sẽ không có ý nghĩa nếu như không tăng năng lực sản xuất trong nước. Vì theo một nguyên lý trong kinh doanh thương mại là nếu như khi khách hàng tới mà không có hàng cho khách thì ta sẽ mất khách vĩnh viễn. Đây là hai mặt của một vấn đề: nếu như không có đủ hàng hoá để đáp ứng nhu cầu khách hàng thì sẽ không cần và không thể mở rộng được thị trường xuất khẩu, cho nên mở rộng thị trường xuất khẩu phải gắn với việc tăng năng lực sản xuất trong nước, còn để xuất khẩu có hiệu quả thì phải giảm được chi phí của hàng xuất khẩu. Hơn nữa, sản xuất và xuất khẩu ở nước ta còn mang tính chất manh mún cho nên phải chấp nhận giá thị trường quốc tế. Trong điều kiện đó, để tăng kim ngạch xuất khẩu yêu cầu trước tiên là phải tăng được lượng hàng xuất khẩu, tức là phải tăng năng lực sản xuất, có như vậy Tổng Công ty mới có thể vươn lên chiếm lĩnh, chi phối một thị trường nào đó. Tóm lại, tăng năng lực, giảm chi phí sản xuất và xuất khẩu là điều không thể thiếu được khi muốn mở rộng thị trường, tăng kim ngạch xuất khẩu. Để làm được điều này, Tổng Công ty cần áp dụng các biện pháp sau: *. Chuyển từ hình thức gia công xuất khẩu sang hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm. Hình thức xuất khẩu này có hiệu quả hơn từ 4-5 lần. Chẳng hạn, tính theo đơn vị qui chuẩn áo sơ mi thì với 840 triệu sản phẩm xuất khẩu theo hình thức gia công sẽ thu khoảng 600 triệu USD, còn theo giá bán 3.4 USD/1SP thì kim ngạch xuất khẩu sẽ là 3 tỷ USD, tức là tăng 5 lần. Chú ý rằng, để chuyển đổi hình thức này đòi hỏi người quản lý phải am hiểu, tránh tình trạng mua nguyên liệu lúc đắt bán thành phẩm lúc rẻ. 2. Giải pháp đầu tư hiện đại hoá công nghệ - mẫu mã hàng may. Thực trạng rõ nét đối với hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty là chủ yếu xuất khẩu dưới hình thức gia công (chiếm 80%). Do vậy, hiệu quả đem lại không cao. Nguyên nhân chủ yếu là do ngành Dệt ở nước ta chưa phát triển, công nghệ lạc hậu và không đồng bộ, thiết bị kĩ thuật chậm so với Trung Quốc, Thái Lan khoảng 5-7 năm, hàng năm sản xuất mới đạt 50-60% năng lực. Do vậy, chất lượng và số lượng vải trong nuớc kém, không đạt tiêu chuẩn quốc tế. Như trên đã phân tích, để nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu hàng may mặc, Tổng Công ty cần giảm dần hình thức gia công xuất khẩu và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu theo phương thức FOB. Do vậy, giải pháp cần thiết ở đây là phải đầu tư phát triển ngành dệt để phát triển ngành may, bao gồm cả đâù tư chiều sâu và đầu tư các công trình mới, nâng cao trình độ công nghệ phát triển sản xuất đồng bộ. Đầu tư chiều sâu bao gồm cả đầu tư mở rộng là một yêu cầu cấp thiết để có nhiều mặt hàng thị trường trong và ngoài nước có nhu cầu, mặt hàng đạt chất lượng cao, giá thành hạ, có vải cho ngành may xuất khẩu theo phương thức FOB, chiếm lĩnh lại thị trường nội địa và hoà nhập vào thị trường may ASEAN khi hiệp định AFTA có hiệu lực. Tổng Công ty cần tăng vốn cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ hiện đại, đặc biệt ưu tiên các công nghệ tiên tiến cho ngành dệt nhằm tăng nhanh các loại vải đủ tiêu chuẩn cho ngành may xuất khẩu. Đầu tư chiều sâu nhằm khắc phục các mất cân đối, đồng bộ hoá các dây chuyền thiết bị, bổ sung mới, cải tạo nâng cấp thiết bị cũ, đầu tư công nghệ mới, đào tạo nâng cao kỹ thuật quản lý tiếp thị, tổ chức lại sản xuất... để tăng một số mặt hàng chủ lực, có uy tín về nhãn hiệu hàng hoá, có giá cạnh tranh ở cả thị trường trong và ngoài nước. Các dự án đầu tư chiều sâu phải có bước đi phù hợp với tình hình kinh tế, kỹ thuật, với chiến lược phát triển của Tổng Công ty. Dù là bổ sung một máy, một dây chuyền công nghệ... đều phải đảm bảo đồng bộ với công nghệ phụ trợ, đào tạo, quản lý ... nhằm phát huy hiệu quả kinh tế sớm nhất. Song tìm giải pháp để tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển là một vấn đề quan trọng và cấp thiết, có tính quyết định tới tốc độ phát triển. Ngân sách Nhà nước thì hạn chế, nhiều công trình hạ tầng y tế và giáo dục Nhà nước phải ưu tiên. Bước đầu công nghiệp hoá của các nước nghèo Châu á vẫn phải dựa vào vốn đầu tư nước ngoài để phát triển. Do vậy, với phương châm thực tế trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, Tổng Công ty cần nhanh chóng đưa Công ty tài chính đi vào hoạt động. Nhiệm vụ của Công ty tài chính là huy động vốn (phát hành trái phiếu vay từ các nguồn tín dụng trong và ngoài nước ...) để cho vay (các dự án đầu tư) và thực hiện một số dịch vụ tài chính khác. Bên cạnh đó, Tổng Công ty cần đầu tư phát triển sản xuất phụ liệu, nguyên liệu mà trong nuớc có điều kiện. Đây là chất xúc tác để chuyển đổi hình thức gia công xuất khẩu sang hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm. Vì theo hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm, Tổng Công ty có thể tận dụng được những nguyên liệu, phụ liệu sản xuất trong nước, giá cả rẻ hơn làm tăng thêm lợi nhuận. Đồng thời thu hút thêm lao động, tạo thu nhập góp phần giải quyết thất nghiệp. Mặt khác, hình thức xuất khẩu này còn vừa tạo đầu ra cho ngành dệt vừa tạo đầu vào cho ngành may. Đặc biệt trong lĩnh vực mốt, Tổng Công ty còn có nhiều bỡ ngỡ, chưa có đủ hiểu biết về yêu cầu thị hiếu của từng thị trường EU, Mỹ, Nhật... nên sớm đầu tư thích đáng về cơ sở tạo mốt và nâng cao nghiệp vụ tạo mốt, sử dụng các thiết bị chuyên dùng computer, điện tử trong thiết kế cắt may, có kế hoạch hợp tác với viện Mốt, hoặc thuê chuyên gia thiết kế mốt người nước ngoài để rút ngắn quá trình thâm nhập và đẩy nhanh sản phẩm của ta tới các thị trường rộng lớn đó. * Nâng cao chất lượng mặt hàng. Với mục tiêu sản xuất các mặt hàng có chất lượng, mẫu mã phong phú đẹp, hợp thời trang, hạ giá thành, tăng dần vải dệt cho ngành may xuất khẩu theo FOB đạt 70% vào năm 2010. Tổng Công ty cần xây dựng được qui chế quản lý chất lượng mặt hàng, xây dựng các hoạt động bảo đảm chất lượng và hoạt động quản lý, hoạch định chất lượng. Ngoài ra, Tổng Công ty cũng cần xây dựng chiến lược nâng cao chất lượng không ngừng và tăng cường trách nhiệm xét duyệt chính sách về quản lý chính sách chất lượng. Triển khai xây dựng hệ thống chất lượng ISO 9000 và TMQ. Điều này đòi hỏi công sức trí tuệ, thời gian đầu tư đổi mới mạnh mẽ, và quyết tâm của lãnh đạo Tổng Công ty mới có thể đạt được. 3. Nâng cao trình độ nghiệp vụ xuất khẩu.sử dụng có hiệu quả nguồn lực. Thị trường may thế giới phức tạp, nhu cầu về hàng may mặc biến động theo mùa. Hơn nữa, tập quán thương mại, ngôn ngữ giao dịch với các nước ở các thị trường khác nhau có sự khác nhau. Do vậy, đòi hỏi người làm công tác xuất nhập khẩu phải hết sức linh hoạt tinh thông nghiệp vụ ngoại thương, giỏi ngoại ngữ và phải hiểu biết chuyên môn về ngành may. Tổng Công ty cần có chiến lược đào tạo lại cả cán bộ quản lý và nhân viên một cách thường xuyên, có hệ thống về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ... phải được nâng lên nhanh chóng và tương xứng. Qui mô đào tạo và loại hình đào tạo cần được mở rộng để đáp ứng các nhu cầu đa dạng của hoạt đông xuất nhập khẩu. Mặt khác, hàng năm Tổng Công ty nên tổ chức các đợt học nâng cao bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ xuất nhập khẩu cho nhân viên. Đây là một mắt xích quan trọng trong công tác đào tạo. Nếu không được chú ý thích đáng sẽ làm hao mòn vô hình đội ngũ đã được đào tạo. Cần tổ chức theo các hình thức: theo chuyên đề, chương trình nâng cao, tu nghiệp ở nước ngoài... theo một chương trình kế hoạch thường niên. Bên cạnh đó, Tổng Công ty cũng cần có những khuyến khích về mặt lợi ích thoả đáng cho người theo học các chương trình trên, để họ yên tâm, dốc lòng, dốc sức cho công việc. Qua đó, giúp cho họ hiểu rõ, nắm chắc, sâu sắc các nghiệp vụ xuất nhập khẩu khơi dậy tính tích cực sáng tạo của mỗi cán bộ công nhân viên. Đây thực sự là cách đầu tư lâu dài tạo ra động lực mạnh thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty. 4. Giải pháp về hợp tác quốc tế. Hoà nhập với khu vực và quốc tế là một nhu cầu khách quan, là lợi ích sống còn của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam, buộc Tổng Công ty phải tự thân phát triển, nâng cao vươn cao lên tương xứng, đồng thời sự hội nhập còn tạo sự hiểu biết lẫn nhau và tạo cơ hội thu hút vốn đầu tư cao hơn. Với đường lối mở cửa và hoà nhập vào thị trường thế giới nói chung và các nước khu vực nói riêng, cùng với sự chuyển dịch công nghệ đang sôi động, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam cần nhanh chóng đẩy mạnh công tác đầu tư, tự tổ chức lại sản xuất cho phù hợp những yêu cầu của cơ chế thị trường, phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO 9000 va nhãn hiệu hàng hoá CE. Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam, hiện đã là hội viên chính thức của hiệp hội Dệt-May Đông Nam á (AFTEX) cần nhanh chóng gia nhập vào hiệp hội Dệt-May thế giới, trực tiếp tham gia vào quá trình phân công hợp tác chung về lĩnh vực lao động, mậu dịch và các chính sách bảo hộ quốc tế và khu vực, tham gia các hoạt động quốc tế về mẫu mốt thời trang, về hội thảo, triển lãm, tiếp thị... nhằm không ngừng mở rộng uy tín của mình trên thị trường quốc tế. Mặt khác, xu hướng thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ với ba làn sóng tự do hoá, tư nhân hoá và phi tập trung hoá. Tổng Công ty cũng cần nắm bắt được vận hội thời cơ để có thể có sự chuyển mình theo trào lưu chung. III. một số kiến nghị Chính phủ . 1. Phát triển quan hệ chính trị làm tiền đề phát triển kinh tế. Quan hệ chính trị và quan hệ kinh tế là hai mặt gắn bó hữu cơ với nhau. Chúng vừa là tiền đề vừa là điều kiện phát triển của nhau. Quan hệ chính trị mở đường cho quan hệ kinh tế phát triển, ngược lại quan hệ kinh tế làm cho quan hệ chính trị trở nên gắn bó chặt chẽ hơn. Tác động của quan hệ chính trị lên quan hệ kinh tế thể hiện trên các mặt: - Quan hệ chính trị tốt tạo đà cho việc hợp tác, tương trợ lẫn nhau về đầu tư, viện trợ, chuyển giao công nghệ. - Quan hệ chính trị là tiền đề cho Nhà nước kí kết các hiệp định về thương mại, về thông tin, về đầu tư, về cấp phát hạn ngạch (quota). - Quan hệ chính trị là cơ sở pháp lý đảm bảo cho các doanh nghiệp hai bên tiến hành làm ăn với nhau. Tạo điều kiện thuận lợi trong việc thanh toán, giải quyết thông tin tranh chấp. - Quan hệ chính trị làm tăng lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Như vậy, về mặt mở rộng thị trường, quan hệ chính trị tốt sẽ tạo được thị trường ổn định, thị trường mới cho phát triển sản xuất và xuất khẩu. Điển hình là việc Mỹ xoá bỏ cấm vận đối với Việt Nam tháng 2/1997 thì ngay sau đó, các quan hệ kinh tế đối ngoại Việt nam sôi động hẳn lên. Nhiều hãng, Công ty... tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở Việt Nam, trong đó có Công ty Mỹ sang Việt Nam, kí một hợp đồng đáng ghi nhớ với Confechnex trị giá 350 triệu USD ( kinh tế đối ngoại - Võ Thanh Thu - tr 306). Quan hệ thương mại như chúng ta đều biết, chỉ là một bộ phận của kinh tế đối ngoại. Song nó là một trong các bộ phận thu ngoại tệ về cho đất nước. Đối với các nước mới ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, vốn là yêu cầu đầu tiên và tất yếu. Do vậy, thông qua hoạt động ngoại thương, nhiều nước đã tham gia được vào sự phân công lao đông quốc tế trên phạm vi toàn cầu và trong khu vực. Và chính sự tham gia đó đã bảo đảm cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân và thu được ngoại tệ về cho đất nước. Sự phát triển ngoại thương của ngành Dệt-May cũng không thoát khỏi ảnh hưởng của quan hệ chính trị . Từ sự phân tích trên, các chính sách cần có là: + Nhà nước tích cực tham gia vào các diễn đàn quốc tế và khu vực để Việt Nam nhanh chóng trở thành thành viên WTO. + Quan hệ tốt với các thị trường lớn như EU, Bắc Mỹ, tạo được khuôn khổ pháp lý tốt với các thị trường này để sản xuất hàng may mặc được hưởng các ưu đãi đặc biệt như hạn ngạch, tối huệ quốc... và có điều kiện xuất khẩu với số lượng lớn vào các thị trường này. + Thực hiện nghiêm túc các công ước quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ về công nghiệp để các sản phẩm có chất lượng cao của Việt Nam giữ được uy tín trên thị trường. + Có qui chế phù hợp (bao gồm cả trách nhiệm và quyền lợi) về hoạt động của các nhân viên thương vụ của các đại sứ quán Việt Nam ở các nước, trong viẹc cung cấp các thông tin về lĩnh vực may mặc và giúp Tổng Công ty mở rộng thị trường ở các khu vực này. Điều này sẽ tiết kiệm cho Tổng Công ty những chi phí về thu thập thông tin, những chi phí không cần thiết khác do chưa hiểu kĩ thị trường, qui định, giảm rủi ro cho Tổng Công ty ...Suy cho cùng, đây là một hình thức trợ giúp xuất khẩu, khuyến khích bảo đảm cho hoạt động xuất khẩu, mặt khác các cơ quan thương vụ này cũng đóng vai trò là điểm tựa cho hàng xuất khẩu Việt Nam xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. 2. Chính sách đầu tư phát triển. Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa các hình thức đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào ngành Dệt-May. Đối với ngành Dệt là ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, đặc biệt là các công trình nhuộm, hoàn tất. Vì vậy cần chú trọng khuyến khích gọi vốn đầu tư nước ngoài cho những công trình này. Có những ưu đãi đặc biệt cho những công trình nước ngoài đầu tư 100%. Ngược lại đối với ngành May và ngành sản xuất các loại phụ liệu, vốn đầu tư không lớn, cần chú trọng hình thức liên doanh, hạn chế xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Từ khi có luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tính đến tháng 12/1999 đã có 58 dự án Dệt-May được cấp giấy phép hoạt động, với số vốn gần một tỷ USD. Để có được 1,5 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt-May vào năm 2003, trong vòng 10 năm tới Nhà nước cần bổ sung điều chỉnh luật đầu tư nước ngoài cho phù hợp với tình hình mới, cải cách điều chỉnh nhằm đơn giản hoá các thủ tục xin giấy phép đầu tư, có các điều kiện ưu đãi đối với các công trình đầu tư vào ngành dệt. 3. Chính sách ưu đãi về xuất khẩu. Nhà nước cần có các chính sách tạo điều kiện cho Tổng Công ty đủ sức cạnh tranh trong bối cảnh của sự toàn cầu hoá: - Cho tiếp tục áp dụng thuế suất hàng dệt may bằng 0% để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc. - Với mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu trên cơ sở khai thác, phát huy hiệu quả, nội lực của đất nước, Bộ tài chính cần xem xét lại mức thuế nhập khẩu của các mặt hàng trong nước đã bắt đầu sản xuất được, trong đó có sợi, vải để đảm bảo sản xuất ttrong nước tránh tình trạng giá thành sản xuất của sản phẩm lại lớn hơn giá nhập khẩu, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá ta trên thị trường nước ngoài. Nhà nước cần miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất các chủng loại sản phẩm (mặt hàng dệt, phụ liệu may...) thay thế nhập khẩu để làm hàng phục vụ xuất khẩu, tạo điều kiện cho Tổng Công ty có thể bán ngang hoặc thấp hơn giá nhập sản phẩm cùng chủng loại và tạo cho hàng may mặc xuất khẩu được theo phương thức FOB. - Bên cạnh đó, Nhà nước có thể áp dụng một số biện pháp khác như cấp tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu.... nhằm giúp Tổng Công ty giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh, tăng thu nhập, lợi nhuận đẩy mạnh được hoạt động xuất khẩu. Thực tế mấy năm qua, Nhà nước vẫn chưa thực sự chú trọng tới hoạt động hàng may mặc. Một thực trạng trong ngành may xuất khẩu đó là: dù biết rằng gia công may không hiệu quả bằng hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm, Tổng Công ty phải vay vốn mua nguyên liệu đầu vào, rồi sau một chu kì sản xuất (3-4 tháng) mới bán sản phẩm thu tiền lãi trả ngân hàng. Do không có ưu đãi về lãi suất nên sau khi trừ đi chi phí sản xuất và lãi ngân hàng, hiệu quả thu được không cao hơn hình thức gia công là bao nhiêu, lại chịu nhiều rủi ro. Trong khi đó, hình thức gia công tuy hiệu quả thấp nhưng chắc chắn. Như vậy Nhà nước và xã hội bị thiệt vì đơn cử một ví dụ là: theo hình thức gia công thì giá gia công một áo sơ mi khoảng 0,7-0,8 USD, gấp gần 5 lần. Do vậy, đòi hỏi Nhà nước phải nhanh chóng áp dụng một cách hợp lý các biện pháp trên để khuyến khích hoạt động xuất khẩu hàng may mặc đem lại hiệu quả cao. 4. Chính sách về vốn. Nhà nước cần bảo đảm cấp vốn đầu tư ban đầu và vốn lưu động cho các doanh nghiệp của ngành dệt may một cách hợp lý. Có cơ chế vay và bảo lãnh vốn vay một cách hợp lý. Cho ngành dệt được sử dụng hoặc vay vốn ODA, vốn tín dụng của Chính phủ với lãi suất ưu đãi (khoảng 5%), thời gian vay dài (trên 10 năm đối với ngành dệt và 7 năm đối với ngành may). Miễn các loại thuế doanh thu, lợi tức cho các công trình đầu tư ngành dệt may trong thời gian chưa trả nợ xong. Ngoài ra, Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ cùng với Tổng Công ty đưa Công ty Tài chính dệt may sớm đi vào hoạt động để huy động vốn từ các nguồn vay trong nước, ngoài nước, trái phiếu, cổ phiếu... nhằm cho vay đầu tư phát triển. 5. Chính sách tỷ giá hối đoái. Chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay được sử dụng như một công cụ lợi hại trong cuộc chiến tranh thương mại gay gắt giữa các nước công nghiệp phát triển và là một trong những công cụ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, bảo hộ mậu dịch của các nước đang phát triển. Đối với Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thế giới không ngừng phát triển và thị trường tiền tệ thế giới đầy biến động thì việc lựa chọn một chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý đảm bảo sự ổn định trong nền kinh tế đối nội và tăng trưởng trong kinh tế đối ngoại là hết sức cần thiết. Đối với ngành Dệt-May, việc điều hành tỷ giá ngoại tệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhà nước cần áp dụng tỷ giá hối đoái hợp lý để đảm bảo xuất khẩu có lãi và khuyến khích xuất khẩu. Tất nhiên tỷ giá đó không được thoát ly quá nhiều so với tương quan cung cầu về ngoại tệ. Đồng thời Nhà nước phải luôn chú trọng đầy đủ các yếu tố kích thích xuất khẩu khi ấn định tỷ giá. Đây là những quyết định chủ quan nhưng rất cần thiết vì không đẩy mạnh được xuất khẩu để tạo nguồn ngoại tệ tự có, chúng ta sẽ không đủ ngoại tệ để cân đối cán cân thanh toán quốc tế. 6. Tổ chức và quản lý các khâu nghiệp vụ xuất khẩu. Tổ chức và quản lý hợp lý các khâu thuộc nghiệp vụ xuất khẩu như cấp giấy phép, phân bổ quota, thủ tục hải quan... cũng có tác dụng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng may mặc nói rỉêng. Thực tế việc phân bổ hạn ngạch trong xuất khẩu hàng may mặc không hợp lý, thủ tục hải quan còn nhiều phức tạp... làm hạn chế khả năng xuất khẩu mặt hàng này. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần sớm ban hành luật hải quan cho phù hợp với quá trình phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Các ngành hữu quan nghiên cứu để ban hành biểu phân loại mã số hàng xuất khẩu (biểu mã số HS) phù hợp với tiến trình đổi mới nền kinh tế đất nước trong xu thế hợp tác và hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Nên có sự thống nhất từ cơ quan quản lý trong việc ghi mã số HS trước tên hàng trong các hồ sơ chứng từ có liên quan để tạo ra một sự đồng nhất trong việc xác định loại hàng hoá làm cơ sở cho việc khai báo, tính và nộp thuế, việc quản lý gia công cho nước ngoài... Về quản lý xuất khẩu tiểu ngạch: Đánh thuế, phí xuất khẩu tiểu ngạch sao cho giá xuất khẩu tiểu ngạch tương đương với giá xuất khẩu chính ngạch vừa quản lý chặt chẽ được xuất khẩu tiểu ngạch, vừa tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Thực hiện các vấn đề trên sẽ giúp cho Tổng Công ty chủ động trong giao dịch, kinh doanh xuất khẩu, tạo thế cạnh tranh công bằng và đẩy mạnh được hoạt động kinh doanh xuất khẩu, đưa kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lên vị trí hàng đầu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Giữ vững và phát huy truyền thống của Tổng Công ty trong những năm qua. Kết luận Chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng mạnh vào xuất khẩu là một chiến lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, tạo đà cho nền kinh tế phát triển và đuổi kịp thời đại. Trong đó xuất khẩu hàng mũi nhọn là một bước đi tiên phong, khai thác triệt để lợi thế của đất nước. Đồng thời việc hướng ra thị trường nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh, vừa xuất phát từ yêu cầu phát triển nội tại của nước ta, vừa có thể nhận được sự “hưởng ứng và ủng hộ” của các nước phát triển trong khuôn khổ không ảnh hưởng tới sự phát triển của các ngành kinh tế ở các nước này. Căn cứ vào tiềm năng về điều kiện tự nhiên, xã hội, dân số, truyền thống dân tộc Việt Nam, trong văn kiện đại hội VIII của Đảng ta đã xác định hướng chú trọng phát triển một số ngành, trong đó có công nghiệp sản xuất hàng dệt may. Với những đặc điểm kinh tế-kỹ thuật riêng có của ngành, công nghiệp dệt may được đánh giá là ngành có nhiều ưu điểm để sản xuất và xuất khẩu, rất phù hợp với điều kiện sẵn có của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, trong bối cảnh chung tình hình thế giới hiện nay, bên cạnh những thuận lợi nhất định việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc cũng gặp phải nhiều khó khăn thách thức cả ở trong và ngoài nước. Chẳng hạn như trình độ sản xuất thấp kém nên hàng hoá khó đáp ứng được yêu cầu của thị trường quốc tế, khả năng và trình độ tiếp thị quốc tế kém cỏi, thiếu kỹ năng và kinh nghiệm trong thực hiện hoạt động thương mại quốc tế, sự cạnh tranh giữa các nước đang phát triển về cùng một mặt hàng trên cùng một thị trường... Do đó, để có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của Tổng Công ty trong việc tìm hướng đi, biện pháp phù hợp mà còn cần phải có sự tác động tích cực của các cơ quan quản lý Nhà nước. Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ngày càng phát triển, tăng nhanh kim ngạch và ngoại tệ cho đất nước, củng cố uy tín và vị thế của Tổng Công ty không chỉ ở thị trường trong nước mà trên toàn thế giới. Với trình độ và thời gian nhất định, bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn nữa./. tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Thương mại quốc tế (PGS. PTS Nguyễn Duy Bột) 2. Giáo trình nghiệp vụ quản trị kinh doanh thương mại quốc tế (PGS. PTS Trần Chí Thành) 3. Cẩm nang thương mại dịch vụ (PTS Đặng Đình Đào - Hoàng Minh Đường) 4. Kinh tế đối ngoại Việt Nam-Nội dung-Giải pháp-Hiệu quả. (NXB Thống kê-1996 ) 5. Mưu lược cạnh tranh thương mại (NXB TP Hồ Chí Minh) 6. Hỏi đáp về kỹ thuật thực hành kinh doanh xuất nhập khẩu. (PTS. Võ Thanh Thư - NXB TP Hồ Chí Minh) 7. Tìm hiểu những quy định về hoạt động xuất nhập khẩu (NXB TP Hồ Chí Minh) 8. Tự do hóa thương mại, những xu hướng và chính sách (NXB Thống kê 1998) 9. Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu 1999-2003 (NXB Thống kê. 1998) 10. Cạnh tranh bằng giảm phí tổn thương mại (NXB Thống kê. 1998) 11.Basic Marketing - J. Mc Carthy 12. Thương mại dịch vụ trong sư nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (NXB Thống kê. 2000) 13. Hiệu quả kinh doanh trong nền kinh tế thị trường (NXB Thống kê. 1998) 14. Niên giám thống kê 1998,2000 15. Một số tạp chí thương mại; Thời báo kinh tế; Tạp chí Dệt may Việt Nam ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc23989.doc
Tài liệu liên quan