Chương I:
I – Khái niệm và vai trò của hoạt động kinh doanh.
1- Khái niệm
a. Khái niệm về thương mại.
Thương mại là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua mua bán trên thị trường.
Thương mại hình thành và phát triển dựa trên cơ sở của sự phát triển lực lượng sản xuất đến mức mà sản xuất xã hội trở thành lực lượng sản xuất hàng hoá.
Sản xuất hàng hóa là một loại hình của sản xuất xã hội. Sản xuất hàng hoá ra đời, tồn tại và phát triển dựa trên hai điều kiện: Một là, phân công lao động xã
122 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1526 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng kinh doanh lương thực ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hộiphát triển dẫn tới chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao, và hai là, có sự sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm xã hội.
Sản xuất hàng hoá là tiền đề của thương mại. Sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi. Khi trao đổi hàng hoá phát triển đến trình độ xuất hiện tiền tệ làm chức năng phương tiện lưu thông thì trao đổi hàng hoá được gọi là lưu thông hàng hoá.
Về mặt lịch sử, lưu thông hàng hoá ra đời ngay từ xã hội chiếm hữu nô lệ, khi đó trong xã hội đã có sự phân công lao động xã hội giữa trồng trọt và chăn nuôi. Những chủ nô đã chiếm hữu những sản phẩm thặng dư của những người nô lệ làm ra và chúng đem những sản phẩm đó trao đổi để lấy những sản phẩm khác phục vụ cho chúng. Sự trao đổi sản phẩm lúc đầu mang tính chất giản đơn, ngẫu nhiên, hiện vật, dần dần phát triển và mở rộng, đặc biệt khi tiền tệ ra đời.
Trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá,có một loại người chuyên dùng tiền để mua hàng hoá rồi đem bán. Kinh doanh thương mại (thương nghiệp) xuất hiện. Người ta gọi những người có tiền tổ chức việc mua hàng hoá từ nơi này rồi đem bán những hàng hoá ở nơi khác là nhà buôn (thương nhân). Những người hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá chuyên nghiệp đó là những người kinh doanh thương mại.
b) Khái niệm về Kinh doanh hàng hoá.
Kinh doanh hàng hoá(thương mại) là dùng tiền của, công sức vào việc buôn bán hàng hoá nhằm mục đích kiếm lợi.
Kinh doanh hàng hoá, trước hết, đòi hỏi phải có vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh là các khoản vốn bằng tiền và bằng các tài sản khác (ví dụ: nhà cửa, kho tàng, cửa hàng v.v....). Có thể lúc đầu vốn là khoản tích luỹ, vốn góp,vốn huy động hay vốn vay v.v..., có vốn mới thực hiện được chức năng lưu thông hàng hoá (T-H-T’, trong đó T’=T+t
Thứ hai, kinh doanh hàng hoá đòi hỏi hàng vi mua để bán (buôn bán). Xét trên toàn bộ và cả quá trình thì hoạt động kinh doanh hàng hoá phải thực hiện hành vi mua hàng; nhưng mua hàng không để mình dùng, mà mua hàng để bán cho người khác. Đó là hoạt động buôn bán.
Thứ ba, kinh doanh hàng hoá dùng vốn (tiền của, công sức )vào hoạt động kinh doanh cũng đòi hỏi sau mỗi chu kỳ kinh doanh phải bảo toàn được vốn và lãi. Có như vậy mới có thể mở rộng và phát triển kinh doanh. Ngược lại, thua lỗ dẫn tới doanh nghiệp phải phá sản.
2-Vai trò:
Thứ nhất, kinh doanh là điều kiện để thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển. Thông qua hoạt động kinh doanh trên thị trường, các chủ thể kinh doanh mua bán được các hàng hoá, dịch vụ. Điều đó bảo đảm cho quá trình tái sản xuất được tiến hành bình thường, lưu thông hàng hoá, dịch vụ thông suốt. Vì vậy, không có hoạt động kinh doanh phát triển thì sản xuất hàng hoá không thể phát triển được.
Thứ hai, Thông qua việc mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường , kinh doanh có vai trò quan trọng trong việc mở rộng khả năng tiêu dùng, nâng cao mức hưởng thụ của các cá nhân và doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sản xuất và mở rộng phân công lao động xã hội, thực hiện cách mạng khoa học công nghệ trong các ngành của nền KTQD.
Thứ ba, Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ, thị trường trong nước có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường ngoài nước thông qua hoạt động ngoại thương. Sự phát triển mạnh mẽ của ngoại thương sẽ đảm bảo mở rộng thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra của thị trường trong nước và bảo đảm sự cân bằng giữa hai thị trường đó. Vì vậy, kinh doanh có vai trò là cầu nối gắn kết nền kinh tế thế giới , thực hiện chính sách mở cửa.
Thứ tư, Nói đến kinh doanh là nói đến sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường trong mua bán hàng hoá và dịch vụ.Quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh là quan hệ bình đẳng, thuận mua vừa bán, nói cách khác là các quan hệ đó được tiền tệ hoá. Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp tính năng độngh sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy cải tiến phát huy sáng kiến để nâng cao khả năng cạnh trnah của hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Điều đó góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng, giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong môi trường canhj tranh gay gắt hiện nay.
II-Nội dung của kinh doanh hàng hoá.
Thứ nhất: Là quá trình điều tra và nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về lương thực và dịch vụ liên quan . Đây là bước đầu tiên trong quá trình hoạt động kinh doanh nhằm trả lời các câu hỏi: Cần kinh doanh hàng hoá, dịch vụ gì? chất lượng ra sao? Số lượng bao nhiêu? mua, bán lúc nào và ở đâu?
Thứ hai: Là quá trình huy động và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên để thoả mãn các nhu cầu của xã hội . Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế, việc tạo nguồn để đáp ứng các nhu cầu và nâng cao được năng lực cạnh tranh là công việc hết sức quan trọng.
Thứ ba: Là quá trình tổ chức các mối quan hệ kinh tế. ở khâu công tác này, cần giải quyết các vấn đề về kinh tế, tổ chức và luật pháp phát sinh giữa các doanh nghiệp trong quá trình mua bán hàng hoá.
Thứ tư: Là quá trình tổ chức hợp lý các kênh phân phối và tổ chức chuyển giao hàng hoá, dịch vụ. Đây là quá trình liên quan tới việc điều hành và việc vận chuyển hàng hoá, dịch vụ từ nơi sản xuất đến người sử dụng với những điều kiện hiệu quả tối đa. Qúa trình này giải quyết các vấn đề: thay đổi quyền sở hữu tài sản; di chuyển hàng hóa qua các khâu vận chuyển, dự trữ, bảo quản, đóng gói bốc dỡ, cung cấp thông tin thị trường cho nhà sản xuất.
Thứ năm: Là qúa trình quản lý hàng hoá ậ các doanh nghiệp và xúc tiến mua bán hàng hóa. Đối với các doanh nghiệp, đây là nội dung công tác quan trọng kết thúc quá trình kinh doanh hàng hoá.
III- Một số học thuyết kinh tế ứng dụng vào kinh doanh hàng hoá
1-Lý thuyết của chủ nghĩa trọng thương.
Lý thuyết của chủ nghĩa trọng thương ra đời lần đầu tiền ở Anh vào giữa thế kỷ XV. Đây được coi là lý thuyết thương mại đầu tiên của thời kỳ tiền tư bản và đã trở thành cơ sở lý luận cho những chính sách thương mại ở Anh, Pháp, Đức trong suốt hơn ba thế kỷ( từ XV đến XVIII). Các học thuyết gia tiêu biểu của chủ nghĩa trọng thương là Jean Bodin, Melon, Jully, Colbert( người Pháp). Thomas Mun, Josias Chlild(người Anh). Theo chủ nghĩa trọng thương, mục tiêu của các quốc gia là tích luỹ thật nhiều vàng và châu báu để tối đa vị thế và quyền lực của một quốc gia( điều mà thời đó chưa được tách ra khỏi sự cường thịnh). Năm 1630, Thomas Mun, học thuyết gia trọng thương người Anh viết “ Ngoại thương là phương tiện chủ yếu để làm tăng của cải và ngân khố của quốc gia” . Vì vậy, trong ngoại thương, cần thi hành chính sách “ hàng năm nên bán cho nước ngoài nhiều hơn cái mà chúng ta tiêu dùng của họ”. Các học thuyết trọng thương ủng hộ sự can thiệp của chính phủ nhằm đem lại thặng dư trong cán cân thương mại. Các chính sách của chính phủ cần hướng tới xuất khẩu tối đa và nhập khẩu tối thiểu. Để đạt được mục tiêu này việc xuất khẩu nên được hạn chế bằng thuế và hạn ngạch còn hoạt động xuất khẩu cần được tài trợ ( trợ cấp).Một thời gian không lâu sau khi ra đời, các lý thuyết của chủ nghĩa trọng thương đã bị David Hun và Adam Smith chỉ trích là sai lầm.
Năm 1752, Hun ( nhà kinh tế học người Anh) đã chỉ ra rằngcác chính sách thương mại theo khuynh hướng trọng thương có thể dẫn đến lạm lạm phát, sự xấu đi của vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế và mục tiêu thặng dư mậu dịch là không thể đạt được trong dài hạn. Trong cách giải thích của Hun, nếu Anh có thặng dư thương mại với Pháp, sẽ dẫn đến sự gia tăng của lượng tiền lưu thông trên thị trường Anh, và điều này sẽ dẫn đến lạm phát ở Anh. ở Pháp diễn biến sẽ theo hướng khác, cung tiền tệ giảm xuống và giá cả tương đối giữa Anh và Pháp sẽ dẫn đến người Pháp mua ít sản phẩm của người Anh hơn và người Anh sẽ mua nhiều sản phẩm của Pháp hơn. Do vậy, chỉ tích luỹ tiền không thôi chưa chắc đã hứa hẹn một mức ssống tốt hơn và một quyền lực ưu thế hơn. Theo Mun, học thuyết trọng thương cần phải được xem xét lại. Năm 1776, Adam Smith lại chỉ ra sai lầm mới của chủ nghĩa trọng thương, coi thương mại là kiểu quan hệ được mất. Theo quan niệm này thì sự giàu có ( lợi ích thu được) của một quốc gia từ thương mại được thực hiện trên cơ sở sự mất mát của một quốc gia khác, trong khi đó Smith lại cho rằng thương mại là kiểu quan hệ hai bên cùng có lợi.
Mặc dù được đánh giá là có nhiều khuyết điểm và sai lầm, nhưng trên thực tế các tư tưởng và dấu ấn của chủ nghĩa trọng thương vẫn còn đó trong các cuộc thảo luận chính trị và chính sách thương mại đương đại.Theo quan sát của Jarl Hagelstam, giám đốc một cơ quan thuộc Bộ Tài chính Phần Lan, thì “ cách thức tiếp cận của mỗi quốc gia, các nước công nghiệp phát triển lẫn các nước đang phát triển, là nhấn mạnh tự do hoá mậu dịch ở những lĩnh vực mà họ có lợi thế cạnh tranh nhất và trì hoãn hoặc chống lại tự do hoá thương mại ở những lĩnh vực mà họ bất lợi trong cạnh tranh và sợ rằng cạnh tranh của hàng nhập khẩu sẽ làm thay thế sản xuất trong nước”. Theo ông, các nhà chính trị gia mỗi nước vẫn ít nhiề đều đã cố gắng cân bằng các sức mạnh kinh tế và các sức mạnh chính trị, vì vậy, chính sách thương mại ở nhiều nước vẫn có xu hướng khuyến khích xuất khẩu, và hạn chế nhập khẩu, là quan điểm cơ bản của chủ nghĩa trọng thương. Tuy nhiên,lập luận của tư tưởng trọng thương mới ngày nay là bằng việc mở rộng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu là nhằm đảm bảo sự ổn định và mở rộng việc làm trong nước.
2- Lý thuyết của chủ nghĩa tự do thương mại.
Các lý thuyết của chủ nghĩa tự do thương mại ra đời vào thế kỷ XVIII ở Anh. Theo quan điểm của những người theo chủ nghĩa tự do thương mại thì, một nền thương mại tự do sẽ có lợi cho tất cả các nước và sẽ liên kết các nước lại với nhau trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hoá. Vì vậy, các lý thuyết này đều được xây dựng trên cơ sở giả thiết là tự do thương mại và cạnh tranh hoàn hảo vơí mục tiêu tối ưu hoá an sinh cho các công dânvà cộng đồng hơn là giới quân chủ. Họ đã chỉ ra lợi ích khách quan vốn có mà thương mại có thể đem lại. Các lý thuyết tiêu biểu của chủ nghĩa tự do thương mại là lý thuyết “Lợi thế tuyệt đối” của Adam Smith và “Lợi thế tương đối” của David Ricardo và lý thuyết “Tỷ lệ các yếu tố” của Heckscher Ohlin. Năm 1776, với lý thuyết “Lợi thế tuyệt đối”. Adam Smith lần đầu tiên giải thích tại sao một nền thương mại không bị hạn chế lại mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia. Tự do thương mại là tình huống trong đó các chính phủ không cố gắng can thiệp hay gây ảnh hưởng đến những gì mà công dân nước họ có thể mua từ nước ngoài hoặc những gì mà họ có thể sản xuất và bán sang nước khác. Smith lập luận rằng, “Bàn tay vô hình” của thị trường hơn là “ bàn tay hữu hình” của Chính phủ, sẽ xác định một quốc gia nên xuất hay nhập khẩu cái gì?Lập luận này là nền tảng cho lập trường “Một nền thương mại không bị can thiệp sẽ đem lại lợi ích cho tất cả các quốc gia”. Kế tục Smith, David Ricardo đã phát triển có chọn lọc và đưa ra lý thuyết “Lợi thế tương đối” hay “Lợi thế so sánh”. Lý thuyết này từ khi xuất hiện đã trở thành nền tảng lý luận cho các cuộc tranh luận về tự do thương mại. Đầu thế kỷ XX, tư tưởng lợi thế so sánh của Ricardo lại được phát triển theo một hướng mới bởi hai nhà kinh tế người Thuỵ Điển, Eli Heckscher và Berli Ohlin, lý thuyết “Tỷ lệ các yếu tố” ra đời và thường được biết đến với tên gọi “Heckscher và Ohlin”. Các lý thuyết của Smith, Ricardo, Heckscher và Ohlin đã giải thích phần nào các động thái thương mại được quan sát. Một số khía cạnh của động thái này là dễ hiểu. Khí hậu, điều kiện tự nhiên giải thích tại sao Ghana lại xuất khẩu Co-ca, Brazin lại xuất khẩu cà phêvà Saudi Arabia xuất khẩu dầu lửa. Tuy nhiên, nhiều khía cạnh khó có thể giải thích được từ các lý thuyết này, ví dụ, tại sao Nhật Bản lại xuất khẩu ô-tô, hàng điện tử và các máy công cụ? Lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo đã đưa ra cách giải thích dựa vào sự khác biệt về năng suất lao động. Lý thuyết của Heckscher và Ohlin phức tạp hơn, giải thích dựa vào sự tác động qua lại của các yếu tố sản xuất, tỷ trọng các yếu tố sản xuất có sẵn của một quốc gia và các yếu tố này cần thiết để sản xuất ra một sản phẩm cụ thể. Sự giải thích này dựa trên giả định rằng các quốc gia khác nhau có những thiên tức khác nhau về các yếu tố sản xuất. Tuy nhiên, việc kiểm định cho thấy rằng cách giải thích này là chưa thuyết phục đối với thực tiễn thương mại. Sau đây chúng ta sẽ đi vào xem xét các lý thuyết một cách cụ thể.
a) Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith.
Năm 1776, trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc”, Smith đã bác bỏ quan niệm sai lầm coi thương mại là quan hệ “được- mất”. Ông lập luận “ điều gì là thận trọng trong cách quản lý một gia đình thì ít khi trở thành thiếu khôn ngoan trong cách điều hành một vương quốc lớn. Nếu nước ngoài có thể cung cấp hàng hoá cho chúng ta một hàng hoá rẻ hơn chúng ta làm , thì tốt nhất chúng ta nên mua chúng bằng một phần sản lượng của những kỹ nghệ mà chúng ta có”. Cơ sở của lập luận này là các quốc gia có hiệu quả khác nhau trong sản xuất các sản phẩm khác nhau. Vào khoảng thời gian đó, Anh trở thành nước sản xuất hàng dệt hiệu quả nhất thế giới nhờ vào sự kết hợp những điều kiện thuận lợi về khí hậu, đất đai và kinh nghiệm tích luỹ được trong quá khứ. Trong khi đó Pháp lại là nước sản xuất rượu vang hiệu quả nhất thế giới. Vì vậy, Anh có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất hàng dệt và Pháp có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất rượu vang. Mỗi quốc gia có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất một sản phẩm khi mà nó hiệu quả hơn một quốc gia khác trong sản xuất sản phẩm đó. Theo Smith, các quốc gia nên chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đôisau đó bán những hàng hoá này sang quốc gia khác để đổi lấy những sản phẩm mà nước ngoài sản xuất hiệu quả hơn. Lý thuyết này cho rằng, Anh nên chuyên môn hoá sản xuất, xuất khẩu hàng dệt và Pháp nên chuyên môn hoá sản xuất, xuất khẩu rượu vang. Anh có thể có tất cả rượu vang mà họ cần băng việc bán hàng dệt sang Pháp và mua rượu vang từ Pháp. Các quốc gia không nên sản xuất những hàng hoá mà họ có thể mua được với giá rẻ hơn từ nước ngoài. Bằng việc chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm có lợi thế tuyệt đối, cả hai quốc gia đều có lợi khi quan hệ thương mại với nhau.
Adam Smith đã thể hiện một cách nhìn mới về thương mại đó là kiểu hai bên cùng có lợi. Gỉa sử có hai quốc gia Việt Nam và Nhật Bản, chúng ta nghiên cứu quan hệ thương mại giữa hai quốc gia này.
Lợi thế tuyệt đối và lợi ích của thương mại.
Nhật Bản Việt Nam Toàn bộ
Năng lực sản xuất 600 đv NLSX 600 đv NLSX 1200 đv NLSX
Hiệu quả sản xuất (Số đv NLSX cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm)
TV 10 15
DM 5 4
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trước khi có thương mại.
TV 30 20 50
DM 50 75 125
Cơ cấu sản xuất sau khi chuyên môn hoá.
TV 60 0 60
DM 0 150 150
Cơ cấu tiêu dùng sau khi có quan hệ thương mại.
TV 36 24 60
DM 72 78 150
Lợi ích thu được từ chuyên môn hoá sản xuất và thương mại.
TV +6 +4 +10
DM +22 +3 +25
Chú thích: đv NLSX (đơn vị năng lực sản xuất), DM (sản phẩm dệt may), TV (Tivi).
Gỉa sử việc sản xuất bất cứ hàng hoá nào cũng đòi hỏi đất đai, lao động và máy móc.
Việt Nam và Nhật Bản có cùng khối lượng các tài nguyên ( năng lực sản xuất ) như nhau và cố định là 600 đơn vị năng lực sản xuất(đv NLS). Số lượng tài nguyên này được dùng để sản xuất hai loại sản phẩm là tivi(TV) và dệt
DM
180
160
140
Việt Nam
120
100
80
60
40
Nhật Bản
20
0 10 20 30 40 50 60 70 80 TV
Mô hình lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
may(DM).
Lợi thế tuyệt đối:
Để sản xuất một TV, Nhật Bản phải sử dụng 10 đv NLSX, Việt Nam cần sử dụng 15 đv NLSX. Nhật Bản có hiệu quả hơn so với Việt Nam trong việc sản xuất TV, do đó Nhật Bản có lợi thế tuyệt đối về sản xuất TV.
Để sản xuất một DM, Nhật Bản phải sử dụng 6 đv NLSX, Việt Nam cần sử dụng 4 đv NLSX. Việt Nam có hiệu quả hơn so với Nhật Bản trong việc sản xuất DM, do đó Việt Nam có lợi thế tuyệt đối về sản xuất DM.
Nguyên tắc hành động
Mỗi quốc gia nên chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế tuyệt đối để đôỉ lại những sản phẩm mà nước khác có lợi thế tuyệt đối. Việt Nam có lợi thế tuyệt đối về sản phẩm DM, Nhật Bản có lợi thế tuyệt đối về TV. Do vậy, Việt Nam nên chuyên môn hoá sản xuất DM, Nhật Bản nên chuyên môn hóa sản xuất TV sau đó trao đổi sản phẩm với nhau.
Năng lực sản xuất và cơ cấu tiêu dùng trước khi có quan hệ thương mại giữa hai nước.
Với năng lực sản xuất của mình Nhật Bản có thể sản xuất các tổ hợp hai sản phẩm trên đoạn N(60 TV và 0 DM);N1(0 TV và 100 DM), Việt Nam có thể sản xuất các tổ hợp hai sản phẩm trên đoạn V(40 TV và 0 DM);V1(0 TV và 150DM)(hình). Gỉa sử trước khi có thương mại diễn ra giữa hai quốc gia, thị trường nội địa ở mỗi quốc gia cân bằng tại điểm mà mỗi quốc gia đều sử dụng 1/2năng lực sản xuất của mình để sản xuất mỗi loại hàng hoá. Tổ hợp sản phẩm mà Nhật Bản sản xuất và tiêu dùng là 30 TV và 50 DM. Tổ hợp sản phẩm mà Việt Nam sản xuất và tiêu dùng là 20 TV và 75 DM. Tổng sản phẩm hai nước sản xuất được là 50 TV và 125 DM.
Tác động của thương mại đến quá trình cân bằng trên thị trường.
Do thị trường ở hai nước là hoàn hảo, vì vậy trong điều kiện không có quan hệ thương mại giữa hai quốc gia,giá cả hàng hoá ở hai nước này chính bằng chi phí để sản xuất ra nó(ở đây giá cả được tính bằng số đơn vị lao động ).Khi quan hệ thương mại tự do giữa hai nước được thiết lập, do chi phí sản xuất TV ở Nhật Bản thấp hơn so với ở Việt Nam nên giá cả TV Nhật Bản sẽ rẻ hơn giá TV Việt Nam. Điều này làm cho nhu cầu đối với TV Nhật Bản tăng lên, nhu cầu đối với TV Việt Nam giảm xuống. Song song với quá trình trên, giá TV Nhật Bản sẽ tăng lên và gía TV Việt Nam sẽ giảm xuống, điều này khuyến khích Nhật Bản sản xuất nhiều TV hơn. Diễn biến trên thị trường DM cũng tương tự, nhu cầu đối với DM Việt Nam tăng lên, giá DM Việt Nam tăng lên khuyến khích Việt Nam sản xuất nhiều DM hơn. Các quá trình trên diễn ra song song với quá trình điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất ở cả hai nước Việt Nam và Nhật Bản. Kết quả là Việt Nam sẽ dành nhiều nguồn lực hơn cho sản xuất DM, Nhật Bản sẽ dành nhiều nguồn lực hơn cho việc sản xuất TV. Gỉa sử các quá trình trên dẫn đến trạng thái cân bằng thị trường ở cả hai nước tại điểm mà nhu cầu về TV và DM ở Việt Nam lần lượt là 24 và 78, nhu cầu về TV và DM ở Nhật Bản lần lượt là 36 và 72. Nhật Bản quyết định dành toàn bộ nguồn lực để sản xuất TV và đạt sản lượng là 60 TV, Việt Nam quyết định dành toàn bộ nguồn lực để sản xuất DM và đạt sản lượng là 150 DM. Sau đó, Nhật Bản tiến hành bán 24 TV để đổi lấy 72 DM từ Việt Nam.
Cơ cấu tiêu dùng sau khi có thương mại:
Với việc chuyên môn hoá sản xuất và thực hiện trao đổi sản phẩm cho nhau, số lượng sản phẩm mà người dân của mỗi nước có thể tiêu dùng đều được cải thiện. Người Nhật Bản có thể tiêu dùng 36 TV và 72 DM, người Việt Nam có thể tiêu dùng 24 TV và 78 DM.
Lợi ích do chuyên môn hoá sản xuất và thương mại
Sau quá trình chuyên môn hoá và thương mại, tổng sản phẩm mà hai nước sản xuất tăng thêm 10 TV và25 DM. Trong đó, người Nhật Bản được hưởng lợi thêm 6 TV và 22 DM, người Việt Nam được hưởng thêm 4 TV và 3 DM.
a. Lý thuyết lợi thế so sánh( lợi thế tương đối) của David Ricardo.
Ricardo đã đi xa hơn một bước trong việc khám phá ra cơ chế hình thành lợi ích thương mại. Theo quan điểm của Adam Smith, nếu một quốc gia có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất tất cả các mặt hàng thì họ có thể chẳng thu được lợi lộc gì từ quan hệ thương mại với nước ngoài. Lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo, được trình bày trong tác phẩm “Những nguyên lý của kinh tế chính trị học”, cho rằng bất kỳ quốc gia nào cũng có thể thu được lợi khi tham gia vào quan hệ thương mại với nước ngoài. Học thuyết lợi thế so sánh được xây dựng trên cơ sở khái niệm năng suất lao động, chi phí cơ hội và lợi thế so sánh. Tư tưởng chủ đạo của lý thuyết này là mỗi quốc gia nên chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh và nhập khẩu các sản phẩm mà họ bất lợi nhất (về mặt chi phí tương đối). Học thuyết của Ricardo được xây dựng trên cơ sở mô hình thương mại đơn giản giữa hai nước. ở đây, chúng ta tiếp tục nghiên cứu quan hệ thương mại Việt Nam và Nhật Bản với các giả thiết sau:
Thế giới chỉ có hai nước (Việt Nam và Nhật Bản)và chỉ có hai loại hàng hoá( TV và DM).
Nhật Bản Việt Nam Toàn bộ
Năng lực sản xuất 600 đv NLSX 600 đv NLSX 1200 đv NLSX
Hiệu quả sản xuất (Số đv NLSX cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm)
TV 10 15
DM 5 4
Chi phí sản xuất tương đối
TV 2,5DM 4DM
DM 0,4DM 0,25TV
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trước khi có thương mại
TV 30 15 45
DM 75 60 135
Cơ cấu sản xuất saukhi có chuyên môn hoá
TV 50 0 50
DM 25 120 145
Cơ cấu tiêu dùng sau khi có quan hệ thương mại
TV 32 18 50
DM 79 66 145
Lợi ích thu được từ chuyên môn hoá sản xuất và thương mại
TV +2 +3 +5
DM +4 +6 +10
Chú thích: đv NLSX (đơn vị năng lực sản xuất), DM (sản phẩm dệt may), TV (Tivi).
Chi phí vận chuyển bằng không.
Không có sự khác biệt về giá cả tài nguyên ở các nước khác nhau, tỷ gía hối đoái cũng không được đề cập trong mô hình này.
Các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do giữa hai ngành trong một quốc gia, nhưng không di chuyển được từ nước này sang nước khác.
Tính kinh tế nhờ quy mô và nhờ chuyên môn hoá không được tính đến.
Mức độ có sẵn của các yếu tố sản xuất và năng suất lao động là cố định.
Tác động của thương mại đến thu nhập cũng được loại trừ
Việc sản xuất bất cứ hàng hoá nào cũng đòi hỏi đất đai, lao động và máy móc.
Việt Nam và Nhật Bản có cùng khối lượng các tài nguyên(năng lực sản xuất) như nhau và cố định là 600 đơn vị năng lực sản xuất(đv NLSX).
Số lượng tài nguyên này được dùng để sản xuất hai loại sản phẩm ti(TV) và dệt may(DM).
Lợi thế tương đối
Để sản xuất một TV, Nhật Bản phải sử dụng 10 đv NLSX, Việt Nam cần sử dụng 20 đv NLSX. Để sản xuất một DM, Nhật Bản phải sử dụng 6 đv NLSX, Việt Nam cần sử dụng 4 đv NLSX. Với giả thiết này chúng ta có thể đi đến hai kết luận:
Nhật Bản có hiệu quả hơn so với Việt Nam trong việc sản xuất TV lẫn DM.
Chi phí cơ hội để sản xuất 1 TV ở Nhật Bản(2.5 DM) rẻ hơn ở Việt Nam(4 DM). Hay nói cách khác chi phí cơ hội để sản xuất ra 1 DM ở Việt Nam rẻ hơn ở Nhật Bản, do vậy Nhật Bản có lợi thế so sánh về sản xuất TV, Việt Nam có lợi thế so sánh về sản xuất DM.
Như vậy, mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh so với một quốc gia khác trong việc sản xuất một sản phẩm khi mà chi phí cơ hội để sản xuất sản phẩm này ở quốc gia này là rẻ hơn so với quốc gia khác.
Nguyên tắc hành động:
Mỗi quốc gia nên chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh để đổi lại các sản phẩm mà nước khác sản xuất rẻ hơn một cách tương đối. Việt Nam có lợi thế tương đối về sản phẩm DM,Nhật Bản có lợi thế tương đối về TV. Việt Nam nên chuyên môn hoá sản xuất DM, Nhật Bản nên chuyên môn hoá sản xuất TV sau đó trao đổi sản phẩm cho nhau.
Năng lực sản xuất và cơ cấu tiêu dùng trước khi có quan hệ thương mại giữa hai nước
Với năng lực sản xuất của mình Nhật Bản có thể sản xuất tổ hợp hai sản phẩm trên đoạn N1(60 TV và 0 DM);N(0 TV và 150 DM), Việt Nam có thể sản xuất tổ hợp hai sản phẩm trên đoạn V(30 TV và 0 DM); V1(0 TV và 120 DM). Gỉa sử trước có thương mại diễn ra giữa hai quốc gia, sự cân bằng trên thị trường diễn ra ở điểm mà mỗi quốc gia sử dụng 1/2năng lực sản xuất của mình để sản xuất mỗi loại hàng hoá. Tổ hợp sản phẩm mà Nhật Bản sản xuất và tiêu dùng là30 TV và 75 DM. Tổ hợp sản phẩm mà Việt Nam sản xuất và tiêu dùng là 15 TV và 60 DM. Tổng sản phẩm hai nước sản xuất được là 45 TV và 135 DM.
DM
180
160
N
140
Việt Nam
120
100
80 V
60
40
Nhật Bản
20
V1 N1
0 10 20 30 40 50 60 70 80 TV
Mô hình lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
Tác động của thương mại và quá trình cân bằng trên thị trường ở hai quốc gia.
Do thị trường hai nướclà hoàn hảo, vì vậy trong điều kiện không có quan hệ thương mại giữa hai quốc gia, khi đó tỷ lệ trao đổi giữa TV và DM đúng bằng tỷ lệ chi phí về lao động để sản xuất ra sản phẩm này ở mỗi nước.Tại Nhật Bản ToT=2.5 DM/1TV, tại Việt Nam, ToT=4 DM/1TV. Điều này có nghĩa là giá cả tương đối của TV ở Nhật Bản rẻ hơn so với ở Việt Nam. Điều này làm cho nhu cầu TV Nhật Bản tăng lên, nhu cầu đối với TV Việt Nam giảm xuống. Song song với quá trình trên là, giá cả tương đối của TV Nhật Bản sẽ tăng lên và giá tương đối của TV Vịêt Nam giảm xuống, điều này khuyến khích Nhật Bản sản xuất nhiều TV hơn. Diễn biến trên thị trường DM cũng tương tự, nhu cầu đối với DM Việt Nam tăng lên,giá tương đối của DM Việt Nam cũng tăng lên, điều này khuyến khíchViệt Nam sản xuất nhiều DM hơn. Các quá trình trên diễn ra song song với quá trình điều chỉnh lại cơ cấu ở cả hai nước Việt Nam và Nhật Bản. Việt Nam sẽ dành nhiều nguồn lực hơn để tập trung sản xuất DM, Nhật Bản sẽ dành nhiều nguồn lực hơn cho việc sản xuất TV. Gỉa sử các quá trình trên dẫn đến trạng thái cân bằng thị trường ở cả hai nước tại điểm mà nhu cầu về TV và DM ở Vịêt Nam lần lượt là 18 và 66. Nhu cầu về TV và DM ở Nhật Bản lần lượt là 32 và 79. Nhật Bản quyết định giành nhiều nguồn lực hơn để sản xuất TV và đạt sản lượng là 50 TV và 25 DM, Việt Nam quyết định dành toàn bộ nguồn lực để sản xuất DM và đạt sản lượng là 120 DM. Sau đó hai nước tiến hành trao đổi sản phẩm cho nhau. Gỉa sử ở trạng thái cân bằng thị trường quốc tế, ToT=3DM/1TV và Nhật Bản bán 18 TV để đổi lấy 54 DM từ Việt Nam (ToTvn=4DM/1TV>ToTqt=3DM/1TV>ToTnb=2.5DM/1TV)
Cơ cấu tiêu dùng sau khi có thương mại
Với việc chuyên môn hoá sản xuất và thực hiện trao đổi sản phẩm cho nhau, số lượng sản phẩm mà người dân mỗi nước có thể tiêu dùng đều được cải thiện. Người Nhật Bản có thể tiêu dùng 32 TV và 79DM, người Việt Nam có thể tiêu dùng 18 TV và 66 DM.Lợi ích do chuyên môn hoá sản xuất và thương mại Sau quá trình chuyên môn hoá và thương mại, tổng sản phẩm mà hai nước sản xuất tăng thêm 5TV và 10 DM. Trong đó người Nhật Bản được hưởng thêm 2 TV và 4 DM, người Việt Nam được hưởng thêm 3 TV và 6 DM.
IV- Đặc điểm và nội dung của kinh doanh lương thực
1) Đặc điểm của kinh doanh lương thực.
a. Đặc điểm của sản xuất lương thực ở Việt Nam.
Việt Nam có tập đoàn cây lương thực rất phong phú và đa dạng, ngoài lúa gạo là lương thực chính còn rất nhiều loại cây màu, cây lương thực khác như ngô, khoai lang, sắn khoai, tây, cao lương , mỳ, mạch, và một số cây có củ khác. Trong đó chỉ có ngô, khoai lang, sắn có khôí lượng tương đối lớn, còn lại đều có khối lượng nhỏ.
Ngành trồng lúa là ngành sản xuất chủ yếu và có nhiều điểm đặc thù.
Là một nước nông nghiệp, nông lâm nghiệp nói chung, nông nghiệp nói riêng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Theo số liệu thống kê, ngành nông lâm nghiệp nói chung chiếm gần 40% tổng sản phẩm xã hội, tập trung trên 80% dân số lao động cả nước. Trong nông nghiệp, ngành trồng lúa là ngành có từ lâu đời. Nghề trồng lúa đã xuất hiện ở nước ta cách đây hơn 4000 năm và 1000 năm về trước đã trở thành ngành sản xuất chính trong nền kinh tế quốcdân. Với bề dầy lịch sử đó, ngành trồng lúa Việt Nam có vị tríđáng lưu ý trong vùng lúa Đông và Đông Nam châu á.
Việt Nam là một trong 10 nước có sản lượng thóclớn và tương đối lớn ở châu á, ( sau năm 1989 đứng vị trí thứ 3 trong số các nước xuất khẩu gạo, sau Thái Lan và Mỹ và hiện nay đứng vị trí thứ 2 sau Thái Lan). Ngành trồng lúa chiếm tỷ trọng cao nhất về diện tích canh tác, lao động và nhân khẩu. Đất trồng lúa chiếm trên 76% diện tích đất trồng cây hàng năm.
Mức tiêu dùng lương thực bình quân
Năm
1993
1996
1999
2002
Lương thực bình
quân đầu người/năm
346,2
160,8
156,6
150
Ngành trồng lúa Việt Nam có một sốđặc điểm chủ yếu sau đây:
Một là: Ngành trồng lúa Việt Nam có mặt ở hầu hết các tỉnh trong cả nước và được phát triển mạnh ở các châu thổ thành vùng chuyên canh, vùng trọng điểm về lúa. Tính chất vùng trong sản xuất lúa khá rõ nét.
Thóc – sản lượng của ngành trồng lúa- là loại sản phẩm giàu chất dinh dưỡng, dễ tiêu dùng và cất giữ, phù hợp với thị hiếu tiêu dùngcủa người dân Việt Nam. Đã từ lâu thóclà loại lương thực chính cho sự sinh tồn của cư dân Việt Nam. Lãnh thổ Việt Nam lại nằm trong dư địa tất yếu của vùng lúa châu á Thái Bình Dương và Nam á, từ bánđảo Triều Tiên xuống Trung Quốc, bán đảo Đông Dương đếnquần đảo Indonexia, sang Nam á. Vì vậy trong quá trình xây dựng, mở mang bờ cõi, trong lịch sử Việt Nam đi đến đâu là phát triển nghề trồng lúa tới đó. Ngành trồng lúa đã phát triển trên một địa bàn rộng rãi từ Cao Lạng đến Minh Hải, từ vùng núi cao Việt Bắc, Tây Bắcđến những vùng đồng bằngven biển. Nhiều loại đất trên lãnh thổ Việt Nam được dùng để trồng lúa: phù sa sông, phù sa biển, phù sa cổ,phù sa mới, đấtbồi tụ ở miền núi và nhiều loại đất được hình thành tại chỗ trên các loại đámẹ khác nhau.
Tuy nhiên, cây lúa chỉ phát triển thuận lợi ở các vùngchâu thổ. Với những ưu thế về điềukiện tự nhiên vàkinh tế, đồngbằng sông cửu long, đồng bằng sông Hồng, đồngbằng ven biển miền Trung trở thành những vùng lúa quan trọng của Việt Nam. Trong đóđồng bằng sông Cửu Long khôngchỉ là vựa lúa của Việt Nam mà còn là vựa lúa có vị trí quan trọng trong vùnglúa Đông Nam và Nam Châu á.
Sự phong phú về thổ nhưỡng, những ưu thế về tự nhiên và kinh tế của mỗi vùng, sự phứctạp về địa hình, sự trải dài của lãnh thổ đất nước tư 8-23 độ vĩ bắc, sự khác biệt về thời tiếtđã dẫn đến sự phân chia tính chất vùng và tiểu vùng trong ngành sản xuất nông nghiệp nói chung, ngành sản xuất lúa nói riêng. Trên phương diện kinh tế, từ góc độ sản xuất ( ở đây chưa xét về gócđộ thị trường) tính chất vùng củ sản xuất lúa biểu hiện ở hai điểm chủ yếu sau đây:
-ở những vùng sản xuất khác nhau cókết quả sản xuất khác nhau thôngqua chỉ tiêu sản lượng và năng suất của các vùng .
Điều đánglưu ý ở đây là đồngbằng sông Cửu Long và đồngbằng sông Hồng là hai vùng lúa lớn nhất của Việt Nam, hàng năm sản xuất ra mức sản lượng thóc lớn nhất và có xu hướng chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong tổng sản lượng thóccủa toàn quốc. Mức sản lượng sản xuất cao và ổn định trên cơ sở năng suất thu hoạch cao là những thế mạnh vật chất tiềm tàng để hai châu thổ tham gia vào thị trường trong nước cũng như quốc tế. Kết qu._.ả và hiệu quả của sản xuất lúa ở hai đồng bằng này sẽ cóvai trò quyết định đối với sự hình thành vận động thị trường thóc gạo nói riêng, thị trường lương thực nước ta nói chung.
-Tính chất vùng của ngành trồng lúa còn thể hiện rõ nét trong sự chênh lệch về chi phí sản xuất của một tạ thóc ở mỗi vùng. Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên đã dẫn đến mức năng suất thu hoạch rất khác nhau của ccây lúa được gieo trồngở những vùng khác nhau. Chi phí vật tư và lao động đầu tư vào các vùng khác nhau sẽ đem lại hiệu quả kinh tế ở các vùng khác nhau chênh lệch lớn.
Đồng bằng sông Cửu Long là một vùng châu thổ mới được khai thác cách đây 500 năm, đất đai phì nhiêu, hàng năm lạiđược bồi đắp một lượng phù sa đáng kể bởi lưu lượng nước rất điều hoà của sông Mê Kông. Thời tiết khí hậu ở đây lại rất thuận lợi cho sự sinh trưởng của cây lúa . Lượng mưa hàng năm tương đối lớn ( từ 1990 –2100 mm) và phân bố tương đốiđồng đều cho các tháng thuộc thời kỳ gieo cấy và chăm sóc cây lúa. Vào tháng 11,12 và tháng 1,2,3 hàngnăm, lượng mưa giảm dần tới mức không đáng kể. Trời quang mây tạnh, nắng nhiều thời tiết lúc này rất thuận lợi cho sự chín nhanh, chín đều của thóc và tạo ra sự khô ráo cần thiết trong thời kỳ thu hoạch lúa. Số giờ có nắng trung bình năm ở đồngbằng sông Cửu Long đạt mức cao nhất trong cả nước(từ 2300 giờ-2400giờ/năm). Lũ lụt và bão tố ít có ảnh hưởng tới sản xuất lúa ở đây. Vì vậy năng suất và sản lượng lúa của đồng bằng sông Cửu Long cao và ổn định, giá
thành một tạ thóc thấp.
Đồng bằng sông Hồng cũng là một vùng châu thổ có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sự phát triển của ngành trồng lúa. Song thổ nhưỡng, thời tiết ở đây không hoàn toàn thuận lợi như ở đồng bằng sông Cửu Long. Đất đai kém phì nhiêu hơn, lượng mưa và lượng nắng hàng năm đạt mức thấp hơn: thường mưa chỉ 1700 mm và nắng 1600-1700 giờ/năm. Trung bình mỗi năm , đồng bằng Bắc Bộ chịu ảnh hưởng gián tiếp hoặc trực tiếp của 4-5 cơn bão. Có năm 1981 đã có tới 17 cơn bão ảnh hưởng đến Bắc Bộ. Vì vậy, năng suất và sản lượng lúa của đồng bằng Bắc Bộ tuy có cao hơn các vùng khác, nhưng có nhiều vụ lại thấp hơn đồng bằng sông Cửu Long và không ổn định.
ở những vùng sản xuất còn lại như vùng núi, trung du, tây nguyên, miền trung, v.v...đất trồng lúa không tập trung mà phân tán xen kẽ với đất cây trồng khác hoặc với đất lâm nghiệp. ậ đây không có những điều kiện thuận lợi về đất, nước, thời tiết, khí hậu, giao thông vận tải v.v... cho việc phát triển sản xuất các vùng sản xuất lúa tập trung, có tỷ suất hàng hoá cao.
Năng suất lúa của các vùng này thấp và không ổn định, vì vậy, giá thành 1 tạ thóc thường cao hơn vùng đồng bằng.
Hai là:Qúa trình sản xuất và thu hoạch sản phẩm của ngành trồng lúa mang tính thời vụ rõ nét.
Độ dài chu kỳ sản xuất, thời gian thu hoạch sản phẩm của ngành trồng lúaphụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản là thời tiết khí hậu và giống lúa.
Cuộc cách mạng Xanh đã đem lại nhiều kết quả quan trọng cho ngành trồng lúa châu á. ậ Việt Nam những tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong khâu giống đã rút ngắn chu kỳ sản phẩm của cây lúa từ 5 tháng xuống còn trung bình 4 tháng, có lọai lúa ngăn ngày chỉ 3 tháng. Những tiến bộ trong khâu thuỷ lợi, phân bón, kỹ thuật canh tác một vụ tiến tới 2,3 vụ trong một năm. Hiện nay ở nước ta, ngoài hai vụ lúa chính là chiêm xuân và vụ mùa còn có vụ lúa hè thu chiếm tỷ trọng đáng kể về mặt diện tíchvà sản lượng (chiếm khoảng trên 20% diện tíchvà từng ấy % về sản lượng). Sự khác nhau về thời tiết và cơ cấu mùa vụđã gây nên sự khác nhau về thời gian gieo cấy và thu hoạch lúa ở những vùng khác nhau. Vì vậy, xét trên góc độ toàn quốc thì có nhiều tháng trong năm trên đất nước ViệtNam đều có sự thu hoạch lúa, ví dụ như:Từ tháng 10 năm trước đến tháng 2 năm sau thu hoạch lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, trong tháng 2 và tháng 3 thu hoạch ở vùng cực Nam Trung bộ,, trong tháng 4-5 ở vùng Trung và Nam Trung bộ, trong tháng 5-6 ở Bắc Trung bộ và đồng bằng sông Hồng, trong tháng 8-9 ở Trung, Nam Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long, trong tháng 9-10 ở miền núi Tây Bắc, Vịêt Bắc, Tây Nguyên, trong tháng 10-11 ở đồng bằng Bắc bộ và Trung bộ. Như vậy chỉ có tháng 7 hàng năm là không có thu hoạch lúa.
Tính thời vụ thu hoạch có sự ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành của “cung” về thóc gạo trên thị trường khu vực cũng như trên thị trường toàn quốc. Điều đặc biệt là: Việc thu hoạch lúa của đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long – hai vựa lúa lớn nhất, tập trung 70%sản lượng thóc lại tập trung vào tháng 4,5,6 và tháng 9,10,11 hàng năm. Đây là điều đáng ghi nhớ.
Ba là: Trong những năm đầu chuyển sang kinh tế thị trường, ở ngành trồng lúa Việt Nam đã diễn ra sự thay đổi về chủ thể trong sản xuất kinh doanh: nông hộ trở thành đơn vị tự chủ kinh doanh.
Trước lúc ra đời của Chỉ Thị 100 (1981), chủ thể kinh doanh trong ngành trồng lúa là các hợp tác xã nông nghiệp với qui mô thôn và xã. Về mặt danh nghĩa có thể xem hợp tác xã là những chủ thể kinh doanh, song về mặt thực chất thì nó lại là loại chủ thể không hoàn chỉnh. Loại nông sản nào được sản xuất ra là tuỳ thuộc vào cấp trên. Nông sản hàng hoá được bán theo địa chỉ đã định sẵn với giá được bên mua qui định trước. Người lao động (xã viên của HTX) chỉ biết việc từng ngày và làm theo sự phân công của đội trưởng theo yêu cầu cụ thể và ghi công điểm. Hộ gia đình nông dân gọi tắt là nông hộ chỉ có ý nghĩa về mặt tình cảm, dòng họ, xã hội. Nông hộ hoàn toàn không có vai trò trong việc sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Sau năm 1981, nhất là sau nghị quyết 10 (4/1988) vai trò của nông hộ trong kinh tế được khôi phục trở lại và đến tháng 3 năm 1989 NQ Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ VI (khoá VI) khẳng định: “Hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ”. Nông hộ có toàn quyền trong việc lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh, lựa chọn loại nông phẩm sẽ sản xuất, lựa chọn giá cả và người mua nông phẩm hàng hoá. Nông hộ là đơn vị được hưởng những thành quả , đồng thời cũng là đơn vị phải gánh chịu những rủi ro trong sản xuất kinh doanh. Nông hộ đang trở chủ thể thực sự của sản xuất nông sản hàng hoá và phát triển kinh tế nông thôn.
Quan hệ trao đổi mua bán của kinh tế hàng hoá dù có sức mạnh thúc đẩy xã hội loài người tiến lên không ngừng, nhưng nó đã phải khuất phục trước sự bên vững của quan hệ tình cảm, quan hệ huyết thống trong một gia đình nông dân. Sự mua bán hàng hoá khó có thể chui vào và len lỏi giữa các thành viên trong một gia đình. Nông hộ là đơn vị nhỏ nhất (tức không thể nhỏ hơn) của kinh tế hàng hoá ở nông thôn. Sự phát triển và kỹ thuật và qui mô sản xuất đến một mức nào đó tất yếu sẽ dẫn đến sự hiệp tác trong sản xuất kinh doanh, các liên gia (liên hộ) sẽ xuất hiện. Song cũng do sự bền vững của quan hệ huyết thống và tình cảm mà ranh giới về mặt kinh tế giữa các gia đình trong một liên doanh làm ăn không dễ dàng bị xoá bỏ. Điều đó giải thích sự tồn tại lâu dài của kinh tế hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam cũng như ở các nước tư bản hiện đại có nền nông nghiệp tương đối phát triển.
Sự tồn tại lâu dài của kinh tế hộ gia đình với tư cách là chủ thể sản xuất hàng hoá nông sản là một nhân tố chi phối đặc điểm hình thành và hình thái của thị trường thóc gạo Việt Nam.
b. Đặc điểm của thị trường lương thực Việt Nam.
Do đặc điểm của việc sản xuất lương thực như đã nêu, nên thị trường lương thực Việt Nam đã chịu sự tác động và có những đặc điểm sau:
Một là:Kinh tế thị trường mới thực sự thâm nhập vào nông nghiệp nói chung và vào ngành trông lúa nói riêng trong vài năm gần đây, thị trường thóc gạo đang ở giai đoạn mới hình thành.
Thị trường là tổng thể những mối quan hệ gắn liền với việc trao đổi và thực hiện giá trị hàng hoá. Hàng hoá ở đây phải được hiều theo đúng nghĩa kinh điển của nó là: Sản phẩm của lao động được sản xuất ra để bán. Kinh tế thị trường là một hình thức kinh tế trong đó người bán và người mua tự nguyện tác động lẫn nhau thông qua thị trường để xác định chủng loại, số lượng và giá cả của hàng hoá trao đổi. Nếu hiểu theo nội dung đó thì trước năm 1984 kinh tế thị trường chưa hoạt động và phát huy tác động trong ngành trồng lúa Việt Nam. Để làm rõ vấn đề, chúng ta hãy trở lại chính trong lịch sử của nông nghiệp và của cây lúa nước trên địa bàn Việt Nam:
-Sau gần 100 năm đô hộ của Phạp, nền kinh tế Việt Nam vẫn ở tình trạng và thấp kém. Nền kinh tế lúc này là số cộng của các vùng khép kín theo kiểu tự cung tự cấp. Việc mua bán thóc gạo tuy đã có từ lâu, nhưng chưa thể coi đó là kinh tế hàng hoá vì kinh tế hiện vật vẫn bao trùm nền kinh tế.
Sau ngày giải phóng, nông nghiệp miền Bắc phát triển mạnh hơn: Sản lượng thóc và thịt lợn đã gấp hai lần năm 1939 (năm được mùa nhất trong chế độ thực dân). Đời sống nôngdân được cải thiện rõ rệt về mặt vật chất tinh thần. Nhà nước đã thu mua được thóc, lợn phục vụ cho dân cư phi nông nghiệp. Nhưng do bị trói chặt vào cơ chế quan liêu-hành chính-bao cấp, do quiluật giá trị bị lãng quên mà việc trao đổi hàng hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp chỉ là hình thức, thêm vào đó là sự không phù hợp của quan hệ sản xuất, chiến tranh, thiên tai đã làm cho tốc độ tăng trưởng sản lượng lương thực không kịp tốcđộ dân số. Kết quả là lượng lương thực nhân khẩu bình quân rất thấp, thậm chí là không đủđể làm giống và tiêu dùng hàng ngày. Nông dân vùng lúa không có thóc hàng hoá đúng nghĩa của nó để đem bán. “Chân trời rộng lớn cho qui luật giá trị phát huy tác dụng” bị thu hẹp. Động lực kinh tế do cơ chế thị trường tạo ra chưa hề phát huy tácdụng trong ngành trồng lúa. Nhưng lúc ấy, nôngdân vẫn phải trông lúa, phải phấn đấu để cho gia đình họđược ăn no hơn. Chỉ khi nào ngành sản xuất lương thực phấn đấu vượt qua được cửa ải lương thực thì khi đókinh tế thị trường mới có cơ hộiđể xâm nhập và phát huy sức mạnh của nó ở lĩnh vực này. Cơ hội đó xuất hiện cách đây không lâu, vào những năm sau 1984 khi lương thực bình quân nhân khẩu vựơt quá 300kg/người.
-Miền Nam Việt Nam trong những năm Mỹ tạm chiếm, chính quyền Nguỵ quân và những nhà đầu tư chỉ quan tấm phát triển những ngành công nghiệp tiêu dùng phục vụ chiến tranh và một vài lĩnh vực nông nghiệp sinh lời cao như cao su, cà phê. Trên 70% cư dân miền Nam sống nhờ vào nguồn viện trợ Mỹ và buôn bán nhập khẩu hàng hoá ế thừa từ các nước tư bản hiện đại. Theo số liệu của Bộ cải cách -Điền địa và phát triển nông lâm ngư nghiệp của chínhphủ “Vịêt Nam cộng hoà”, hàng năm phải nhập khẩu từ Thái Lan từ 60-80 vạn tấn gạo cung cấp cho quân độinguỵ khổng lồ và dân cư phi nông nghiệp miền Nam. Sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ duy trì cuộc sống rất đơn sơ của nông dân Nam bộ, việc buôn bán gạo đến các thành phố tuy đã có từ lâu, nhưng với mức rất thấp của sản lượng, năng suất và mức bình quân nhân khẩu lương thực thì việc trao đổi thóc hàng hoá không đáng kể và không thương xuyên. Ví dụ năm 1969 là năm phát đạt của ngành trồng lúa miền Nam trong thời kỳ Mỹ nguỵ, tổng sản lượng lúa là 5,1 triệu tấn, năng suất 2,1 tấn/ ha, lương thực bình quân đầu người là 245kg/người, lượng thóc trao đổi chỉ là 470.000 tấn bằng 9,2% sản lượng sản xuất. Lúc này kinh tế thị trường chưa bộc lộ quimô và tầm vóc của nó ở đây.
Sau ngày miền Nam giải phóng, nhận rõ tiềm năng và vai trò của đồng bằng sông Cửu Long trong nền kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm phát triển ngành trồng lúa ở đây. Song do sự thấp kém của cơ sở hạ tầng và những nguyên nhân khác mà cơ chế thị trường chưa hoạt động mạnh,nhất là ở vùng sâu vùng xa.
Như vậy, nôngdân Việt Nam mới tiếp cận với kinh tế thị trường tronghơn chục năm gần đây. Điều đó đã làm cho họ chưa đủ khả năng và điều kiện để “ứng xử” như là một chủthể kinh doanh thực thụ” hoạt động trong cơ chế thị trường. Sự kém thuần thục trong “ứng xử” đã dẫn đến “Độ trễ” trong hành vi kinh tế của nông dân (Độ trễ I trong sơ đồ). Thêm vào đó là độ trễ của cung sản xuất do chu kỳ sản xuất lúa tương đối dài (tối thiểu là 3 tháng) kýhiệu là độ trễ II. Các độ trễ trên cùng tác động làm tăng độ trễ của cung sản xuất lúa (độ trễ III). Độ trễ này lại gây nên độ trễ của cung thị trường (độ trễ IV). Độ trễ IV lại ảnh hưởng đến tương tác cung cầu thị trường về thóc gạo và do đó ảnh hưởng đến sự biến động của thóc gạo trên thị trường và giá cả các hàng hoá, có liên quan (bổ sung và thay thế).
Sơ đồ: Các độ trễ với sự tự điều chỉnh của cơ chế thị trường
Độ trễ của tổng cung sản xuất (III)
Độ trễ của cung thị trường(IV)
Tương tác cung cầu thị trường về thóc gạo
Độ trễ của cung do chukỳ sản xuất dài
Độ trễ về hành vi kinh tế của nông dân(I)
Sự kém thuần thục trong ứng xử thị trường
-Mức giá cân bằng cung cầu
-Sự biến động của giá cân bằng và giá hàng hoá liên quan
Qua sơ đồ trên ta thấy sự kém thuần thục trong ứng xử thị trường do nôngdân mới tiếp cận với cơ chế thị trường đã hạn chế khả năng tự điều chỉnh của cơ chế thị trường. Kinh tế thị trường tự điều chỉnh bằng tương tác giữa cung và cầu hàng hoá để tạo lập giá cân bằng cung cầu. Sự dao động của giá cung cầu về loại hàng hoá của giá cả hàng hoá có liên quan (bổ sung, thay thế) có sức điều tiết sản xuất tiêu dùng. Sự điều tiết này lại được thực hiện thông qua hành vi kinh tế của chủ thể đạidiện bên cung và bên cầu. Hành vi của nông dân lại tác động đến cung thị trường và do đó tác động đến sự biến động của giá thóc gạo trên thị trường.
Trong chu trình liên tục tự điều chỉnh, hành vi của nông dân trong sản xuất thóc rất quan trọng đốivới sự vận hành của thị trường. Nông dân Việt Nam vốn quá quen thuộc với kinh tế tự cấp tự túc. Đạiđa số nông dân còn chưa nhạy cảm và chưa thành thạo trong việc đáp lại sự “vẫy gọi của thị trường”. Vì vậy tốc độ tự điều chỉnh của cơ chế thị trường giảm.. Qúa trình diễn tới cân bằng Cung-Cầu diễn ra một cách chậm chạp. Ví dụ cung về thóc không đáp ứng đủ yêu cầu xuất khẩu trong thời điểm cuối năm 2003,đầu năm 2004 nhưng chúng ta không còn nguồn hàng có thể đáp ứng đủ ngay yêu cầu của thị trường.
Hai là: Thị trường lương thực Việt Nam mang tính khu vực rõ nét và hình thành trên hai “cấp độ”.
Do tính khu vực của sản xuất (như đã trình bày ở phần trên) về tính khu vực của trồng trọt nên đã gây nên tính khu vực của lượng cung sản xuất và lượng cung thị trường. Lượng cung thị trường là lượng thóc bán ra thị trường tương ứng với các mức giá khác nhau. Tiềm năng của lượng cung trong một thời gian ngắn (ngày,tháng) là lượng thóc trong kho đang ở tư thế sẵn sàng tung ra thị trường. Lượng cung của một năm bằng tổng lượng cung ở các thời gian trong năm.
Trong điều kiện dự trữ lương thực còn mỏng (dự trữ quốc gia, dự trữ lưu thông, dự trữ trong dân), lượng thóc cung ứng ra thị trường trongmột năm phụ thuộc trực tiếp vào kết quả sản xuất năm đó. Tính chất vùng về năng suất sản lượng lúa, về phân bố dân số đã dẫn đến tính chất vùng của lượng lương thực bình quân đầu người- một chỉ tiêu quyết định trực tiếp lượng thóc hàng hoá cung ứng ra thị trường.
+Tính chất vùng của thị trường lương thực còn biểu hiện trong sự khác nhau của tương quan cung cầu về lương thực diễn ra ở mỗi vùng.
Sự khác nhau về năng suất cây trồng , sản lượng sản xuất, sự khác nhau về mật độ dân số và kết cấu dân số theo tiêu thức nông nghiệp và phi nông nghiệp giữa các vùng là nguyên nhân khách quan tạo nên tính chất vùng của quan hệ cung cầu. Tại một thời gian nhất định ở các vùng khác nhau tương quan về cung cầu lương thực diễn ra theo xu hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này là tính không đều của sự phân bố sản lượng và dân cư trên phạm vi lãnh thổ đất nước.
Sự phân bốkhông đều về sản lượng thóc và dân cư nói trên, phạm vi lãnh thổ vị trí địa lý của vùng sản xuất, vùng dân cư, lưu lượng và phạm vi không gian của sự giao lưu hàng hoá nói chung thóc gạo nói riêng, những điều kiện về địa lý và giao thông vận tải tất yếu làm cho thị trường thóc gạo hình thành trên ba phạm vi, đó là: thị trường thống nhất tòan quốc, thị trường vùng và tiểu vùng. Thị trường thống nhất toàn quốc về thóc gạo đã hình thành dựa trên sự vận hành của thị trường vùng Bắc bộ, thị trường vùng Trung bộ và Nam bộ. Thị trường vùng Bắc bộ được hình thành trên cơ sở các thị trường tiểu vùng: đồng bằng sông Hồng, miền núi phía Bắc, khu bốn cũ. Thị trường vung Trung bộ được hình thành trên cơ sở thị trường các tiểu vùng Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Thị trường vùng Nam bộ bao gồm thị trường tiểu vùng đồng bằng sông Cửu Long và tiểu vùng Đông Nam Bộ. Phạm vi, ranh giới của thị trường vùng tiểu vùng không mang ý nghĩa tuyệt đối mà chỉ tương đối. Nó sẽ thay đổi tuỳ thuộc vào phạm vi và cường độ của giao lưu hàng hoá. Ranh giới vùng thị trường không trùng khít với ranh giới hành chính. ậ đây chỉ là sự mượn địa danh để chỉ ra phạm vi và ranh giới tương đối của vùng thị trường. Không nên hiểu rằng có bao nhiêu vùng hành chính thì có bấy nhiêu vùng thị trường. Ví dụ như tỉnh Hà Bắc và Vĩnh Phú xét về mặt địa hình và thổ nhưỡng là vùng Trung du, xét về mặt thị trường thì đó chỉ là nơi giao thoa, chuyển tiếp của thị trường tiểu vùng đồng bằng sông Hồng với tiểu vùng miền núi phía Bắc.
Thị trường vùng Nam bộ chỉ chiếm khoảng 34% dân số cả nước nhưng đã sản xuất tới khoảng 54% sản lượngthóc cả nước . ở đây, cung sản xuất hơn cầu kinh tế. Thị trường vùng Trung bộ chiếm gần 15% dân số cả nước nhưng thóc sản xuất tại đây chỉ chiếm gần 10%. Thị trường vùng Bắc bộ chiếm tới trên 50% dân số nhưng chỉ sản xuất được trên 35% sản lượng thóc hàng năm. Thực tế này là nguyên nhân tất yếu cho sự hình thành các kênh phân phối thóc gạo từ Nam ra Bắc.
+Thị trường lương thực hình thành trên hai cấp độ. Theo David Colman và Treyor Yung thị trường cấp thấp là thị trường gắn với nông trại, ở đây hình thành giá bán nông phẩm của người sản xuất, thị trường cấp cao là thị trường gắn với việc bán nông phẩm cho tiêu dùng. Theo quan niệm này đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, đồng bằng Duyên hải của miền Trung là thị trường cấp thấp, đại diện cho bên cung. ậ đây cung sản xuất lớn hơn cầu kinh tế. Hai đồng bằng lớn chỉ chiếm gần 42% dân số nhưng lại sản xuất tới gần70% sản lượng thóc hàng năm. Đặc biệt đồng bằng sông Cửu Long đã sản xuất tới 50% sản lượng thóc trong khi dân cư sống ở đây chỉ chiếm trên 22% dân số cả nước. Đây là vựa lúa lớn nhất của đất nước. Các trung tâm tiêu thụ gạo là các thành phố ,khu công nghiệp, thị xã và các tiểu vùng còn thiếu thóc gạo thuộc thị trường cấp cao. Các trung tâm tiêu thụ lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh, Tp Cần Thơ có vai trò đại diện cho bên cầu, ở đây cung sản xuất thường nhỏ hơn cầu kinh tế.
Sự khác nhau trong tương quan giữa cung sản xuất và cầu kinh tế ở hai thị trường tất yếu dẫn đến sự hình thành các kênh phân phối thóc gạo từ thị trường cấp thấp, đến thị trường cấp cao (thị trường cung đến thị trường cầu).
Tính chất vùng của thị trường thóc gạo xét trên hai bình diện (lãnh thổ và cấp độ) đã chi phối sự hình thành các kênh phân phối thóc gạo. Sự hình thành các kênh phân phối sản phẩm cùng với những đặc điểm của sản xuất và tiêu dùng thóc gạo lại chi phối số lượng chủ thể tham gia vào thị trường và do đó quyết định hình thái thị trường thóc gạo.
Ba là: Lương thực được phân phối theo nhiều kênh khác nhau.
Người ta có thể phân loại kênh phân phối một hàng hoá nhất định theo nhiều tiêu thức khác nhau. ậ đây căn cứ vào số lượng các phần tử trung gian trong kênh phân phối có thể phân chia hệ thống phân phối sản phẩm thóc gạo thành các loại kênh như sau: kênh phân phối dài , kênh phân phối trung bình, kênh phân phối ngắn và kênh phân phối trực tiếp. Cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội, các phần tử trung gian tất yếu xuất hiện trong các quan hệ trao đổi hàng hoá. Số lượng các phần tử trung gian trong các kênh phân phối thóc gạo là tuỳ thuộc vào sự chênh lệch giữa giá bán lẻ cho người tiêu dùng với giábán thóc của nông dân và quá trình vận động vật lý của hàng hóa thóc gạo. Trong quá trình vận hành, cơ chế thị trường luôn luôn thực hiện sự tuyển chọn và đào thải các phần tử trung gian trong kênh phân phối hàng hoá.
Với thực tế phân bố sản lượng thóc sản xuất và phân bố dân cư đã nêu ở trên, trên thị trường thóc gạo Vịêt Nam hình thành các kênh phân phối chủ yếu sau đây:
Kênh phân phối dài làm nhiệm vụ đưa thóc từ đồng bằng sông Cửu Long đến người tiêu dùng cuối cùng ở Bắc bộ. Chủ thể kinh doanh trong kênh phân phối này gồm các phần tử sau:
.Nông dân sản xuất thóc gạo ở đồng bằng sông Cửu Long.
.Công ty lương thực quốc doanh trực tiếp làm nhiệm vụ mua thóc của nông dân hoặc các tư thương làm nhiệm vụ mua gom.
.Công ty lương thực Trung ương và một số đơn vị quốc doanh khác làm nhiệm vụ lưu thông thóc từ Nam ra Bắc và bán buôn. Các đơn vị quốc doanh này không hoạt động thường xuyên trong kênh phân phối. Họ chỉ tham gia vào khi chênh lệch giá cả hai miền có lợi cho họ và mang tính chất tận dụng phương tiện vận tải. Các doanh nghiệp tư nhân mạnh chưa xuất hiện ở đây.
.Các doanh nghiệp làm nhiệm vụ xay xát. Ngoài các xí nghiệp xay xát quốc doanh ra, từ 1988 tới nay đã hình thành các tụ điểm xay xát ở ven đô và khu công nghiệp. Với hàng trăm máy xát thuộc sở hữu của các hộ gia đình quần tụ trong một làng bán nông bán công, mỗi tụ điểm có thể xay xát từ 1 đến vài trăm tấn thóc một ngày. Phương thức kinh doanh chủ yếu ở đây là xay xát thuê cho người có thóc. Một số hộ có vốn thì kết hợp việc xay xát với hoạtđộng mua bán gạo, tất nhiên là có đầu cơ khi có lợi cho họ.
.Các phần tử làm nhiệm vụ bán lẻ gạo gồm các cửa hàng bán lẻ gạo của quốc doanh, cửa hàng bán lẻ gạo của tư nhân nằm rải rác ở các chợ, đườngphố và các điểm dân cư phi nông nghiệp. Điều đáng chú ý là: Từ năm 1989 trở lại đây có nhiều ngừời làm nhiệm vụ “bán rong” tham gia các kênh phân phối gạo. Họ thường mang đến tận nhà bán cho hộ tiêu dùng gạo mà thường là các gia đình cán bộ, công nhân viên chức, các hộ phi nông nghiệp cư trú ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp thuộc miền Bắc. ậ đây còn có các hộ tiêu dùng đặc biệt như các cơ sở sản xuất, kinh doanh dùnggạo để sản xuất ra các chế phẩm từ gạo (bún, bánh phở,v.v...) phục vụ việc kinh doanh trong lĩnh vực ăn uống.
*Kênh phân phối trung bình: Sự không đều về sản lượng sản xuất, năng suất thu hoạch, mức lương thực bình quân đầu người giữa các tiểu vùng và vùng liền kề nhau về mặt lãnh thổ đã làm xuất hiện kênh phân phối trung bình. Loại kênh này làm nhiệm vụ đưa thóc từ đồng bằng sông Cửu Long đến Đông Nam bộ, Tây Nguyên và miền Trung; từ đồng bằng sông Hồng đến các thành phố lớn ở miền Bắc và miền núi trung du phía Bắc.
Trong kênh phân phối trung bình xuất hiện các chủ thể kinh doanh sau đây:
.Người sản xuất:Các nông hộ ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long.
. Các công tylương thực quốc doanh các tỉnh thuộc hai đồng bằng làm nhiệm vụ mua thóc của nông dân rồi bán lại cho các công ty lương thực các tỉnh thành phố có nhu cầu mua thóc.
.Các công ty lương thực của các tỉnh miền núi Trung du, của các thành phố làm nhiệm vụ mua thóc từ các công ty lương thực thuộc hai đồng bằng, cung ứng thóc gạo cho mạng lưới bán lẻ ỏ địa phương mình.
Ngoài hai phần tử trung gian nói trên còn có các thương nhân buôn chuyến, hoạt động ở các tuyến buôn bán gạo từ vùng đồng bằng lên miền núi và Tây Nguyên. Ví dụ ở Bắc bộ có những tuyến buôn gạo từ Thái Bình, Hải dương, Hưng yên, Nam định, Ninh bình, Hà nam bằngđường sông lên Bắc giang, Bắc ninh; từ Hải dương, Hưng yên đi Hải Phòng, Quảng ninh; từ Hà tây đi Vĩnh phúc, Phú thọ, Hoà bình....ở Nam bộ có những tuyến buôn gạo từ đồng bằng sông Cửu Long đi Đắc lắc, Kon tum, đi miền Đông Nam bộ, miền Trungv.v...
.Vốn của các tư nhân buôn chuyến không lớn, lưu lượng hàng hoá nhỏ và không tham gia một cách thường xuyên vào thị trường. Họ chỉ tích cực hoạt động khi có điều kiện và xét thấy có lợi ích nhất là tương đương so với buôn chuyến các hàng hoá thông thường khác.
.Những người buôn bán nhỏ hoạt động hoạt động tại chỗ thường mua gạo và bán ngay trong ngày phần lớn trong số này vốn rất nhỏ, không đủ để mua thóc gạo dự trữ dài ngày theo phương thức hoạt động đầu cơ.
.Phần tử cuối cùng trong kênh phân phối là các hộ tiêu dùng gạo mà thường là các hộ phi nông nghiệp, các hộ chuyên làm nghề rừng như khai thác gỗ tre nứa, các hộ trồng cây công nghiệp và còn cả các hộ nông nghiệp thừa hoa màu lương thực nhưng lại thiếu thóc gạo.
*Kênh phân phối ngắn.ở kênh này gạo hàng hoá được vận chuyển từ ven đô, các vành đai khu công nghiệp, từ các làng xã trồng lúa ngay trong vùng đến các trung tâm tiêu thụ gạo là các thành phố , khu công nghiệp, thị xã , thị trấn. Trong kênh phân phối nàychỉ có một phần tử trung gian với cái tên gọi “dân dã” là “hàng xáo”. Họ đảm nhận từ khâu mua thóc, xay xát, vận chuyển, bao gói và bán gạo cho người tiêu dùng cuối cùng.
*Kênh phân phối trực tiếp tồn tại ngày trên địa bàn làng, xã, huyện. ậ kênh này không có phần tử trung gian. Ngừời sản xuất (nông hộ) trực tiếp bán thóc gạo cho hộ tiêu dùng bao gồm các hộ phi nông nghiệp, kiêm doanh nông nghiệp và có cả hộ trồng lúa, khi họ là người bán có khi họ lại là ngừơi mua .
Ngoài bốn kênh phân phối nói trên, ở thị trường thóc gạo còn xuất hiện kênh phân phối gắn liền với việc xuất khẩu gạo. Việt Nam là nước đầy tiềm năng nhưng mới chỉ tham gia xuất khẩu gạo được hơn chục năm nay. Vì vậy kênh phân phối này chưa được định hình. Người sản xuất trong loại kênh phân phối này là nông dân ở cả hai đồng bằng. Số khâu, số phần tử trung gian trong kênh phân phối chưa cố định và họ xuất hiện trên thị trường với những tên gọi khác nhau. Có nhiều chủ thể Việt Nam cùng một lúc chào hàng và xuất khẩu gạo cho một đối tượng trên thị trường thế giới. Đây là những vấn đề cần quan tâm nghiên cứu.
Sự hình thành các kênh phân phối thóc gạo và các chủ thểkinh doanh tham gia vào các kênh đó quyết định số lượng và vài trò của ngừời mua người bán trên thị trường thóc gạo. Số lượng người mua người bán và vai trò của họ lại là vấn đề liên quan trực tiếp tới hình thái thị trường. Hình thái thị trường là khái niệm gắn liền với mứcđộ cạnh tranh thị trường- một nhântố chi phối khá mạnh sự vận động của giá cả thị trường. Vì vậy, điểm tiếp theo cần phải đề cập đến là người bán, người mua trên thị trường thóc gạo và hình thái của thị trường thóc gạo.
Bốn là: Tính đa dạng của các chủ thể tham gia thị trường. Tính đa dạng này biểu hiện trong trường hợp dưới đây:
*Người bán người mua và hình thái của thị trường cấp thấp.
Người bán trên thị trường cấp thấp là vô số các nông hộ bán lương thực. Người mua trên thị trường này đa dạng và nhiều loại hơn như: Các công ty lương thực quốc doanh, các côngty thu gom cho xuất khẩu gạo và vận chuyển ra miền Trung, miền Bắc; các phần tử trung gian trong kênh phân phối trung bình và ngắn; các hộ tiêu dùng gạo trong kênh phân phối trực tiếp. Sô lượng người bán người mua trên thị trường cấp thấp rất đông đảo; số lượng thóc bán hoặc mua của mỗi chủ thể không đủ lớn để chi phối giá cả thị trường. Vì vậy hình thái của thị trường cấp thấp là thị trường cạnh tranh.
Sự tích tụ và tập trung đất trồng lúavào số hộ kinh doanh thành đạt trong cơ chế thị trường có thể làm giảm đi số lượng người bánthóc trên thị trường. Vì vậy sự cạnh tranh có thể suy giảm ở mức độ nào đó. Gỉa dụ: không có những giới hạn về mặt pháp luật hạn mức giao đất nông nghiệp trồng cây hàng năm cho mỗi hộ ở miền Nam không qua 3ha, ở các vùng còn lại không quá 2ha, mức thuế bổ sung đốivới phần diện tích trên hạn mức thì qúa trình tích tụ và tập trung đất đai nói trên chỉ làm giảm sự cạnh tranh chứ không thể nào dẫn tới sự độc quyền, nhất là độc quyền đơn phương trong ngành trồng lúa. Thị trường cấp thấp xét từ phía người bán luônlà thị trường cạnh tranh.
Song điều đáng lưu ý là : khối lượng thócdùng vào việc xuất khẩu gạo và hoạt độngcủa những người mua cho xuất khẩu có ảnh hưởng lớn đến giá thóc ở thị trường cấp thấp. Nếu việc mua thóc cho xuất khẩu gạo chỉ tập trung vào một hoặc một số ít người mua có thế lực trên thị trường, thì sự độc quyền cóthể xuất hiện từ bên mua gây thiệt hại cho bên bán là nông dân. Trong trường hợp này, thị trường cung về thóc không còn là thị trường cạnh tranh nữa.
Trong trường hợp bội thu mùa màng, nhất là bội thu liên tục vài năm hoặc việc xuất khẩu chậm được khai thông thì sự độc quyền có thể xuất hiện từ phía những chủ thể có khả năng chi phối bộ phận lớn của nhu cầu. Lúc này người mua lớn có thể lợi dụng tình thế mà ép giá thóc đối với nông dân. Nông dân ở thế bị động:Không bán thócthì không có vốn để tái sản xuất vụ sau. Càng được mùa, việc tiêu thụ thóc càng khó khăn. Đã xuất hiện một nghịch lý: Càng được mùa nông dân càngkém phấn khởi.Điều này đã xuất hiện trong thực tiễn, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long.
*Người bán, người mua và hình thái của thị trường cấp cao (thị trườngtiêu thụ gạo).
thị trường cấp cao mà đại diện là các trung tâm tiêu thụ lớn là các thành phốvà trung tâm công nghiệp đã xuất hiện nhiều loại người bán khác nhau như: Cửa hàng bán buôn, bán lẻ gạo của công ty lương thực quốc doanh, cửa hàng bán lẻ gạo tư nhân, các đại lý bán lẻ gạo, những phần tử trung gian bán rong, nông dân có thóc hàng hoá bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Người mua ở đây là các hộ tiêu dùng gạo và các hộ mua gạo phục vụ kinh doanh ăn uống. Trên thị trường này số lượng người bán và người mua rất lớn, lượng gạo bán và mua của mỗi người rất nhỏ không đủ sức chi phối một cách tuyệt đối giá cả thị trường. Vì vậy, trong điều kiện bình thường, hình thái của thị trường tiêu thụ gạo là thị trường cạnh tranh. Tuỳ vào kết quả mùa màng mà sự cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ gạo suy giảm ở mức độ khác nhau. Nếu sự mất mùa cục bộ xuất hiện ở Bắc bộ và Trung bộ thì số người bánở đây giảm đáng kể, những người bán rong và nông hộ có thóc hàng hoá bán trước đây nay có thể trở thành hộ mua gạo. Lượng thóc sản xuất tại chỗ tham gia vào việc thoả mãn nhu cầu sẽ giảm tới mức tối thiểu, lượng gạo từ miền Nam ra theo kênh phân phối dài và các kênh phân phối trung bình giữ vị trí quan trọng trên thị trường Bắc bộ và Trung bộ. Người nào nắm được nguồn gạo này thì họ sẽ chiếm được sự độc quyền về sản lượng gạo và về giá cả trên thị trường. Nếu các kênh phân phối gạo từ Nam ra Bắc bị gián đoạn hoặc tắc nghẽn thì thị trường lương thực Bắc._.u tiêu dùng được thị trường chấp nhận...Những kinh nghiệm về xử lý giá cả đột biến phục vụ nhiệm vụ bình ổn để ổn định đời sống.
Tham gia biên soạn tài liệu phục vụ các đợt tập huấn cán bộ quản lý, các giám đốc công ty và các cửa hàngtrưởng về chế độ chính sách và nghiệp vụ kinh doanh lương thực cho cán bộ công nhân viên.
Tổng kết tình hình thực hiện hoạt động kinh doanh, tình hình lưu thông lương thực từng thời gian. Tổng kết chuyên đề, từng khâu nghiệp vụ: mua-bán-bảo quản-xay xát-vận tải nghiên cứu; hướng dẫn xây dựng các mô hình kinh doanh liên kết giữa quốc doanh với các thành phần kinh tế khác để rút kinh nghiệm nhằm phát triển kinh doanh có hiệu quả.
Nghiên cứu những kinh nghiệm hoạt động kinh doanh lương thực và chính sách lương thực của các nước trên thế giới, nhất là khu vực Đông Nam á. Đề xuất vấn đề giúp cho ngành lương thực Việt Nam phát triển tốt hơn và phấn đấu bảo đảm điều kiện để thực hiện chương trình an toàn lương thực quốc gia.
Những giải pháp chủ yếu trên có mỗi quan hệ với nhau, có những giải pháp về mở rộng thị trường theo chiều rộng, có những giải pháp mở rộng thị trường theo chiều sâu. Tổ chức tốt và nâng cao chất lượng sản phẩm, ổn định giá cả, mở rộng thông tin thị trường, củng cố vai trò của các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh lương thực. Đồng thời tăng cường vai trò quản lý nhà nước.
Tất cả các biện pháp trên, mỗi biện pháp có vị trí nhất định song chúng có quan hệvới nhau trong đó vấn đề mở rộng thị trường và tăng cường sự quản lý của nhà nước là các vấn đề quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh lương thực ở nước ta trong cơ chế thị trường.
-Các hộ nông dân sản xuất lương thực
-Nông trường sản xuất lương thực
Các
tỉnh Thành phố
Các
Hiệp
hội
Các
Bộ Ngành khác
Bộ
Tài
chính
Bộ Kế hoạch
và đầu
tư
Bộ
Thương
mại
Bộ
Nông
Nghiệp&Phát
Triển
Nông
thôn
Chính phủ
Quốc doanh lương thực
Các doanh nghiệp nhà nước khác kinh doanh lương thực
Tư nhân KD lương thực
Các thành phần kinh tế khác kinh doanh lương thực
Dự trữ quốc gia
Quan hệ quản lý của Nhà nước đối
Với doanh nghiệp
Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan
quản lý
Quan hệ tư vấn của Hiệp hội
Quan hệ mua bán kinh doanh của doanh nghiệp, của dự trữ quốc gia với người sản xuất
B- Một số giải pháp tình thế
Trong thị trường lương thực thường xuất hiện nhiều tình thế khác nhau song có hai trạng thái Đó là trạng thái cân bằng thừa và trạng thái cân bằng thiếu.
1.Với trạng thái cân bằng thừa.
Trạng thái cân bằng thừa thường bộc lộ trên thị trường với những dấu hiệu sau đây:
-Mức giá giảm xuống thấp hơn mức giá chuẩn, thậm chí có trường hợp còn thấp hơn cả chi phí sản xuất. Mức giá này tồn tại trong thời gian tương đối dài và ngay cả trong thời kỳ giáp hạt cũng không có hiện tương tăng lên. Đồng thời giá cả của thóc gạo cũng trở nên thấp tương đối so với giá cả hàng hoá khác.
-Có sự dư thừa thóc ở các đồng bằng lớn, việc tiêu thụ thóc của nôngdân gặp khó khăn.
-Xuất hiện sự ngưng trệ ách tắc trong các kênh phân phối thóc gạo do các phần tử trung gian trong kênh giảm cường độ buôn bán.
Trong trường hợp này cần áp dụng các giải pháp sau đây:
+ Xuất vốn dự trữ lưu thông bằng tiền mua thóc chuyển thành hiện vật. Huy động các nguồn tiền nhàn rỗi để tăng quy mô khối lượng quỹ dự trữ lưu thông.
+Tiến hành mua đổi hạt cho quỹ dự trữ quốc gia cùng lúc với mua cho quỹ dự trữ quốc gia. Tăng ngân sách quốc gia cho việc mua thóc để tăng quy mô cho quỹ dự trữ quốc gia về lương thực.
+ Mở rộng diện cấp quota xuất khẩu gạo, giảm hoặc miễn thuế xuất khẩu gạo ( trong phạm vi luật định) nhằm khuyến khích tăng khối lượng gạo xuất khẩu chính ngạch.
+Giảm hoặc miễn thuế xúât khẩu tiểu ngạch, áp dụng những biện pháp hỗ trợ nhằm thúcđẩy việc xuất khẩu gạo tiểu ngạch qua biên giới sang các nước láng giềng, nhất là sang Trung Quốc.
+Tập trung vốn cho nông dân ở hai đồng bằng vay với lãi suất ưu đãi phục vụ kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Sự kịp thời và nhanh chóng trong việc cho vay vốn đã giúp nông dân thoát khỏi tình trạng buộc phải bán thóc ngay sau khi thu hoạch để có tiền đầu tư cho vụ sản xuất tiếp theo. Điều đó đem lại kết quả hai mặt: một mặt nó hạn chế bớt sự ép giá của các phần tử trun gian đối với nông dân. Qua đó góp phần lành mạnh hoá sự diễn biến của giá thóc, mặt khác nó tạo điều kiện cho chính nông dân tham gia vào việc dự trữ lưu thông, điều hoà lượng thóc cung ứng ra thị trường.
+Chính phủ công bố mức giá mua thóc tối thiểu cho từng vụ ở hai đồng bằng lớn. Mức giá này được xác địnhdựa vào mức giá chuẩn có tính đến tình hình thực tế ở từng địa phương. Thời điểm thích hợp để công bố mức gía mua thóc tối thiểu là lúc mà giá thóc trên thị trường xuống ngang với mức chi phí sản xuất thóc ở mỗi vùng. Mức giá tối thiểu này phải có tính pháp lệnh cao ở hai vựa lúa lớn của đất nứơc kể từ khi nó được công bố. Tất cả những ai muốn mua thóc ở đây đều phải mua theo mức giá bằng hoặc cao hơn mức giá tối thiểu đã công bố. Mức giá mua thóc tối thiểu phải được công bố rộng rãi ở hai đồng bằng lớn, nhằm hạn chế sự ép cấp ép giá của các chủ thể làm nhiệm vụ mua thóc cho dự trữ quốc gia và dự trữ lưu thông , qua đó để nhận phần chênh lệch giá về cho mình. Trong thời gian có hiệu lực của giá tối thiểu cần tăng cường công tác kiểm tra thanh tra thực hiện mức giá.
Khi giá thóc trên thị trường đã tăng lên xấp xỉ với giá chuẩn, Chính phủ có thể điều chỉnh lên giá tối thiểu mua thóc cao hơn giá chuẩn ở mỗi vùng. Sự điều chỉnh này sẽ gây hiệu ứng tâm lý thúc đẩy nhanh quá trình tăng giá thóc trên thị trường bằng hoặc cao hơn mức giá cân bằng tích cực. Khi quá trình này được hoàn tất thì thời gian có hiệu lực của mức giá mua thóc tối thiểu cũng chấm dứt, các giải pháp tình thế được thu hồi dần. Thời gian sau đó chỉ còn áp dụng những giải pháp để duy trì trạng thái cân bằng tích cực đã được tái lập.
Có một vấn đề đã từng xảy ra trong thực tiễn phải xử lý là: sự “lệch pha” trong biến động giữa giá thóc với giá các tư liệu sản xuất cho ngành trồng lúa. Co những lúc giá vật tư quan trọng như phân đạm, công cày máy, xăng, thuốc trừ sâu v.v... tăng lên trong khi đó giá thóc lại không tăng hoặc giảm xuống. Điều này gây nên sự bất lợi cho nông dân và ảnh hưởng đến sự tăng trưởng ổn định của ngành trồng lúa.
Hướng xử lý căn bản và lâu dài là: phải áp dụng những giải pháp nhằm ổn định thị trường và giá cả tư liệu sản xuất nông nghiệp. Trong lúc chưa đạt được điều đó thì có thể xử lý bằng cách phản ánh sự tăng giá của các tư liệu sản xuất nông nghiệp vào giá thành làm căn cứ cho mức giá mua thóc tối thiểu vừa trình bày ở trên.
2. Với trạng thái cân bằng thiếu.
Khí mất mùa đáng kể hoặc mất mùa liên tục trong nhiều vụ thì trên thị trường xuất hiện những dấu hiệu sau đây của trạng thái cân bằng thiếu:
- Cuộc cạnh tranh giữa những người mua thóc gạo ở thị trường cấp thấp trở nên sôi động.
- Các phần tử trung gian ở các kênh phân phối dài và trung bình ( nhất là những chủ thể kinh doanh có vốn lớn) thường áp dụng “mua vào lớn hơn bán ra về khối lượng thóc”.
-Gýa thóc và gạo trên thị trường tăng nhanh cùng với những cơn “sốt cao”.
- Những người bán lẻ thóc gạo giảm việc buôn bán gạo. Gýa gạo và giá thóc tồn tại ở mức cao trong thời gian tương đối dài (hàng tháng).
Trong trường hợp này cần áp dụng các giải pháp sau đây:
+ Giảm lưu lượng thậm chí tạm dừng việc mua đổi hạt cho dự trữ quốc gia. Tạm hoãn kế hoạch mua tăng khối lượng cho quỹ này. Tạm ngừng việc mua thóc cho dự trữ lưu thông. Gứai pháp này có tác dụng làm giảm lượng cầu xuất hiện trên thị trường.
+ Chính phủ công bố giá bán lẻ gạo tối đa( giá trần) tại các thị trường chính tiêu thụ gạo căn cứ vào giá bán lẻ chuẩn về gạo xác định cho thị trường vùng Bắc Bộ và vùng Nam Bộ. Hướng dẫn và uỷ quyền cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh thuộc vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên, Trung Bộ và Đông Nam Bộ xácđịnh và công bố giá bán lẻ gạo tối đa tại các tụ điểm tiêu thụ gạo thuộc tỉnh mình.
+ Đảm bảo việc cung ứng gạo thường xuyên vàđều đặn theo mức giá thấp hơn giá công bố cho các thị trường tiêu thụ chính như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Mức giá tối đa phải được công bố rộng rãi tại các thị trường tiêu thụ gạo nhằm ngăn chặn các tư thương buôn bán nhỏ lợi dụng tình thế để hưởng chênh lệch giá. Nguồn của các lượng gạo bán ra tại các thị trường chính là dự trữ lưu thông và một phần dự trữ quốc gia (khi cần thiết).
Nhà nước cần xem xét cách thức và mức bù lỗ cho các đơn vị lưu thông thóc gạo được giao nhiệm vụ bình ổn giá cả và thị trường thóc gạo.
+Tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, mọi phần tử trung gian cạnh tranh trên thị trường khai thác các nguồn lương thực ( kể cả nhập khẩu tiểu ngạch) để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
+ Nhà nước cần ban bố và áp dụng chế độ thuế tồn kho lương thực (trừ lượng thóc của dự trữ quốc gia) và áp dụng những biện pháp chống đầu cơ tích trữ thóc gạo, chống độc quyền và cửa quyền trong khâu bán buôn bán lẻ gạo.
+ Giảm khối lượng xuất khẩu bằng cách áp dụng thuế xuất khẩu gạo tối đa theo luật định cộng với chế độ tài chính bổ sung, khống chế khối lượng xuất qua việc cấp giấy phép xuất khẩu. Trong trường hợp đặc biệt như: mặc dù giá thóc ở thị trường trong nước đã lên cao, mức thuế xuất và chế độ phụ thu tài chính đã áp dụng ởmức tối đa, nhưng trong thực tế lượng gạo xuất khẩu vẫn chưa giảm theo ý đồ của Nhà nước thì có thể áp dụng chế độ đấu thầu lượng gạo xuất khẩu cho phép còn lại với những điều kiện do Chính phủ đặt ra.
Sau một thời gian áp dụng các giải pháp nói trên, nhưng tình hình vẫn căng thẳng, giá gạo trên thị trường tiếp tục tăng thì tạm ngừng việc xuất khẩu gạo, tiến hành “khoá” việc cấp giấy phép xuất khẩu, thu hồi giấy phép đã cấp nhưng chưa thực hiện khối lượng xuất khẩu. Nghiên cứu để có chế độ bồi thường thiệt hại cho các doanh nghiệp xuất khẩu do bị xoá bỏ hợp đồng xuất.
Nếu tình hình tiếp tục căng thẳng thì tiến hành nhập khẩu lương thực ( cả chính ngạch và tiểu ngạch) thi hành chính sách phân phối lương thực hạn chế gắn liền với việc quy định trực tiếp mức giá bán lẻ gạo cho từng đối tượng tiêu dùng.
Cùng với quá trình áp dụng những giải pháp thị trường, Chính phủ cần áp dụng những giải pháp giảm nhẹ hậu quả của thiên tai đối với ngành trồng lúa nhằm nhanh chóng phục hồi trở lại của cung sản xuất, tạo ra cơ sở để tái lập trạng thái cân bằng tích cực trên thị trường thóc gạo.
III-Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy kinh doanh lương thực ở Việt Nam.
1. Để đẩy mạnh tiêu thụ lương thực.
a. Một số nguyên nhân của những khó khăn trong tiêu thụ lương thực hiện nay.
Thứ nhất: Lương thực hàng hoá Việt Nam chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu thị trường. Thực tế cho thấy mức đầu tư của chúng ta chưa đủ mạnh, nhất là ở khâu chế biến để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với những điều kiện quy định về tiêu dùng của thị trường thế giới . Công nghiệp chế biến còn chưa thực sự quan tâm đến việc tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu. Điều đódẫn đến lương thực hàng hoá Việt Nam bán ra thị trường thế giới luôn thấp hơn các nước khác.
Thứ hai: Sức mua lương thực trong nước còn thấp, thị trường trong nước hiện đang tiêu thụ khoảng 77% lúa gạo sản xuất ra. Nhìn chung sức mua trong nước còn rất thấp do nông dân mang nặng tính tự cung tự cấp, thu nhập của họ cũng ở mức thấp , trong khi dân cư phi nông nghiệp chiếm 1/4dân số, với thu nhập cũng rất hạn chế. Điều này cũng hạn chế sức mua lương thực song điều này cũng hé mở một tiềm năng lớn, cần có giải pháp khai thác. Công nghiệp chế biến hiện nay đang rất kém cả về qui mô, trình độ công nghệ và năng lực sản xuất. Năng lực cạnh tranh của lương thực hàng hoá Việt Nam còn rất kém , nhất là về chất lượng, trình độ gia công chế biến nên giá cả luôn thấp hơn các nước khác làđiều dễ hiểu.
Thứ ba: Còn có nhiều khó khăn trong việc tổ chức tiêu thụ lương thực hàng hoá. Những khó khăn đó thể hiện trên các phương diện sau:
- Về kết cấu hạ tầng: hiện còn gây nhiều trở ngại cho việc tiêu thụ lương thực hàng hoá nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi vì ở đây đường xá chưa thuận lợi cho vận chuyển, dẫn đến chi phí vận chuyển cao. Về thị trường trong nước, đến nay có 8213 chợ, nhưng ở những vùng sản xuất lương thực lớn thì chợ vẫn chưa được đầu tư thích đáng để phục vụ tốt cho việc tiêu thụ lương thực có khối lượng lớn, mà mới chỉ dừng lại ở việc mua bán lương thực tự sản tự tiêu là chính ( chợ kiên cố mới chiếm 11,6%; chợ lều quán và ngoài trời chiếm 56,7%). ậ nhiều nơi, trung tâm thương mại thị xã, thị tứ tuy được hình thành nhưng mới trên danh nghĩa, chưa được đầu tư để trở thành các trung tâm giao dịch lương thực có hiệu quả.
- Mạng lưới tổ chức tiêu thụ lương thực còn chồng chéo qua nhiều khâu trung gian. Đây là một trong nhữngyếu tố gây nên những khó khăn trong việc tiêu thụ lương thực. Hiện nay, nước ta vẫn chưa hình thành hệ thống cung ứng vật tư hàng hoá và thu mua lương thực thống nhất với sự tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế nhằm giảm chi phí, nâng cao gia trị lương thực và tính cạnh tranh của hàng hoá. Thương nghiệp nhà nước chưa được đầu tư cả về cơ sở vật chất và năng lực kinh doanh để đủ sức phát huy vai trò điều tiết, hướng dẫn thị trường. Hợp tác xã thương mại cũng chưa được quan tâm đầy đủđể đổi mới, phát triển trên địa bàn nông thôn.
- Các chính sách kinh tế chưa thực sự trở thành đòn bẩy mạnh tác động có hiệu quả tới việc khuyến khích phát triển sản xuất lương thực hàng hoá cũng như tạo điềukiện thuận lợi cho việc lưu thông lương thực hàng hoá, khuyến khích kinh doanh lương thực trên qui mô lớn. Cụ thể là, chính sách tạo điều kiện để phát triển hợp tác xã kinh doanh thương mại phục vụ nông nghiệp, chính sách thuế, đất đai, tín dụng, tài chính... Ví dụ, dù đã có chính sách miễn thuế buôn chuyến lương thực đối với tư nhân, nhưng Nhà nước vẫn thu thúê giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp kinh doanh lương thực; doanh nghiệp tư nhân còn gặp nhiều khó khăn trong thủ tục thành lập và vay vốn; hợp tác xã thương mại không được miễn giảm thúê thu nhập doanh nghiệp như đối với hợp tác xã sản xuất; thương lái vẫn chưa được coi trọng mặc dù họ là lực lượng quan trọng trong tiêu thụ lương thực...
Đến nay chúng ta vẫn chưa xây dựng được chính sách gia nông sản xuất khẩu ở tầm chiến lược nhằm phục vụ cho việcđiều hành cụ thể, nên luôn bị động trước dĩên biến của thị trường hoặc khi có mâu thuẫn về quyền lợi giữa nông dân và doanh nghiệp trong tiêu thụ lương thực.
- Công tác thông tin nhất là khâu dự báo và xúc tiến thương mại đối với nông sản chưa được quan tâm đúng mức. Hiện nay, trên các phương tiện thông tin và hệ thống khuyên nông, chúng ta đã tổ chức tốt công tác phổ biến kỹ thuật trồng trọt các giống cây mới, những thông tin về giá bán trên thị trường, nhưng chúng ta lại chưa chú ý đến truyền bá về yêu cầu chất lượng của các mặt hàng xuất khẩu, về cơ cấu hợp lý trong quy hoạch phát triển, về nhu cầu tiêu dùng và kinh doanh cụ thể của từng thị trường với từng mặt hàng, chưa chú trọng công tác dự báovà những cảnh báo cần thiết... Vì thế, dẫn đến tình trạng nông dân sản xúât sản phẩm theo kiểu “phong trào”, nhà kinh doanh cũng không gắn kết với sản xuất để đầu tư liên kết lâu dài, mà chỉ khi khách hỏi mua mới bắt đầu khai thác nguồn hàng. Công tác tiếp thị khách hàng nước ngoài còn nhiều yếu kém; doanh nghiệp trong nước kém năng động; các dịch vụ thương mại chưa được quan tâm phát triển; nội dung hoạt động của các hiệp hội ngành hàng còn hạn chế... đều cản trở hoạt động xúc tiến thương mại hàng hoá lương thực.
Ngoài ra, trình độ của lao động nông nghiệp thấp ( hiện có trên 90% lao động nông nghiệp chưa được đào tạo) diễn biến giá cả trên thị trường thế giới và trong nước những năm gần đây gây nhiều bất lợi cho nông dân ( giá lương thực có xu hướng hạ trong khi giá hàng công nghệ phẩm vật tư nông nghiệp có xu hướng tăng ) càng gây khó khăn trong việc tiếp cận thị trường và tổ chức tiêu thụ hàng hoá lương thực.
Như vậy, hiện nay chúng ta đang đứng trước nhiều vấn đề cần giải quyết ở cả ba mặt: sản xuất- tiêu thụ- kích cầu ở khu vực nông thôn để đẩy mạnh việc tiêu thụ lương thực, tạo động lực phát triển sản xuất và nâng cao thu nhập cho nông dân, vì vậy trong thời gian tới chúng ta cần thực hiện một số giải pháp cụ thể, thiết thực.
b) Giải pháp để đẩy mạnh tiêu thụ lương thực hàng hoá.
Trước hết, tổ chức thị trường tiêu thụ lương thực hàng hoá phải bắt đầu từ khâu tổ chức sản xuất. Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, phải theo hướng sản xuất hàng hoá có năng suất cao và chất lượng phù hợp nhu cầu của thị trường. Đầu tư mạnh vào đổi mới công nghệ chế biến nhằm nâng cao chất lượng và giá trị lương thực hàng hoá trên cơ sở hướngdẫn nông dân sơ chế bảo đảm chất lượng nguyên lương thực hàng hoá. Lấy nhu cầu thị trường làm tín hiệu để có kế hoạch tạo nguồn, chế biến bảo quản, cung ứng ra thị trường kịp thời vàđầy đủ.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chính sách khuyến khích sản xuất, kinh doanh lương thực. Khuyến khích mọi tổ chức cá nhân có đủ điều kiện tham gia sản xuất chế biến và kinh doanh lương thực. Cần miễn thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp cho mọi đối tượng hoạt động chế biến, vận chuyển vàkinh doanh lương thực có thời hạn ( đến 2010 hay 2006) để tập trung nâng cao chất lượng vàđầy mạnh tiêu thụ lương thực. Đổi mới chính sách tài chính, tín dụng (đơn giản hoá các thủ tục, mở rộng diện cho vay...), triển khai việc bán hàng trả góp, trả chậm vật từ nôngnghiệp, cho vay làm nhà, mua hàng trị giá cao... qua hợp đồng tín dụng. Thực hiện chính sách không thu thuế sử dụng đất nông nghiệp đổi vơí nông dân để tăng sức mua và nâng cao đời sông nông dân.
Thứ ba, quan tâm xây dựng kết cấu hạ tầng. Cần đưa việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ lưu thông lương thực là chợ trung tâm giao dịch lương thực, kho hàng và các cửa hàng thu mua lương thực và bán vật tư nông nghiệp... vào hạng mục đầu tư của Nhà nước theo kế hoạch như các công trình kết cấu hạ tầng nông thôn khác hiện nay (đường, điện, trạm y tế, trường học...)
Thứ tư, điều chỉnh hệ thống chính sách nhằm tạo thuận lợi phát triển tiêu thụ lương thực. Chính sách nhập khẩu phải giải quyết được mối quan hệ giữa hướng về xuất khẩu và sản xuất thay thế nhập khẩu. Nếu thực hiện được tốt việc sản xuất thay thế nhập khẩu thì không những phục vụ được thị trường nội địa, mà trong nhiều trường hợp, còntạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu, làm cho xuất khẩu có hiệu quả hơn. Chính sách thị trường xuất khẩu, một mặt cần khai thác tài nguyên sinh học đa dạng của Việt Nam, phát huy lợi thế của một nền nông nghiệp nhiệt đới ; mặt khác cần giải quyết mối quan hệ giữa “bảo hộ” và “cạnh tranh” cho phù hợp với tiến trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Tổ chức có hiệu quả các quỹ hỗ trợ sản xuất lương thực. Chính sách đốivới thị trường trong nước cần tập trung tìm các giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước, thực hiện tốt biện pháp kích cầu tiêu dùng, khắc phục tình trạng sản xuất dư thừa, sản phẩm tồn đọng trong khi sức mua lại hạn chế. Nhìn chung định hướng của các giải pháp đối với thị trường trong nước nên là: tiếp tục thực hiện tự do lưu thông hàng hoá; xoá bỏ tình trạng kiểm tra, kiểm soát tuỳ tiện trên đường vận chuyển; hoạt động của các ngành công an, thuế, quản lý thị trường phải tạo đìêu kiện hơn nữa cho lương thực hàng hoá lưu thông giữa các vùng, miền;giảm bớt phí cầu, đường và các loại phí khác đối với hàng hoá lương thực...
Thứ năm, tổ chức tốt thị trường và hoạt động lưu thông hàng hoá lương thực. Tiếp tục nâng cao vai trò kinh tế của Nhà nước trên cơ sở phát huy tính tích cực của các thành phần kinh tế khác, nhất là kinh tế hợp tác trên địa bàn nông thôn. Trong nền kinh tế thị trường, việc tổ chức lưu thông hàng hoá phải bảo đảm sự tham gia bình đẳng của nhiều ngành ( nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, tài chính, ngân hàng), của các thành phần kinh tế và của cả người sản xuất trên thị trường, đồng thời phải đảm bảo hàng hoá lưu thông với chi phí ít nhất. Vì vậy, khi tổ chức các kênh lưu thông phải bảo đảm hình thành các mối liên kết dọc, loại bỏ bớt những khâu trung gian, tạo mối liên kết ngang, gắn sản xuất với thị trường, giữa sản xuất và lưu thông, giữa thương nghiệp nhà nước và các thành phần kinh tế khác theo hướng liên kết cộng đồng trách nhiệm ( thông qua hợp đồng kinh tế). Trên cơ sở đó, hình thành một mạng lưới đại lý với các mô hình hoạt động có hiệu quả của các chủ thể kinh doanh trên từng địa bàn, có đủ điều kiện hỗ trợ nhau trong sản xuất , chế biến, kinh doanh, tiêu thụ lương thực, từ đó tác động kích cực trở lại đến quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất, tạo điều kiện cho người sản xuất nắm bắt được mọi biến động của thị trường... Nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư mạnh hơn nữa để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hợp tác xã thương mại và tư nhân phát triển kinh doanh ở địa bàn nông thôn, miền núi.
Thứ sáu, đẩy mạnh công tác thông tin và xúc tiến thương mại. Trong giai đoạn tới, công tác thông tin phải làm chuyển hướng được nhận thức của người sản xuất. Cụ thể là, trước khi sản xuất, họ phải nghĩ tới thị trường tiêu thụ; khi nghiên cứu về giống cây trồng phải xuất phát từ nhu cầu thị trường. Công tác thị trường phải cố gắng hạn chế rủi ro cho nhà sản xuất,kinh doanh. Phát triển mạnh các dịch vụ về thị trường. Từng bước ứng dụng thưong mại điện tử trong giao dịch. Ngoài ra, cần phát huy hơn nữa vai trò của các hiệp hội ngành hàng trong hoạt động xúc tiến thương mại. Để ngăn ngừa các hiện tượng không có lợi cho sản xuất nông nghiệp, hiệp hội ngành hàng phải vườn lên đủ sức hỗ trợ cho các doanh nghiệp và người sản xuất như ổn định giá vật tư đầu vào ở từng vùng; tích cực trong việc phối hợp kinh doanh và hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên tìm kiếm thị trường; xây dựng và thoả thuận các chương trình hành động nhằm bảo vệ , nâng cao uy tín cũng như quyền lợi chung của hiệp hội, của mỗi thành viên và của quốc gia trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế
Với những giải pháp trên, hy vọng thị trường lương thực nước ta sẽ mở rộng từng bước, góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp, tạo công ăn việc làm , nâng cao đời sống của dân cư nông thôn, thúc đẩy nhanh hơn nữa sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nông thôn nước ta.
2) Làm gì để đẩy mạnh xuất khẩu lương thực năm 2004
Năm qua Việt Nam xuất 3,89 triệu tấn gạo, nhu cầu thế giới đang tăng mạnh, đó là cơ hội cho Việt Nam nhưng khó khăn không ít.
Cơ hội đã mở ra nhiều hướng. 7 Hiệp định thương mại đã được ký trong vài năm gần đây đã lần lượt tác động tới mở rộng và chuyển dịch cơ cấu thị trường với nhiều khu vực mới, địa chỉ xa.
Hệ thống chính sách khuyến khích hình thành khá đồng bộ, ngày càng thấm tạo kết quả rõ rệt. Quyền kinh doanh xuất khẩu trước đây chỉ giới hạn đến doanh nghiệp nay được mở rộng đến tất cả thương nhân.
Xúc tiến thương mại được quan tâm bằng cơ chế mở bằng cả điều kiện tài chính và vật chất. Doanh nghiệp năng động triển khai vừa mang lại hiệu quả tức thời vừa làm tiền đề cho thời gian tới.
Hoà nhịp còn có sự khởi sắc về ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử. Trang Web của Bộ Thương mại được cải tiến và cấp nhật phong phú hơn. Xuất hiện nhiều “chợ ảo”. Mạng thông tin thương mại (VINANET) được nối với 61/61 Sở Thương mại, Sở Thương mại du lịch. Vận hành tốt trang chủ quốc gia Việt Nam (Asemconnect Vietnam.gov.vn) trên mạng nhịp cầu á- Âu. Trang chủ này từ 1/7/2003 đã được tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) công nhận là National Site của Việt Nam, mở ra triển vọng trong việc nối kết với thế giới, tạo thuận lợi cho việc tìm kiếm tạo thị trường xuất khẩu gạo.
Cần có thời gian để phân tích kỹ những thuận lợi đó, song tại thời điểm này nên nhận rõ những tồn tại chưa thể khắc phục và những khó khăn mới ập đến.
Xuất khẩu chưa bền vững. Sự chuyển dịch cơ cấu thị trường ở một khía cạnh nào đấy lại bộc lộ yếu tố tự phát, phần vì chạy theo trước mắt, có mới nới cũ, mở được thị trường mới với mức độ cao, nhưng lại không duy trì địa bàn truyền thống. Vả lại để nâng cao sức cạnh tranh không đơn giản, nên với tâm lý dễ làm khó bỏ, ít có bạn hàng tâm huyết. Tâm lý ấy còn ảnh hưởng đến việc chuyển dịch cơ cấu rằng chỉ nhằm vào mặt hàng đắt khách tức thời chưa có chiến lược lâudài về mặt hàng cộng với sự phân tán khiến chưa thể có mặt hàng tập trung cao đồng đều chất lượng đáp ứng đơn hàng lớn.
Giao nhận, kho bãi, vận tải nội địa, bưu chính viễn thông, điện, nước... chưa hấp dẫn về thể thức, chất lượng, giá cả. Chí phí nguyên liệu phụ do côngnghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều. Chi phí trung gian chưa giảm. Thủ tục hành chính chưa hết rườm rà. Nguồn thông tin tuy nhiều nhưng mới chỉ đáp ứng được yêu cầu mang tính đại chúng, giới thiệu tiềm năng thiếu thông tin đã qua xử lý, dự báo, hỗ trợ đích thực cho doanh nghiệp.
Các tồn tại chưa thể ngày một ngày hai khắc phục thì khó khăn lại ập đến.
Vởy cần phải làm gì đểđẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới?
+Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu sản xuất hướng về xuất khẩu. Tưng địa phương, từng đơn vị xác định đầu tư vào loại lương thực có chất lượng cao; thực hiện tốt Quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu thụ hàng hoá qua hợp đồng, thiết lập quan hệ bền chặt giữa nhà nông-nhà chế biến-nhà xuất khẩu.
+Triển khai đồng bộ các chính sách khuyến khích tối đa xuất khẩu, thực hiện chế độ ưu đãi đối với vật tư, nguyên liệu trong nước cung ứng cho xuất khẩu lương thực; cung cấp tín dụng ưu đãi nông dân và các đơn vị kinh doanh xuất khẩu lương thực, hỗ trợ các hợp đồng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng. Tiếp tục rà soát các qui chế quản lý, bãi bỏ thủ tục phiền hà, chi phí bất hợp lý, thêm cửa khẩu thông quan hàng hoá miễn là có kiểm soát.
+Cần tăng cường về chất lượng cũng như giá cạnh tranh. Quy hoạch để đồng bằng sông Cửu Long có vùng chuyên sản xuất gạo chất lượng cao để xuất khẩu chừng 1 triệu tấn.
+Tíêp tục thực hiện phương châm đa phương hoá thị trường xuất khẩu. Duy trì thị trường trọng điểm châu á, nhưng không để phụ thuộc thái quá vào thị trường này. Đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO, triển khai sớm các Hiệp định thương mại mới ký, tranh thủ sự hợp tác và hợp tác kỹ thuật đảm bảo tính công bằng trong thương mại quốc tế. Tăng cườngphối hợp giữa các Bộ, ngành để nâng cao khả năng nhận biết và ứng phó với rào cản phi thuế quan.
+Triển khai chương trình XTTM trọng điểm quốc gia đến năm 2004 với 2 điểm nhấn là mặt hàng trọng điểm và thị trường trọng điểm, vận dụng sát sao tác động ngay đến xuất khẩu. Xây dựng sàn giao dịch nông sản quốc gia về gạo tại Cần Thơ (cà phê tại Đắc Lăc, lạc tại Nghệ An), vừa chủ động tạo nguồn hàng lớn cho xuất khẩu vừa tạo bộ mặt mới cho thị trường trong nước. Ra đời sớm trung tâm giới thiệu hàng xuất khẩu tại Nga, Hoa Kỳ và Dubai. Nâng cao năng lực tiếp nhận và xử lý, dự báo thông tin cả các cấp quản lý, hiệp hội, cho doanh nghiệp và các nhà sản xuất đểđịnh hướng kinhdoanh và tìm bạn hàng. Mở mang với chất lượng cao và giá cả hấp dẫn các dịchvụ giao nhận, vận tải, bưu chính viễn thông, bảo hiểm, điện, nước.Tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài. Tiến thêm một bước trong việc phát triển thương mại điện tử.
+Ban hành cơ sở pháp luật, đổi mới hoạtđộng để củng cố và phát triển ngành hàng làm đầu mối cho các doanh nghiệp hợp tác sản xuất, mở rộng thị trường, cung cấp thôngtin, bảo hiểm rủi ro và bảo vệ quyền hợp pháp. Hình thành quĩ hỗ trợ phát triển thị trường trên cơ sở đóng góp tài lực của các doanh nghiệp để xử lý nảy sinh kể cả dỡ bỏ rào cản. Duy trì giao ban xuất khẩu địnhkỳ giữa các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp sớm phát hiện khúc mắc, tháo gỡ ngay.
+Cuối cùng, nhưng quan trọng là mỗi doanh nghiệp tự chuẩn bị thế và lực của mình sẵn sàng chấp nhận đua tranh trên thương trường, trên mỗi sản phẩm cũng như của toàn doanh nghiệp. Một mặt đầu trang thiết bị mới. Mặt khác có đội ngũ chuyên gia khai thác, phân tích thông tin. Rốt ráo trong việc xây dựng thương hiệu đi đôi với việc không ngừng cải tiến chất lượng đểduy trì lợi ích lâu dài.
Kết luận
Lương thực là loại thức ăn cơ bản và chủ yếu của nhân loại. Lương thực bao gồm nhiều loại, trong đó lúa gạo là loại lương thực chủ yếu, nhất là đối với các nước châu á, châu Phi.
Trong những năm gần đây thị trường lương thực thế giới luôn có những đặc điểm, đó là: tính thời vụ trong trao đổi, buôn bán thông qua hiệp định giữa Chính phủ các nước trở thành phương thức chủ yếu, số lượng những chủ thể xuất nhập khẩu luôn thay đổi... Đối với Việt Nam, thị trường lương thực cũng có nhiều đặc điểm có tácđộng mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh lương thực. Trước hết việc sản xuất lúa gạo được thực hiện và phát triển ở các vùng trong cả nước, đặc biệt là hai đồng bằng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long. Thị trường lương thực trong điều kiện kinh tế thị trường, còn ở trạng thái sơ khai và được thực hiện qua nhiều kênh khác nhau, trong đó có nhiều chủ thể tham gia.
Do những đặc điểm của thị trường lương thực Việt Nam nên hoạt động kinh doanh lương thực trong thời gian qua có những nét đặc thù sau:
Trước hết là về bộ máy quản lý của ngành kinh doanh lương thực còn cồng kềnh, kém hiệu quả. Nhà nước có can thiệp vào thị trường lương thực thông qua một số chính sách để điều tiết hoạt động kinh doanh lương thực như chính sách thu mua, điều tiết giá, động viên sản xuất lương thực ... Đặc biệt là hệ thống cung ứng, thu mua lương thực đã được từng bước đổi mới; Hoạt động xuất khẩu có bước tiến mới.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động kinh doanh lương thực nói chung,gạo nói riêng không tránh khỏi khó khăn lúng túng nhất là việc điều tiết của Nhà nứơc đối với thị trường lương thực chưa hiệu quả.
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh lương thực trong cơ chế thị trường cần phải thực hiện một loạt các biện pháp như tìm kiềm khai thác, mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu. Thực hiện tăng số lượng và chất lượng của sản phẩm, thực hiện điều tiết giá có hiệu quả, đảm bảo có lợi cho người sản xuất lương thực, tăng cường thông tin thị trường và phát huy vai trò của các doanh nghiệp nhà nước làm nhiệm vụ kinh doanh lương thực. Đặc biệt cần tiếp tục đổi mới sự quản lý của Nhà nứơc để đảm bảo thị trường ổn định và đúng hướng.
mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33778.doc