Thực trạng kinh doanh sách báo xuất nhập khẩu của Công ty Xunhasaba

Chương I. Lý luận chung về kinh doanh sách báo xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay. Khái quát về kinh doanh Xuất bản phẩm (XBP) xuất nhập khẩu. 1. Định nghĩa về kinh doanh XBP xuất nhập khẩu. Theo tiễn sĩ Nguyễn Thị Xuân Hương thì “kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ ,hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời”*. Đó là một quan điểm tương đối khái quát về kinh doanh . Sản xuất hàng hóa ra đời v

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1962 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng kinh doanh sách báo xuất nhập khẩu của Công ty Xunhasaba, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à phát triển, số lượng hàng hóa trên thế giới nhiều hơn bao giờ hết. Cùng với sự gia tăng mạnh mẽ ấy là nhu cầu về trao đổi. Nhưng quá trình trao đổi không còn đơn giản như giai đoạn đầu của nó. Dần dần quá trình ấy trở nên khó khăn . Người ta bắt đầu đòi hỏi sự thuận lợi trong mua bán và để thuận tiện, cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng đều chấp nhận sự xuất hiện của một lực lượng cầu nối, trung gian giữa họ. Điều đó đã tạo ra khả năng tham gia và khai thác cơ hội trong hoạt động trao đổi mua bán sản phẩm. Hay nói cách khác, nó đã tạo ra “lực lượng trung gian” và trao cho lực lượng ấy những khả năng và cơ hội “kinh doanh”. Lúc đầu nhà sản xuất bán hàng ( trao đổi) trực tiếp với người tiêu dùng: Hàng hóa Nhà sản xuất người tiêu dùng. Hàng hóa,tiền, vật trao đổi... Về sau nó có cách thực hiện thứ hai, hiệu quả hơn: Hàng hóa hàng hóa Nhà sản xuất (trung gian) người tiêu dùng. T T’ { T’(tiền) >T.} Ở trường hợp thứ hai chính lực lượng trung gian đã giúp quá trình di chuyển và trao đổi hàng hóa, giá trị giữa nhà sản xuất và nguời tiêu dùng được dễ dàng hơn. Điều đó cho thấy tiền đề cho sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa cũng chính là cơ sở để hình thành hoạt động kinh doanh. Đó là một khách quan đối với bất kì một loại sản phẩm nào và trong thời đại nào. Hàng hóa XBP cũng tuân thủ đầy đủ yêu cầu khách quan đó. XBP cần đến tay người sử dụng sau khi nó được ra đời. Nhưng vì những lý do về khả năng tài chính,cơ sở vật chất, thời gian, không gian...mà nhà sản xuất và độc giả sẽ có những khó khăn để “gặp nhau”, hoặc đó là điều không thể. Và yêu cầu khách quan đó sẽ dành cho chính lực lượng thứ ba- lực lượng trung gian với hoạt động kinh doanh của họ. Bởi vậy cũng như các hàng hóa khác “kinh doanh XBP là việc nhà kinh doanh lựa chọn một, một số hoặc tất cả các công đoạn nào đó trong dây chuyền nghiệp vụ: xuất bản-in-phát hành, để đầu tư công sức tiền của...vào đó nhằm thực hiện việc di chuyển XBP từ nhà sản xuất (nhà xuất bản) đến tay người sử dụng nhằm thỏa mãn mục đích kinh doanh của họ”. Nền kinh tế hàng hóa luôn phát triển cùng với sự phát triển của xã hội nói chung. Hàng hóa ngày nay càng nhiều và nhu cầu của con người cũng không ngừng tăng lên. Một hoặc một loại hàng hóa của quốc gia nào đó trở nên dư thừa so với nhu cầu tiêu dùng trong nước. Ở một số quốc gia khác, thì người tiêu dùng lại phải luôn mơ ước và kì vọng các nhà sản xuất trong nước thỏa mãn cho họ nhũng mặt hàng nào đó. Sự mâu thuẫn đó đã phá vỡ sự bó hẹp của quy mô sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng...để mở ra một xu hướng mới, xu hướng mở rộng kinh doanh, kinh doanh thương mại quốc tế, mà một phần của nó là hoạt động xuất nhập khẩu. Xuất nhập khẩu là một dạng (biểu hiện rõ nhất) của thương mại quốc tế. Kinh doanh hàng hóa xuất nhập khẩu cũng chính là một dạng của kinh doanh thương mại quốc tế. Và chúng mang bản chất của nhau. Người ta lý giải rằng bản chất của thương mại quốc tế là sự chuyên môn hóa ở mỗi quốc gia, kết quả trên sự so sánh những lợi thế và không lợi thế của những điều kiện sản xuất ở mỗi nước mang lại. Hình thức biểu hiện của thương mại quốc tế đầu tiên là xuất khẩu-xuất khẩu cưỡng bức. Đây là tư tưởng cốt lõi của trường phái tư tưởng theo lý thuyết trong thương. Xuất hiện từ thế kỉ 15, các nhà trọng thương lý luận rằng: sự giàu có của một quốc gia biểu hiện ở số lượng vàng bạc mà quốc gia đó có được. Vì vậy chính phủ các nước phải có chính sách xuất khẩu mạnh mẽ để thu vàng về và tránh (hoặc hạn chế thấp nhất) hiện tượng nhập khẩu. Bằng mọi cách (trong đó có cả cách bắt các nước thuộc địa tiêu thụ hàng hóa của mình), họ phải xuất khẩu. Và theo họ cán cân thương mại quốc tế luôn có tổng bằng “không”. Trên thực tế không một quốc gia nào có thể tự thỏa mãn toàn bộ hàng hóa cho nhu cầu của người dân .Và không một quốc gian nào “duy trì” mãi được “sự cưỡng bức” nhập khẩu với quốc gia khác. Bởi vậy đến thế kỉ 18, người ta đã tỏ vẻ nghi ngờ học thuyết của của phái trọng thương. Năm 1776, nhà kinh tế học người Anh-Adamsmith, đã cho ra đời cuốn sách “Sự giàu có của mỗi quốc gia”. Theo ông sự giàu có của một quốc gia phụ thuộc vào số hàng hóa và dịch vụ có sẵn hơn là sự phụ thuộc vào lượng vàng mà họ có. Ông đã đặt ra câu hỏi là tại sao người dân của bất kì nước nào cứ phải mua hàng hóa trong nước trong khi họ có thể mua chúng rẻ hơn ở nước ngoài. Ông đã phát triển học thuyết lợi thế tuyệt đối và chỉ ra rằng mỗi nước khác nhau có thể sản xuất những loại hàng hóa khác nhau có hiệu quả hơn thứ khác. Do vậy nguồn lực của mỗi nước nên được sử dụng cho những ngành công nghiệp hiệu quả. Đó chính là tiền đề ra đời của lý thuyết về “chuyên môn hóa”. Chuyên môn hóa có nhiều ưu điểm lớn.Nhờ nó mà các nước có thể gia tăng hiệu quả sản xuất. Do tay nghề người lao động được nâng cao, người lao động không phải mất thời gian đào tạo lại, họ dễ dàng phát huy khả năng sáng kiến của mình, chính phủ các nước cũng dễ dàng khai thác triệt để hiệu quả của các nguồn tài nguyên cà các nguồn lực khác vào sản xuất. Lợi thế mà mỗi quốc gia có được, theo Adamsmith là những lợi thế về tự nhiên và những lợi thế do nỗ lực mà có. Như vậy theo Ông thương mại quốc tế chỉ diễn ra ở nhưng nước có lợi thế tuyệt đối ở những lĩnh vực cụ thể. Điều đó chỉ đúng một phần,vì lợi thế tuyệt đối không phải quốc gia nào cũng có, hoặc không phải quốc gia nào cũng chỉ có một số ít những lợi thế tuyệt đối này. Nếu như vậy thương mại quốc tế có diễn ra không khi một nước có thể sản xuất tất cả các mặt hàng mà mình cần? Năm 1817, nhà kinh tế học người Anh David Ricacdo đã phát triển lý thuyết của Adamsmith và đưa ra lý thuyết của ông chỉ rõ: một quốc gia có lợi thế tuyệt đối về sản xuất các sản phẩm cũng không có thể (hoặc không nên) tự sản xuất hết các hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu của mình và một quốc gia không có được điều đó thì vẫn có thể tập trung sản xuất hướng xuất khẩu. Lợi thế so sánh là lợi thế mà mỗi quốc gia đạt được khi chuyên môn hóa sản xuất và xuất khảu những hàng hóa những mặt hàng nào đó, thể hiện mối tương quan thuận lợi hơn so với những mặt hàng khác và nhập khẩu các mặt hàng có tình hình ngược lại. Như vậy (xuất phát từ những điều kiện địa lý tài nguyên thiên nhiên, đất đai, nhân lực...khác nhau ở mỗi nước) chính sự chuyên môn hóa ở các quốc gia đã làm tiền đề cho sự ra đời của hoạt động xuất nhập khẩu. Mức độ phát triển của chuyên môn hóa chính là mức phát triển của thương mại và kinh doanh thương mại quốc tế. Ngày nay trong quan niệm kinh tế hiện đại bản chất của hoạt động xuất nhập khẩu còn được xem xét từ nhiều khía cạnh khác. Theo lí lý thuyết hiệu quả theo quy mô thì việc một doanh nghiệp tập trung mở rộng sản xuất về một ngành hàng nào đó thì sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí cơ bản, tăng hiệu quả sản xuất mà trực tiếp là lợi nhuận của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, xu hướng vận động hoặc quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa hoặc quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra gay gắt cũng là một nguyên nhân cải thiện và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Vì để không khỏi tụt hậu doanh nghiệp cần phải tiến hành trang bị, đầu tư vào cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại nhằm tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu hoàn thiện của khách hàng... Như vậy hoạt động xuất nhập khẩu XBP được hiểu như với tất cả các hàng hóa khác, là quá trình trao đổi các XBP (và dịch vụ) giữa hai tổ chức, hai quốc gia, hai cá nhân hoặc giữa một cá nhân với tổ chức...Quá trình trao đổi đó được sự can thiệp của chính phủ đồng thời đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. 2. Đặc trưng của hoạt động kinh doanh XBP xuất nhập khẩu. Kinh doanh XBP xuất nhập khẩu là một phần của kinh doanh XBP nói chung. Xét về quá trình đầu tư và mục đích thì về cơ bản hai lĩnh vực kinh doanh này không khác nhau. Tuy nhiên việc kinh doanh XBP xuất nhập khẩu nó còn mang những đặc trưng riêng biệt. Thể hiện ở đặc điểm, tính chất của XBP, thị trường, khách hàng...cũng như các hình thức thanh toán. 2.1. Sự khác biệt của hàng hóa XBP xuất nhập khẩu. Điều 4 chương I trong Luật xuất bản của nước ta (2005) đã chỉ rõ: “Xuất bản phẩm là các tác phẩm, tài liệu về chính chị, kinh tế, văn hóa, xã hội, văn học, nghệ thuật được xuất bản bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài và còn được thể hiện bằng hình ảnh âm thanh trên các vật liệu, phương tiện kĩ thuật khác nhau”. Như vậy trước hết XBP là một sản phẩm của trí tuệ tinh thần. Nó ra đời nhằm đáp ứng những nhu cầu về văn hóa, tinh thần (học tập, nghiên cứu, tìm kiếm, giải trí..). Đó là sự vật hóa (ngôn ngữ hóa) của kết quả lao động trí óc. Có thể nó là sản phẩm của một hoặc nhiều người, được truyền tải bằng nhiều phương tiện khác nhau( dù cùng một nội dung nhất định). Do vậy nhiều khi giá trị của nó không thể cân đo đong đếm. Thứ hai, XBPcó giá trị sử dụng đặc biệt. Bởi đó là những giá trị tinh thần. Nó được đúc kết từ sự am hiểu của các tác giả, từ tri thức của xã hội của nhân loại. Do vậy nó có sức sống lâu bền. Bởi thế mà hình thức XBP nhiều khi không đồng nhất với nội dung của nó. Khác với hàng hóa khác, qua thời gian hàng hóa giá trị sử dụng của XBP không hề mất đi. Nó có giá trị to lớn trong sự phát triển và hoàn thiện trí tuệ nhân cách của con người. Thứ ba, giá trị và giá trị sử dụng của XBP nhiều khi không đồng nhất. Đó đôi lúc là sự mâu thuẫn. Một XBP có giá trị cao nhưng chưa chắc giá trị sử dụng sẽ cao. Giá trị sử dụng của XBP được quyết định phần lớn bởi chất lượng của nội dung thông tin trong đó. Còn giá trị của nó thì lại được quyết định chủ yếu bởi các công nghệ và quá trình đầu tư in ấn và trình bày. Do vậy nhiều khi đó là một sự mâu thuẫn. Thứ tư, hàng hóa XBP mang tính thời gian. Bởi bản thân XBP là vật mang tin. Thông tin trên XBP chỉ có giá trị sử dụng (hiệu quả nhất) trong một khoảng thời gian nhất định. Hơn nữa tri thức của nhân loại luôn luôn biến đổi và phát triển. Do vậy vật mang tin-XBP chỉ phù hợp nhất khi được sử dụng ở những khung thời gian nhất định. Qua thời gian thông tin, tri thức trong XBP sẽ mất dần tính thời sự, hoặc người ta sẽ tiếp nhận những thông tin..ấy theo cách khác. Ngoài bốn đặc điểm trên, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì XBP còn có tính đa dạng và phong phú (về chủng loại, mẫu mã, nội dung thông tin tri thức...). Đó cũng là yêu cầu khách quan của nhu cầu công chúng... XBP xuất nhập khẩu giống XBP thông thường ở đầy đủ các đặc điểm chung nhất đó. Điểm khác nhau cốt lõi giữa chúng xuất phát từ việc tham gia vào quá trình lưu thông và trao đổi mang tính quốc tế. Vì vậy ngoài những đặc điểm trên XBP xuất nhập khẩu còn mang những nét riêng biệt. +XBP xuất nhập khẩu được xuất bản dưới nhiều ngôn ngữ khác nhau vì thị trường kinh doanh (khai thác, tiêu thụ..) là rất rộng lớn trên phạm vi quốc tế. Có thể cùng một mảng nội dung nhưng ở mỗi nước thì nó được xuất bản bằng chính ngôn ngữ nước đó. Khi tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu nó đáp ứng nhu cầu đa dạng của độc giả (cũng ở nhiều quốc gia khác nhau). Nội dung của Xuất nhập khẩu xuất bản phẩm là hết sức phong phúc và sâu sắc. Mỗi loại XBP đến từ một quốc gia khác nhau. Nó phản ánh tình hình xã hội, trình độ, đặc trưng văn hóa, lối tư duy, thành tựu khoa học kĩ thuật...của mỗi quốc gia đó. Do vậy việc tiếp nhận có hiệu quả nội dung thông tin trong đó đòi hỏi người đọc không chỉ có trình độ ngoại ngữ mà còn phải có nhiều kiến thức, sự am hiều nhất định về một hoặc những lĩnh vực nhất định. +Ngoài ra XBP xuất nhập khẩu có giá rất cao khi đến tay ngay người mua. Chí phí lưu thông, thuế xuất nhập khẩu là yếu tố chính khiến cho giá bán của nó chỉ phù hợp với không nhiều đối tượng khách hàng. 2.2. Đặc trưng về thị trường XBP xuất nhập khẩu. Người ta có thể đứng dưới nhiều góc độ khác nhau để nhìn nhận về thị trường nói chung. Có thể xuất phát từ mục tiêu, đặc điểm hàng hóa, khả năng của doanh nghiệp về thị trường. Theo nhà kinh tế học McCathy thì “thị trường có thể được hiểu là các nhóm khách hàng tiềm năng với những nhu cầu tương tự (giống nhau) và những người bán đưa ra các sản phẩm khác nhau với các cách thức khác nhau để thỏa mãn nhu cầu đó”. Chúng ta đã biết nhu cầu về XBP rất đa dạng và phong phú. Trong khi đó các doanh nghiệp kinh doanh XBP chỉ có thể thỏa mãn được một phần nào đó mong muốn của họ. Mặc dù các doanh nghiệp luôn tự cố gắng, nắm bắt nhu cầu để đa dạng hóa hàng hóa của mình và mở rộng phương thức phục vụ nhưng họ lại gặp những trở ngại về vấn đề địa lý, thời gian, giá cả... Chúng ta biết rằng nhu cầuXBP là một dạng của nhu cầu tinh thần. Bởi vậy nó hình thành và phát triển sau nhu cầu vật chất cấp thiết khác. Nên thị trường XBP cũng được hình thành sau đó. Người ta cho rằng sự phát triển của thị trường XBP tỷ lệ thuận với trình độ phát triển của xã hội nói chung. Một đất nước giàu có, thu nhập đầu người cao chưa chắc đã tạo ra một thị trường XBP sôi động, phát triển. Các yếu tố về văn hóa, kinh tế, chính trị ...cũng đóng góp ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển của thị trường XBP nói chung. Thị trường XBP luôn chịu sự giám sát chặt chẽ của pháp luật. Tính trong sạch của thị trường XBP luôn được các cấp quản lý quan tâm. Bởi sức tuyên truyền và lây lan của nội dung thông tinh trên sách báo là rất lớn. Nó có thể làm biến đổi nhận thức của cả một thế hệ con người. Do vậy nó luôn được kiểm soát bởi các quy định, chính sách, pháp luật của chính phủ. Nhờ vậy đã làm lành mạnh hơn thị trường XBP. Thị trường XBP ở nước ta mới thự sự hình thành từ những năm đất nước đổi mới. Và thực sự phát triển trong vòng 10 năm trở lại đây. Sự chuyển đổi cơ chế quản lý đã tạo ra bước chuyển lớn của thị trường. Các quy luật kinh tế khách quan đã được vận dụng trong kinh doanh XBP và đã tạo ra sự sôi động lớn. Tuy vậy đặc thù lớn nhất của thị trườngXBP ở nước ta hiện nay chính là sự phân hóa phát triển của các khu vực thị trường. Có thể chia thị trường XBP Việt nam hiện nay làm ba khu vực chính. + Thị trường XBP ở các trung tâm, các thành phố lớn. Nơi đây tập trung lớn nhất lực lượng các nhà xuất bản, các nhà kinh doanh và nhu cầu của công chúng. Tính chất cạnh tranh ở thị trường này rất phức tạp. +Thị trường XBP ở các thành phố nhỏ và trung tâm các tỉnh. Nhìn chung thị trường XBP nơi đây phát triển còn chậm. Mặt hàng XBP ít và số lượng không lớn. Lực lượng kinh doanh không nhiều, quy mô thị trường nhỏ, lực lượng quốc doanh vẫn chiếm thị phần lớn trên thị thường. + Thị trường XBP ở các vùng sâu, xa. Thực ra nó mới được hình thành trên danh nghĩa. Thực tế thì các quan hệ thị trường còn ở dạng manh mún. Nhà nước đã và đang có những chính sách tài trợ, hỗ trợ lớn cho khu vực này. Do đời sống của nhân dân còn quá khó khăn, trình độ dân trí còn thấp..nên nhu cầu của công chúng hầu như là không có. Xét về thị trường XBP xuất nhập khẩu của nước ta thì nhìn chung nó cũng mang những đặc trưng cơ bản giống thị trường kinh doanh XBP nói chung. Tuy nhiên nó cũng có những sự khác biệt nhất định: + Nếu theo tiêu thức địa lý thì thị trường XBP nhập khẩu chỉ tập trung ở các thành phố lớn, nơi có trình độ dân trí cao, thu nhập cao (mức chi tiêu về hàng hóa XBP thường cao hơn các vùng khác). Ở nước ta hiện nay thị trường tiêu thụ XBP ngoại văn chỉ tập trung ở Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Còn thị trường XBP xuất khẩu thì thị trường chính ở ba thị trường lớn là Mỹ, châu Á và châu Âu. Có thể thấy phạm vi thị trường của kinh doanh XBP xuất nhập khẩu là rất lớn, nhưng sự phân hóa lại rất sâu sắc và mức độ tập trung rất cao. + Xét theo tiêu thức về sản phẩm thì thị trường XBP xuất nhập khẩu thường được đánh giá là có nhóm đối tượng khách hàng có trình độ cao hơn. Không những về trình độ ngoại ngữ mà về sự am hiểu văn hóa, tri thức khoa học khác.. Bởi vậy các XBP phục vụ đối tượng khách hàng này cũng có chất lượng nội dung cao hơn, phong phú hơn và giá cũng cao hơn... + Xét về tiêu thức về khách hàng với nhu cầu của họ. Đây là tiêu thức giúp các doanh nghiệp tìm ra được thị trường mục tiêu. Tuy nhiên khác với thị trường mục tiêu trong kinh doanh XBP thông thường, trong kinh doanh XBP xuất nhập khẩu, thị trường mục tiêu nó được xuất hiện trên cơ sở của những tác động rất khác nhau của các yếu tố môi trường. Trên thực tế người ta có thể dựa theo những tiêu thức khác nhau để nhận định. Do vậy sự khác nhau đó chỉ là tương đối. 2.3. Khách hàng. Người ta vẫn thường nhận dạng những nhóm khách hàng theo những đặc điểm chung nhất của họ: độ tuổi, thu nhập, trình độ, nghề nghiệp, giới tính...Theo đó thì khách hàng XBP xuất nhập khẩu và của XBP nói chung đều giống nhau ở tính chất cơ bản. Tuy nhiên hàng hóa XBP có xuất xứ từ nhiều quốc gia khác nhau. Nó mang những nét khác nhau về nội dung, hình thức, giá cả..chính vì vậy khách hàng đến với nó còn mang những đặc điểm khác. Trước hết là về thu nhập. Khách hàng đến với XBP xuất nhập khẩu thường là những người có thu nhập cao. Bởi giá bán của mặt hàng này thường cao hơn 2 đến 3 lần giá bìa. Tất nhiên thu nhập ở đây được hiểu cụ thể dưới góc độ qũy tiêu dùng của khách hàng chi tiêu cho việc mua các XBP. Thứ hai, khách hàng phải là những người có trình độ ngoại ngữ tốt. Bởi ngôn ngữ của XBP xuất nhập khẩu rất đa dạng (có thể XBP được xuất bản dưới nhiều thứ tiếng khách nhau). Thứ ba, ngoài trình độ ngoại ngữ khách hàng cũng thường phải là những người có trình độ văn hóa, kiến thức nhất định thì mới có thể sử dụng hiệu quả các XBP xuất nhập khẩu. Nghiên cứu đặc trưng của khách hàng là yêu cầu quan trọng để có cách tiếp cận phù hợp. Nhưng những đặc điểm đó chỉ là tương đối. Trên thự tế thì việc hướng đối tượng khách hàng cần phải dựa vào đặc điểm của chính hàng hóa XBP. Và khi đó định hướng khách hàng mới là biện pháp lâu dài. 3. Môi trường của hoạt động kinh doanh XBP xuất nhập khẩu. Hoạt động kinh doanh XBP nói chung luôn chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Trong đó có các yếu tố khách quan, chúng tạo thành những nhóm nhân tố cùng tác động đến hoạt động của doanh nghiệp. Đó chính là môi trường mà doanh nghiệp sẽ tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình ở đó. Các nhân tố ấy tác động liên tục, trực tiếp hoặc gián tiếp, ở tầm vĩ mô hoặc vi mô...đến hoạt động kinh doanh. Thực tế có thể chia làm ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh XBP xuất nhập khẩu: +Môi trường văn hóa, xã hội; +Môi trường chính trị pháp luật; +Môi trường kinh tế, công nghệ. 3.1. Môi trường văn hóa, xã hội. Yếu tố văn hóa xã hội luôn bao quanh doanh nghiệp và tác động bằng nhiều cách lên hoạt động kinh doanh của họ. Có thể đứng dưới nhiều góc độ để nhìn nhận về vấn đề này. Để tìm ra sự tác động của nó trong việc hình thành đặc điểm của thị trường kinh doanh của doanh nghiệp. Yếu tố văn hóa được hiểu bao trùm ở nhiều khía cạnh khác nhau. Với một quốc gia, một dân tộc thì đó là những giá trị truyền thống, là trình độ, là thành tựu, là lối sống, hệ tư tưởng...Tất cả các khía cạnh này nó tác động đến từng thành viên của xã hội để tạo ra cái gọi là: sở thích xã hội, thị hiếu, tâm lý, xu hướng xã hội. Xem xét yếu tố văn hóa, doanh nghiệp XBP sẽ định vị được thị trường về cái “gu” và tính chất sự đòi hỏi của những thị trường nhất định. Mặt khác ở mỗi đơn vị thành viên của xã hội, họ thể hiện những cái chung đó bằng những cách riêng của mình để phù hợp với lứa tuổi, trình độ, giới tính, địa vị xã hội, nghề nghiệp... của chính họ. Các doanh nghiệp XBP phải đặc biệt quan tâm đến môi trường mang tính vi mô này. Vì lĩnh vực kinh doanh này gần với “văn hóa” hơn hết. Văn hóa vi mô bao quanh bản thân khách hàng, là sự cụ thể hóa của môi trường văn hóa vi mô. Chúng tác động qua lại với nhau. Các doanh nghiệp XBP cần phải quan tâm đồng thời hai khía cạnh này vì muốn xâm nhập và chiếm lĩnh khách hàng thì với họ đó là hai rào cản đầu tiên. Nghiên cứu các khía cạnh của yếu tố xã hội lại giúp các doanh nghiệp XBP định vị được quy mô tính chất và mức độ của thị trường. Đó là các yếu tố về dân số, tình trạng dân số, sự ổn định của mâu thuẫn xã hội... Môi trường văn hoá, xã hội hiện nay có nhiều thuận lợi cho hoạt độngkinh doanh XBP xuất nhập khẩu (dù ở phạm vi quốc gia hay quốc tế). Vì trình độ văn hóa của Việt Nam và thế giới ngày càng cao nên nhu cầu về XBP ngày càng lớn, xã hội càng phát triển thì nhu cầu về hưởng thụ tri thức, các giá trị tinh thần càng phong phú. Hơn nữa sự xích lại gần nhau giữa các quốc gia sẽ hạn chế nhiều những rào cản về văn hóa xã hội tạo điều kiện cho việc phổ biến XBP của các doanh nghiệp. 3.2 Môi trường chính trị, pháp luật. Các yếu tố thuộc lĩnh vực chính trị pháp luật chi phối mạnh mẽ sự hình thành cơ hội thương mại và khả năng thực hiện mục tiêu cuả bất kì doanh nghiệp nào. Sự ổn định của chính trị là tiền đề cho hoạt động của các doanh nghiệp. Tuy nhiên rủi ro và những cơ hội do chính trị mang lại luôn luôn song hành cùng nhau. Đặc biệt với doanh nghiệp xuất nhập khẩu XBP. Luật pháp luôn là những rào cản đối với các doanh nghiệp. Luật pháp ở mỗi quốc gia là khác nhau, do vậy doanh nghiệp luôn vấp phải rất nhiều khó khăn. Điều đó không những yêu cầu các doanh nghiệp phải có sự điều tra kĩ càng về yếu tố này trước khi kinh doanh mà còn đòi hỏi họ phải có sự vận dụng một cách linh hoạt các điều luật quy định. Luật pháp sẽ quy định các mặt hàng mà doanh nghiệp được phép kinh doanh. Tuy vậy sự hoàn thiện của luật pháp sẽ đem lại sự công bằng và sự tự tin cho các doanh nghiệp. Những luồng XBP có nội dung xấu, nguồn gốc không rõ ràng...luôn nằm trong danh mục những hàng hóa cấm kinh doanh của Nhà nước. Trên phạm vi quốc tế thì pháp luật về bản quyền, thuế quan luôn khiến các doanh nghiệp XBP quan tâm hàng đầu. Đó là hệ thống những điều luật rất chặt chẽ và cụ thể. Đòi hỏi các doanh nghiệp phải rất thận trọng trong kinh doanh nếu không muốn mắc phải những sai lầm đáng tiếc. Môi trường chính trị hiện nay không thuần nhất. Do sự biến động rất phức tạp của tình hình đấu tranh chính trị trên thế giới và ở mỗi quốc gia. Đó là khó khăn chung cho các doanh nghiệp XBP. Nhưng xu thế tự do hóa và sự thông qua những điều luật chung trên phạm vi giao thương toàn cầu sẽ mở ra cho các doanh nghiệp kinh doanh XBP xuất nhập khẩu những thuận lợi mới. 3.3 Môi trường kinh tế và công nghệ. Các nhân tố kinh tế và công nghệ có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp XBP. Đó là sự tác động xét từ mối tương quan của sự phát triển của nền kinh tế và kinh tế của các thành viên trong xã hội. Với bản thân các doanh nghiệp XBP, nền kinh tế ổn định, phát triển sẽ kéo theo sự tăng lên của đầu tư xã hội vào ngành. Đi đôi với đó là sự ổn định của các yếu tố tiềm lực của doanh nghiệp. Kinh tế mà tăng trưởng ổn định, đồng nghĩa với việc đời sống của người dân, mức sống của xã hội tăng lên. Điều đó cho phép nhu cầu và khả năng thanh toán của họ cũng sẽ tăng lên và được đảm bảo. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô của doanh nghiệp XBP. Điều này càng đúng đắn khi mà nhu cầu sách, báo ...là nhu cầu đến sau những nhu cầu vật chất khác... Hơn nữa, khi nền kinh tế phát triển (xét trên phạm vi quốc tế) thì xu hướng mở rộng và hợp tác đầu tư, kinh doanh sẽ tăng lên, điều đó sẽ làm phong phú hơn, dễ dàng hơn trong giao dịch, thanh toán, vận chuyển... Yếu tố công nghệ kĩ thuật ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm. Với doanh nghiệp XBP thì đây là điều kiện quyết định chất lượng của những trang in, những ấn phẩm xuất bản. Đó là điều kiện dẫn tới việc có hay không sự biến đổi đến khác biệt của XBP. Yếu tố công nghệ, kĩ thuật phải được xem xét rộng hơn, khi mà ảnh hưởng của nó không ngừng tăng lên. Rõ ràng công nghệ kĩ thuật hiện nay đã làm cho các phương thức giao dịch trong kinh doanh, phương thức giao nhận vận chuyển hàng hóa...dễ dàng, hiệu quả hơn rất nhiều. II. Nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh sách, báo xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp phải tự mình quyết định ba vấn đề cơ bản là : kinh doanh mặt hàng nào? phân phối cho ai? Và kinh doanh bằng phương thức gì? Kinh doanh sách báo xuất nhập khẩu, chính là việc tiêu thụ sách báo ngoại văn ở thị trường trong nước và tiêu thụ sách báo trong nước trên thị trường quốc tế. Đó không đơn thuần là việc bán các mặt hàng sách báo mà đó còn là một quá trình thực hiện tổng thể các biện pháp về mặt tổ chức kinh tế, kế hoạch nhằm nghiên cứu nắm bắt nhu cầu, thị trường, hàng hóa... Nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là công việc rất quan trọng với các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp không thể kinh doanh có hiệu quả nếu như không làm tốt công việc này. Đó là một yêu cầu trước tiên thường xuyên và liên tục. Với cách doanh nghiệp XBP thì nó lại càng quan trọng. Vì diễn tiến các yếu tố trên thị trường này nó không rõ ràng như đối với các hàng hóa đơn thuần khác. Nắm bắt nhu cầu tinh thần là rất khó nhưng còn khó hơn là phải tạo ra sự khác biệt trong hoạt động kinh doanh của mình (vì sự phản ứng trước sự thay đổi nào đó từ phía các nhà kinh doanh của thị trường là không rõ) nhằm đạt được hiệu quả. Nghiên cứu thị trường XBP xuất nhập khẩu là một hệ thống các biện pháp nghiệp vụ được tiến hành bởi các công cụ khác nhau của doanh nghiệp để tìm hiểu và nắm bắt tổng thể các yếu tố cấu thành thị trường mà có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các phương tiện, công cụ, cách thức tổ chức thực hiện của các doanh nghiệp là rất đa dạng. Nó không chỉ phụ thuộc vào phạm vi của các doanh nghiệp hoạt động, mục đích tiến hành của bản thân mà còn dựa trên khả năng có thể của doanh nghiệp. Bằng hình thức nào đó, các doanh nghiệp kinh doanh XBP xuất nhập khẩu phải tìm ra những nguồn thông tin, số liệu (càng cụ thể càng tốt) về nhu cầu của thị trường, tính chất cạnh tranh trên thị trường, các yếu tố với mức độ tác động đến doanh nghiệp như thế nào?... Ở tầm vĩ mô trước hết phải nghiên cứu tổng cầu và tổng cung của thị trường. Phải làm rõ mức tổng cầu về hàng hóa XBP trên thị trường trong và ngoài nước ra sao? Số lượng bao nhiêu? Ở dạng chủng loại nào?..Tốc độ gia tăng tổng cầu và xu hướng phát triển cũng như cá nhân tố ảnh hưởng đến nó. Trên lượng tổng cầu đó phải xác định tổng cung - lượng hàng hóa XBP mà các lực lượng mang ra trên thị trường như thế nào? Số lượng, giá cả?...Từ đó nhận xét mức độ thỏa mãn của cung với cầu trên thị trường như thế nào? Ở mức độ cụ thể nghiên cứu thị trường XBP xuất nhập khẩu là nghiên cứu các yếu tố: +Về giá. Là xác định mức giá trên thị trường với mỗi loại sản phẩm ở những thời điểm nhất định, xác định các yếu tố hình thành giá cả XBP, các nhân tố tác động đến giá, các quy luật biến đổi giá...Tìm hiểu về giá để doanh nghiệp có những chính sách định giá cho phù hợp với thị trường và khả năng của mình. + Về khách hàng. Phải xác định được quy mô của khách hàng, đặc điểm và xu hướng chung của khách hàng, cơ cấu của nhu cầu với XBP, đặc biệt là sự mong muốn và kì vọng của công chúng về hàng hóa XBP. + Về lực lượng kinh doah trên thị trường. Là tìm hiểu rõ về số lượng các nhà kinh doanh. Sự tập trung, quy mô, chính xách và khả năng của họ. Phương thức kinh doanh, tính đa dạng mặt hàng mà họ kinh doanh. Điều đó giúp các doanh nghiệp xác định được tiềm lực và mức độ thành công của các đối thủ để xác định đối tượng cạnh tranh, hình thức cạnh tranh hoặc là một sự liên kết hợp tác nào đó... + Về tính chất của thị trường XBP. Đó là thị trường độc quyền hay cạnh tranh? Trung tâm hay khu vực? Mức độ phát triển hiện tại và xu hướng của nó? Với hàng hóa XBP các doanh nghiệp không thể đề cập đến tính chất của thị trường một cách chung chung, mà cần phải nghiên cứu nó với những đặc điểm, tinh chất của những chủng loại hàng hóa XBP nhất định. Vì tính đa dạng, đặc trưng rất cao trong chính hàng hóa XBP. Hơn nữa mỗi loại XBP thường có những cơ chế chính sách riêng của Nhà nước, Pháp luật... +Về môi trường của hoạt động kinh doanh cuả doanh nghiệp. Đó là việc xác định những yếu tố khách quan có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp XBP cần phải nắm bắt được những tác động của chính trị, kinh tế, của pháp luật, văn hóa xã hội...đến hàng hóa XBP, công chúng khách hàng và tới chính bản thân doanh nghiệp. Đặc biệt là các yếu tố về chính trị, pháp luật. Các nhân tố ấy ở mỗi quốc gia là khác nhau, mỗi khu vực thị trường cũng khác nhau và với mỗi chủng loại XBP cũng khác nhau. Do vậy các doanh nghiệp luôn phải điều chỉnh hàng hóa của mình, các biện pháp nghiệp vụ của mình cho phù hợp với những điều kiện đó. Đảm bảo hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực và khai thác triệt để những cơ hội do môi trường tạo ra. Tuy nhiên, trọng tâm của công tác nghiên cứu thị trường chính là nhu cầu của công chúng. Đó mới là sự quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp. Đối tượng phục vụ của bất kì nhà kinh doanh nào cũng là công chúng là khách hàng. Mức độ thỏa mãn của khách hàng là thước đo sự thành công của doanh nghiệp khi chiếm lĩnh thị trường. Muốn vậy các doanh nghiệp xuất nhập khẩu XBP luôn phải có trong tay những chỉ số cụ thể (dù là tương đối) với mức độ tin cậy cao về nhu cầu của thị trường. Điều đó sẽ khó khăn hơn cho doanh nghiệp khi tiến hành tìm hiểu trên thị trường quốc tế- nơi mà các yếu tố rất không đồng nhất so với thị trường nội địa. Nhu cầu xuất nhập khẩu là những đòi hỏi chủ quan của con người về XBP nước ngoài. Đó là mong muốn và đòi hỏi được thỏa mãn về mặt văn hóa tinh thần thông qua nội dung XBP ngoại văn. Mọi nhu cầu này được hình thành và phát triển phụ thuộc nhiều vào các yếu tố chủ quan lẫn khách quan. Và đặc biệt đó là những nhân tố thuộc về văn hóa - xã hội. Nhu cầu XBP nhập khẩu trên thị trường (quốc tế nói chung) bao gồm nhiều mức độ biểu hiện: Dạng tiềm năng dạng hiện tại cầu thị trường. Đó là quá trình diễn tiến tâm lí phức tạp của khách hàng. Nó diễn biến theo thời gian, nhanh hoặc chậm, mạnh hoặc yếu. Điều đó không những phụ thuộc vào chính bản thân chủ quan khách hàng mà còn chịu sự tác động của các biện pháp xúc tiến kinh doanh của doanh nghiệp. Nội dung, hình thức của XBP rất phong phú, đa dạng. Điều đó sẽ phù hợp với tính phức tạp của nhu cầu. Mỗi XBP chỉ có thể thỏa mãn được một hoặc vài khía cạnh của nhu cầu của một hoặc một số nhóm khách hàng cụ thể. Do vậy các nhà xuất nhập khẩu phải nghiên cứu kĩ càng để thỏa mãn một cách tốt nhất... Nhu cầu XBP trong nền kinh tế thị trường phát triển nhanh chóng về số lượng và ._.có nội dung rất phong phú. Do sự phát triển chung của xã hội nên những đòi hỏi mong muốn của công chúng ngày càng cao và đa dạng. Khi tri thức, khoa học, xã hội... ngày càng đạt được sự phát triển cao khi mà nhu cầu được thỏa mãn của công chúng ngày càng tăng mạnh, thì nó đã mở ra những cơ hội cho các nhà kinh doanh khi đi sâu khai thác những khía cạnh rất nhỏ của nhu cầu. Đồng thời đặt ra cho họ những yêu cầu khắt khe khi nghiên cứu và đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Nhu cầu XBP ngoại văn của khách hàng sẽ biểu hiện thành cầu nếu họ có khả năng thanh toán. Như vậy lượng cầu ấy sẽ bị hạn chế nếu quỹ tiêu dùng của người dân có hạn. Hơn nữa hàng hóa XBP mà nhà cung cấp mang ra thị trường lại có hạn. Do vậy cầu XBP ở đây hoặc sẽ được thỏa mãn hoặc sẽ bị hạn chế, biến mất và chuyển thành cầu hàng hóa khác. Nghĩa là cầu hàng hóa XBP sẽ bị tác động bởi lượng cung. Tóm lại trong hoạt động kinh doanh XBP xuất nhập khẩu thì nghiên cứu thị trường là một yêu cầu tiên quyết, quyết định thàng công của doanh nghiệp trên thương trường. Điều quan trọng trong khâu này chính là tìm ra được đặc điểm của thị trường, cơ hội và thách thức mà doanh nghiệp bắt gặp khi tham gia kinh doanh. Khả năng đạt tới, tính ổn định và khả năng tiếp nhận của thị trường sẽ được dành nhiều quan tâm của các doanh nghiệp trước khi tham gia vào cuộc chơi. Xây dựng chiến lược sản phẩm. Với các nhà sản xuất kinh doanh thì sản phẩm mà họ tạo ra, đem bán trên thị trường được ví như những đứa con của họ. Cho nên hiểu đúng để xây dựng hình ảnh và chất lượng trong đó là một nhiệm vụ sống còn đối với các nhà kinh doanh. Người ta có thể hiểu sản phẩm từ nhiều góc độ khác nhau. Quan điểm thứ nhất, người ta coi sản phẩm là kết quả của quá trình thực hiện vật chất của nó. Tức là sản phẩm hiện vật. Với cách nhìn này thì các doanh nghiệp khó có thể chứng tỏ được sự phù hợp của sản phẩm khi đem ra thị trường. Vì khi ấy sự thỏa mãn của khách hàng chưa được đáp ứng đầy đủ và tốt nhất. Bởi lẽ với quan điểm này các doanh nghiệp sẽ tập trung vào sản xuất sản phẩm dựa trên khả năng của mình hơn là việc hướng theo nhu cầu của thị trường. Ở cách tiếp cận thứ hai người ta nhìn nhận sản phẩm dưới góc độ từ phía khách hàng và đặc điểm nhu cầu của họ. Với khách hàng sản phẩm chính là sự thỏa mãn nhu cầu của họ. Do vậy tất cả sự thỏa mãn có chủ đích mà các nhà kinh doanh mang lại cho khách hàng thông qua một phương tiện “đặc biệt” chính là sản phẩm, hàng hóa của mình. Trong cách hiểu này sản phẩm sẽ gồm: Vật cứng (hiện vật) cộng với dịch vụ liên quan (vật mềm). Cũng như vậy sản phẩm XBP chính là tổng hợp các yếu tố khác nhau, có liên quan đến nhau nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Như vậy người ta có thể đánh giá được chất lượng hoạt động của một doanh nghiệp thông qua cái cách mà họ dùng để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng hay nói cách khác chính sản phẩm sẽ đại diện cho bộ mặt của doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường. Hơn nữa nhu cầu của khách hàng có thể được đòi hỏi thỏa mãn ở nhiều mức độ khác nhau (dù là ở sản phẩm cứng) từ đơn giản, bình thường đến cao hoặc rất phức tạp. Do vậy sản phẩm của doanh nghiệp cũng được hoàn thiện một cách linh hoạt ở nhiều mức độ khác nhau điều này buộc doanh nghiệp phải tập trung tiến hành các công việc cần thiết nhằm cho ra đời những sản phẩm có chất lượng và phù hợp với thị trường không chỉ cho hiện tại mà tính tới cả tương lai. Đó chính là việc xây dựng chiến lược cho sản phẩm. Xây dựng chiến lược cho sản phẩm tức là các doanh nghiệp chuẩn bị những điều kiện tốt nhất để làm cho sản phẩm của mình tìm được một chỗ đứng vững vàng trên thị trường cả ở thời điểm hiện tại cũng như trong thời gian sau (chiến lược ngắn hạn, chiến lược dài hạn). Với các doanh nghiệp XBP, xây dựng chiến lược cho sản phẩm là song song thực hiện hai nhiệm vụ thiết kế và kế hoạch phân phối sản phẩm ra thị trường. Sản phẩm, hàng hóa XBP là sự thỏa mãn nhu cầu nhất định của khách hàng... bởi vậy thiết kế sản phẩm phải dựa trên những đặc điểm từ đòi hỏi nhu cầu đó. Khi đã tìm được tiếng nói chung giữa sản phẩm với nhu cầu của thị trường thì sản phẩm sẽ tự tìm được chỗ đứng riêng của nó. Khi đó kế hoạch phân phối sản phẩm sẽ dễ dàng hơn. Quan trọng là kế hoạch ấy phải chỉ ra hướng đến chính xác cho sản phẩm (từng loại sản phẩm). Nói cách khác xây dựng chiến lược sản phẩm XBP là các doanh nghiệp phải trả lời những câu hỏi: đích đến của sản phẩm là ở thị trường nào? Những XBP nào sẽ phù hợp ? Kế hoạch phân phối hàng hóa như thế nào ? Nó phải được xây dựng trên cơ sở kế hoạch phân đoạn thị trường, hướng thị trường trọng điểm, mục tiêu một cách chính xác. Làm được điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ nhận được những tấm giấy thông hành khi tham gia thị trường. Thị trường trọng điểm là địa bàn hoạt động chính của doanh nghiệp. Đây là thị trường quen thuộc của doanh nghiệp. Ở đây tập trung phần lớn hàng hóa cũng như các cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp. Ở thị trường này việc giữ vững và tăng trưởng mức doanh thu cũng như lợi nhuận là đòi hỏi số một. Nếu doanh nghiệp quan niệm rằng đó là những thị trường quen, với khách hàng quen thuộc ... mà quên mất cải tiến sản phẩm và hoàn thiện dịch vụ...thì đó là một sai lầm. Đặc biệt với những thị trường khó tính. Các doanh nghiệp phải cẩn trọng đến tính hai mặt của thị trường. Phải xác định cạnh tranh luôn luôn diễn ra và rất khốc liệt kể cả khi doanh nghiệp đã chiếm lĩnh được thị trường. Quan trọng hơn là doanh nghiệp phải cạnh tranh với nguy cơ quay lưng của khách hàng và với sự lạc hậu của mình. Ở thị trường mục tiêu, các doanh nghiệp với những bước đi cẩn trọng của mình xác định nhũng tham số của thị trường với những thông số về phạm vi thị trường, quy mô thị trường, đặc điểm nhu cầu, các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu...để thiết kế mẫu thử cho sản phẩm của mình. Với các doanh nghiệp XBP yêu cầu đổi mới có ý nghĩa sống còn. Đôi khi chỉ một chút ít sự thay đổi mà tạo ra những sự khác biệt lớn lao cho doanh nghiệp, cho chính hình ảnh của họ. Sự khác biệt không những thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng, làm mới mình mà còn tạo ra sự kì vọng mới nơi khách hàng. Tuy vậy yếu tố mới, cũ trong kinh doanh chỉ là tương đối khi nó được gắn thêm yếu tố thời gian, không gian. Sản phẩm A có thể cũ ở thị trường A1 nhưng nó hoàn toàn mới ở một thị trường khác- thị trường B1 chẳng hạn. Và ngược lại một sản phẩm nào đó có thể cũ với thị trường B1 nhưng lại có thể mới ở thị trường A1...Như vậy tùy theo kết quả của phân đoạn thị trường mà chính sách phân phối sản phẩm phải chính xác mà vẫn linh hoạt. tt sp Cũ Mới Cũ A1 A2 Mới A3 A4 ( trên sơ đồ ở ba thị trường :A2; A3; A4 đều là những cách làm mới sản phẩm của mình) Sự tương thích giữa tính chất của sản phẩm với thị trường là yếu tố quyết định đến chiến lược phân phối sản phẩm của donah nghiệp. Kể cả chiến lược định giá cho sản phẩm. Thông thường người ta định giá cho hàng hóa XBP xuất nhập khẩu như sau: P = C + m (P là giá của XBP xuất nhập khẩu, C là chi phí, m là lợi nhuận). Sự linh hoạt trong sự định giá mà doanh nghiệp có thể làm được là thay đổi 2 yếu tố C và m. Tùy vào chiến lược phân phối sản phẩm ra sao để xác định mục đích định giá thế nào (để có những mức giá cạnh tranh, mức giá thị trường, mức giá đối đầu hoặc định giá không tính giá). Như vậy xây dựng chiến lược sản phẩm là tổng thể thực hiện nhiều biện pháp khác nhau. Trong đó là hai kế hoạch cơ bản là thiết kế sản phẩm và phân phối sản phẩm. Những biện pháp ấy phải luôn gắn với thị trường mà cụ thể là nhu cầu của khách hàng. Xây dựng chiến lược sản phẩm phải dựa trên mục tiêu và năng lực của doanh nghiệp. Và tuyệt đối không có sự mâu thuẫn nào giữa hai yếu tố đó. Chiến lược sản phẩm là xây dựng tương lai cho sản phẩm của doanh nghiệp. Vì vậy nếu doanh nghiệp còn giữ tư tưởng bám đuổi thị trường thì không thể phát triển mạnh mẽ được. Phải đón trước nhu cầu để điểu chỉnh nhu cầu. Xây dựng chiến lược sản phẩm phải hướng đến mục tiêu điều chỉnh nhu cầu của khách hàng. Đó là yêu cầu lâu dài và quan trọng bậc nhất trong chiến lược sản phẩm mà các doanh nghiệp XBP phải hướng đến. Xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu XBP. Kế hoạch là cho tương lai. Vì vậy xây dựng kế hoạch để thực hiện trong kì kinh doanh doanh nghiệp phải tiến hành trong thời gian trước. Kế hoạch là một bảng biểu gồm tất cả các mục tiêu, chỉ tiêu cần đạt được và những công việc, nghiệp vụ cần và sẽ thực hiện. Người ta thường ví kế hoạch như một bảng “Lịch” thực hiện một công việc gì đó. Nói như vậy cũng có phần đúng nhưng chưa thỏa đáng trong kinh doanh nói chung và trong kinh doanh XBP xuất nhập khẩu nói riêng. Bởi lẽ kế hoạch là dự định cho tương lai. Mặc dù nó được xây dựng trên cơ sở khoa học nhất định đó là kinh nghiệm thực hiện trong thời gian trước và dự đoán xu thế phát triển trên cơ sở tiềm hiểu nghiên cứu thị trường. Thế nhưng thị trường không bao giờ tĩnh lặng và cũng có khi ẩn chữa những điểm “tĩnh” giả tạo. Do vậy dự đoán vẫn là dự đoán. Sự thay đổi luôn diễn ra cả theo chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực cho doanh nghiệp. Bởi vậy một kế hoạch tốt cho một chiến lược tốt là một kế hoạch cụ thể mà linh hoạt. Với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu XBP thì nó còn có ý nghĩa quan trọng bởi bởi phạm vi của thị trường là rất rộng lớn. Tính chất của thị trường rất phức tạp. Các doanh nghiệp dễ bắt gặp nhầm điểm đến của mình. Trong trường hợp này kinh nghiệm là yếu tố quan trọng. Nhưng kinh nghiệm sẽ không giúp được gì nếu sự biến động của thị trường là liên tục và quá lớn. Ví dụ năm 2001, sự kiện 11/9 xảy ra ở Mỹ. Thị trường biến động đột ngột và quá lớn. Từ nhu cầu sụt giảm, đến các yếu tố về anh ninh, giao thông...và các bạn hàng kinh doanh đều thay đổi theo chiều hướng không có lợi cho bất cứ một doanh nghiệp XBP xuất nhập khẩu nào phụ thuộc quá lớn vào thị trường khổng lồ này. Lúc này sự năng động lại là yếu tố hàng đầu để thay đổi kế hoach xuất nhập khẩu tránh nguy cơ mất thị trường, sụt giảm doanh số, thiệt hại ro rủi ro và có thể để biến nguy cơ thành thời cơ cho mình. Sự linh hoạt của kế hoạch cần là vì thế. Do vậy kế hoạch xuất nhập khẩu XBP càng cụ thể, cân đối, phù hợp với khả năng của doanh nghiệp, cụ thể với những tình huống biến động của thị trường thì tất nhiên sự năng động càng cao và hiệu quả càng đạt được ở mức độ mong muốn. Xây dựng kế hoạch XBP phải định lượng được rất nhiều yếu tố không chỉ về số lượng XBP, thời gian, doanh thu mà phải cụ thể các hình thức phi hiện vật như phương thức thanh toán, phương thức giao nhận, chính sách hậu mại, chiết khấu...đến cả việc tổ chức nhân sự. Nói chung kế hoạch xuất nhập khẩu XBP phải làm sáng tỏ những vấn đề: +Số lượng XBP xuất nhập khẩu là bao nhiêu? (bản, tờ, cuốn) +Thời gian xuất nhập khẩu là khi nào, trong bao lâu? +Khai thác XBP ở thị trường nào? Với nhà cung cấp nào? Bao nhiêu? +Giá cả từng loại XBP là bao nhiêu ? Chiết khấu cho khách hàng là bao nhiêu ? +Chính sách hậu mãi ra sao? Với những đối tượng nào? Mức? +Công tác tham gia xúc tiến tại hội chợ triển lãm (chuẩn bị) + Các chỉ tiêu cần đạt được cụ thể: doanh thu (trên từng thị trường, loại sản phẩm), chi phí, thuế ... + Lợi nhuận đạt được...?.... Có hai yếu tố khi xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu mà doanh nghiệp không thể bỏ qua đó là: khả năng của doanh nghiệp và sự biến động và các tham số của thị trường. Do đó tùy theo khả năng và mục tiêu của doanh nghiệp mà xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu như thế nào cho phù hợp và đạt được hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu XBP. Sau khi đã tiến hành lập kế họach xuất nhập khẩu, doanh nghiệp tổ chức thực hiện kế hoạch ấy. Việc thực hiện kế họach đã được định sẵn là không đơn giản. Vì trên thực tế không phải lúc nào cũng được dự báo chính xác trong kế hoạch. Hơn nữa doanh nghiệp phải tiến hành rất nhiều công việc cho những chỉ tiêu nhất định. Để thực hiện kế hoạch, doanh nghiệp phải chuẩn bị tốt những công tác sau: + Chuẩn bị nhân sự +Chuẩn bị tài chính + Chuẩn bị cơ sở vật chất kĩ thuật... Và thực hiện các hoạt động nghiệp vụ sau: +Tìm kiếm khách hàng (thực hiện giới thiệu, chào hàng, Marketing...); +Tìm kiếm và thực hiện khai thác nguồn hàng; +Kí kết các hợp đồng mua bán, hợp đồng giao nhận...; +Thực hiện các hoạt động xúc tiến... Trong quá trình thực hiện, doanh nghiệp vừa phải chú ý đến kế hoạch, bám sát kế hoạch nhưng lại phải năng động trước thực tế biến động của thị trường. Để có thể điều chỉnh và tham mưu nhằm hoàn thiện kế hoạch và thực hiện hiệu quả các chỉ tiêu đề ra. Các nguyên tắc mà khi thực hiện doanh nghiệp cần đảm bảo các nguyên tắc: +Đảm bảo bám sát kế hoạch; + Thực hiện nhanh nhạy, năng động, phản ứng tốt với thị trường; +Tổ chức thực hiện các hợp đồng, cam kết một cách chính xác, đảm bảo uy tín cho doanh nghiệp; +Đảm bảo hiệu quả kinh tế, mục tiêu của doanh nghiệp; + Vừa thực hiện vừa tìm kiếm, vừa tham mưa cho các bộ phận nghiệp vụ khác ... Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu XBP. Trong bất kì hoạt động kinh doanh nói chung nào, công tác dánh giá cũng không thể thiếu được. Trước kia người ta thực hiện công việc đánh giá cũng theo kế hoạch. Đánh giá chỉ là đánh giá trên danh nghĩa. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường ẩn chứa sự biến động lớn của các yếu tố kinh tế, hoạt động đánh giá mới thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Đánh giá là xem xét nhìn nhận và tỏ thái độ. Trong hoạt động kinh tế nói chung, hoạt đông xuất nhập khẩu XBP nói riêng đánh giá chính là việc nghiên cứu và so sánh giữa các chỉ tiêu kinh tế, yếu tố kinh tế, hiệu quả các nghiệp vụ thực hiện trước và sau một chu kì kinh doanh nhất định để đưa ra được những quyết định chính xác và cụ thể cho hoạt động kinh doanh thời gian tới. Đánh giá việc thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu của doanh nghiệp XBP là việc so sánh các chỉ tiêu trong bản kế hoạch với việc thực tế đã thực hiện. Để biết được mức hoàn thành kế hoạch nhiệm vụ như thế nào? Tìm ra nguyên nhân và giải pháp (kể cả các nguyên nhân tích cực lẫn tiêu cực). Tuy nhiên nêu doanh nghiệp XBP chỉ coi việc đánh giá là công việc sau khi thực hiện kế hoạch thì sẽ không tránh khỏi những thiếu xót. Quá trình kinh doanh là một quãng thời gian dài, các khâu nghiệp vụ đan xen nhau ảnh hưởng đến nhau và cùng chịu tác động của các nhân tố thị trường có thể là cả các nhân tố chủ quan). Mà trên thực tế thì các nhân tố này luôn luôn biến động ...Do vậy công việc đánh giá phải thực hiện thường xuyên liên tục. Làm được như vậy doanh nghiệp sẽ kịp thời tìm hiểu cụ thể việc thực hiện từng chỉ tiêu để có những biện pháp giải quyết hoặc thúc đẩy. Thực hiện được từng chỉ tiêu sẽ là những vấn đề mấu chốt cho thành công của thực hiện kế hoạch mà doanh nghiệp đã đề ra. Ngoài ra các doanh nghiệp XBP phải quan tâm đến các yếu tố khách quan lẫn chủ quan tác động đến các chỉ tiêu, nghiệp vụ của mình. Đó là biện pháp phòng ngừa vững chắc cho doanh nghiệp. Ở mức độ chung nhất công tác đánh giá phải chỉ ra được mức độ hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch. Tìm nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và đưa ra được những giải pháp giải quyết. Ở mức độ cụ thể, doanh nghiệp cần phải tiến hành đánh giá trong quá trình thực hiện các chỉ tiêu và đưa ra kết luận: về tính hiệu quả của việc đưa ra các giải pháp. Ngoài ra để tránh sơ cứng trong công tác đánh giá, thì doanh nghiệp cần phải linh hoạt hơn. Ở chỗ không chỉ tiến hành đánh giá, chỉ ra các nguyên nhân mà còn phải thực hiện việc đánh giá các nguyên nhân ấy. Để biết đâu là sự tác động trực tiếp nhất, lớn nhất và cần phải tập trung giải quyết. Đánh giá cũng là một khâu trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là điều kiện phi vật chất cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được ổn định và hiệu quả hơn, tránh những sai lầm và rủi ro đáng tiếc trên thị trường. Vai trò của hoạt động kinh doanh XBP xuất nhập khẩu. Vai trò của hoạt động xuất khẩu XBP. Hoạt động xuất khẩu XBP có vai trò to lớn không chỉ cho bản thân những doanh nghiệp thực hiện kinh doanh mà nó còn có vai trò quan trọng với xã hội, với đất nước. +Với xã hội. Hoạt động xuất khẩu xuất bản phẩm góp phần thực hiện tuyên truyền các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta tới bạn bè Quốc tế. Điều đó sẽ làm tăng cường sự hiểu biết của các nước về những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong những năm qua. Đặc biệt là về những chính sách, đường lối đổi mới mở cửa của nước ta. Nhằm gợi mở những cơ hội đầu tư, quan hệ và tạo sức hút đối với bạn bè Quốc tế. Hơn nữa hoạt động xuất khẩu XBP là việc thực hiện phổ biến XBP của nước ta đến các nước trên thế giới. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc các nhà xuất khẩu XBP thực hiện phổ biến những thành tựu về văn hóa xã hội, những thành tựu trong kinh tế, giới thiệu với bạn bè năm châu về đất nước con người Việt Nam...nhằm tô điểm cho hình ảnh của Việt Nam trong lòng bạn bè trên thế giới. Nhằm thực hiện mục đích giao lưu văn hóa (ở tất cả các lĩnh vực). Góp phần tạo nên sức hút mạnh mẽ với Quốc tế. Thúc đẩy quá trình phát triển chung của xã hội... + Với bản thân doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh. Trước hết hoạt động xuất khẩu XBP giúp các doanh nghiệp nâng cao được vị thế, uy tín và hình ảnh của mình. Vì không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia vào hoạt động này, cho dù chính sách của Nhà nước là bình đẳng giữa các đối tượng kinh tế. Thứ hai, hoạt động xuất khẩu XBP sẽ làm tăng doanh số cho các doanh nghiệp kinh doanh. Vì nhu cầu trong nước sẽ dần bão hòa hoặc chính hàng hóa XBP không tìm được chỗ đứng trên thị trường. Khi đó doanh nghiệp cần phải tìm một thị trường mới để chinh phục. Đó chính là thị trường Quốc tế. Chinh phục được thị trường này sẽ làm cho doanh nghiệp mở rộng được quy mô thị trường, tăng lượng hàng bán ra. Và điều đó đồng nghĩa với việc tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho mình. Hơn nữa đây cũng là cách doanh nghiệp tăng hiệu quả theo quy mô kinh doanh của mình. Thứ ba. Hoạt động xuất khẩu XBP sẽ góp phần làm phân tán rủi ro cho doanh nghiệp. Vì thời cơ trên nhiề thị trường sẽ nhiều hơn ở một phạm vi thị trường hẹp. Điều đó lại càng đúng hơn với những hàng hóa XBP đã bị “ế” ( hoặc do chất lượng kém, hoặc do cạnh tranh quá cao, hoặc do nội dung sản phẩm chưa thích hợp với người tiêu dùng trong nước...) vì khi đó ế hàng sẽ trở thành thời cơ khi rủi ro bằng không. Vai trò của hoạt động nhập khẩu XBP + Với xã hội. Hoạt động nhập khẩu XBP đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp thu các tri trức, các thành tựu KHKT và công nhệ tiên tiến trên thế giới vào trong nước. Nhằm đáp ứng nhu cầu cho công cuộc CNH-HĐH đất nước. Mà trực tiếp nó đáp ứng nhu cầu tiếp thu, học tập và ứng dụng các thành tựu ấy trong các ngành nghề cụ thể. Nước ta phát triển sau so với thế giới hàng chục năm, do vậy nhu cầu về sự cải cách KHKT, đổi mới công nghệ là cấp bách và diễn ra ở mọi ngành kinh tế. Khi mà thành tựu KHKT trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu, khi mà sự phát triển như vũ bão của KHKT và công nghệ trên thế giới đang diễn ra thì mong muốn được tiếp nhận những luồng tri thức mới, thành tựu mới trên thế giới là đòi hỏi chính đáng. Mà cách tiếp cận đơn giản nhất mà cũng rất hiệu quả là thông qua XBP nhập khẩu. Ngoài ra hoạt động nhập khẩu XBP còn đáp ứng nhu cầu đông đảo của công chúng trong nước. Bởi lẽ nền kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập của người dân cũng tăng cao... nên nhu cầu chung càng hướng tới sự hoàn thiện. Trong khi các XBP trong nước không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu ấy thì nảy sinh sự đòi hởi các XBP thay thế có nội dung phong phú hơn, chất lượng hơn... Đó chính là các XBP nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu XBP còn góp phần thúc đẩy quá trình giao lưu văn hóa giữa nước ta với các nước trên thế giới. Nó cùng với hoạt động xuất khẩu XBP tác động lớn đến phát mối quan hệ, sự giao thoa giữa các nền văn hoá. + Với doanh nghiệp kinh doanh. Nó nâng cao vị thế của các doanh nghiệp thực hiện trên thị trường. Từ đó tăng sức cạnh tranh của chính bản thân doanh nghiệp và hàng hóa mà doanh nghiệp kinh doanh. Nó tạo ra sự cạnh tranh giữa các XBP trong nước và XBP nhập khẩu. Từ đó thúc đẩy sự hoàn thiện cho các XBP trong nước, cho các doanh nghiệp kinh doanh nội địa và cho chính thị trường XBP quốc gia. Tham gia hoạt động nhập khẩu, các doanh nghiệp có thể học hỏi được những kinh nghiệm, những thành công trong kinh doanh của các doanh nghiệp lớn trên thế giới. Từ đó hoàn thiện mình hơn và tạo được phong cách kinh doanh mới theo xu hướng hội nhập trong kinh doanh thương mại quốc tế. Đặc biệt các doanh nghiệp còn có thể khai thác được những lợi thế, những chính sách ưu đãi của Nhà nước cho hoạt động nhập khẩu XBP (ví dụ thuế nhập giảm 50%, hỗ trợ cước phí vận chuyển..) để tạo ra thuận lợi riêng cho mình. + Vai trò của XNK XBP là rất lớn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, các doanh nghiệp, Nhà nước, các cơ quan chuyên trách luôn cần chú ý đến công tác quản lý nội dung của XBP và sự cạnh tranh của các doanh nghiệp. Để tránh được 3 nguy cơ trong hoạt động này: nguy cơ XBP xấu được mang về Việt Nam; nguy cơ XBP có giá trị văn hóa tinh thần quý báu của quốc gia bị mất và nguy cơ có sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp kinh doanh. Chương II. Thực trạng kinh doanh sách báo xuất nhập khẩu của công ty Xunhasaba giai đoạn 2001 -2005 Vài nét về công ty Xunhasaba. Quá trình xây dựng và phát triển. Xunhasaba là một doanh nghiệp nhà nước, có bề dầy kinh nghiệm và thành tích trong công tác xuất nhập khẩu sách báo của đất nước. Cho đến nay công ty đã trải qua một chiều dài lịch sử gần 50 năm xây dựng và phát triển. Ngày 18/04/1957, Bộ văn hoá ra quyết định số 28-VH/QĐ thành lập sở Xuất nhập khẩu sách báo trung ương với tên dao dịch quốc tế là Xunhasaba. Kể từ đó cho đến nay công ty đã trải qua các giai đoạn phát triển như sau: +Giai đoạn 1957-1978. Đây là giai đoạn đầu xây dựng công ty. Bối cảnh đất nước còn đang có chiến tranh, công ty đã phải gặp vô vàn khó khăn. Nhiệm vụ chính của công ty là phục vụ tuyên truyền đối ngoại thông qua các hợp đồng mua bán, trao đổi sách báo. Nhiệm vụ kinh doanh ngoại thương thu ngoại tệ cho đất nước vẫn chỉ trên danh nghĩa . + Giai đoạn 1978-1983. Ngày 09/10/1978, Bộ văn hoá thông tin ra quyết định số 180 VHTT/QĐ sáp nhập công ty Xuất nhập khẩu sách báo Việt Nam và quốc doanh phát hành sách thành tổng công ty phát hành sách và xuất nhập khẩu sách báo. + Giai đoạn 1983 -1997. Ngày 24/05/1982, Bộ văn hoá thông tin ra quyết định số 61 VHTT/QĐ ngày 24/05/1983 tách công ty Xuất nhập khẩu sách báo ra khỏi Tổng công ty phát hành sách. Giai đoạn này đất nước đã tiến hành đổi mới (vào năm 1986) do vậy chức năng, nhiệm vụ, ngành hàng của công ty đã được bổ sung. Phạm vi thị trường, khách hàng ...ngày càng mở rộng. Sau năm 1986 dưới sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, công ty Xunhasaba đã mạnh dạn tiến hành hạch toán kinh tế. Cải tiến toàn diện công ty, mở rộng thị trường sang các khu vực khác. Mặc dù còn có sai sót nhưng tập thể lãnh đạo, công nhân viên công ty đã nỗ lực khắc phục tốt và hoàn thành nhiệm vụ của mình. +Giai đoạn 1998-2005. Đất nước chuyển mình theo xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Cơ hội và thách thức đã và đang đặt ra những câu hỏi cho công ty. Nắm bắt thời cơ tự hoàn thiện bản thân, công ty đã tăng cường và phát triển khả năng thực hiện các nhiệm vụ của mình. Nghiệp vụ kinh doanh là được công ty xác định là nhiệm vụ hàng đầu. Xu hướng đa dạng hoá thị trường, mặt hàng và các nghiệp vụ kĩ năng luôn là định hướng cho công ty. Các thị trường Bắc Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản , Đức… được khai phá thêm. Hiệu quả xã hội của công ty mang lại là không thể phủ nhận. Trong thời gian tới, Xunhasaba Sa Ba sẽ tiếp tục không ngừng nâng cao tầm vóc của mình để thực hiện thành công hai nhiệm vụ quan trọng đó là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Tổ chức bộ máy công ty. Trụ sở chính của công ty nằm tại 32B Hai Bà Trưng. Toàn bộ công ty gồm có hơn 100 nhân sự làm việc ở các phòng như sau: CÔNG TY Phòng XK báo tạp chí Phòng XK sách Phòng NK báo tạp chí Phòng NK sách Phòng tài vụ Phòng hành chính tổng hợp kho cửa hàng chi nhánh tại TP HCM Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty được trang bị theo hướng tinh giản. Các bộ phận trong công ty luôn hoạt động linh hoạt, tương trợ và giúp đỡ nhau vì mục đích chung. Chi nhánh công ty ở trong TP.HCM cũng đựơc cơ cấu với bộ phận như vậy nhưng với quy mô nhỏ hơn vì công ty mới thành lập chi nhánh . Trang web giao dịch của công ty là : www.Xunhasaba.com.vn Chức năng và nhiệm vụ của Công ty. Chức năng . Xunhasaba là doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Trong bối cảnh chung của đất nước khi mà yêu cầu mở rộng mối quan hệ kinh tế quốc tế với mục đích tiếp thu công nghệ khoa học kĩ thuật, thu hút vốn với mục đích phục vụ nền kinh tế vốn còn lạc hậu nước nhà; Xunhasaba đang từng bước mở rộng phạm vi hoạt động của mình cũng nhằm mục đích đó. Chức năng xã hội của công ty Xunhasaba là “tuyên truyền và thúc đẩy giao lưu văn hoá giữa nước ta với nước ngoài thông qua hoạt động kinh doanh của mình nhằm góp phần nâng cao kiến thức của nhân dân và tuyên truyền giới thiệu nước ta với nước ngoài theo đường lối đối nội đối ngoại của Đảng và nhà nước” Chức năng kinh tế của Xunhasaba là lưu thông hàng hoá xuất bản phẩm giữa nước ta với nước ngoài, nhằm thu hút ngoại tệ. Yêu cầu công ty phải hoạch toán kinh tế độc lập, phải chú trọng tới giá trị và giá trị sử dụng của xuất bản phẩm. Việc thoả mãn nhu cầu của người mua chỉ được thực hiện bằng giá trị sử dụng của hàng hoá. Hai chức năng trên có mối quan hệ biện chứng với nhau đòi hỏi Công ty phải làm tốt cả hai chức năng của mình. Nhiệm vụ Căn cứ vào chức năng trên, Công ty Xunhasaba luôn xác định nhiệm vụ của mình: +Xây dựng kế hoạch ngắn hạn - kế hoạch dài hạn về xuất nhập khẩu xuất bản phẩm theo quy định của nhà nước; +Tổ chức và hoàn thành các kế hoạch ấy theo chế độ hoạch toán doanh thu độc lập; +Thực hiện liên doanh liên kết với các nhà xuất bản, với các cơ quan nhà nước, các cơ quan xuất nhập khẩu sách báo trong và ngoài nước nhằm tăng cường, mở rộng phạm vi xuất nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu của thị trường; +Tham gia hội chợ, triển lãm sách nhằm giới thiệu chào hàng, mở rộng công tác xuất nhập khẩu với các đối tác; +Quản lý tốt cán bộ, nhân viên, tài sản của công ty theo chế độ chính sách chung của nhà nước, Bộ chủ quản; Trong bối cảnh hiện nay, thì việc xác định nhiệm vụ của công ty chỉ tương đối. Nó phải linh hoạt theo sự biến động của các yếu tố xã hội . II. Tình hình kinh doanh sách báo sách xuất nhập khẩu của Công ty Xunhasaba trong giai đoạn 2001-2005. Nghiên cứu nhu cầu thị trường về sách báo xuất nhập khẩu . Nghiên cứu nhu cầu của thị trường là yêu cầu cấp thiết, liên tục đối với công ty. Tìm ra được nhu cầu của khách hàng là tìm ra được mục tiêu cũng như giải pháp của mình. Tuy vậy để có trong tay những thông số cơ bản liên quan đến nhu cầu của khách hàng ở trong nước đã khó, thì ở phạm vi thị trường quốc tế lại khó vô cùng. Nó đòi hỏi Xunhasaba phải tìm tòi để có những biện pháp cụ thể phù hợp mới mong thu được hiệu quả. Nghiên cứu nhu cầu sách báo Việt Nam ở thị trường quốc tế. Trên thực tế thì thị trường quốc tế rất phức tạp. Các yếu tố của thị trường không những không đồng nhất mà còn luôn biến động mạnh. Nếu các doanh nghiệp không tiến hành nghiên cứu kĩ lưỡng thì rất dễ gặp phải rủi ro khi tham gia kinh doanh. Trong 5 năm trở lại đây, hoạt động nghiên cứu nhu cầu của thị trường quốc tế của Xunhasaba đã có nhiều tiến bộ. Dựa trên kinh nghiệm có sẵn, cộng với sự năng động linh hoạt của lực lượng đông đảo các cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn cao, Công ty đã luôn chủ động trong việc thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. + Với thị trường quốc tế, việc cử các đoàn đi khảo sát là một yêu cầu thực tế nhất. Việc lựa chọn những thị trường trọng điểm, mục tiêu để khảo sát luôn được Xunhasaba thực hiện trong những năm gần đây. Ý thức rõ về ý nghĩa của việc nắm bắt nhu cầu thị trường, công ty thường xuyên tổ chức cho các đoàn gồm những cán bộ chuyên môn của mình đi khảo sát ở các thị trường các nước. Ví du: năm 2001 công ty cử hai đoàn đi khảo sát tại thị trường Mỹ và Anh. Năm 2002 có ba đoàn đi thăm dò thị trường Bắc Âu, Nhật Bản…. Năm 2004 Xunhasaba tiếp tục cử ba đoàn đi các thị trường Pháp và Bắc Kinh (nhân dịp Thư điếm Trung Quốc kỉ niệm lần 55 ngày thành lập), Vân Nam (TQ). Năm 2005 vừa qua cũng có một đoàn đi dự hội thảo và khảo sát tại Băng Kốc (Thái Lan) và một đoàn đi Úc. Kinh phí tổ chức cho các đoàn đi khảo sát là tương đối lớn. Mục đích của các chuyến đi là tìm kiếm tiềm năng để xây dựng, mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác và các cơ hội kinh doanh mới. Ngoài ra qua mỗi chuyến đi công ty có thể mở rộng được tầm mắt, học hỏi được nhiều thực tế hoạt động của ngành ở các nước phát triển… Ngoài việc cử các đoàn đi khảo sát, việc nghiên cứu nhu cầu ở thị trường quốc tế thông qua các hội trợ triển lãm XBP ở nước ngoài cũng được công ty tiến hành thường xuyên. Trung bình mỗi năm Xunhasaba luôn tham gia từ 2 đến 4 hội chợ triển lãm sách quốc tế, như hội chợ sách quốc tế: Tokyo, Matxcova, hội chợ sách ở Seoul, hội chợ sách quốc tế ở FranFurk (Đức), hội chợ sách Bắc Kinh (Trung Quốc)... Trong thời gian diễn ra hội chợ ngoài các hoạt động xúc tiến quảng cáo, công ty cũng không ngừng tìm kiếm đối tác, bạn hàng làm ăn. Đó sẽ là lực lượng tiêu thụ lớn cho công ty… Theo đánh giá của các chuyên gia thì nhu cầu về XBP (sách, báo) của Việt Nam ở thị trường quốc tế là tương đối lớn. Nó không chỉ đến từ lực lượng Việt kiều, mà còn có xu hướng lan nhanh đến các tầng lớp dân cư bản địa. Kết quả của các cuộc khảo sát do công ty tiến hành cũng chỉ ra con số đó là không nhỏ (trong 5 năm qua). + Theo khu vực thị trường: theo ước tính mỗi năm cầu hàng hóa sách báo Việt nam vào khoảng 50.000 bản sách, 160.000 đến 170.000 bản tạp chí, báo. Trong đó tỉ lệ cầu của khu vực thị trường như sau: Sơ đồ 1: Cơ cấu cầu sách báo Việt Nam phân theo khu vực thị trường, năm 2003. Tất nhiên con số đó chỉ là tương đối vì lượng cầu luôn biến đổi. Xu hướng tăng mạnh lượng cầu ở các châu Mỹ (cụ thể là bắc Mỹ), châu Âu (cụ thể là bắc Âu) và châu Úc. Cầu sách báo của nước ta ở thị trường châu Á._.g của Đảng cũng chỉ rõ, phải tăng cường mở rộng hợp tác giao lưu Văn hóa giữa nước ta với các nước trên thế giới. Nhằm tiếp thu những tinh hoa văn hóa, những thành tựu KHKT – CN của các nước tiên tiến trên thế giới để làm giàu có hơn nền tư tưởng văn hóa của nước nhà. Đồng thời thực hiện việc giới thiệu, phổ biến những giá trị văn hóa, những thành tựu văn hóa của nước ta với bạn bè năm Châu, góp phần tăng cường vị thế của Viết Nam trên trường Quốc tế. Bám sát chủ trương đó, Công ty Xunhasaba luôn giữ vững tư tưởng, phấn đấu thực hiện tốt hoạt động kinh doanh của mình. Dựa trên những điều kiện thực tế, năng lực của Công ty, Xunhasaba đã đề ra phương hướng trong thời gian tới cho chiến lược phát triển của mình: + Trước mắt giữ vững nhịp độ phát triển của năm 2005 đẩy nhanh tốc độ ấy vào trong năm 2006 và các năm tiếp theo. Năm 2006 Công ty định hướng tốc độ tăng xuất nhập khẩu khoảng 7-8%. + Cần cơ cấu cân đối hơn lượng nhập và xuất sách báo. Thu hẹp khoảng chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu xuống từ 3-5 %. + Trong thời gian tới , Công ty sẽ tăng cường mở rộng hoạt động kinh doanh trên hầu hết các phạm vi: Mở rộng phạm vi thị trường. Mở rộng phạm vi ngành hàng. Đặc biệt nghiên cứu lập kế hoạch chuẩn bị cho việc kinh doanh những mặt hàng mới như sách điện tử, các đĩa nén... Mở rộng hình thức khai thác và kinh doanh đặc biệt là hình thức liên kết, hoàn thiện các hình thức kinh doanh tiên tiến hiện nay như qua mạng, qua dịch vụ... Đề xuất với Nhà nước về việc Công ty tổ chức xuất bản phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình và của các nhà xuất nhập khẩu XBP... Tất nhiên để làm được những định hướng đó Công ty cần phải làm rất nhiều công việc và phải có nhiều yếu tố phụ giúp. Nhưng rõ ràng Công ty đang đi đúng hướng, đúng xu thế phát triển của ngành và sự phát triển chung của Đất nước. Các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh sách báo xuất nhập khẩu của Công ty Xunhasaba trong thời gian tới. 1. Các giải pháp ngắn hạn. Nâng cao hiệu quả các khâu nghiệp vụ. Để tăng cường hiệu quả kinh doanh, đặc biệt là việc thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh cụ thể với những chỉ tiêu nhất định, Công ty đã đề ra nhiều biện pháp kinh doanh trong kế hoạch thực hiện năm 2006. + Tích cực chủ động tìm kiếm thị trường trong nước, có kế hoạch tiếp thị cụ thể cho từng loại đối tượng khách hàng theo các chủng loại nhu cầu hàng hoá mà khách hàng yêu cầu; + Nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc tham gia các hội chợ sách quốc tế, đi khai thác hàng hoá ở nước ngoài; + Mở rộng việc tìm kiếm các nhà cung cấp mới, đặc biệt với sách, báo chí chuyên ngành, cơ sở dữ liệu chuyên ngành…; + Tổ chức và phối hợp với các nhà cung cấp nước ngoài tổ chức các hội thảo về từng lĩnh vực mà khác hàng trong nước quan tâm; + Xây dựng các chương trình tiếp thị, quảng cáo, triển lãm – bán hàng trong các dịp có các ngày lễ và các sự kiện quan trọng trong năm 2006; + Củng cố, hoàn thiện cá kỹ năng thực hiện các đơn đặt, hợp đồng theo hướng nhanh hơn, chính xác hơn theo chuẩn quốc tế; + Xây dựng kế hoạch phục vụ khách hàng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay; + Mở rộng việc kinh doanh trên mạng thương mại điện tử, tăng tốc độ đường truyền, nâng cấp trang web của công ty; + Ngoài các mặt hàng chính, dịch vụ chính hiện nay cần khẩn trương tìm kiếm mặt hàng, dịch vụ mới mà pháp luột không cấm, tham gia vào hoạt động xuất bản, quảng cáo…; +Có kế hoạch đối phó với các đối thủ cạnh tranh một cách chi tiết; +Hiện đại hoá các khâu kinh doanh thông qua ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin hiện đại. Tổ chức hoàn thiện bộ máy nhân lực: + Công ty có kế hoạch rà soát, điều chỉnh lại tổ chức bộ máy các phòng, bộ phận để đảm bảo tính cơ động trong kinh doanh, chịu trách nhiệm cao nhất về hiệu quả kinh doanh, chủ động trong tác nghiệp, giảm tối đa nhân lực ở các khâu không trực tiếp kinh doanh; + Tiếp tục đào tạo lại, nâng cao các kĩ năng: ngoại ngữ, ngoại thương, tin học, khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường; + Tìm ra giải pháp sắp xếp cho những nhân lực không đáp ứng được các yêu cầu kinh doanh mới. Đổi mới cơ chế phân phối thu nhập : + Tìm hiểu kinh nghiệm, mô hình phân phối thu nhập của các đơn vị tiên tiến để xây dựng lại hệ thống phân phối thu nhập kích thích đựoc con người, tập thể lao động giỏi, chấp hàng kỷ luật lao động tốt, đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh; + Xây dựng hệ thống khen thưởng kịp thời cho các sáng kiến mang lại hiệu qủa kinh doanh, kỉ luật với các vi phạm; khắc phục tình trạng bình quan chủ nghĩa, cào bằng thu nhập. Tổ chức tốt bộ máy quản trị. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý kinh doanh theo hướng tinh giản gọn nhẹ, tránh chồng chéo, ít khâu trung gian, bảo đảm khả năng huy động toàn bộ tiềm lực của bộ máy trong thời điểm cần thiết của quá trình hoạt động kinh doanh. Đặc biệt, sớm thành lập bộ phận Marketing, bộ phận ứng dụng công nhệ tin học, xây dựng và ban hành quy chế quản lý và hoạt động của bộ phận này với mục đích có tác dụng hỗ trợ cao nhất cho hoạt động kinh doanh. Các giải pháp dài hạn- chiến lược kinh doanh của Công ty đến năm 2010. Xây dựng thương hiệu. Đây là một mục tiêu rất quan trọng của Công ty. Thương hiệu chính là bộ mặt của Công ty. Nó hiện diện của sự có mặt của bất kì một doanh nghiệp kinh doanh nào đó trên thị trường. Xây dựng thương hiệu có ý nghĩa to lớn với Xunhasaba khi mà tình hình cạnh tranh trên thị trường đang trở lên ngày càng gay gắt hơn, khốc liệt hơn. Mục tiêu trong kế hoạch này của Công ty là trong 5 năm tới Xunhasaba phải trở thành một thương hiệu mạnh. Nó được đo bằng lòng tin của khách hàng với Công ty, bằng thị phần lớn mà Công ty chiếm được trên thị trường. Để làm được điều đó lãnh đạo Công ty đã đề ra những biện pháp cơ bản : + Tăng cường xúc tiến quảng cáo bằng nhiều hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào đối tượng khác hàng và từng loại hàng hoá XBP. + Tổ chức các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá kinh doanh. Đặc biệt là các biện pháp về khai thác nguồn hàng. Trong đó hướng khai thác bằng hình thức liên kết được quân tâm hàng đầu. + Thực hiện có uy tín trong các khâu nghiệp vụ kinh doanh với các bạn hàng, khách hàng. Đó là các khâu nghiệp vụ trong giao dịch, kí kết hợp đồng, thanh toán và các dịch vụ hậu mãi với khách hàng. …. Tăng cường hiệu quả kinh doanh của Công ty. Đây là một yêu cầu cấp thiết trong hoạt động của Xunhasaba. Trong thời gian qua nói chung hiệu quả kinh doanh của Công ty đạt đựoc chưa cao. Các khâu nghiệp vụ luôn được công ty thực hiện đầy đủ nhưng kết quả mang lại chưa xứng tầm với sự đàu tư vào đó. Tăng cường hiệu quả kinh doanh là tăng doanh số, tăng lợi nhuận trên những đơn vị đầu tư chi phí thấp nhất. Để làm đựơc điều đó Công ty đã đề ra kế hoạc thực hiện những biện pháp sau: + Lên kế hoạch chính xác các công tác của Công ty trong những kì kinh doanh cụ thể. Kế hoạch về chi phí, về nhân sự, về phương tiện, công cụ, cơ sở vật chất kĩ thuật về thị trường và các biện pháp thực hiện. Đặc biệt kế hoạch nhân sự phải chính xác mới phát huy được hiệu quả chuyên môn. Có thể trong thời gian tới Công ty sẽ thực hiện kế hoạch khoán doanh thu trong các khâu nghiệp vụ như hội chợ, quảng cáo… + Thực hiện đầu tư lớn vào các khẩu, nghiệp vụ, hoặc các mục tiêu trọng tâm. Ví dụ những mặt hàng trọng tâm, những thị trường trọng điểm, mục tiêu…để tăng thị phần trên thị trường. Tuyệt đối không thể thử nghiệm ở những thị trường hoàn toàn mới, hoặc những khâu, biện pháp mà công ty chưa thực hiện bao giờ. + Tăng cường hiệu quả ở từng khâu nghiệp vụ cụ thể. Như khâu nghiên cứu thị trường cần có một kế hoạch chính xác và cụ thể trước khi thực hiện. Và trong thời gian tới Công ty phải liên hệ với những tổ chức xúc tiến thương mại (có thể trong nước hoặc của nứơc ngoài) để thực hiện tốt nghiệp vụ này. Hoặc trong kế hoạch khai thác thì tránh xác định nhầm nhu cầu của thị trường để rồi nhập lại những mặt hàng không được gọi là bán chạy. Như thế thì lượng tồn kho sẽ rất lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của Công ty… + Thực hiện những biện pháp hỗ trợ nếu có thể. Ví dụ như thực hiện linh hoạt trong thanh toán vớ các nhà cung cấp để lợi dụng được nguồn vốn. Kêu gọi sự hỗ trợ của các tổ chức xúc tiến, hỗ trợ thương mại…thực hiện tốt khâu quan hệ với khách hàng để thực hiện đựoc khâu thu hồi nợ của khách hàng, nhằm tích tụ nguồn lực về vốn… + Đặc là kế hoạch đào tạo nhân sự trong thời gian tới nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của đối ngũ lao động. Nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực trong năng suất lao động. + Định hướng tổng quát trong thời gian tới là: - Tốc độ tăng trưởng bình quân doanh thu đạt từ 7 đến 8 % mỗi năm. - Có sự biến chuyển về cơ cấu kim ngạch giữa xuất và nhập khẩu XBP. Và tăng cơ cấu mặt hàng sách trong cán cân xuất nhập khẩu. - Thị phần doanh số trên thị truờng của Công ty phải luôn dẫn đầu… Mở rộng thị trường. Định hướng mở rộng thị trường của Công ty hoàn toàn đúng đắn. Khi mà hoạt động kinh doanh của Công ty đã vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt của các đối thủ cạnh tranh khác ở những thị trường quen thuộc, thì việc mở rộng thị trường kinh doanh là một hướng đi đúng để khai thác những cơ hội làm ăn mới, những thuận lợi mới… Kế hoạch mở rộng thị trường của Xunhasaba luôn được hiểu linh hoạt ở hai phạm vi: + Mở rộng thị trường theo phạm vi lãnh thổ. Đó là việc tìm đến những thị trường mới hoàn toàn so với các thị trường cũ. Hiện nay thị trường chính của Công ty là Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Vinh (với phạm vi trong nước) và thị trường Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc, Hàn Quốc, Úc…Việc mở rộng thị trường trong thời gian tới, Công ty sẽ hướng tới những thị trường đầy tiềm năng đó là Singapo, Niugilan Bắc Âu, Canada... + Mở rộng thị trường theo phạm vi khách hàng. Việc thực hiện theo hướng này giúp công ty sẽ chiếm lĩnh được thị phần lớn ngay ở thị trường cũ. Theo hướng đó Công ty sẽ tập trung vào đối tượng là Việt kiều và các trung tâm nghiên cứu văn hoá, các trường đại học, các thư viện…các nước. Trong phạm vi quốc gia thì mở rộng thị thường theo hướng này là đối tượng sinh viên và các doanh nghiệp liên doanh, hoặc của nước ngoài tại Việt Nam. Trước mắt hai nhóm khách hàng này chưa chiếm tỉ trọng doanh thu là bao nhiêu nhưng trong thời gian tới thì đây mới chính là lượng khách hàng đáng kể đến với sách báo ngoại văn. III. Một số giải pháp đề xuất nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Công ty Xunhasaba trong thời gian tới. Một số kiến nghị với Nhà nước. Trong kinh doanh XBP xuất nhập khẩu vai trò của Nhà nước là hết sức to lớn. Nó giúp doanh nghiệp có được cơ hội kinh doanh trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, thông qua pháp luật bảo đảm sự công bằng trong kinh doanh. Về mặt nào đó, vai trò của Nhà nước là điều kiện cần cho hoạt động kinh doanh này. Sự quan tâm, các chính sách pháp luật, các chính sách hỗ trợ... luôn được các doanh nghiệp hoan nghênh. Vấn đề quản lý của Nhà nước. Cạnh tranh là một trong những quy luật đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Song cạnh tranh lành mạnh trong bối cảnh ngày nay thì không dễ dàng chút nào. Với một doanh nghiệp như Xunhasaba thì chỉ cần một cuốn sách ngoại văn có nội dung xấu thì nó sẽ xóa bỏ cả một quá trình kinh doanh tốt. Ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của doanh nghiệp. Hơn nữa nhu cầu về sách báo ngoại văn trong nước ngày càng tăng cao đã khiến cho một số tổ chức, công ty trong nước lao vào kinh doanh trong lĩnh vực này gây ra sự rối loạn trong trên thị trường và trong Quản lý nhà nước và ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của Doanh ngiệp. Vấn đề quản lý Nhà nước để đảm bảo cho: + Sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường XBP xuất nhập khẩu; + Đảm bảo sự trong sạch của các mặt hàng sách báo trên trên thị trường. Vì nếu còn để tình trạng sách báo nhập lậu vẫn còn diễn ra thì nó sẽ gây nguy hại cho xã hội (vì chất lượng nội dung không đảm bảo, có thể là xấu, phản động) mà trực tiếp là ảnh tới Công ty. Để tăng cường được vai trò quản lý của mình, Nhà nước cần làm những việc sau: + Xây dựng, hoàn thiện các luật, văn bản luật, các quy định...về hoạt động kinh doanh XBP xuất nhập khẩu để đảm bảo hành lang chế tài cho các doanh nghiệp kinh doanh thực hiện hoạt động của mình một cách có cơ sở tránh vi phạm và được ổn định lâu dài; + Tăng cường tổ chức tốt hoạt động thanh tra, giám sát với lĩnh vực kinh doanh này. Cụ thể là kiểm tra nội dung XBP, kiểm tra nguồn gốc XBP, kiểm tra việc thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ cũng như nghĩa vụ thực hiện của các doanh nghiệp kinh doanh...Điều đó là để tạo ra sự công bằng trong sân chơi chung cho bản thân các doanh nghiệp, trong đó có Xunhasaba. + Tinh giản, đơn giản hóa các thủ tục rườm rà, gây mất thời gian và phiền nhiễu của nhiều văn bản luật, nhiều quy định. Tạo sự thông thoáng trong các thủ tục đăng kí xuất nhập... Nhà nước cần tăng cường sự hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty. Nhà nước thực hiện vai trò này trên các khía cạnh. Một là Nhà nước thực hiện hỗ trợ với cước phí xuất khẩu cho Công ty. Vì hoạt động xuất khẩu sách báo ra nước ngoài phục vụ công tác đối ngoại cần được tăng cường về số lượng. Hai là Nhà nước hỗ trợ việc tham gia xúc tiến tại các hội chợ, triển lãm của Công ty. Đó là hỗ trợ chi phí cho gian hàng, chi phí cho vận chuyển...Các con số này ít nhất phải từ 50% kinh phí mà công ty phải chi trả. Ba là Nhà nước thực hiện áp dụng mức thuế ưu đãi hơn với hoạt nhập khẩu sách báo. Vì điều này nó sẽ có ảnh hưởng lớn đến giá cả của hàng hóa. Giảm thuế tức là giá của sách báo nhập khẩu sẽ giảm. Có như vậy sách báo nhập khẩu mới được thị trường chấp nhận nhiều hơn, sách báo ngoại văn đến được với công chúng nhiều hơn, tri thức tiến bộ sẽ được phổ biến rộng rãi hơn trong xã hội. Mặt khác, đề nghị Nhà nước cho thành lập thêm một số trung tâm xúc tiến thương mại tại một số thị trường mới có triển vọng. Các trung tâm xúc tiến này sẽ trực tiếp liên hệ giúp đỡ Công ty thực hiện các khâu nghiệp vụ như nghiên cứu thị trường, quảng bá hàng hóa sách báo, phổ biến thương hiệu của Công ty...Và thực tế thì việc cho ra đời các trung tâm này không chỉ có ý nghĩa với Xunhasaba mà còn có vai trò quan trọng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của nước ta. 1.3. Ngoài ra đề nghị Nhà nước xem xét lại việc mở rộng diện cho phép nhập báo ngày nước ngoài và một số tạp chí tổng hợp chính trị- xã hội khác, vì việc kiểm soát nội dung là rất khó khăn. Trong nhiều năm qua Xunhasaba đã rất nỗ lực, cố gắng phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước ngăn chặn, sàng lọc nội dung nhưng đôi khi vẫn xảy ra sơ suất. Nay cho phép cả những đơn vị có những người đã vi phạm do nhập báo chí coa nội dung phản động chuyển đến được thực hiện sẽ có thể gây ra những hậu quả không lường được về chính trị trong khi lợi ích kinh tế mang lại cho Nhà nước là không lớn. 1.4. Trong khai thác nguồn hàng, trong thời gian tới đề nghị Nhà nước cho phép Công ty thực hiện các hoạt động xuất bản để chủ động tạo được nguồn hàng có chất lượng phục vụ nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Một số giải pháp đề xuất với Công ty. Trên cơ sở thực trạng( ưu điểm, nhược điểm) của Xunhsaba trong hoạt động kinh doanh XBP xuất nhập khẩu trong thời gian qua, xin đề xuất một số biện pháp nhằm thúc đẩy hiệu quả kinh doanh như sau: 2.1. Các biện pháp trước mắt. Đó là những công việc cần làm ngay. Các biện pháp này chủ yếu tập trung ở việc hoàn thiện các nghiệp vụ trong kinh doanh của Công ty. Đảm bảo tới mức tối đa Công ty có thể thực hiện được. Về công tác nghiên cứu thị trường. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu XBP, việc phân đoạn thị trường theo tiêu thức địa lý (chia toàn bộ thị trường của các đơn vị thành các khu vực địa lý) là hợp lý bởi nó dựa trên sự tương đồng ở nhiều phương diện, giữa các quốc gia...nó có ảnh hưởng lớn tới việc hình thành nhu cầu về hàng hóa XBP. Tuy nhiên sự phân chia đó là tương đối khái quát, chưa cụ thể để có thể phân định được thị trường trọng điểm. Do vậy rất dễ gây ra sự lãng phí về chi phí nghiên cứu, chi phí xuất khẩu, đặc biệt bỏ qua nhiều cơ hội trên thị trường. Vì vậy trong thời gian tới Công ty nên thực hiện nghiên cứu thị trường theo hai phương diện với một sự giúp đỡ hỗ trợ, đó là : nghiên cứu thị trường trên hai phương diện địa lý và khách hàng (với đặc điểm nhu cầu của họ). Vì khi đó Công ty vừa có thể nắm bắt được sự khái quát của thị trường vừa nhận thức được yêu cầu cụ thể của khách hàng mà có những biện pháp ứng xử tốt nhất với cả thị trường nói chung và với cả đối tượng, mục tiêu kinh doanh nói riêng. Sự hỗ trợ thuộc về sự chủ động của Công ty. Công ty nên chủ động liên hệ với các tổ chức xúc tiến của nước ta (cũng có thể của các nước, các tổ chức khác) để điều tra, nghiên cứu thị trường một cách có căn cứ và hiệu quả. Về công tác khai thác nguồn hàng. Khai thác nguồn hàng không những phải đảm bảo sự thuận lợi trong việc tiêu thụ hàng hóa mà còn phải tạo ra sự chủ động trong việc nắm bắt thị phần và các lợi thế trong kinh doanh của doanh nghiệp. Trong thời gian tới, để tạo ra sự đột phá trong chiến lược sản phẩm Xunhasaba cần mở rộng hình thức khai thác theo hướng liên kết, in, phát hành với xuất khẩu. Đây là một hướng khai thác mới nên Công ty cần có kế hoạch kho bản thảo trước đã. Chuẩn bị tốt được kho bản thảo, chất lượng, phù hợp với đối tượng khách hàng...là công tác chuẩn bị nguồn hàng thành công đến 90%. Công ty cần tăng cường công tác khai thác bản thảo từ nhiều phía. Đó là tiền đề để tạo ra sự khác biệt tích cực của sản phẩm. Về các khâu nghiệp vụ cụ thể. Đó là phải cố gắng thực hiện một cách hoàn thiện, tránh để ra sai sót. Ví dụ trong đóng gói sách báo thì lâu nay Công ty vẫn có những trường hợp nhầm lẫn. Hoặc công tác giao nhận, nhiều khi khách hàng vẫn không hài lòng và có những khiếu nại đáng tiếc. Việc thiết kế bao bì đóng gói hoặc nhãn dán trên bao bì sản phẩm là chưa có sự thay đổi nhiều, yếu tố thẩm mỹ và thông tin chưa đạt yêu cầu.Tất cả các công việc khác cũng vậy. Nó là những công việc rất nhỏ trong cả sợi dây truyền lưu thông hàng hóa XBP, nhưng nó lại có ý nghĩa lớn lao trong hoạt động kinh doanh. Vì nó liên quan đến uy tín của Công ty. Đó là những biện pháp nhỏ cho chiến lược lớn! Các biện pháp lâu dài. Để đảm bảo sự phát triển vững chắc, Xunhasaba cần phải có những biện pháp lâu dài, được xây dựng trên cơ sở của chiến lược hoặc một kế hoạch dài hạn nhằm đạt được những mục tiêu quan trọng. Dựa trên tình hình kinh doanh của Công ty, những phương hướng của Công ty trong thời gian tới, Xunhasaba nên tập trung vào ba công việc chính. Đó là: +Phát triển nguồn lực con người. Đó thực chất là nâng cao về mọi mặt của lực lượng lao động trong Công ty. Hiện nay lực lượng lao động trong Công ty là gần 100 người. Trong đó trình độ đại học là cơ bản. Một số cán bộ có trình độ trên đại học. Trong đó có rất nhiều công nhân viên trẻ. Trong những năm qua chính đội ngũ cán bộ công nhân viên này đã làm lên những thành công bước đầu của Công ty. Nhưng trong thời gian tới đội ngũ lao động sẽ phải được chú ý hơn rất nhiều nếu không muốn trở thành lạc hậu so với xã hội. Những hạn chế cơ bản của lực lượng lao động trong Công ty là: .Trình độ không đồng đều. Nhiều cán bộ công nhân viên rất có khả năng làm việc, nhanh nhậy với thị trường. Nhưng cũng còn một số người còn thụ động trong công việc. Thường làm việc theo lệnh hơn là sự sáng tạo và đề xuất. Với loại hình kinh doanh đặc thù là sách báo xuất nhập khẩu, thì hạn chế ấy sẽ ảnh hưởng đến cả dây chuyền hoạt động của Công ty và có thể ảnh hưởng đến uy tín của Công ty. . Trình độ làm việc với các đối tác nước ngoài còn thấp. Điều đó xuất phát từ trình độ ngoại ngữ, khả năng giao tiếp, kinh nghiệm làm việc, khả năng tiếp nhận những luồng tri thức mới...của lao động trong Công ty là chưa thật cao. Do vậy hiệu quả của công tác xúc tiến là qua hội chợ, quảng cáo...vẫn chưa thu được kết quả như mong muốn. .Tình thần làm việc, sức sáng tạo của lực lượng lao động của Xunhasaba là chưa thật tốt. Đã có một số sáng kiến được đưa ra. Nhưng đó không nhiều và không mang ý nghĩa chiến lược. Nên yếu tố kinh nghiệm có thể được xem lên hàng đầu với một số người. Trong thời gian tới Công ty phải đặt ra những chỉ tiêu cụ thể để hạn chế được những yếu điểm của lực lượng lao động trong thời gian qua. Công ty nên tập trung theo hai hướng. . Một là tổ chức đào tạo trình độ nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ cho những lao động còn yếu. Đặc biệt với ngoại ngữ thì Công ty phải có những người giỏi nhiều ngoại ngữ. Trên cơ sở đó sắp xếp lại nguồn nhân lực theo khả năng của từng người. Để chuyên môn hóa hơn từng khâu nghiệp vụ. . Tổ chức tuyển dụng có hệ thống, chặt chẽ, lực lượng lao động mới, nhằm thay thế cho lớp cán bộ Công ty đã đến tuổi về hưu. Khi tuyển dụng thì chất lượng và tâm huyết nghề nghiệp là hai yếu tố song hành. Chiến lược con người phải đảm bảo tính hiệu quả, cơ cấu lao động của Công ty. Phát triển nguồn lực về lâu dài đó là sự chuẩn bị cho tương lai. Sự chuẩn bị ấy phải được thực hiện liên tục và mạnh mẽ. + Nghiên cứu và xây dựng kế hoạch chất lượng hàng hóa XBP . Cần phải xác định được sản phẩm của Công ty đang đứng ở vị trí nào trên thị trường. Nghĩa là đâu là mặt mạnh của sản phẩm và đâu là hạn chế của nó. Và nguyên nhân do đâu mà có những ưu điểm và khuyết điểm ấy. Từ đó có các biện pháp thúc đẩy hoặc sửa chữa cho nó phù hợp. Trước hết Xunhasaba phải nghiên cứu mẫu hàng hóa trên thị trường mà chính đối tượng khách hàng mục tiêu của Công ty sủ dụng với mức độ thỏa mãn như thế nào? Từ đó xây dựng kế hoạch cho ra đời hai mức độ sản phẩm. Một là loại sản phẩm sẽ kinh doanh trong thời điểm hiện tại, loại sản phẩm này phải mang đặc trưng cơ bản của mẫu nghiên cứu nhưng tạo ra sự khác biệt nhất định. Hai là loại sản phẩm cho kế hoạch tương lai. Sản phẩm này phải được hình thành từ những đặc điểm của sản phẩm hiện tại, nhưng trên co sở dự đoán xu hướng vận động của nhu cầu trong tương lai. Như thế tức là Công ty đã tự chủ được nguồn hàng kinh doanh của mình. Cơ sở của việc xây dựng kế hoạch chất lượng nguồn hàng là xác định thị trường cho nó dừng chân. Do vậy sự khác biệt nhiều khi chỉ dừng ở mức tương đối. Xunhasaba phải tập chung vào kế hoạch “sản phẩm mềm”. Luôn luôn có sự đáp ứng tốt nhất linh hoạt nhất nhu cầu của khách hàng. + Xây dựng kế hoạch xúc tiến, quảng bá sản phẩm. Trong thời gian qua, Công ty vẫn tiến hành thường xuyên và với khối lượng tương đối lớn. Nhưng hình thức Công ty tham gia còn đơn lẻ, phạm vi sử dụng các biện pháp còn ít, quá trình chuẩn bị còn chưa chủ động...nên hiệu quả chưa cao. Trong thời gian tới Xunhasaba nên : - Xây dựng kế hoạch thực hiện các biện pháp xúc tiến, đặc biệt là việc tham gia hội chợ triển lãm cụ thể. Kế hoạch ấy phải rõ ràng số lần thực hiện, ở đâu? khi nào..? -Từ đó lên kế hoạch chuẩn bị kĩ càng trước khi thực hiện về nhân lực, về tài chính, nguồn hàng, cơ sở vật chất kĩ thuật...chu đáo trước khi tham gia. Trước khi thực hiện (với hội chợ triển lãm) Công ty nên tổ chức các buổi hội thảo với chính các nhà cung cấp hoặc các bạn hàng...về các vấn đề như đặc điểm nhu cầu của khách hàng (cả trong và ngoài nước), về chủng loại hàng hóa tham gia, về những cuốn sách hay, mới xuất bản... - Trong thời gian tới Công ty phải tiến hành mở rộng các hình thức xúc tiến kinh doanh. Không chỉ là quảng cáo trên Internet, trên thư, trên cửa hàng, qua hội chợ...mà còn phải mở rộng quảng cáo sang các phương tiện thông tin đại chúng khác như báo, như truyền hình, truyền thanh, băng zôn, biển quảng cáo ngoài trời...Tất nhiên nó phải có quá trình chuẩn bị một thời gian nhất định. Do vậy, đó sẽ là biện pháp cho lâu dài... Còn rất nhiều các biện pháp khác, từ vĩ mô đến vi mô để thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Công ty. Nhưng trên đây có thể sẽ là một số biện pháp cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty trong thời gian tới cũng như trong chiến lược kinh doanh lâu dài của Công ty Xunhasaba. Lên kế hoạch cho chiến lược kinh doanh mặt hàng mới: sách điện tử, cơ sở dữ liệu... Kế hoạch đón trước tương lai. Thực tế thì thuật ngữ sách điện tử (Ebook), cơ sở dữ liệu (Database) không còn mới với các nhà kinh doanh. Nhưng còn rất nhiều vấn đề để đi đến thống nhất về khái niệm và những chính sách, quy định quản lý của Nhà nước về loại mặt hàng này. Hiểu nôm na thì sách điện tử, cơ sở dữ liệu...là hình thức mang tin mới với cách trình bày, nội dung chủng loại thông tin tri thức như sách thông thường, nhưng chất liệu và quá trình, cách thức vật hóa thông tin tri thức của nó là khác với sách truyền thống. Nó là sản phẩm trực tiếp của thành tựu Công nghệ thông tin của nhân loại. Có hai hình thức trình bày là lưu trên đĩa CDROM và trên Online. Thực tế thì nội dung và các cách thức trình bày của nó không khác so với sách truyền thống. Tuy nhiên nó có rất nhiều tiện ích lớn mà sách thông thường không thể có được: Lượng thông tin rất lớn. Chỉ một chiếc CDROM bình thường nó cũng có thể chứa đựng nội dung tri thức bằng rất nhiều cuốn sách truyền thống. Hàng trăm, nghìn, vạn…thậm chí hàng triệu cuốn. Điều này còn phụ thuộc vào mức độ nén từ trong quá trình ghi đĩa. Nó cho phép rất nhiều người có thể “đọc” cùng một lúc được. Ví dụ một thư viện nào đó khi kết nối mạng hệ thống thì chỉ cần một máy chủ với hệ thống máy con là có hàng trăm, nghìn…người có thể đọc được. Thậm chí chỉ cần ngồi ở Việt Nam cũng có thể đọc được sách ở thư viện lớn nhất Anh quốc… Chính những tiện ích lớn vậy nó kéo theo những lợi thế khác như công tác bảo quản rất đơn giản, chi phí cho xây dựng các trung tâm lưu trữ, thư viện là giảm đáng kể, việc lưu trữ thông tin trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn rất nhiều… Tuy nhiên loại sách mới mẻ này cũng có một số hạn chế nhất định. Như người sử dụng phải có trình độ nhất định về Công nghệ thông tin, phải có một số điều kiện cần đủ để quá trình sử dụng được tiến hành… Khó khăn đó hiện nay không phải là mối quan tâm hàng đầu khi mà sự phát triển của xã hội đang ngày càng cao, cho phép con người khắc phục hoàn toàn những hạn chế đó. Từ đó mà khả năng phát triển loại mặt hàng này trong thời gian tới là rất lớn đối với các nhà kinh doanh. Hiện nay đã có không ít các trường Đại học thực hiện sử dụng loại thông tin mới này như: trường Đại học Nông nghiệp, Kiến trúc, Ngoại ngữ, Quốc gia, Vinh, Sư phạm ngoại ngữ. Và đã thu lại những tín hiệu phát triển đáng mừng. Trong thời gian qua Xunhasaba đã thực hiện việc kinh doanh loại mặt hàng này. Kết quả cũng hết sức khả quan (ước doanh thu đạt khoảng 1 triệu USD). Trong thời gian tiếp theo Công ty cần tập trung đầu tư. đẩy mạnh hơn nữa tốc độ phát triển, hiệu quả kinh doanh mặt hàng này. Đặc biệt khi mà dự án WB- dự án hỗ trợ thực hiện mở rộng các thư viện điện tử cho các trường Đại học, Cao đẳng ở Việt Nam do ngân hàng thế giới tài trợ - đang tiến hành. Công ty cần lên kế hoạch xúc tiến ngay với các trường trong kế hoạch. Nên tổ chức hội thảo khách hàng về loại mặt hàng này. Để cho thấy khả năng cung ứng cũng như những lợi thế của Công ty mang lại cho khách hàng khi khách hàng tìm đến Công ty. Đồng thời phải tích cực tìm kiếm, khai thác mặt hàng nhằm làm đa dạng chủng loại mặt hàng nhưng trọng tâm phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng (vì giai đoạn này việc sử dụng sách điện tử, cơ sở dữ liệu… vẫn chưa thực sự phổ biến tại nước ta). Và có nên chăng nếu Công ty bằng những hình thức nào đó (liên kết, đầu tư độc lập...) cho ra đời những ấn phẩm sách điện tử, cơ sở dữ liệu của riêng mình. Khi đó chất lượng, nội dung, giá cả…của mặt hàng này có lẽ rất phù hợp với thị trường. Và Công ty sẽ dành được thế chủ động trong kinh doanh. Trước mắt Công ty đang nhắm tới các trường Đại học, Cao đẳng. Nhưng trong tương lai Xunhasaba sẽ phải mở rộng đối tượng khách hàng ra phạm vi rộng hơn. Đó trước hết là các Viện, Trung tâm nghiên cứu, Cơ quan đầu ngành... Và sau đó sẽ là công chúng – lực lượng khách hàng rất lớn. Để làm được điều đó ngoài sự nỗ lực của toàn thể Công ty thì sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước cũng có vai trò không nhỏ. Ngay như việc các chính sách không nhất quán của Nhà nước hiện nay cũng gây không ít khó khăn cho Công ty. Ví dụ hiện nay chúng ta chưa có khái niệm nhất quán về sách điện tử, cơ sở dữ liệu do vậy việc xếp mặt hàng này vào diện nào để đánh thuế là không thống nhất. Nếu nó là một loại sách thì thuế phải đánh như sách bình thường, nhưng các cơ quan Hải quan lại cho đó là một loại băng đĩa thì việc đánh thuế lại phải như mặt hàng băng đĩa... Đó là một trở ngại đối với Công ty. Hi vọng trong thời gian tới, cùng với việc hoàn chỉnh các chính sách pháp luật của Nhà nước về loại mặt hàng này, Công ty Xunhasaba thực hiện thành công chiến lược kinh doanh loại mặt hàng còn rất tiềm năng này. Kết Luận. Chúng ta đang trải qua những năm đầu của thế kỉ XXI, chỉ còn hơn 10 năm nữa để đất nước ta thực hiện nốt những điều kiện để trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Trong xu thế hội nhập ngày càng cao của toàn bộ các lĩnh vực của đời sống mà đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, các doanh nghiệp của chúng ta cũng đang tự hoàn thiện và vươn lên để sánh kịp, đón đầu sự tất yếu của thời đại. Xunhasaba đang từng bước tự hoàn thiện mình, đang vượt ra khỏi những khó khăn ban đầu của quá trình hội nhập để củng cố vị trí hàng đầu của Việt Nam trên lĩnh vực xuất nhập khẩu sách báo và để vươn lên thành một doanh nghiệp có uy tín trong khu vực cũng như trên thế giới trong lĩnh vực kinh doanh này. Khi WTO đang đến rất gần, khi nhịp thở của thời đại kinh tế toàn cầu đang thôi thúc ngay ở sau lưng thì sẽ có rất nhiều việc phải làm với Công ty. Hợp tác hóa toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực trong đó sẽ có cả lĩnh vực xuất bản, in phát hành...Liệu Công ty có bối rối trong những sự hợp tác mới mẻ đó để vươn lên nắm lấy những cơ hội mới, những khoảng trống của nền kinh tế mà vươn lên để phát triển vững mạnh. Công việc của Công ty bây giờ có thể chỉ là giữ vững tốc độ phát triển trước mắt, có thể chỉ là tăng thu nhập, tăng doanh số, tăng lương cho người lao động...và có thể chỉ là một doanh nghiệp xuất nhập khẩu sách báo hàng đầu của Việt Nam. Nhưng trong tương lai tại sao không nếu như Xunhasaba trở thành một doanh nghiệp hàng đầu trong khu vực về kinh doanh XBP? Điều đó là có thể làm được khi mà những vận hội mới luôn có với Xunhasaba. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32537.doc
Tài liệu liên quan