Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân ở hai xã vùng sâu huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên

Tài liệu Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân ở hai xã vùng sâu huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên: ... Ebook Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân ở hai xã vùng sâu huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên

pdf89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2187 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân ở hai xã vùng sâu huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA --  -- Dƣơng Xuân Hùng THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ VỆ SINH MÔI TRƢỜNG CỦA NGƢỜI DÂN Ở HAI XÃ VÙNG SÂU HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC THÁI NGUYÊN 2008 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA --  -- Dƣơng Xuân Hùng THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ VỆ SINH MÔI TRƢỜNG CỦA NGƢỜI DÂN Ở HAI XÃ VÙNG SÂU HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN Chuyên ngành Y học dự phòng Mã số: 60.72 .73 LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC Hƣớng dẫn khoa học PGS.TS Đàm Khải Hoàn THÁI NGUYÊN – 2008 MỤC LỤC Trang ĐẶT VẤN ĐỀ 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN 3 1.1. Tình hình vệ sinh môi trường. 3 1.1.1. Các khái niệm cơ bản. 3 1.1.2. Tình hình vệ sinh môi trường. 4 1.2. Những yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường. 11 1.2.1 Một số khái niệm về kiến thức, thái độ, thực hành 11 1.2.2 Một số vấn đề về thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường của người dân 13 1.2.3 Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường. 14 Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 21 2.1 Đối tượng nghiên cứu 21 2.2 Địa điểm nghiên cứu 21 2.3 Thời gian nghiên cứu 22 2.4 Phương pháp nghiên cứu 22 2.4.1. Phương pháp chọn mẫu 23 2.4.2. Chỉ số nghiên cứu 23 2.4.3. Kỹ thuật thu thập thông tin và công cụ nghiên cứu 27 2.4.4. Phương pháp khống chế sai số 28 2.4.5. Phương pháp xử lý số liệu 28 2.4.6. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu 29 Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 30 3.1. Tình hình chung ở các điểm điều tra 30 3.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường của người dân tại các xã nghiên cứu 33 3.3. Một số yếu tố liên quan đến thực hành vệ sinh môi trường của người dân ở các điểm điều tra 39 3.4 Một số kết quả nghiên cứu định tính. 43 Chƣơng 4: BÀN LUẬN 47 4.1. Tình hình kinh tế văn hoá xã hội ở các điểm điều tra 47 4.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân ở hai xã điều tra. 51 4.3. Mối liên quan giữa các yếu tố với thực hành về vệ sinh môi trường của người dân 57 KẾT LUẬN 71 KHUYẾN NGHỊ 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO 73 PHỤ LỤC 79 CÁC CHỮ VIẾT TẮT BĐBV : Biết đọc biết viết BVTV : Bảo vệ thực vật CS : Cộng sự ĐTNNNTTS : Điều tra nông nghiệp nông thôn và thủy sản HX : Hố xí KAP : Knowledge Attitude Practice (Kiến thức, thái độ, thực hành) PTTT : Phương tiện truyền thông TC : Tiêu chuẩn TH : Tiểu học THCS : Trung học cơ sở UNEP : United Nations Evironment Programme (Chương trình môi trường Liên hiệp quốc) UNICEF : United Nation Children's Fund (Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc) VS : Vệ sinh VSMT : Vệ sinh môi trường WHO : World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới) DANH MỤC CÁC BẢNG Thứ tự Tên bảng Trang Bảng 3.1 Phân bố đối tượng điều tra theo tuổi. 30 Bảng 3.2 Thông tin về các đối tượng điều tra 31 Bảng 3.3 Nguồn truyền thông về vệ sinh môi trường 32 Bảng 3.4 Kết quả điều tra về nguồn nước 33 Bảng 3.5 Kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về nguồn nước. 34 Bảng 3.6 Kết quả điều tra về quản lý phân 35 Bảng 3.7 KAP của người dân về quản lý phân. 35 Bảng 3.8 KAP của người dân về chuồng gia súc 36 Bảng 3.9 Thái độ và thực hành của người dân về hoá chất bảo vệ thực vật. 37 Bảng 3.10 KAP của người dân về vệ sinh môi trường 38 Bảng 3.11 Mối liên quan giữa tình hình kinh tế với thực hành vệ sinh môi trường của người dân 39 Bảng 3.12 Mối liên quan giữa phương tiện truyền thông với thực hành vệ sinh môi trường của người dân 40 Bảng 3.13 Mối liên quan giữa trình độ học vấn của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường 40 Bảng 3.14 Mối liên quan giữa lứa tuổi của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường 41 Bảng 3.15 Mối liên quan giữa giới của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường 41 Bảng 3.16 Mối liên quan giữa thành phần dân tộc của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường 42 Bảng 3.17 Mối liên quan giữa kiến thức của người dân với thực hành về vệ sinh môi tr- ường 42 Bảng 3.18 Mối liên quan giữa thái độ của người dân với thực hành về vệ sinh môi trường 43 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Thứ tự Tên biểu Trang Biểu đồ 3.1 Phân bố đối tượng theo giới 30 Biểu đồ 3.2 Tình hình kinh tế của các hộ điều tra 31 Biểu đồ 3.3 Tình hình PTTT của các hộ điều tra 32 Biểu đồ 3.4 KAP của người dân về nguồn nước 34 Biểu đồ 3.5 KAP của người dân về quản lý phân 36 Biểu đồ 3.6 KAP của người dân về chuồng gia súc 37 Biểu đồ 3.7 KAP của người dân về hoá chất bảo vệ thực vật 38 Biểu đồ 3.8 KAP của người dân về vệ sinh môi trường 39 Biểu đồ 4.1 So sánh tỷ lệ hộ gia đình có hố xí và hố xí hợp vệ sinh tại 2 xã nghiên cứu với một số nghiên cứu và điều tra khác. 52 Biểu đồ 4.2 So sánh tỷ lệ hộ gia đình có nước sạch với một số nghiên cứu khác. 55 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Vệ sinh môi trường là một trong những vấn đề được quan tâm không chỉ ở phạm vi một quốc gia, một khu vực mà đang là vấn đề được quan tâm trên phạm vi toàn cầu bởi tầm quan trọng của nó với sức khỏe con người [48]. Chính vì vậy trong các chính sách ưu tiên nhằm nâng cao đời sống cho người dân ở vùng nông thôn, vùng đặc biệt khó khăn, miền núi ở nước ta hiện nay thì vệ sinh môi trường nông thôn là một vấn đề được Đảng, Nhà nước quan tâm đặc biệt và xác định là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển khu vực này. Trong nhiều năm qua, công tác này đã liên tục được đề cập đến trong nhiều loại văn bản của Đảng, Nhà nước như nghị quyết Trung ương VIII, IX, chiến lược toàn diện về tăng trưởng xóa đói, giảm nghèo, chiến lược quốc gia về nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2000 - 2020 [5], nhằm tăng nhanh tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch và có nhà tiêu hợp vệ sinh, thực hiện mục tiêu cải thiện điều kiện sống và sức khỏe của người dân nông thôn, góp phần thực hiện công cuộc xóa đói, giảm nghèo và từng bước hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đặc biệt đối với các vùng cao, vùng sâu, vùng khó khăn, vùng dân tộc ít người [3]. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội tại khu vực vùng cao, vùng sâu, vùng khó khăn, vùng dân tộc ít người vẫn còn rất thấp kém. Mức sống chung của người dân còn thấp, trình độ dân trí chưa được nâng cao, phong tục tập quán còn lạc hậu, hệ thống đường giao thông khó khăn, điều kiện chăm sóc y tế và phúc lợi xã hội còn thiếu thốn. Bên cạnh tình trạng bệnh tật nói chung, tình trạng ô nhiễm môi trường do con người gây ra đang là vấn đề đáng lo ngại, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và sự phát triển ở những khu vực khó khăn này [1], [2], [3], [8]. 2 Huyện Đồng Hỷ thuộc tỉnh Thái Nguyên là một huyện miền núi, điều kiện về kinh tế - văn hoá - xã hội chưa được tốt, những xã vùng cao, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn của huyện đang là trăn trở của các nhà quản lý. Do địa bàn sống ở vùng xa xôi hẻo lánh, đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội của người dân ở các bản vùng cao, vùng sâu còn rất thấp, nhất là hành vi về vệ sinh môi trường [19], [20], [28]. Đây chính là lý do để chúng tôi xây dựng đề tài: “Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường của người dân ở hai xã vùng sâu huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên”. Mục tiêu nghiên cứu 1. Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường của người dân ở hai xã vùng sâu thuộc huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên 2. Xác định một số yếu tố liên quan đến thực hành vệ sinh môi trường của người dân ở hai xã vùng sâu thuộc huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. 3 Chƣơng 1 TỔNG QUAN 1.1. Tình hình vệ sinh môi trƣờng 1.1.1. Các khái niệm cơ bản * Khái niệm môi trường - Theo nghĩa rộng: Là tổng hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến một vật thể hay một sự kiện [42]. - Đối với con người: Môi trường sống là tổng hợp các điều kiện vật lý, hoá học, sinh học, kinh tế, xã hội bao quanh và ảnh hưởng đến sự sống, sự phát triển của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Môi trường bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố như độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng, bức xạ, nồng độ các chất hoá học có trong đất, nước, không khí, các vi sinh vật.... Môi trường xã hội bao gồm vấn đề chính trị, đạo đức, tôn giáo, văn hoá, pháp luật, phong tục, tập quán, văn hoá ứng xử, chính sách... Ngày nay, môi trường hài hoà với sức khoẻ gắn liền với việc sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường phát triển bền vững, đảm bảo gắn chặt phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và phát triển văn hoá [10]. *Khái niệm về sức khoẻ: Theo Tổ chức Y tế Thế giới: “ Sức khoẻ là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ đơn thuần là không có bệnh hay tật” [23]. Theo định nghĩa đó sức khoẻ bao gồm ba khía cạnh: Sức khoẻ về thân thể, sức khoẻ về tinh thần, sức khoẻ về xã hội. Cả ba mặt này làm thành một thể thống nhất tác động qua lại lẫn nhau không thể coi nhẹ một mặt nào. Một tinh thần khoẻ mạnh chỉ có được trong một cơ thể khoẻ mạnh và trong một xã 4 hội lành mạnh. Trạng thái sức khoẻ con người là tiêu chuẩn tổng hợp nhất của tình trạng môi trường. 1.1.2. Tình hình vệ sinh môi trường 1.1.2.1. Tình hình chung: Theo báo cáo Y tế Thế giới năm 2002, nước và hố xí không hợp vệ sinh đứng thứ 10 về các yếu tố đóng góp vào gánh nặng bệnh tật trong các nước đang phát triển như nước ta [9], [48]. * Về nguồn nước: Nước phục vụ cho ăn uống sinh hoạt của con người và là nhu cầu không thể thiếu được. Đồng thời nước cũng là môi trường trung gian truyền bệnh cho người, đặc biệt là các bệnh đường tiêu hoá. Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO) và Quĩ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF): Nước sạch là nước máy, giếng khoan, giếng khơi, nước mưa, nước suối được bảo vệ [9]. Với định nghĩa như vậy, báo cáo kết quả điều tra y tế quốc gia 2001-2002 đã so sánh tỷ lệ người thành thị và nông thôn được tiếp cận với nước sạch ở Việt Nam so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á: Ở thành thị nước ta có 95% dân số được tiếp cận với nước sạch, tỷ lệ này ở Thái Lan cũng là 95%, ở Philippin 92%, Indonesia 90% và Campuchia là 45%. Còn khu vực nông thôn, tỷ lệ dân số được tiếp cận với nước sạch ở nước ta là 71%, ở Thái Lan là 81%, Philippin 79%, Indonesia 69% và Campuchia là 26% [9]. Như vậy ở nước ta, tỷ lệ người ở thành thị tiếp cận với nước sạch khá cao (95%), ngang bằng với Thái Lan và cao hơn Philippin và Indonesia. Nhưng ở nông thôn, tỷ lệ này thấp hơn Thái Lan và Indonesia. Trên thế giới, theo báo cáo của UNEP về tình hình thực hiện thập kỷ cung cấp nước và vệ sinh môi trường từ năm 1990 đến năm 2000, ở thời điểm năm 2000 có 82% dân số thế giới được cung cấp nước sạch còn 18% không được cung cấp nước sạch hoặc trong tình trạng thiếu sinh hoạt và ăn uống, trong số đó 63% thuộc Châu Á và 28% ở Châu Phi, trong khi tỷ lệ này tương ứng ở Châu Mỹ và 5 Châu Âu là 7% và 2%. Điều đó cho thấy các nước đang phát triển và kém phát triển thì tỷ lệ dân số không được cung cấp nước sạch rất cao [50]. Theo qui định của Bộ Y tế nước ta: nước máy, nước mưa, nước giếng khoan, nước máng lần không có nguồn ô nhiễm trong vòng 7 m tính từ nguồn nước được coi là nước sạch. Theo qui định này thì hiện nay 80% dân số nước ta đang ăn uống bằng nguồn nước sạch. Tuy nhiên ở nước ta, nước giếng khoan, nước máng lần, nước giếng khơi nếu sử dụng để ăn uống ngay mà không qua xử lý sẽ không đảm bảo vệ sinh và không coi là nguồn nước sạch được [9]. Theo kết quả điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002: tỷ lệ người dân được sử dụng một số nguồn nước cho ăn uống và sinh hoạt ở nước ta năm 1992 như sau: 20% dân số dùng nước máy, 12% dùng nước giếng khoan, 4% dùng nước mưa, 11% dùng nước giếng khơi, 20% dùng nước sông hồ [9]. Năm 1997 tỷ lệ này tương ứng là 30,6%, 15%, 13%, 10% và 12%. Năm 2001 tỷ lệ dân số sử dụng các nguồn nước trên tương ứng là 45,9%, 16%, 21%, 14% và 10% [9]. Kết quả trên cho thấy, ở nước ta vào thời điểm năm 2001, tỷ lệ số dân sử dụng nước máy cao nhất với 45,9%; 16% dân số sử dụng nguồn nước giếng khoan và 14% sử dụng nước giếng khơi. Kết quả trên cũng cho thấy, tỷ lệ số hộ dân sử dụng nguồn nước sạch như nước máy tăng nhanh qua các năm và tỷ lệ dân số sử dụng nguồn nước sông hồ có giảm đi. Nhưng theo báo cáo của Bộ y tế chỉ 1/3 dân số xử lý nước trước khi sử dụng. Hơn 1/3 dân số dùng nước giếng khơi và nước mưa để ăn uống nhưng trong đó chỉ có 2,9% dân số sử dụng nước có xử lý, còn 23,4% dùng nước không xử lý và 8,5% dùng nước gần nguồn ô nhiễm [9]. Theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006 của Tổng cục thống kê thì cả nước có 8,28% số hộ nông thôn dùng nước 6 máy để nấu ăn (Trong đó xã miền núi là 3,03% số hộ, xã vùng cao là 2,60%). Tỷ lệ hộ dân dùng nước giếng khoan là 27,9%, giếng xây là 26,79%. Tuy nhiên tỷ lệ hộ dùng các loại nước giếng này đã qua xử lý tương ứng là 6,87% và 1,08%. Tỷ lệ hộ dân dùng nước sông, hồ, ao, nước suối để nấu ăn trong cả nước là 13,24% trong đó miền núi, vùng cao có tỷ lệ là 11,96% [40]. Như vậy, ở khu vực nông thôn tỷ lệ số hộ được tiếp cận với nước sạch thấp hơn đáng kể so với các hộ dân ở khu vực thành thị. Một số nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nguồn nước sạch hầu hết các vùng, miền ở nước ta còn thấp. Tỷ lệ chung vào năm 2002 khoảng 50%. Tỷ lệ hộ gia đình dùng nước được coi là sạch bao gồm giếng khoan và nước máy còn rất thấp (6,8% và 6,6%). Hơn một nửa (53,2%) số hộ gia đình trong các điều tra sử dụng nước giếng đào cho ăn uống và sinh hoạt, ở vùng duyên hải miền Trung tỷ lệ này là 99,5%. Đa số (66,0%) các hộ gia đình ở đồng bằng sông Cửu Long dùng nguồn nước từ sông kênh rạch. Tỷ lệ chung ở 7 vùng sinh thái được điều tra có số hộ dùng nguồn nước sạch là 15,5%. Nước từ các nguồn trên đều là nước ngầm nông bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ và vi sinh vật, có nhiều nguy cơ phát triển các bệnh dịch đường tiêu hoá khi sử dụng. Do vậy, vấn đề nguồn nước dùng cho ăn uống rất đáng được quan tâm giải quyết ở các địa phương, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long [4], [5], [7]. Về sử dụng hố xí Phân người và gia súc là yếu tố truyền nhiễm chủ yếu của nhiều bệnh nhiễm trùng, ký sinh trùng, đặc biệt là các bệnh đường ruột. Sử dụng các hố xí không hợp vệ sinh hoặc không có hố xí gây ô nhiễm môi trường tạo nguy cơ mắc bệnh hệ tiêu hóa như tiêu chảy, lỵ trực khuẩn, tả, thương hàn, viêm gan A, giun sán..., các bệnh này góp phần gây suy dinh dưỡng và thiếu máu do thiếu sắt, làm kém sự phát triển thể chất và tăng nguy cơ tử vong ở trẻ em 7 và làm giảm sức khỏe cho người lớn cũng như cộng đồng dân cư. Người chết bởi những bệnh liên quan đến tiêu chảy chủ yếu là trẻ em [9]. Theo báo cáo của tổ chức UNEP vào thời điểm năm 2002, thế giới có 2,4 tỷ người không được tiếp cận với các công trình vệ sinh, trong đó có 1,3 tỷ người ở Ấn Độ và Trung Quốc. Trong tổng số những người không được tiếp cận với nhà tiêu hợp vệ sinh thì 80% là ở Châu Á, 13% là Châu Phi, trong khi chỉ có 5% dân số Châu Mỹ Latinh và 2% dân số Châu Âu không được tiếp cận với hố xí hợp vệ sinh [50]. Như vậy khu vực các nước đang và chậm phát triển tỷ lệ số người không được tiếp cận với hố xí hợp vệ sinh rất cao, Rõ ràng đói nghèo đang đặt ra nhiều vấn đề sức khỏe đối với người dân ở khu vực này, trong đó có vấn đề vệ sinh môi trường. Cũng theo UNEP, tình hình ô nhiễm môi trường do chất thải của con người tỷ lệ nghịch với tỷ lệ số hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh, điều đó có nghĩa là tỷ lệ số hộ có hố xí cao chưa hẳn là nguy cơ ô nhiễm môi trường từ chất thải của con người đã giảm đi, mà quan trọng nó đánh giá bằng số hộ dân cư có hố xí hợp vệ sinh. Tức là chất thải của con người phải được sử lý trước khi đổ vào môi trường. Ở rất nhiều nơi trên thế giới hiện nay, nhất là các nước đang phát triển và chậm phát triển, mối liên quan giữa hệ thống vệ sinh và chất thải của con nguời đang là vấn đề cần lưu tâm [50]. Theo định nghĩa quốc tế, hố xí hợp vệ sinh bao gồm hố xí nối với cống thoát, có bể phốt, thấm dội nước, hố xí một ngăn hoặc hai ngăn. Còn hố xí không hợp vệ sinh là xô được đổ hàng ngày, hố xí chung hoặc hố xí công cộng, hố xí lộ thiên [9]. Theo định nghĩa này, kết quả điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002 cho thấy tỷ lệ người thành thị ở nước ta có hố xí hợp vệ sinh là 81%, vẫn thấp so với Thái Lan (98%) và Philippin (97%), nhưng cao hơn so với Indonesia (64%) và Campuchia (62%). Còn ở nông thôn, tỷ lệ người sử dụng hố xí hợp vệ sinh ở nước ta rất thấp (39%), thấp hơn nhiều so với Thái 8 Lan (97%), thấp hơn Philippin và Indonesia (64% và 43%), chỉ cao hơn Campuchia (5%). Điều đó cho thấy thực trạng vấn đề hố xí hợp vệ sinh ở nông thôn Việt Nam đang đặt ra các yêu cầu trong hoạch định chính sách phát triển của khu vực này [9]. Cũng theo báo cáo kết quả điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002 cơ cấu sử dụng các loại hố xí ở nước ta như sau: Năm 1992 có 9% dân số sử dụng hố xí tự hoại, bán tự hoại và năm 2002 tỷ lệ này đã tăng lên là 26%. Với loại hố xí hai ngăn và hố xí thấm dội nước thì năm 1992 có 7% dân số sử dụng và năm 2002 là 20%. Loại hố xí đơn giản được người dân sử dụng nhiều nhất vào những năm 1997 với 37% và đến năm 2002 vẫn còn 32% người dân sử dụng. Cho đến năm 2002 thì vẫn còn 14% dân số sử dụng hố xí tập thể. Tỷ lệ số dân không có hố xí đã giảm từ 26% vào năm 1992 xuống 13% vào năm 2002 [9]. Điều đó cho thấy tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh tăng dần qua các năm, nhất là tỷ lệ số dân sử dụng hố xí tự hoại và bán tự hoại, tuy nhiên tốc độ tăng còn chậm. Tỷ lệ dân số không sử dụng hố xí cũng giảm dần, nhưng tỷ lệ dân số sử dụng hố xí không hợp vệ sinh vẫn còn cao. Còn theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006 của Tổng cục thống kê thì cả nước có 16,91% số hộ dùng hố xí tự hoại, 5,77% dùng hố xí thấm dội nước, 22,6% sử dụng hố xí 2 ngăn, 1,68% dùng hố xí chìm có ống thông hơi, 41,81% dùng hố xí khác và 11,18% số hộ không có hố xí. Trong đó khu vực các khu vực đồng bằng sông Cửu Long có số hố xí không hợp vệ sinh và không có hố xí cao nhất (81,58%), khu vực Tây Bắc có tới 58,65 số hộ có hố xí không hợp vệ sinh và 27,18 số hộ không có hố xí, tiếp đến là khu vực Tây nguyên tương ứng là 45,58 và 30%, khu vực Đông Bắc: 40,28 và 14,56% [40]. Như vậy, ở nước ta vấn đề hố xí hợp vệ sinh còn rất nhiều yếu kém. Hoạt động vệ sinh môi trường còn chưa được chú ý nhất là ở các vùng nông thôn. 9 Nguy cơ môi trường bị ô nhiễm do phân người khá cao. Số hộ gia đình có hố xí được xem là hợp vệ sinh gồm hố xí dội nước và 2 ngăn chiếm một tỷ lệ thấp. Nơi có tỷ lệ loại hố xí này cao nhất ở đồng bằng sông Hồng (36,9% và 48%), thấp nhất ở đồng bằng sông Cửu Long (7,0% và 2,4%). Loại hố xí thùng, một ngăn rất phổ biến ở các vùng với tỷ lệ chung 40,6%, cao nhất ở vùng Bắc Trung Bộ (68,3%) và thấp nhất ở duyên hải miền Trung (13,0%). Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long loại hố xí thường gặp là hố xí cầu chiếm tỷ lệ 46,4% [4], [5], [6]. 1.1.2.2. Tình hình vệ sinh môi trường ở miền núi phía Bắc. Miền núi phía Bắc nước ta là một khu vực kinh tế, chính trị, văn hoá quan trọng nhưng lại là một khu vực còn nghèo nàn về kinh tế và vẫn còn nhiều phong tục tập quán lạc hậu. Đây là nơi cư trú đan xen giữa dân tộc đa số với dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc có trình độ kinh tế, văn hoá và phong tục tập quán với những sắc thái riêng biệt [13]. Tình hình vệ sinh môi trường ở miền núi phía Bắc chịu ảnh hưởng rất lớn bởi điều kiện kinh tế - văn hoá - xã hội. Kinh tế còn nghèo, văn hoá - xã hội chưa phát triển nên sức khoẻ của con người chưa được quan tâm và cải thiện. Vệ sinh môi trường ở khu vực này còn là hậu quả của những phong tục tập quán lạc hậu, môi trường bị ô nhiễm nặng chủ yếu do chất thải của người và gia súc không được xử lý hợp vệ sinh. Đa số đã xây dựng hố xí song phần lớn là hố xí tạm, hố xí không đạt tiêu chuẩn vệ sinh [18]. Điều tra 214 hộ gia đình ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên cho thấy tỉ lệ hộ gia đình không có hố xí là 25,52%, tỷ lệ hố xí không vệ sinh là 72,28% [36]. Một nghiên cứu khác ở 6 xã miền núi phía Bắc cho thấy tỷ lệ có hố xí vệ sinh và chưa có hố xí ở mỗi dân tộc có khác nhau: Dân tộc Tày ở xã Vũ Lăng (Lạng Sơn) là 1,98% và 44,06%; Dân tộc Mường ở xã Sơn Thuỷ (Hoà Bình) là 1,59% và 29,97%; Dân tộc Thái ở Chiềng Sinh (Sơn La) 100% hố xí không vệ sinh, 22,38% chưa có hố xí [18]. Một số vùng 10 người dân vẫn còn tập quán phóng uế bừa bãi [16], [17]. Mặt khác vấn đề thả rông gia súc, gia cầm là phổ biến, đây cũng là nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường sống của người dân. Chính vì thế mà môi trường đất bị ô nhiễm nặng nề bởi trứng giun ở mức độ cao và có chiều hướng khuếch tán từ hố xí đến nhà ở. Số mẫu đất trong nhà có trứng giun đũa chiếm tỷ lệ cao từ 26,35 - 54,13%, trong đó cao nhất là dân tộc H’Mông ở Hà Giang (54,13%) và dân tộc Tày ở Lạng Sơn (53,35%) [29]. Riêng nguồn nước không chỉ ô nhiễm bởi chất thải của con người mà còn chịu ảnh hưởng bởi tình trạng chặt phá rừng bừa bãi. Đa số các nguồn nước sử dụng không hợp vệ sinh. Ngoài nguồn nước giếng còn sử dụng các nguồn nước khác như nước mỏ, nước khe, nước suối [15]. Qua một số nghiên cứu thấy tỉ lệ sử dụng nguồn nước chưa hợp vệ sinh ở khu vực miền núi phía Bắc khá cao. Người Mông ở Cán Tỷ (Hà Giang): 100%, người Sán Dìu ở Nam Hoà (Đồng Hỷ - Thái Nguyên): 32,22% [28]. Nghiên cứu tại xã Quang Thuận ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn (1996-1997) cho thấy tỉ lệ hộ gia đình sử dụng giếng nước hợp vệ sinh còn thấp, mặc dù sau can thiệp đã có sự gia tăng đáng kể (từ 28,57% trước can thiệp, tăng lên 37,93% sau can thiệp) [31]. Một nghiên cứu khác được tiến hành ở hai xã Chiềng Sinh và Tạ Bú (Sơn La) cho thấy tỷ lệ giếng nước hợp vệ sinh rất thấp (13,9% và 0%) [15]. Nước dùng để ăn uống và sinh hoạt hàng ngày cho đồng bào dân tộc miền núi hầu hết không đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Nguồn nước cũng bị ô nhiễm nặng nề do tệ phá rừng đầu nguồn, do các chất thải của con người và súc vật... Trong khi đó ở một số dân tộc vẫn còn tập quán sử dụng nước khe suối, nước sông... các nguồn nước này đều không đạt tiêu chuẩn vệ sinh, bị ô nhiễm cả về mặt hoá học và vi sinh vật. Đặc biệt, ở Cán Tỷ (Hà Giang) cho thấy 100% mẫu nước có vi sinh vật [29]. 11 Nhìn chung, thực trạng vệ sinh môi trường sống của đồng bào các dân tộc miền núi, chúng ta thấy đây là vấn đề nghiêm trọng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường là thiếu kiến thức về vệ sinh môi trường, nước sạch, hố xí hợp vệ sinh còn thấp, đặc biệt là kiến thức về vai trò và tác hại của nguồn nước, hố xí không hợp vệ sinh liên quan đến sức khoẻ và bệnh tật của con người ở đây. Đây cũng là vấn đề quan trọng mà ngành y tế cần phải quan tâm đặc biệt, cần có những giải pháp can thiệp thích hợp cho miền núi để góp phần thực hiện có hiệu quả nội dung chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại khu vực này. 1.2. Những yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trƣờng 1.2.1. Khái niệm về kiến thức, thái độ, thực hành *Khái niệm về kiến thức: Theo từ điển wikipedia, kiến thức là: - Các thông tin, các tài liệu, các cơ sở lý luận, các kỹ năng khác nhau, đạt được bởi một con người hay một cá nhân thông qua các trải nghiệm thực tế hay thông qua sự giáo dục đào tạo, là các hiểu biết về lý thuyết hay thực tế về một đối tượng, một vấn đề, có thể lý giải được về nó. - Những gì đã biết, đã được hiểu biết trong một lĩnh vực cụ thể hay toàn bộ, trong tổng thể. - Các cơ sở, các thông tin, tài liệu, các hiểu biết hoặc những thứ tương tự có được bằng kinh nghiệm thực tế hoặc do những tình huống, hoàn cảnh cụ thể. Những tranh cãi về mặt triết học nhìn chung bắt đầu với phát biểu của Plato: tri thức như là "justified true belief". Tuy nhiên không có một định nghĩa chính xác nào về tri thức hiện nay được mọi người chấp nhận, có thể 12 bao quát được toàn bộ, vẫn còn nhiều học thuyết, các lý luận khác nhau về tri thức [47]. Tri thức giành được thông qua các quá trình nhận thức phức tạp: quá trình tri giác, quá trình học tập, tiếp thu, quá trình giao tiếp, quá trình tranh luận, quá trình lý luận, hay kết hợp các quá trình này. Kiến thức của mỗi người được tích lũy dần qua quá trình học tập và kinh nghiệm thu được trong cuộc sống. Mỗi người có thể thu được kiến thức từ thày cô giáo, cha mẹ, bạn bè, đồng nghiệp, những người xung quanh, sách vở và các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp. Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta có thể tự kiểm tra liệu hiểu biết của mình là đúng hay sai. Hàng ngày từ các sự việc cụ thể gặp trong đời sống, các kiến thức của mỗi người cũng được tích lũy. Trẻ em đưa tay vào lửa chúng biết được lửa nóng và gây bỏng, từ đó trẻ không bao giờ đưa tay vào lửa nữa. Trẻ em có thể nhìn thấy một con vật chạy ngang đường và bị xe cán phải, từ sự việc này trẻ em biết được rằng chạy ngang đường có thể nguy hiểm và từ đó khi đi ngang đường chúng phải cẩn thận. Kiến thức là một trong các yếu tố quan trọng giúp con người có các suy nghĩ và tình cảm đúng đắn, từ đó dẫn đến hành vi phù hợp trước mỗi sự việc. Kiến thức của mỗi người được tích lũy trong suốt cuộc đời. Có các kiến thức hay hiểu biết về bệnh tật, sức khỏe và bảo vệ, nâng cao sức khỏe là điều kiện cần thiết để mọi người có cơ sở thực hành các hành vi sức khỏe lành mạnh. Các kiến thức về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe mỗi người có thể thu được từ các nguồn khác nhau, được tích lũy thông qua các hoạt động thực tiễn [23]. *Khái niệm về thái độ. Thái độ được coi là trạng thái chuẩn bị của cơ thể để đáp ứng với những tình huống hay hoàn cảnh cụ thể. Thái độ phản ánh những điều người ta thích hoặc không thích, mong muốn hay không mong 13 muốn, tin hay không tin, đồng ý hay không đồng ý, ủng hộ hay ngăn cản. Thái độ thường bắt nguồn từ kiến thức, niềm tin và kinh nghiệm thu được trong cuộc sống, đồng thời thái độ cũng chịu ảnh hưởng của những người xung quanh. Những người sống gần chúng ta có thể làm cho chúng ta thay đổi suy nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề, mức độ quan tâm đến vấn đề, từ đó dẫn đến thay đổi thái độ. Thái độ của chúng ta có thể bắt nguồn từ những người khác, đặc biệt là những người mà chúng ta kính trọng. Thái độ chịu ảnh hưởng của môi trường, hoàn cảnh. Trong một số hoàn cảnh nhất định không cho phép người ta hành động phù hợp với thái độ của họ. Ví dụ một bà mẹ rất muốn đưa con bị sốt cao đến trạm y tế để khám và điều trị nhưng vì ban đêm, trạm y tế lại xa nên bà mẹ buộc phải đem con đến khám bác sỹ tư gần nhà. Hành động này của bà mẹ không có nghĩa là bà đã thay đổi thái độ không tin vào cán bộ trạm y tế. Đôi khi thái độ chưa đúng của con người được hình thành từ những sự việc chưa có căn cứ xác đáng, không đại diện. Ví dụ một người đến mua thuốc tại trạm y tế về điều trị bệnh nhưng bệnh không khỏi, người này có thể hình thành suy nghĩ là trạm y tế bán thuốc không tốt, từ đó có thái độ không tin vào trạm y tế và không đến trạm khám và mua thuốc nữa. Trong trường hợp này có thể có nhiều lý do dẫn đến bệnh không khỏi, chứ không phải trạm y tế bán thuốc không đảm bảo chất lượng. Thái độ rất quan trọng dẫn đến hành vi của mỗi người, do vậy khi xem xét một thái độ chưa hợp lý nào đó đối với vấn đề bệnh tật, sức khỏe, cần phải tìm hiểu rõ nguyên nhân của nó [23]. Khái niệm thực hành. Thực hành của con người là một hành động, hay là tập hợp phức tạp của nhiều hành động, mà những hành động này lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, chủ quan cũng như khách quan. Trước tiên nó phụ thuộc vào khả năng nhận thức hay kiến thức của mỗi người, vào thái độ của người đó cũng như các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết về 14 vấn đề người đó sẽ làm. Thực hành chính là việc vận dụng kiến thức vào một công việc thực tiễn cụ thể. Nói cách khác, việc thực hành của một con người là sự biểu hiện cụ thể của các yếu tố cấu thành nên nó, đó là kiến thức, niềm tin, thái độ và môi trường xã hội xung quanh bản thân người đó [47]. 1.2.2. Một số vấn đề về thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường của người dân Theo Nguyễn Huy Nga và Nguyễn Thanh Hiền tại điều tra quốc gia về vệ sinh môi trường và thực trạng vệ sinh ở Việt Nam năm 2002 thì có 30,4% người được hỏi không biết tên bất kỳ một bệnh nào do nguyên nhân từ chất thải của con người gây ra. Chỉ có 18,3% trong số họ biết rằng sử dụng hố xí hợp vệ sinh có thể phòng chống được bệnh tiêu chảy và bệnh ký sinh trùng. Tỷ lệ người kể tên được các bệnh do nguồn nước gây ra thấp như tiêu chảy (62%), ký sinh trùng (18,6%), bệnh về da (17,6%), bệnh về mắt (11%) và bệnh phụ khoa (3,8%) [49]. 2,3% số người được hỏi biết rằng rửa tay bằng xà phòng có thể phòng chống được bệnh tiêu chảy và bệnh ký sinh trùng. Về nguồn nước sạch: 44,7% cho rằng đó là nước giếng đào; 33,9% cho rằng đó là nước giếng khoan; 24,4% cho rằng đó là máng lần; 16% là nước mưa và 14% là nước ao hồ. Cũng theo Nguyễn Huy Nga và CS: Khoảng 1/4 số người trong diện điều tra không biết tên của 5 loại hố xí hợp vệ sinh, hầu hết chỉ cho rằng đó là hố xí tự hoại (54,9%), hố xí dội nước (20,7%) và hố xí hai ngăn (13,6%). Đồng thời chỉ có 43,8% hộ gia đình ở miền núi chưa có hố xí có kế hoạch xây dựng hố xí trong tương lai. Tuy nhiên 57,2% hộ gia đình ở miền núi mong muốn có các khoản hỗ trợ tài chính cho xây dựng các công trình vệ sinh. Vấn đề xử lý phân: 30% số hộ gia đình sử dụng phân tươi để bón ruộng, 20% số hộ gia đình xử lý phân đúng cách, còn lại 80% xử lý không đúng kỹ thuật làm tăng nguy cơ ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm. Điều tra cũng cho thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh với trình độ học 15 vấn, giới, dân tộc, khu vực sống và thu nhập của người dân. Riêng về khía cạnh dân tộc thì thực hành về vệ sinh môi trường của người dân tộc thiểu số thấp hơn so với người Kinh. Bốn nhóm có thực hành vệ sinh môi trường thấp nhất là: người có trình độ học vấn thấp, đàn ông, dân tộc thiểu số và nhóm người ở các khu vực còn có các phong tục tập quán lạc hậu. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề về vệ sinh môi trường ở Việt Nam được đặt ra không chỉ ở các hộ gia đình mà ngay cả nơi côn._.g cộng, chỉ có 18% hộ gia đình; 11,7% trường học; 36,6% trung tâm y tế công, 21% cơ sở dịch vụ công có các công trình vệ sinh đảm bảo theo tiêu chuẩn 08/2005 của Bộ Y tế Việt Nam. Nhận thức và thói quen rửa tay của người dân rất thấp: chỉ có 2,3% người dân khu vực nông thôn hiểu rằng rửa tay bằng xà phòng sẽ giúp cho việc phòng chống một số bệnh nhiễm trùng. Có một khoảng cách lớn giữa nhận thức và thực hành cá nhân của người dân, tuy có hiểu biết về vệ sinh môi trường nhưng không phải người dân nào cũng có thực hành đúng [49]. 1.2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh môi trường của người dân. 1.2.3.1. Phong tục, tập quán, thói quen của các tộc người Việt Nam là một quốc gia nhiều dân tộc. Theo kết quả tổng điều tra dân số toàn quốc 1999, cả nước có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có tiếng nói, phong tục, tập quán riêng, trong đó có những phong tục, tập quán ảnh hưởng đến sức khoẻ [19], [43]. Ví dụ người dân ở nhà sàn là loại nhà ở thiếu ánh sáng, không thông thoáng, nuôi gia súc ở gầm sàn và gần nhà, sử dụng nước sông, nước suối hoặc nước khe trong sinh hoạt và ăn uống, ít tắm giặt, không sử dụng hố xí, để người chết lâu ở trong nhà, cúng bái khi ốm đau, phụ nữ đẻ tại nhà và người nhà tự đỡ, cho trẻ sơ sinh ăn cơm nhá, lấy chồng sớm, đẻ sớm và đẻ nhiều [23]. Những phong tục, tập quán, thói quen trên rất chung và phổ biến, đã và đang ảnh hưởng rất lớn đối với sức khoẻ của của cộng đồng 16 các tộc người thiểu số. Kiều Khắc Đôn (2001) cho rằng: Ô nhiễm nguồn nước, ngoài nguyên nhân do thời tiết thay đổi thất thường, quá trình đô thị hoá và nạn khai thác mỏ bừa bãi, còn do một nguyên nhân rất quan trọng đó là tập quán sinh hoạt của người dân, cụ thể là tập quán nuôi gia súc dưới gầm sàn hoặc ở gần nhà, không sử dụng hố xí, dùng phân tươi để bón ruộng và hoa màu. Phân súc vật, phân người không được thu gom và xử lý tốt, vẫn thải một cách rất “tự nhiên” ra ngoài môi trường, trôi theo nước mưa và gây ô nhiễm các nguồn nước [13]. Nghiên cứu ở khu vực miền núi phía Bắc, Hoàng Khải Lập và cộng sự cũng cho rằng: Nguyên nhân quan trọng gây ô nhiễm nguồn nước ăn uống và sinh hoạt của người dân miền núi phía Bắc là do tập quán thả rông gia súc, chất thải (phân) không được xử lý. Cần thay đổi, cải thiện tập quán, thói quen vệ sinh của người dân là một trong những vấn đề quan trọng và cấp bách nhất hiện nay. Để làm được điều đó đòi hỏi phải có sự tham gia của cộng đồng, sự kết hợp giữa các hoạt động khác nhau của các đoàn thể xã hội mà công tác giáo dục và truyền thông có một vai trò và ý nghĩa to lớn [29]. 1.2.3.2. Điều kiện về địa lý, kinh tế, văn hoá, xã hội tại khu vực sống của người dân Người dân ở miền núi nước ta sống chủ yếu ở khu vực có địa hình phức tạp, hệ thống giao thông chưa phát triển, việc đi lại giữa các tỉnh, hoặc các huyện trong tỉnh cũng gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, kinh tế của các tỉnh của khu vực miền núi nói chung còn ở mức thấp, nền kinh tế vẫn còn mang tính tự túc, tự cấp, năng suất lao động xã hội chưa cao. Thu nhập bình quân hàng năm khoảng 150 đến 300 kg thóc/người, mặc dù nhiều chương trình xoá đói giảm nghèo trong 10 năm qua đã cải thiện rõ rệt đời sống của đại bộ phận dân cư (Năm 2000 GDP bình quân đạt 400 USD/người, lương thực bình quân quy thóc đạt 455 kg/người, mức sống dân cư tăng 1,5 lần so với 17 năm 1990 ). Tuy vậy, số hộ nghèo ở khu vực này vẫn chiếm một tỷ lệ cao (hộ dân tộc Tày: 6,9%, Sán Dìu: 13,55%, Mông: 42,19%, Thái: 6,45%, Giáy: 21,6%, Mường: 14,47%), tỷ lệ hộ ở nhà tạm (Tày: 17,48%, Sán Dìu: 30,12%, Mông: 92,97%, Giáy: 35,6%) [29]. Đồng thời, văn hoá xã hội ở khu vực này cũng chậm phát triển. Một số khu vực vẫn tồn tại nhiều phong tục, tập quán lạc hậu (ma chay, cúng bái), tập quán ăn ở thiếu vệ sinh. Trình độ học vấn của người dân còn ở mức thấp: trên 50,9% có trình độ tiểu học, từ cấp trung học cơ sở trở lên chỉ có 47,1%, tỷ lệ mù chữ còn cao, vẫn còn nhiều xã, xóm bản chưa có điện lưới quốc gia. Thực tế cho thấy tỷ lệ người nghèo chủ yếu là người dân tộc thiểu số, họ vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm phá hoại môi trường. Khoảng 1/2 số người nghèo vùng nông thôn miền núi sống dựa vào tài nguyên thiên nhiên. Người nông dân phải canh tác trên các vùng không thích hợp như đồi dốc, khô cằn, xói mòn..., họ phải chịu cảnh thiếu nước sạch và vệ sinh kém, những rủi ro về sức khoẻ do môi trường gây ra. Mặt khác, người nghèo thường phải vật lộn với cuộc sống khắc nghiệt, luôn bận rộn với mưu sinh hàng ngày, nên họ không đầu tư cho bảo vệ môi trường tới mức cần thiết. Thực trạng trên rõ ràng đã ảnh hưởng rất lớn đến sự thay đổi những hành vi lành mạnh về sức khoẻ môi trường [12], [14], [24], [31]. 1.2.3.3. Sự quan tâm của các ban ngành đoàn thể về vệ sinh môi trường Vấn đề nâng cao nhận thức cho cộng đồng và giải quyết vấn đề vệ sinh môi trường bằng tăng cường truyền thông giáo dục sức khoẻ, nâng cao kiến thức và thái độ của người dân về vệ sinh môi trường là hết sức cần thiết. Khi thực hiện cần lồng ghép nhiều chương trình, nhiều ban ngành và nhiều giải pháp ở các mức độ thích hợp khác nhau, trong đó xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm môi trường và tập hợp, sử dụng được tiềm năng của các cơ quan khoa học đóng trên địa bàn mới là nội lực quan trọng để giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường số hiện nay cho đồng bào các dân tộc 18 thiểu số, đặc biệt các dân tộc sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Có như vậy mới mong rằng hành vi vệ sinh về môi trường của người dân mới được cải thiện và nâng cao. Nếu cán bộ y tế xã, y tế thôn bản, vệ sinh viên chưa được tập huấn đầy đủ, chưa nắm vững kiến thức, chưa có đủ kỹ năng truyền thông về vệ sinh môi trường. Vai trò của các già làng, trưởng bản, những cá nhân có uy tín, lãnh đạo cộng động chưa được phát huy, chưa khai thác được những mặt mạnh của các phong tục truyền thống tốt đẹp trong nhân dân nhưng hương ước bản làng, quy định dòng họ...thì đây là những khó khăn, cản trở việc thực hiện các biện pháp can thiệp giải quyết ô nhiễm môi trường, làm ảnh hưởng rất lớn đến kiến thức, thái độ và thực hành về vệ sinh môi trường của người dân [10], [23], [30], [32]. 1.2.3.4. Chính sách của Quốc tế và của Đảng, Nhà nước ta về vệ sinh môi trường: *Chính sách của Quốc tế Liên hiệp quốc đã tuyên bố lấy thập niên 1981-1990 làm thập niên cấp nước và vệ sinh Quốc tế. Năm 1992, Liên hiệp quốc cũng đã chính thức chọn ngày 22 tháng 3 hàng năm là ngày Quốc tế về nước nhắc nhở mọi người quan tâm hơn về nguồn nước [41]. Từ năm 1982 với sự tài trợ của tổ chức UNICEF, dự án cung cấp nước sinh hoạt nông thôn bắt đầu được triển khai có tính thử nghiệm đối với hộ dân tại một số vùng kinh tế mới thuộc 3 tỉnh: Minh Hải, Kiên Giang và Long An và từ năm 1984, UNICEF chính thức tài trợ và dần mở rộng ra các tỉnh khác. Từ đó tới nay UNICEF đã không ngừng tài trợ đầu tư mở rộng chương trình nước sinh hoạt nông thôn. Tính đến hết năm 1990, sau 3 tài khóa trợ giúp của UNICEF với tổng kinh phí 15,095 triệu USD Chương trình đã thực hiện được 33.489 giếng khoan lắp máy bơm tay, đáp ứng cho khoảng 4 triệu người dân nông thôn có nước sạch sử dụng cho nhu cầu sinh hoạt. Từ năm 1996 đến 2000 UNICEF điều chỉnh mục tiêu chiến 19 lược, kết hợp việc cung cấp nước sạch với giáo dục vệ sinh cơ bản; từ năm 1999 dự án đã thu hẹp tập trung vào vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn về nước sinh hoạt và các xã đặc biệt khó khăn của 37 tỉnh, thành phố. Tính đến hết năm 2003, qua 3 năm thực hiện đã hỗ trợ xây dựng được 33.830 nguồn nước, phục vụ cho khoảng 658.455 người dân của 607 xã thuộc các tỉnh vùng dự án. Như vậy từ năm 1982 đến năm 2003, UNICEF đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng trên 200.000 điểm cấp nước, cung cấp nước sạch sử dụng trong sinh hoạt cho trên 20 triệu người dân nông thôn. Điều quan trọng là Chương trình đã làm thay đổi nhận thức của người dân trong tiếp cận, sử dụng nước sạch trong sinh hoạt và giữ gìn vệ sinh môi trường. *Chính sách của Việt Nam Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường nói chung và nước sạch vệ sinh môi trường nói riêng. Hàng loạt các chủ trương chính sách đã được ban hành thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng đối với vấn đề xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ môi trường [5]. Bộ Chính trị đã ra chỉ thị số 36 về "Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Chính phủ ban hành Quyết định số 237/1998/QĐ-TTg phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Quyết định số 124/1999/QĐ- TTg của Chính phủ phê duyệt chiến lược quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2020. Gần đây nhất, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 277/2006/QĐ-TTg ngày 11/12/2006 về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và VSMT nông thôn giai đoạn 2006 - 2010 trong đó đã xác định cụ thể mục tiêu, phương châm và nguyên tắc cũng như các giải pháp thực hiện cơ bản là: - Mục tiêu chung của chương trình: Nâng cao đời sống cho người dân nông thôn thông qua cải thiện các dịch vụ cấp nước sạch, vệ sinh; nâng cao 20 nhận thức và thay đổi hành vi của cộng đồng về bảo vệ môi trường, vệ sinh công cộng và vệ sinh cá nhân. Giảm tác động xấu do điều kiện cấp nước và vệ sinh kém gây ra đối với sức khoẻ của dân cư nông thôn và giảm ô nhiễm môi trường nông thôn. Tạo điều kiện hình thành các cụm dân cư phát triển tập trung theo ngành nghề đặc thù như chăn nuôi, sản xuất nông nghiệp, làng nghề truyền thống. Giảm thời gian đi lấy nước của người dân, giúp họ dành thời gian cho sản xuất. Hạn chế bệnh tật, bảo vệ sức lao động, tiết kiệm chi phí chữa bệnh. Giảm chi phí cho việc mua nước sinh hoạt của người dân ở vùng khó khăn về nước. Góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn. Hình thành nếp sống văn minh, hợp vệ sinh, thu hẹp dần sự chênh lệch về điều kiện sinh hoạt giữa nông thôn và đô thị, góp phần ổn định dân cư; hạn chế tình trang mất vệ sinh đang phổ biến ở nhiều nơi, khắc phục được cơ bản ô nhiễm môi trường nông thôn; khắc phục tình trạng khai thác, sử dụng bừa bãi, gây cạn kiệt, suy thoái tài nguyên nước. Giảm thiểu tình trạng ô nhiễm do phân người và chất thải chăn nuôi gây ra, góp phần làm đẹp cảnh quan, sạch đường làng ngõ xóm. - Mục tiêu cụ thể đến năm 2010 cần đạt được: + Về cấp nước: 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó có 50% sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn TC09 với số lượng 60 lít nước/người/ngày + Về vệ sinh môi trường: 70% số hộ gia đình nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh; 70% số hộ nông dân chăn nuôi có chuồng trại hợp vệ sinh. Tất cả các nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, trạm y tế, chợ, trụ sở xã và các công trình công cộng khác ở nông thôn có đủ nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh [5]. Để thực hiện tốt mục tiêu của Đảng và Chính phủ đưa ra nhằm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn, vùng nông thôn miền núi; Sự cần thiết phải đánh giá đúng thực 21 trạng môi trường cũng như kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về vệ sinh môi trường, các yếu tố ảnh hưởng và đề ra các giải pháp trước mắt cũng như lâu dài. Vấn đề này còn ít tác giả đề cập tới, vì vậy đây chính là gợi ý để chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này. 22 Chƣơng 2 ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tƣợng nghiên cứu - Chủ các hộ gia đình tại xóm bản vùng đặc biệt khó khăn. - Đại diện cộng đồng như người dân, nhân viên y tế thôn bản, cộng tác viên dân số, dinh dưỡng, cán bộ trạm y tế và dân số xã, cán bộ chính quyền và các ban ngành, đoàn thể ở xã, xóm bản, thanh niên, phụ nữ ở các xóm bản. 2.2. Địa điểm nghiên cứu *Huyện Đồng Hỷ: Đồng Hỷ là huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên. Phía Tây Nam tiếp giáp với Thành phố Thái Nguyên, phía Bắc giáp huyện Võ Nhai. Phía Tây giáp với huyện Phú Lương. Phía Đông giáp với tỉnh Bắc Giang. Huyện nằm dọc theo quốc lộ 1B, có diện tích là 508,2 km2, với diện tích đất canh tác là 8.909 ha, dân số khoảng 12 vạn người gồm 8 dân tộc khác nhau sinh sống. Toàn huyện có 20 xã với 280 thôn bản và khoảng 23.000 hộ trong đó có 2 xã vùng cao, 2 xã đặc biệt khó khăn, 16 xã miền núi. Nghề chủ yếu là trồng cây lương thực, trồng chè, cây ăn quả, có một số cơ sở công nghiệp địa phương nhỏ. Về y tế: Tổ chức mạng lưới y tế từ huyện đến cơ sở được tăng cường số cán bộ y tế, tỉ lệ chung là 14,7 người /10.000 dân, trong đó bác sĩ là 3,8 người, y sĩ là 6,7 người /10.000 dân. Cơ sở vật chất cho 20 trạm y tế xã của huyện trong năm 1998 đã được xây dựng, sửa chữa và tăng cường về trang thiết bị y tế. Đội ngũ cán bộ y tế của cả trung tâm y tế huyện và trạm y tế xã là 165 người, trong đó: bác sĩ gồm 43 người, y sĩ đa khoa: 29, y sỹ sản nhi: 26, y sỹ y học dân tộc: 21, nữ hộ sinh: 2, y tá điều dưỡng: 32, đặc biệt 100% số xã của huyện đều có bác sĩ. Hai xã thuộc huyện Đồng Hỷ trong mẫu nghiên cứu là: 23 * Xã Hợp Tiến : Là xã vùng sâu của huyện Đồng Hỷ. Phía Bắc giáp huyện Võ Nhai, phía Nam giáp huyện Phú Bình, phía Đông giáp xã Sơn Lương (huyện Yên Thế – Bắc Giang), phía Tây giáp xã Tân Lợi (Đồng Hỷ). Diện tích đất tự nhiên là 48 km2 với khoảng 500 ha là diện tích đất canh tác nông nghiệp và hoa màu. Dân số toàn xã là 5.600 người. Xã là nơi sinh sống của 7 dân tộc anh em (Dao, Mông, Nùng, Sán Dìu, Kinh, Hoa), trong đó người Dao, Mông và Nùng chiếm tỷ lệ tương đối cao trong cơ cấu dân số. Xã có 10 thôn với tổng số hộ là 1380 hộ. Về y tế: Hoạt động của cán bộ y tế ở đây khá đều tay, trạm y tế có 7 cán bộ y tế, trong đó có: 1 bác sĩ đa khoa, 4 y sĩ (1 y sĩ sản nhi, 1 y sĩ xét nghiệm, 2 y sĩ đa khoa), 1 dược tá sơ cấp, 1 điều dưỡng viên hợp đồng và hiện đang có 12 nhân viên y tế thôn bản hoạt động tại 10 xóm. Diện tích, cơ sở vật chất cho trạm y tế xã đã được xây dựng, sửa chữa và tăng cường phù hợp so với chuẩn quốc gia. *Xã Cây Thị : Là xã vùng sâu của huyện Đồng Hỷ. Xã có diện tích nhỏ hơn xã Hợp Tiến, phía Bắc và Tây Nam giáp Thị trấn Trại Cau (Đồng Hỷ), phía Đông giáp huyện Võ Nhai. Diện tích đất tự nhiên là 36 km2 với khoảng 380 ha đất canh tác nông nghiệp và hoa màu. Dân số toàn xã là 3870 người. Xã cũng là nơi sinh sống chủ yếu của 7 dân tộc anh em (H’Mông, Dao, Nùng, Sán Dìu, Hoa, Kinh), trong đó chủ yếu là người Dao, Nùng và H’Mông. Xã có 9 thôn với tổng số hộ là 787 hộ. Về y tế: Trạm y tế có 6 cán bộ y tế, trong đó có: 1 bác sĩ đa khoa, 1 y sĩ sản nhi, 1 y sĩ xét nghiệm, 1 y sĩ đa khoa, 1 dược tá sơ cấp, 1 điều dưỡng viên hợp đồng. Cơ sở vật chất cho trạm y tế xã còn thiếu thốn, chưa phù hợp với chuẩn quốc gia. 2.3. Thời gian nghiên cứu. Từ tháng 5 năm 2007 đến tháng 6 năm 2008 2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả, diện điều tra cắt ngang. 24 2.4.1. Phương pháp chọn mẫu *Cỡ mẫu: Cỡ mẫu được tính theo công thức n = Z 2 1- / 2 x pq/ d 2 Trong đó: n là cỡ mẫu cần thiết, p là tỷ lệ ước định, lấy tỷ lệ sử dụng nước sạch ở các bản vùng khó khăn trong các nghiên cứu trước là 0,5; q = 1 – p = 0,5. Z 1- / 2 là hệ số tin cậy = 1,96, thay vào ta có: 0,5 x 0,5 n = 1,96 2 x 384 (người) 0,05 2 *Phương pháp chọn mẫu: - Chọn huyện Đồng Hỷ là chọn chủ đích vì đây là một huyện miền núi gần Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên, điều kiện triển khai nghiên cứu thuận tiện. - Chọn hai xã Cây Thị, Hợp Tiến cũng là chọn chủ đích, vì đây là các xã vùng sâu của huyện Đồng Hỷ. Mỗi xã chọn 200 hộ gia đình ở các bản vùng sâu (cách trung tâm xã từ 5 km trở lên). Thực tế chúng tôi điều tra được 427 hộ gia đình. - Đơn vị mẫu: Chọn hộ gia đình là đơn vị mẫu, mỗi hộ gia đình chọn 1 người lớn (chủ hộ trong gia đình). Chọn hộ gia đình ngẫu nhiên theo phương pháp gắp thăm. 2.4.2. Chỉ số nghiên cứu. *Chỉ số về tình hình kinh tế văn hoá xã hội của các hộ gia đình điều tra: - Hộ nghèo: Theo qui định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành theo quyết định số 170/2005/QĐ-TTg về chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010. Chuẩn này được tính theo mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ cho từng vùng cụ thể như sau: 25 + Vùng nông thôn nông thôn miền núi <200.000đ/ người/ tháng. + Vùng nông thôn đồng bằng, thành thị <260.000đ/người/tháng. Như vậy các xã Cây Thị, Hợp Tiến là xã miền núi, chuẩn nghèo sẽ là hộ gia đình có mức thu nhập bình quân dưới 200.000đ/người/tháng. - Chỉ số về nhà ở: + Nhà ở kiên cố là nhà xây, mái bằng. + Nhà ở bán kiên cố là nhà xây cấp IV và nhà sàn lợp ngói. + Nhà ở tạm là nhà gỗ lợp tranh, nhà làm bằng tre, nứa, lá. - Hộ có phương tiện truyền thông (PTTT): Là những hộ gia đình có đài, tivi còn hoạt động, đang sử dụng được. - Chỉ số về trình độ học vấn: + Mù chữ là những người không biết đọc, không biết viết. + Biết đọc, biết viết (BĐBV) là những người học chưa hết 4/10 hoặc 5/12. + Tiểu học là những người đã học hết lớp 4/10 hoặc 5/12. + Trung học cơ sở (THCS) trở lên là những người đã học hết lớp 7/10 hoặc lớp 9/12 trở lên. *Nhóm các chỉ số về vệ sinh môi trường, các công trình vệ sinh. Theo Quyết định số 08/2005/QĐ-BYT ngày 11/3/2005 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành tiêu chuẩn ngành: Tiêu chuẩn vệ sinh đối với các loại hố xí như sau: - Hố xí hai ngăn ủ phân tại chỗ + Quy định về xây dựng: Tường ngăn chứa phân kín, không bị rò rỉ, thấm nước; Cửa lấy mùn phân được trát kín bằng vật liệu không thấm nước; Mặt sàn, máng và rãnh dẫn nước tiểu nhẵn, không đọng nước tiểu; Có nắp đậy hai lỗ xí; Nhà xí được che chắn kín, ngăn được nước mưa; Ống thông hơi (đối 26 với hố xí hai ngăn có ống thông hơi) có đường kính ít nhất 9 cm; cao hơn mái nhà xí ít nhất 40cm và có lưới chắn ruồi. + Quy định về sử dụng và bảo quản: Sàn nhà xí sạch, không có giấy, rác; Giấy bẩn bỏ vào lỗ xí hoặc cho vào dụng cụ chứa có nắp đậy; Không có mùi hôi, thối; Không có ruồi hoặc côn trùng trong nhà xí; Không sử dụng đồng thời hai ngăn; Có đủ chất độn và bỏ chất độn vào lỗ xí sau mỗi lần đi đại tiện; Không có bọ gậy trong dụng cụ chứa nước (nếu có) và dụng cụ chứa nước tiểu; Không lấy phân trong ngăn ủ ra trước 6 tháng; Lỗ xí ngăn đang sử dụng luôn được đậy kín, ngăn ủ được trát kín. - Hố xí chìm có ống thông hơi. + Quy định về xây dựng: Không xây dựng ở nơi thường bị ngập, úng; Cách nguồn nước ăn uống, sinh hoạt từ 10m trở lên; Mặt sàn, máng và rãnh dẫn nước tiểu nhẵn, không đọng nước tiểu; Miệng hố phân cao hơn mặt đất xung quanh ít nhất 20cm; Có nắp đậy lỗ xí; Nhà xí được che chắn kín, ngăn được nước mưa; Ống thông hơi có đường kính ít nhất 9 cm, cao hơn mái nhà xí ít nhất 40 cm và có lưới chắn ruồi. + Quy định về sử dụng và bảo quản: Sàn nhà xí sạch, không có giấy, rác; Giấy bẩn bỏ vào lỗ xí; Có đủ chất độn và bỏ chất độn vào lỗ xí sau mỗi lần đi đại tiện; Không có mùi hôi, thối; Không có ruồi hoặc côn trùng trong nhà xí; Không có bọ gậy trong dụng cụ chứa nước tiểu; Lỗ xí thường xuyên được đậy kín. - Hố xí thấm dội nước + Quy định về xây dựng: Không xây dựng ở nơi thường bị ngập, úng; Cách nguồn nước ăn uống, sinh hoạt từ 10m trở lên; Bể chứa phân không bị lún, sụt, thành bể cao hơn mặt đất ít nhất 20cm; Nắp bể chứa phân được trát kín, không bị rạn nứt; Mặt sàn nhà xí nhẵn phẳng và không đọng nước; Bệ xí 27 có nút nước; Nước từ bể chứa phân hoặc đường dẫn phân không thấm, tràn ra mặt đất. + Quy định về sử dụng và bảo quản: Có đủ nước dội, dụng cụ chứa nước dội không có bọ gậy; Không có mùi hôi, thối; Sàn nhà xí sạch, không có rêu trơn, giấy, rác; Giấy vệ sinh bỏ vào lỗ xí (nếu là giấy tự tiêu) hoặc bỏ vào dụng cụ chứa giấy bẩn có nắp đậy; Không có ruồi hoặc côn trùng trong nhà xí; Bệ xí sạch, không dính, đọng phân; Nhà xí được che chắn kín, ngăn được nước mưa. - Hố xí tự hoại: + Quy định về xây dựng: Bể xử lý gồm 3 ngăn; Bể chứa phân không bị lún, sụt; Nắp bể chứa phân được trát kín, không bị rạn nứt; Mặt sàn nhà xí nhẵn phẳng và không đọng nước; Bệ xí có nút nước; Có ống thông hơi. + Quy định về sử dụng và bảo quản: Có đủ nước dội, dụng cụ chứa nước dội không có bọ gậy; Không có mùi hôi, thối; Nước từ bể xử lý chảy vào cống hoặc hố thấm, không chảy tự do ra xung quanh; Sàn nhà xí sạch, không có rêu trơn, giấy, rác; Giấy vệ sinh bỏ vào lỗ xí (nếu là giấy tự tiêu) hoặc bỏ vào dụng cụ chứa giấy bẩn có nắp đậy; Không có ruồi hoặc côn trùng trong nhà xí; Bệ xí sạch, không dính, đọng phân; Nhà xí được che chắn kín, ngăn được nước mưa. - Nước sinh hoạt hợp vệ sinh: Giếng xây cách chuồng gia súc, hố xí 20m, đường kính 0,8 - 1,5 m, sâu 7 - 8 m, bờ xung quanh giếng cao hơn mặt đất khoảng 0,8 m, sân giếng rộng >1m, có rãnh thoát nước, có giá để treo gầu. Thực hiện đánh giá chất lượng nước sinh hoạt hợp vệ sinh theo tiêu chí của giai đoạn I theo quyết định số 09/2005/QĐ-BYT ngày 11/3/2005 của Bộ Y tế: Nước sinh hoạt hợp vệ sinh là nước giếng, nước mưa, nước ao, hồ được bảo vệ không bị ô nhiễm (có nắp đậy, có bờ che chắn). Nước này dùng cho tắm rửa là chính; nếu dùng cho ăn uống thì phải lắng, lọc, khử trùng và đun sôi. 28 Đánh giá nguồn nước nhìn bằng mắt thường: nước trong, không màu, không mùi, vị, không có mạch ngang thấm vào. - Chuồng gia súc hợp vệ sinh: Là chuồng trại được xử lý chất thải chăn nuôi hợp vệ sinh, bao gồm các loại: + Chuồng xây có mái che, nền cứng có độ nghiêng để thoát nước thải, có hố ủ phân và bể tự hoại 3 ngăn để xử lý phân và nước thải; + Chuồng trại áp dụng công nghệ sản xuất phân hữu cơ vi sinh quy mô hộ gia đình hoặc trang trại; + Chuồng trại áp dụng công nghệ biogas để xử lý chất thải chăn nuôi. Ngoài ra còn một số chỉ số khác như xử lý rác thải, sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật..… Cách phân mức độ KAP trong nghiên cứu dựa vào kết quả cho điểm theo KAP. Để việc cho điểm được chính xác, chúng tôi phân ra làm 3 loại biến đó là biến kiến thức (K), biến thái độ (A) và biến thực hành (P) cho mỗi vấn đề cần nghiên cứu. Mỗi biến được tính tổng là 10 điểm, số điểm này sẽ được chia ra trong các câu một cách phù hợp. Phân mức độ như sau: Số điểm đạt được từ 7 - 10 điểm: Xếp loại tốt Số điểm đạt được từ 5 đến 6 điểm: Xếp loại trung bình. Số điểm đạt được < 5 điểm: Xếp loại yếu. 2.4.3. Kỹ thuật thu thập thông tin và công cụ nghiên cứu. - Phỏng vấn: Tại các hộ gia đình, điều tra viên tiến hành phỏng vấn trực tiếp chủ hộ. Kết quả phỏng vấn được ghi chép vào phiếu in sẵn (có phụ lục kèm theo). Phiếu được nhóm nghiên cứu xây dựng theo đúng qui trình và yêu cầu của luận văn. Phiếu xây dựng xong được tiến hành thử nghiệm ngay tại xã Hợp Tiến, sau đó chỉnh lý lại trước khi in thành phiếu chính thức. - Quan sát: Quan sát tại các hộ gia đình và ghi chép thông tin từ sổ sách báo cáo của trạm y tế. 29 - Thảo luận nhóm: Để phân tích sâu các khía cạnh về các yếu tố liên quan đến hành vi vệ sinh của người dân như phong tục, tập quán, nguồn lực…. Phương pháp chính sẽ sử dụng là thảo luận nhóm trọng tâm: Có 2 cuộc thảo luận nhóm: một nhóm cho các thành viên là lãnh đạo cộng đồng và một nhóm cho đại diện người dân. 2.4.4. Phương pháp khống chế sai số. - Thiết kế các phiếu điều tra: Các phiếu điều tra được nhóm nghiên cứu thiết kế theo đúng qui trình xây dựng công cụ nghiên cứu, trước khi sử dụng đã được kiểm định chặt chẽ phù hợp với yêu cầu thực tế của địa phương và của luận văn. - Đội ngũ điều tra viên là học viên lớp cao học dự phòng và sinh viên các lớp chính qui, chuyên tu năm cuối của Nhà trường. Đội ngũ cán bộ được tập huấn kỹ và thống nhất về phương pháp trước khi đi điều tra. - Phiếu điều tra được làm sạch ngay tại cộng đồng. 2.4.5. Phương pháp xử lý số liệu. Theo các phương pháp thống kê y sinh học trên máy vi tính với phần mềm EPIINFO6.04 2.4.6. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu. Đây là một nghiên cứu cộng đồng nhằm mục đích tìm ra một giải pháp thích hợp để cải thiện môi trường góp phần trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở vùng đặc biệt khó khăn, quá trình nghiên cứu không làm ảnh hưởng tới sức khoẻ con người và môi trường, được cộng đồng chấp nhận. 30 Chƣơng 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Tình hình chung ở các điểm điều tra Bảng 3.1. Phân bố đối tượng điều tra theo tuổi Nhóm tuổi n % ≤29 73 17,1 ≥60 37 8,7 30-39 134 31,4 40-49 121 28,3 50-59 62 14,5 Tổng số 427 100,0 85.9 14.1 Nam Nữ Biểu đồ 3.1: Phân bố đối tượng theo giới Nhận xét : Bảng 3.1 và biểu đồ 3.1 cho chúng tôi thấy: Lứa tuổi chủ hộ trong nghiên cứu tập trung vào độ tuổi lao động (từ 30 đến 59). Trong mẫu nghiên cứu nam giới chiếm tới 85,9%; nữ chỉ chiếm 14,1%. 31 Bảng 3.2. Thông tin về các đối tượng điều tra Thông tin chung n % Học vấn: - Mù chữ 53 12,40 - Biết đọc, biết viết 125 29,30 - Tiểu học 129 30,20 - THCS 120 28,10 Dân tộc: - Dao 273 63,93 - Kinh 131 31,0 - Dân tộc khác 23 5,07 Nhận xét: Qua bảng 3.2 cho chúng tôi thấy: Tại hai xã điều tra, tỷ lệ mù chữ và biết đọc, biết viết khá cao, chiếm tới 41,69%. Trình độ tiểu học cũng cao (30,2%); trình độ trung học cơ sở trở lên chiếm tỷ lệ thấp (28,1)%. Trong cơ cấu dân tộc, dân tộc Dao chiếm tỷ lệ cao, tới 63%, sau đó là dân tộc kinh 31%, các dân tộc khác chiếm tỷ lệ rất thấp: 5,07%. Biểu đồ 3.2. Tình hình kinh tế của các hộ điều tra 22.7 77.3 Đủ ăn: 22,7% Nghèo: 77,3% 32 81 19 0 20 40 60 80 100 PTTT Tỷ lệ % có PTTT Không có PTTT Biểu đồ 3.3 Tình hình PTTT của các hộ dân. Nhận xét: Biểu đồ 3.2 và 3.3 cho thấy: Tỷ lệ hộ nghèo trong mẫu điều tra cao, chiếm tới 77,3%. Tỷ lệ số hộ có phương tiện truyền thông là 81%, không có phương tiện truyền thông còn ở mức cao (19%). Bảng 3.3. Nguồn truyền thông về vệ sinh môi trường Nguồn truyền thông n % Nhân viên y tế thôn bản, CTV dân số, dinh dưỡng 130 30,44 CBYT xã 115 26,93 Thày cô giáo ở bản 22 5,15 Thanh niên bản 83 19,44 Các tổ chức chính quyền xã, bản. 90 21,08 Các ban ngành ở xã, bản. 110 5,76 Các tổ chức quần chúng ở xã, bản. 112 26,23 Sinh viên ĐHYK Thái Nguyên 115 26,93 Nhận xét: Qua bảng 3.3 chúng tôi thấy: Nguồn truyền thông về vệ sinh môi trường đến người dân hàng đầu là từ nhân viên y tế thôn bản, cộng tác viên dân số (30,44%), tiếp đến là từ cán bộ y tế xã là 26,93%. Thanh niên bản, các tổ chức chính quyền, tổ chức quần chúng, sinh viên đều trong khoảng từ 19,44% đến 26,93%. Nguồn thông tin từ các ban, ngành ở xã và nhà trường còn thấp, chỉ chiếm 5,76% và 5,15%. 33 3.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trƣờng của ngƣời dân tại các xã nghiên cứu. Bảng 3.4. Kết quả điều tra về nguồn nước Các chỉ số n % Số người kể được tên các loại nguồn nước sạch 213 49,88 Số người kể được tên các loại nguồn nước không sạch 145 33,96 Số người kể được đúng tên các bệnh do việc sử dụng nguồn nước không sạch gây ra 154 36,07 Số người dân tin rằng nguồn nước gia đình mình đang sử dụng là nguồn nước sạch 122 28,57 Số người dân cho rằng cần tìm kiếm nguồn nước cho gia đình sạch hơn 112 26,23 Số hộ có nguồn nước sạch 93 21,78 Số hộ không có nguồn nước sạch 334 78,22 Số hộ đã có những việc làm thiết thực để bảo vệ nguồn nước sạch 71 16,63 Số hộ có nhà tắm 32 7,49 Số hộ có hố xử lý nước thải 11 2,58 Nhận xét: Bảng 3.4 cho chúng tôi thấy số người không kể tên được nguồn nước sạch khá cao (50,12%). Số người không biết các bệnh lây theo và do nguồn nước 63,93%, có 73,77% số người cho rằng không cần tìm kiếm nguồn nước sạch hơn, số hộ không có nguồn nước sạch 78,28%, số hộ không thực hiện các việc làm thiết thực để bảo vệ nguồn nước 83,37% đều là những tỷ lệ cao. 34 Bảng 3.5. Kiến thức, thái độ, thực hành (KAP) của người dân về nguồn nước. KAP về nguồn nƣớc n Tỷ lệ % Kiến thức Tốt 131 30,68 Trung bình 190 44,5 Yếu 106 24,82 Thái độ Tốt 75 17,56 Trung bình 227 53,16 Yếu 125 29,28 Thực hành Tốt 72 16,86 Trung bình 246 57,61 Yếu 109 25,53 Ghi chú: 1. Kiến thức tốt 2. Thái độ tốt 3. Thực hành tốt. Biểu đồ 3.4. KAP của người dân về nguồn nước Nhận xét: Kết quả trên cho chúng tôi thấy kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về nguồn nước còn rất thấp: Tỷ lệ số người có kiến thức tốt đạt 30,68% và thái độ tốt, thực hành tốt chỉ chiếm 17,56% và 16,86%. 35 Bảng 3.6. Kết quả điều tra về quản lý phân Các chỉ số n Tỷ lệ % Số người kể được tên các loại hố xí hợp vệ sinh 97 22,72 Số người kể được tên các loại hố xí không hợp vệ sinh 92 21,55 Số người kể được đúng tên các bệnh do việc sử dụng hố xí không hợp vệ sinh gây ra 112 26,23 Số người dân tin rằng hố xí gia đình mình vệ sinh 81 18,97 Số hộ có hố xí 154 36,07 Số hộ có hố xí hợp vệ sinh 49 11,48 Số hộ phóng uế bừa bãi (Không có hố xí) 273 63,93 Số hộ dùng phân để bón ruộng và hoa màu 123 28,80 Nhận xét: Bảng 3.6. cho chúng tôi thấy số hộ có hố xí chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số hộ điều tra (36,07%); trong số các hộ có hố xí, tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh cũng chiếm tỷ lệ thấp (11,48%). Số người kể tên được các hố xí hợp vệ sinh thấp: 22,72%. Có 26,23% số người dân kể tên được các bệnh do sử dụng hố xí không hợp vệ sinh gây ra và còn 28,8% số hộ còn dùng phân tươi để bón ruộng. Bảng 3.7. KAP của người dân về quản lý phân. KAP về quản lý phân n Tỷ lệ % Kiến thức Tốt 93 21,78 Trung bình 222 51,99 Yếu 112 26,23 Thái độ Tốt 82 19,20 Trung bình 200 46,84 Yếu 145 33,96 Thực hành Tốt 48 11,24 Trung bình 123 28,81 Yếu 256 59,95 36 Ghi chú: 1. Kiến thức tốt 2. Thái độ tốt 3. Thực hành tốt. Biểu đồ 3.5: KAP của ngƣời dân về quản lý phân Nhận xét: Về quản lý phân: tỷ lệ số người dân có kiến thức tốt về quản lý phân chiếm tỷ lệ thấp 21,78 %, tỷ lệ thái độ tốt và thực hành tốt cũng thấp: 11,24% chiếm 19,2%. Bảng 3.8. KAP của người dân về chuồng gia súc KAP về chuồng gia súc ._.ổi hành vi của mình. Kiến thức chuyển thành thái độ tốt là một quá trình quan trọng, đánh dấu chất lượng công tác giáo dục sức khoẻ. Điều này thể hiện rất rõ trong nghiên cứu của chúng tôi. Bảng 3.18 cho thấy: Người có thái độ tốt thì thực hành về vệ sinh môi trường tốt hơn rất nhiều, người có thái độ tốt thì thực hành tốt tới 49% và trung bình là 44,26%, yếu chỉ có 5,56%. Trong khi người có thái độ trung bình thì thực hành yếu chiếm tới 55,93% và tốt chỉ có 1,27%. Nghiên cứu cho thấy người có thái độ trung bình thì thực hành của họ chỉ ngang bằng với người có thái độ yếu. Như vậy rõ ràng rằng, sau khi trang bị các kiến thức, việc xây dựng thái độ tốt là vấn đề quan trọng để chuyển thành hành vi tốt của người dân. Như phân tích ở trên, tỷ lệ người có kiến thức tốt và thái độ tốt chuyển thành hành vi tốt có sự khác biệt khá rõ. Kết quả phân tích ở bảng 3.11 cho thấy kiến thức tổng hợp chung về vệ sinh môi trường của người dân ở mức độ tốt chỉ có 17,2%. Đây là một tỷ lệ thấp. Có thể thấy trong từng lĩnh vực như vấn đề hố xí: Chỉ có 22,72% số người kể tên được các loại hố xí hợp vệ sinh. 21,55% số người kể tên được các loại hố xí không hợp vệ sinh; 18,97% số người dân kể tên được các bệnh do hố xí không hợp vệ sinh gây nên, chính vì vậy có 28,8% số người dùng phân tươi chưa qua xử lý để bón ruộng. (Tương đương với nghiên cứu của Mai Đình Đức, Lê Văn Tuấn và Nông Thanh Sơn tại Ôn Lương- Phú Lương với 22,68% người dân dùng phân người chưa qua xử lý để bón ruộng) [14]. Về kiến thức quản lý phân, chỉ có 21,78% số người dân có kiến thức tốt; 19,2% có thái độ tốt; 11,24% thực hành quản lý phân tốt, điều này cũng phù hợp với số người hiểu biết về các bệnh lây theo đường phân- miệng như đã 66 nói ở trên. Chính sự hiểu biết về hố xí hợp vệ sinh thấp, cũng không có hiểu biết tốt về mối nguy hiểm do sử dụng hố xí không hợp vệ sinh và sử dụng phân tươi bón ruộng gây ra nên người dân cũng chưa thực sự thấy cần thiết phải xây dựng các công trình vệ sinh cho mình, điều đó cũng là một trong những nguyên nhân chính, kết hợp với các nguyên nhân khác làm cho tỷ lệ hố xí cũng như kiến thức, thái độ của người dân về quản lý phân và chuồng gia súc của các hộ dân tại các điểm điều tra thấp. Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy, tỷ lệ hộ dân có nguồn nước sạch phụ thuộc rất nhiều vào phía người dân. Việc tìm kiếm, sử dụng bảo quản nguồn nước sạch phục vụ cho ăn uống và sinh hoạt phụ thuộc vào nhận thức của họ về thế nào là nguồn nước sạch và ảnh hưởng của nguồn nước không sạch đến sức khỏe con người. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có tới 50,12% số người không kể tên được một nguồn nước sạch. Trong khi đó chỉ có 33,96% số người trong mẫu điều tra kể tên được các nguồn nước không sạch và 63,93% không kể được đúng tên các bệnh do nguồn nước không sạch gây ra. Điều này phù hợp với tỷ lệ 71,43% số người dân được hỏi không biết nguồn nước gia đình mình đang sử dụng có phải là nguồn nước sạch hay không. Nghiên cứu thực tế cũng cho thấy nhiều hộ không có các hoạt động bảo vệ nhằm đảm bảo vệ sinh nguồn nước. Số hộ có hoạt động thiết thực bảo vệ nguồn nước chỉ có 16,63%. Chính không có sự hiểu biết về nước sạch nên việc khai thác, bảo vệ nguồn nước sạch của người dân còn nhiều yếu kém, nhận định này của chúng tôi một phần được lý giải thông qua các kết quả đánh giá nhận thức của người dân về hố xí đã trình bày ở trên. Một trong những minh chứng nữa cho nhận định trên là kiến thức của người dân về quản lý phân gia súc, hành vi của người dân về chăn nuôi, vị trí chuồng, trại nhốt gia súc, gia cầm. Ông Dương Minh Th. - Ủy ban xã Cây Thị khẳng định: “Hiểu biết của nhân dân về vệ sinh còn rất hạn chế . Riêng 3 xóm vùng sâu 67 vẫn còn thả giông lợn”. Ông Hoàng Văn Hữu - cán bộ văn hoá xã hội xã Cây Thị: “Tình trạng vệ sinh nhà ở, xóm bản dân tộc chăn thả gia súc ở một số xóm còn thả giông chưa quy hoạch”. Kết quả đánh giá KAP của người dân về chuồng gia súc trong nghiên cứu này bao gồm những quyết định của người dân về vị trí xây chuồng trại, quyết định của người dân về xử lý và sử dụng phân gia súc cũng như đánh giá của điều tra viên về tình hình xây dựng chuồng trại và quản lý, sử dụng phân gia súc cho thấy 32,32% người dân có kiến thức tốt về chuồng gia súc nói chung; 30,91% có thái độ tốt và 24,12% thực hành tốt. Đây là một tỷ lệ thấp, đồng thời là nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước. Vấn đề này cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu của Đỗ Thị Minh Hương, Nguyễn Văn Giáp và cộng sự về nhận thức của người dân đối với nguồn gây ô nhiễm cho nguồn nước, trong đó người dân cho rằng nguồn nước nhiễm bẩn từ chuồng gia súc chỉ có 16,7% [27]. Nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng với nghiên cứu của Khổng Thị Ngọc Mai tại 9 tỉnh miền núi phía Bắc và Tây nguyên cho tỷ lệ 76,55% số hộ không có chuồng gia và nuôi gia súc thả rông [34] và nghiên cứu của Võ Thị Mai tại xã Ôn Lương (Phú Lương-Thái nguyên) [33]. Phân gia súc không được xử lý sẽ phát tán ra môi trường xung quanh những mầm bệnh nguy hiểm đặc biệt là những bệnh đường ruột [24]. Việc sử lý rác cũng còn nhiều yếu kém, đây cũng là một việc nằm trong tỷ lệ 83,4% số hộ dân không có các hoạt động thiết thực bảo vệ nguồn nước. Hầu hết các hộ dân không có hố rác, rác sinh hoạt được vứt bừa bãi và cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước. Vấn đề này cũng nằm trong tình trạng chung của khu vực nông thôn miền núi như kết quả tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn và thuỷ sản năm 2006. Đồng thời tương đồng với đánh giá trong phạm vi toàn quốc: người nghèo có tỷ lệ tương đối cao không có một chỗ cố định để vứt rác làm ô nhiễm xung quanh nhà. Tỷ lệ vứt rác xuống nước tương đối cao ở nhóm nghèo và cận nghèo và giảm đi khi mức sống tăng lên [40]. 68 Về hóa chất bảo vệ thực vật: 18,89% có thái độ tốt nhưng chỉ có 8,9% thực hành tốt. Kết quả trên cho thấy nhận thức của người dân về sự nguy hiểm của hóa chất bảo vệ thực vật với nguồn nước nói riêng và sức khỏe con người nói chung còn rất thấp, số người có hành vi ngăn chặn sự ô nhiễm của hóa chất bảo vệ thực vật đến nguồn nước còn thấp hơn rất nhiều. Tuy nhiên nghiên cứu của chúng tôi thì nhận thức của người dân vè hóa chất bảo vệ thực vật có cao hơn so với nghiên cứu của Võ Thị Mai tại Ôn Lương- Phú Lương [33] có thể do khoảng cách thời gian đã qua, công tác tuyên truyền giáo dục về hóa chất bảo vệ thực vật được tăng cường tạo ra những cải thiện cho nhận thức của người dân về vấn đề này. Những kết quả nghiên cứu trên đây phù hợp với KAP của người dân về nguồn nước trong nghiên cứu này. Tỷ lệ 30,68% có kiến thức tốt; 17,56% có thái độ tốt; 16,86% thực hành tốt. Kết quả này tương đương kết quả nghiên cứu của Bế Ngọc Hùng tại thị xã Bắc Kạn năm 2006 [26] và kết quả tổng điều tra quốc gia về y tế 2001-2002 [9]. Kết quả đó phản ánh hệ quả của thực trạng trình độ dân trí, mức sống của người dân, vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, chất lượng mạng lưới y tế, mức sống của người dân. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy cần phải có các biện pháp mạnh mẽ nhằm cải thiện các vấn đề liên quan đến nguồn nước của người dân khu vực nghiên cứu. 4.3.3. Mối liên quan giữa quan niệm, thói quen của người dân và thực hành của họ về vệ sinh môi trường. Cũng giống như ở Ôn Lương- Phú Lương như trong nghiên cứu của Võ Thị Mai [33], hai xã nghiên cứu của chúng tôi là xã miền núi, người dân ở đây sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng (trên 95%) nên việc sử dụng phân người và phân gia súc là một việc làm thường xuyên của các hộ gia đình, điều này chắc chắn sẽ làm phát tán mầm bệnh ra đất, nước và môi trường xung quanh. Bên cạnh đó, việc chăn nuôi gia súc, gia cầm hiện nay tại hai xã nghiên cứu chủ yếu vẫn là chăn nuôi thả rông như theo kết quả thảo luận với lãnh đạo và người dân tại đây. Ông Hoàng Văn H. - Cán bộ văn hoá xã hội xã Cây Thị: 69 "Tình trạng hiểu biết của người dân 3 xóm vùng sâu về vệ sinh môi trường còn chưa tốt ... xóm bản dân tộc chăn thả gia súc ở một số xóm còn thả giông chưa quy hoạch”, đồng thời kết quả quan sát của điều tra viên cũng cho thấy với những gia đình có chuồng nhốt gia súc thì cũng chưa đạt tiêu chuẩn về quy cách xây dựng và khoảng cách với nguồn nước. Theo Ông Bùi Đình X.- Ủy ban mặt trận tổ quốc xã Cây Thị: "Nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước là do khai thác khoáng sản như quặng sắt, số ít hộ còn chăn nuôi thả giông, công trình vệ sinh làm gần giếng nước ăn ở..." Thực tế nghiên cứu tại hai xã, có những gia đình xây dựng nhà cửa rất khang trang nhưng lại không có hố xí, thảo luận với người dân thì họ cho rằng không cần tiết phải có nhà vệ sinh vì đất ở của họ rộng rãi việc đi vệ sinh ra vườn, đồi không ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường, mặt khác việc làm hố xí thậm chí có mùi thối làm họ khó chịu do vậy họ thấy làm nhà vệ sinh là không cần thiết. Ông Dương Minh Th. - Uỷ ban nhân dân xã Cây Thị cho biết "Hiện nay hố xí các hộ chưa hợp vệ sinh nhất là các xóm vùng sâu vùng xa lý do là theo thói quen gần rừng và suối và họ đi vệ sinh ở đó”. Theo Ông Triệu Phúc Ph.- Nhân viên Y tế thôn bản Khe Cạn: "Hố xí đa số là chưa có là do người dân còn nhiều tập quán lạc hậu, quan niệm cũ kỹ đó là cứ ra rừng và vườn xung quanh nhà, ở đó rộng rãi thoải mái...". Những vấn đề này là những nguyên nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước, trong khi vẫn có một tỷ lệ người dân sử dụng nước khe để ăn uống, rõ ràng có mối liên quan giữa những thói quen của người dân với nguyên nhân gây ô nhiễm và chất lượng nguồn nước. Vấn đề ở đây là phải tuyên truyền cho người dân phải biết xử lý phân bằng ủ phân đúng cách. Nếu xử lý phân gia súc đúng quy cách sẽ là một nguồn phân bón hữu cơ rất tốt phục vụ cho sản xuất đồng thời cũng sẽ giảm được nguy cơ mắc các bệnh đường ruột và một số bệnh khác [33]. 70 KẾT LUẬN Nghiên cứu 427 hộ gia đình người dân ở hai xã vùng sâu của huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái nguyên, chúng tôi thấy thực trạng kiến thức thái độ thực hành về vệ sinh môi trường như sau: 1- Tỷ lệ người dân có kiến thức, thái độ, thực hành tốt về vệ sinh môi trường còn thấp, mới đạt được như sau: - Kiến thức tốt : 17,1% - Thái độ tốt : 14,29% - Thực hành tốt : 8,2% - Thực trạng vệ sinh môi trường của hai xã nghiên cứu còn nhiều vấn đề cần lưu tâm đó là: Tỷ lệ số hộ dân có hố xí còn thấp (36,07%); Tỷ lệ số hộ dân có hố xí hợp vệ sinh thấp (11,48%); Tỷ lệ số hộ dân có nguồn nước sạch cũng còn thấp (21,78%). 2- Một số yếu tố liên quan tới thực hành về vệ sinh môi trường của người dân là: - Kinh tế hộ gia đình: Người dân có kinh tế đủ ăn thực hành về vệ sinh môi trường tốt hơn người dân thuộc hộ nghèo (p<0,05) - Dân tộc: Người dân thuộc dân tộc ít người có tỷ lệ thực hành về vệ sinh môi trường thấp hơn dân tộc đa số (p<0,05). - Giới: nữ giới thực hành về vệ sinh môi trường tốt hơn nam giới (p<0,05) - Trình độ học vấn: Người có trình độ học vấn cao hơn có thực hành về vệ sinh môi trường tốt hơn (p<0,05) 71 KHUYẾN NGHỊ Với kết quả nghiên cứu thu được chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị sau: 1. Cần tăng cường công tác giáo dục sức khoẻ cho cộng đồng. Kết hợp nhiều hình thức truyền thông như tập huấn, qua phương tiện truyền thanh. Cần xây dựng các tài liệu truyền thông dễ hiểu phù hợp với dân trí và tập quán, dân tộc. Nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của các nhà trường, đoàn thanh niên, đội ngũ y tế thôn bản để tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền miệng. Nội dung cần tập trung vào việc xây dựng hố xí hợp vệ sinh, tìm kiếm và bảo quản nguồn nước sạch, vấn đề quản lý phân, sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, các bệnh liên quan đến vệ sinh môi trường, xử lý phân, rác.. 2. Xây dựng mẫu các công trình liên quan đến vệ sinh môi trường như nhà vệ sinh, nhà tắm, chuồng trại chăn nuôi, công trình xử lý phân, rác phù hợp với tình hình kinh tế của người dân để họ học tập và làm theo, tổ chức các hoạt động hỗ trợ người dân nghèo, người neo đơn, có hoàn cảnh khó khăn trong xây dựng công trình vệ sinh. Phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, người có uy tín trong cộng đồng. Tăng cường xây dựng các quy ước hương ước tiến bộ về vệ sinh môi trường. 3. Nâng cao chất lượng hoạt động của trạm y tế xã trong vai trò phụ trách kỹ thuật và tham mưu cho lãnh đạo địa phương triển khai nhiệm vụ vệ sinh môi trường. Phối hợp giữa các lực lượng xã hội trong hoạt động bảo vệ môi trường nhất là đoàn thanh niên, các doanh nghiệp, các ban, ngành, đoàn thể, sinh viên... 72 4. Tỉnh, huyện và xã cần quan tâm hơn nữa đến công tác xóa đói, giảm nghèo, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, nhất là điện, đường, làm cơ sở vững chắc cho thực hiện các nhiệm vụ vệ vệ sinh môi trường. 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt 1. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới, Hà Nội. 2. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2002), Chỉ thị về việc củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, Chỉ thị 06 - CT/TW ngày 22 tháng 01 năm 2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Hà Nội. 3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2005), Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2006- 2010, Hà Nội. 4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2007), Báo cáo kết quả thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia NS-VSMT NT giai đoạn 1999-2005, Hà Nội. 5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2004), Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn- Hà Nội. 6. Bộ Y tế (2007), Niên giám thống kê y tế năm 2006, Phòng thống kê tin học Bộ Y tế, Hà Nội. 7. Bộ Y tế (1997), Chiến lược công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân vùng núi phía Bắc trong thời gian 1997 - 2000 và 2020, Hà Nội, Tr. 1 - 16. 8. Bộ Y tế - Bộ Quốc phòng - Học viện Quân y (1999), Đánh giá 20 năm thực hiện công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu ở Việt Nam, Hà Nội. 9. Bộ y tế (2005), Báo cáo kết quả điều tra y tế quốc gia 2001-2002, Hà Nội. 10. Bộ Tài nguyên và môi trường(2005): Thanh niên với công tác bảo vệ môi trường- NXB thanh niên- Hà nội. 74 11. Trần Thị Trung Chiến (2003), Xây dựng y tế Việt Nam công bằng và phát triển, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 12. Trần Thị Trung Chiến, Nguyễn Thành Trung, Ngô Khang Cường và cs (2003), Mô hình nhà y tế bản cho vùng cao miền núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn ở Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 13. Kiều Khắc Đôn (2001), Vài vấn đề về môi trường ở nông thôn trung du và miền núi, “Nâng cao năng lực chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào các dân tộc những vùng khó khăn ở khu vực miền núi phía Bắc”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học công nghệ Y Dược, Đại học Thái Nguyên. 14. Mai Đình Đức, Lê văn Tuấn, Nông thanh Sơn( 2005): Nghiên cứu giải pháp giáo dục thích hợp vè môi trường và sức khoẻ cho đồng bào dân tộc xã Ôn Lương, huyện Phú Lương, tỉnh Thái nguyên- Tạp chí y học thực hành số 531/2005. 15. Đỗ Hàm, Hoàng Khải Lập, Nguyễn Khắc Hùng và CS (1998), Một số nhận xét về thực trạng môi trường sống của đồng bào dân tộc Thái và Mường ở Sơn La và Hoà Bình, Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học tập VIII- 1998, Nhà xuất bản y học, Hà Nội. 16. Nguyễn Thu Hiền (2000), Nghiên cứu thực trạng mạng lưới y tế cơ sở và công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai, Luận văn Thạc sỹ Y học, Thái Nguyên. 17. Nguyễn Văn Hiến (2004), Nghiên cứu hoạt động giáo dục sức khoẻ tại một số xã của một huyện đồng bằng bắc bộ và thử nghiệm mô hình can thiệp giáo dục sức khoẻ, Luận án tiến sỹ, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội. 18. Đàm Khải Hoàn, Nguyễn Thành Trung (2001), Thực trạng chăm sóc sức khoẻ ban đầu ở miền núi phía Bắc, Kỷ yếu hội thảo “Nâng cao năng lực chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào các dân tộc những vùng khó khăn ở khu vực miền núi phía Bắc”, Tập chí Khoa học & công nghệ, Đại học Thái Nguyên, Tr. 205 – 212. 75 19. Đàm Khải Hoàn và cs (2003), Bước đầu nhận xét một số phong tục tập quán có ảnh hưởng đến sức khoẻ người Dao ở một số bản vùng III thuộc tỉnh Bắc Kạn, Tạp chí Y học thực hành, Số 03/475, Hà Nội, Tr. 22 - 25 20. Đàm Khải Hoàn, Đàm Thị Tuyết, Hạc Văn Vinh (2003), Đánh giá bước đầu mô hình giáo viên cắm bản tham gia vào truyền thông – giáo dục sức khoẻ sinh sản cho người dân vùng cao huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên, Nội san khoa học công nghệ Y - Dược học miền núi, Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên, Thái Nguyên. 21. Đàm Khải Hoàn (2004). Thực trạng KAP về vệ sinh môi trường của người dân ở 2 xã vùng cao huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên. Tạp chí thông tin Y dược học, Số 04/2004, Hà Nội 22. Đàm Khải Hoàn và CS (2005): Thực trạng công tác CSSKBĐ ở 3 xã huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên, Tạp chí Y học thực hành, 531/2005 23. Đàm Khải Hoàn và CS (2007), Giáo trình truyền thông - giáo dục sức khoẻ, Nhà xuất bản y học. Hà Nội. 24. Nguyễn Đình Học (2003): Nghiên cứu phát triển thể chất, mô hình bệnh tật và một số yếu tố ảnh hưởng ở trẻ em dân tộc Dao, Bắc Thái- Luận văn Tiến Sỹ Y học, Hà Nội. 25. Nông Thái Sơn Hà (2005): Nghiên cứu mô hình quản lý phân người thích hợp ở nhà sàn và nhân rộng mô hình cho đồng bào dân tộc một số khu vực miền núi phía bắc- Chuyên đề tốt nghiệp bác sỹ đa khoa, Thái Nguyên 26. Bế Ngọc Hùng(2006): Thực trạng sử dụng nguồn nước và bệnh tiêu chảy ở trẻ em dưới 5 tuổi tài xã Huyền Tụng và xã Xuất hóa- thị xã Bắc Kạn- Chuyên đề tốt nghiệp chuyên khoa cấp 1- Thái nguyên. 27. Đỗ Thị Minh Hương và cộng sự (2005): Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về sử dụng nguồn nước và một số giải pháp can thiệp tại xã Ôn Lương, huyện Phú Lương, tỉnh Thái nguyên- Tạp chí y học thực hành số 531/2005. 28. Hoàng Khải Lập, Nông thanh Sơn, Đồng Ngọc Đức và cộng sự (1997), Đánh giá thực trạng một số đặc điểm sự tác động và mối liên quan 76 giữa môi trường và sức khoẻ nhân dân xã Nam Hoà, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên, Tập IX, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 29. Hoàng Khải Lập (1998), Điều tra cơ bản sinh thái môi trường và sức khoẻ, mô hình bệnh tật của đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam 1994-1996, Dự án độc lập cấp Nhà nước, Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên, Tr. 47 - 73. 30. Hoàng Khải Lập, Nông Thanh Sơn, Đồng Ngọc Đức và cộng sự (1999), Xác định các yếu tố nguy cơ đặc thù của môi trường vùng núi tỉnh Thái Nguyên tác động đến sức khoẻ cộng đồng, đề xuất và áp dụng các biện pháp can thiệp, Chương trình KHCN.11.02. 31. Hoàng Khải Lập và cộng sự (2001), Nghiên cứu tác động của một số yếu tố môi trường sống lên sức khoẻ và bệnh tật của đồng bào các dân tộc ở Quang Thuận, Bạch Thông, Bắc Kạn, Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học, Tập IX-1998, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, Tr.48. 32. Nguyễn thị Khánh Linh (2007): Thực trạng các công trình vệ sinh của người dân xã La Hiên, huyện Võ nhai, tỉnh Thái Nguyên trong phong trào xây dựng làng văn hoá sức khoẻ – Khoá luận tốt nghiệp bác sỹ đa khoa- Trường đại học y khoa Thái nguyên. 33. Võ Thị Mai (2003), Thực trạng môi trường nông thôn và kiến thức thái độ thực hành về chăm sóc môi trường cơ bản của người dân ở xã Ôn Lương huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ y học. Thái nguyên. 34. Khổng Thị Ngọc Mai (2003): Đánh giá hiệu quả công tác chăm sóc sức khoẻ trẻ em sau can thiệp bằng các hoạt động của mô hình Nhà y tế bản ở một số bản vùng cao, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn của miền núi. Luận văn thạc sỹ y học. Thái nguyên. 35. Lê Thị Nguyệt, Đàm Khải Hoàn (2001). Thực trạng công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người Nùng, Dao ở 2 xã vùng cao vùng sâu huyện 77 Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên. Nội san Khoa học - Công nghệ Y Dược - Trường đại học y khoa Thái Nguyên - Hội nghị khoa học tuổi trẻ số 3/2001. 36. Lê Thị Nguyệt (2003). Thực trạng kiến thức thái độ thực hành về vệ sinh môi trường của người dân ở 2 xã vùng cao huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên, Chuyên đề tốt nghiệp bác sỹ đa khoa, Trường đại học y khoa Thái Nguyên. 37. Lê Thị Quyên, Đàm Khải Hoàn (2001), Thực trạng công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người Nùng, H'Mông ở xã Quang Sơn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên, Nội san Khoa học - Công nghệ Y Dược - Trường đại học y khoa Thái Nguyên - Hội nghị khoa học tuổi trẻ số 3/2001. 38. Nguyễn Thị Thanh (2004): Thực trạng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân tại 3 xã đặc biệt khó khăn cyủa huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn - Tạp chí y học thực hành số 8/2004. 39. Nông Phúc Thắng (2003): Xác định chỉ số điểm và bệnh tật của nhân dân sống xung quanh vùng khai thác mỏ thiếc Sơn Dương- Tuyên Quang- Chuyên đề tốt nghệp bác sỹ đa khoa- Thái Nguyên. 40. Tổng cục thống kê (2007): Kết quả tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn và thủy sản năm 2006. Hà nội 41. Lê Anh Tuấn (2003): Nhà vệ sinh nông thôn ở Việt Nam- hiện trạng và vấn đề- Hà nội. 42. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (2007): Đoàn TNCS Hồ Chí Minh với công tác bảo vệ môi trường- Hà Nội. 43. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1971): Người Dao ở Việt Nam- NXB khoa học xã hội- Hà Nội. 44. Trịnh Hữu Vách và CS (2006): Tình hình xây dựng, sử dụng nhà tiêu tại các hộ gia đình ở 3 huyện thuộc 2 tỉnh bắc trung bộ Việt Nam- Tạp chí y học thực hành số 1/2006. 45. Nhiều tác giả (1997): Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới- NXB chính trị quốc gia- Hà Nội. 46. 78 47. Tài liệu tiếng Anh: 48. Kazuo Uemura, Ph.D Chai man Editorial Board (2003): Seamic Health statics 2002 - Southeast Asian Medical Infomation Center International Medical Foundation of Japan. 49. Nguyen Huy Nga và CS (2006): A summary of national baseline survey on environmental sanitation and hygiene situation in Vietnam. 50. United Nations Evironment Programme (UNEP)(2002): Water Supply and Sanitation Coverage in UNEP Regional Seas. 79 PHỤ LỤC 1 PHIẾU ĐIỀU TRA CHỦ HỘ GIA ĐÌNH VỀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG Bản:..........................Xã..............................Huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên A. HÀNH CHÍNH: A1. Họ và tên chủ hộ:........................................................................... A2. Tuổi:...................... A3. Giới: 1. Nam 2. Nữ A4. Dân tộc:..................... A5. Trình độ học vấn: 1. Mù chữ 4. THCS 2. Biết đọc – Biết viết 5. THPT 3. Tiểu học 6. Đại học trở lên A6. Tổng thu nhập của gia đình trong năm qua: ...................................đồng/ năm. A7. Phương tiện truyền thông: 1. Đài 2. Vô tuyến 3. Báo chí 4. Không có A8. Số người trong gia đình:................ Trong đó: Số nam:............người, Số nữ...........người B. KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG NƢỚC: B1. Hãy kể tên các loại hố xí mà anh (chị) biết ?.................................................... B2. Trong các loại hố xí vừa kể trên, loại nào là hợp vệ sinh:......................................... B3. Gia đình ta có hố xí riêng không? 1. Có 2. Không B4. Nếu có, loại nào?................................................................................................ B5. Anh (chị) có cho rằng hố xí nhà mình đảm bảo vệ sinh không? 1. Có 2. Không B6. Nếu không có hố xí riêng, hiện nay gia đình ta đi ngoài ở đâu?................................. B7. Nếu sử dụng hố xí không hợp vệ sinh có thể gây ra những bệnh nào?.................................. B8. Hãy kể tên các loại nguồn nước mà anh (chị ) biết......................... B9. Nguồn nước nào trên đây là sạch ? ................................................................ B10. Gia đình ta hiện nay đang dùng nguồn nước nào?............................................... B11. Theo gia đình, nguồn nước đang dùng có đảm bảo vệ sinh không? 1. Có 2. Không B12. Theo anh (chị) gia đình ta cần tìm nguồn nước sạch hơn hiện nay không? 1. Có 2. Không 3. Chưa biết 4. Không trả lời B13. Nếu có, dự định sẽ tìm nguồn nước loại nào?...................................... B14. Nếu không, xin cho biết lý do tại sao?......................................................... B15. Nguồn nước của gia đình hiện nay có thể bị nhiễm bẩn do nguyên nhân nào? 80 .................................................................................................................. ................................ B16. Nếu sử dụng nguồn nước không sạch có thể mắc những bệnh gì?........................... B17. Gia đình ta đã làm gì để giữ gìn nguồn nước sạch?.......................................,,,... B18. Gia đình ta có nhà tắm không? 1. Có 2. Không 3. Có nhưng đã hỏng B19. Gia đình ta có hố tích trữ thải không? 1. Có 2. Không B20. Nếu không có, nước thải được xử lý như thế nào? 1. Chảy vào ao, hồ 2. Chảy ra ruộng 3. Khác B21. Gia đình anh (chị) có nuôi gia súc không? 1. Có 2. Không B22. Nếu có thì nuôi ở đâu? 1. Trong chuồng 2. Thả rông B23. Gia đình anh (chị) có dùng phân để bón ruộng và hoa màu không? 1. Có 2. Không B24. Nếu có, thì gia đình dùng loại phân nào? 1. Phân người 2. Phân gia súc 3. Phân hoá học B25. Nếu dùng phân người, gia súc, thì dùng như thế nào? 1. Dùng phân tươi 2. Dùng phân ủ B26. Nếu dùng phân ủ thì ủ trong bao lâu? 1. < 3 tháng 2. 3 - 6 tháng 3. > 6 tháng B27. Theo anh, chị: Dùng phân tươi bón ruộng có ảnh hưởng như thế nào? 1. Ảnh hưởng đến nguồn nước 2. Ảnh hưởng đến sức khẻ con người? 3. Không ảnh hưởng. B28. Gia đình ta có dùng thuốc trừ sâu không? 1. Có 2. Không B29. Vỏ, chai, lọ đựng thuốc trừ sâu (đã dùng hết thuốc), anh (chị) xử lý thế nào? 1. Chôn, đốt 3. Đem về sử dụng lại 2. Vứt ra xung quanh 4. Khác (ghi rõ)................................................. B30. Sau khi phun thuốc xong, anh (chị) thường rửa dụng cụ ở đâu? 1. Rửa ở mương, suối 3. Về nhà rửa nước giếng 2. Rửa ở ao, ruộng 4. Không rửa C. PHẦN QUAN SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ CỦA ĐIỀU TRA VIÊN C1. Nhà tắm: 1. Có 3. Hỏng hoặc làm tạm 2. Không 4. Khác............................ C2. Nước thải sinh hoạt: 1. Thoát tốt 2. Đọng lại C3. Hố rác: 1. Có 2. Không C4. Nếu có, hố rác đảm bảo: 1. Hợp vệ sinh 2. Không vệ sinh 81 C5. Chất thải rắn vứt bừa bãi quanh nhà: 1. Có 2. Không C6. Nuôi gia súc: 1. Có 2. Không C7. Nếu có chuồng gia súc thì chuồng cách nhà ở: 1. < 5 m 2. 5 - <10 m 3. 10 m C8. Phân gia súc: 1. Để bừa bãi 2. Có hố ủ phân 3. Khác............................. C9. Loại hố xí mà gia đình hiện đang dùng 1. Hố xí 1 ngăn 5. Hố xí đào 2. Hố xí 2 ngăn 6. Hố xí chung với chuồng gia súc 3. Hố xí tự hoại, bán tự hoại 7. Khác......................................... 4. Hố xí thấm dội nước 8. Không có hố xí C10. Quan sát hố xí và đánh giá: 1. Đạt yêu cầu vệ sinh : 1. Xa nguồn nước 10 m 2. Kín 3. Khô 4. Sạch 5. Sử dụng đúng 6. Phân ủ đúng thời gian quy định 2. Không đạt: Khi không có đủ 6 yêu cầu trên C11. Nguồn nước mà gia đình đang dùng: 1. Nước giếng khơi (giếng đào) 5. Nước ao, hồ 2. Nước giếng khoan 6. Nước sông, suối, mương... 3. Nước giếng làng 7. Bể chứa nước mưa 4. Nước máng lần 8. Nguồn khác....................... C12. Quan sát và nhận xét nguồn nước về màu sắc, mùi, vị C12a. Nguồn nước có màu: 1. Có màu 2. Không màu C12b. Nguồn nước có mùi: 1. Có mùi 2. Không mùi C12c. Nguồn nước có vị: 1. Chát 2. Mặn 3. Không vị C13. Đánh giá nguồn nước về tiêu chuẩn vệ sinh 1. Đạt yêu cầu vệ sinh : 1. Cách hố xí hoặc chuồng gia súc 10 m 2. Hố xí không cao hơn mặt giếng 3. Thành giếng được xây, nước không đọng vũng 4. Nước thải thoát tốt 2. Không đạt: Khi không có đủ 4 yêu cầu trên Ngày ........tháng .........năm 2007 TRẠM Y TẾ CHỮ KÝ CHỦ HỘ ĐIỀU TRA VIÊN (Ký tên, đóng dấu) (Ký và ghi họ tên) 82 PHỤ LỤC 2 HƢỚNG DẪN THẢO LUẬN NHÓM I. HÀNH CHÍNH: 1. Hƣớng dẫn viên: ....................................................................... 2. Thƣ ký: ..................................................................................... 3. Thành viên: 1) .................................................................................................................... 2) .................................................................................................................... 3) .................................................................................................................... 4) .................................................................................................................... 5) .................................................................................................................... 6) .................................................................................................................... 7) .................................................................................................................... 8) .................................................................................................................... 9) .................................................................................................................... 10) .................................................................................................................... II. NỘI DUNG: 1. Thực trạng vệ sinh môi trƣờng của ngƣời dân ở địa phƣơng nhƣ thế nào? - Vệ sinh chung - Vệ sinh nhà ở - Các công trình vệ sinh: Hố xí, nhà tắm, chuồng trại gia súc, nguồn nước, hố rác, xử lý phân. - Sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật. 2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến thực trạng vệ sinh môi trƣờng của ngƣời dân? - Văn hoá, phong tục, tập quán, thói quen - Nguồn lực - Nguồn truyền thông, sự quan tâm của các ban, ngành đoàn thể, các cơ quan y tế? - Những đề xuất nhằm cải thiện thực trạng vệ sinh môi trường ở địa phương? Xác nhận của địa phƣơng Thƣ ký Hƣớng dẫn viên (Ký tên, đóng dấu) (Ký tên) (Ký tên) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9489.pdf