Lời nói đầu
Đất nước càng phát triển, đời sống của người dân ngày một được cải thiện. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đó thì cũng kéo theo rủi ro luôn rình dập đe doạ đối với tài sản và tính mạng của con người. Do đó, con người cần được bảo vệ và được hỗ trợ khi gặp khó khăn, đặc biệt trong tình hình đất nước ta, hiện nay đang xây dựng nền kinh tế tri thức, trong đó con người là nhân tố quyết định nhất. Ngoài nhu cầu bảo vệ cho bản thân họ còn có nhu cầu bảo vệ cho con cái họ để tránh khỏi nh
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1384 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng khai thác nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - Sinh viên tại Công ty Cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững rủi ro đang đe doạ. Do đó, nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên là rất cần thiết trong điều kiện hiện nay.
Hơn nữa, các em học sinh là mầm non của đất nước, là những nhân tố để phát triển đất nước trong tương lai. Với sự triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên, đã góp phần vào sự nghiệp giáo dục mà Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện.
Đối với mỗi công ty tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường. Hoạt động kinh doanh gồm nhiều khâu khác nhau. Nhưng khâu có ý nghĩa, vai trò quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp là khâu khai thác. Nhận thức được điều này, trong thời gian thực tập tại văn phòng khu vực VII thuộc công ty bảo hiểm PJICO. Em đã đi sâu nghiên cứu đề tài “phân tích thực trạng khai thác nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO)”.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này nhằm:
Làm rõ về sự cần thiết, tác dụng và một số nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên.
Phân tích, đánh giá tình hình triển khai nghiệp vụ này thực tế tại PJICO.
Đưa ra những kiến nghị để từ đó có thể giúp cho công ty nâng cao được công việc khai thác nghiệp vụ này.
Bài viết này được chia ra thành 3 phần chính.
Chương I: Lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên.
Chương II: Phân tích tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh – sinh viên.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh – sinh viên.
Để hoàn thành được bài viết này em đã nhận được sự giúp đỡ rất tận tình của giáo viên hướng dẫn, các thầy cô trong khoa Bảo Hiểm cùng với các cán bộ trong văn phòng khu vực VII thuộc công ty bảo hiểm PJICO. Tuy nhiên, do kiến thức còn hạn chế, thời gian thực tập còn ngắn nên bài viết này không tránh khỏi được những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến xây dựng đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cán bộ trong công ty, cùng toàn thể các bạn sinh viên.
xin chân thành cảm ơn!
Chương I
lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh – sinh viên.
I. sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm kết hợp học sinh – sinh viên.
1. Sự cần thiết khách quan.
Trong cuộc sống hàng ngày, để tồn tại và phát triển con người phải tìm mọi biện pháp để đấu tranh phòng ngừa những rủi ro luôn gần kề chúng ta. Tuy nhiên, ốm đau, bệnh tật và tai nạn lại cứ luôn ẩn lấp bên cạnh, sẵn sàng hoành hành tới cuộc sống của con người. Bất cứ người nào trong xã hội, từ lúc sinh ra đến lúc già không ai lại chắc chắn không mắc một căn bệnh nào hay không gặp rủi ro nào gây ảnh hưởng đến tính mạng và tình trạng sức khoẻ, nhất là đối tượng trẻ em. Đây là đối tượng trong xã hội còn non trẻ về sức khoẻ và kinh nghiệm sống. Trong điều kiện kinh tế xã hội và môi trường sống hiện nay thì trẻ em cần được quan tâm hàng đầu. Bởi vì trong cuộc sống hàng ngày của các em ngoài những rủi ro là bệnh tật còn có những rủi ro về tai nạn có thể đến bất cứ lúc nào. Do vậy, các em rất cần được bảo vệ để cho sự phát triển đầy đủ sau này.
Bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên cũng là một loại hình bảo hiểm con người. Quỹ được hình thành từ sự đóng góp bằng tiền của cha mẹ học sinh (gọi là phí bảo hiểm). Nguồn tài chính này chủ yếu được sử dụng để chi trả kịp thời những thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ cho học sinh - sinh viên khi tai nạn xảy ra nhằm phục hồi sức khoẻ và cuộc sống cũng như học tập cho các em.
Bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên là một nghiệp vụ bảo hiểm rất thiết thực, góp phần bảo vệ quyền lợi cho học sinh – sinh viên, giúp các em có thể học tập liên tục không bị gián đoạn do các rủi ro gây nên. Đặc biệt nó có liên quan đến quyền con người và quyền trẻ em. Vì vậy việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này cho học sinh – sinh viên là rất cần thiết. Với Bộ luật “Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em”. Tại nước ta được Quốc hội thông qua ngày 12/5/1991. Trong luật này có quy định rõ trẻ em có quyền có tài sản, quyền thừa kế, quyền được hưởng các chế độ bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Mặc dù trong điều kiện bộn bề của đất nước ta hiện nay cần có rất nhiều các vấn đề về kinh tế xã hội cần giải quyết, song Đảng và Nhà nước vẫn giành sự quan tâm cho thế hệ trẻ. Điều này được thể hiện một phần ở việc cho phép các công ty bảo hiểm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên.
Đất nước ta là một đất nước đang phát triển. Do đó, cần rất nhiều nguồn vốn đầu tư cả trong và ngoài nước. Đặc biệt Đảng và Nhà nước ta đang xác định vốn ngoài nước là quan trọng, nhưng mang tính chất quyết định hơn lại là vốn trong nước. Để có thể tập trung được nhiều nguồn vốn trong nước thì đòi hỏi phải sử dụng mọi biện pháp huy động từ nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Bảo hiểm cũng là một hình thức như vậy, trong đó có bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên. Nguồn phí thu được không được dùng để chi trả ngay cho những đối tượng gặp phải rủi ro mà được trải ra trong năm bảo hiểm đó nên nguồn vốn này sẽ được đầu tư bằng các hình thức khác nhau mà các công ty bảo hiểm thực hiện. Điều này ta thấy việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên là rất cần thiết.
Nhìn chung, hầu hết các trường học nước ta, công tác sơ cấp cứu ban đầu còn rất hạn chế. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế này là do “tủ thuốc” ở các trường học không có hoặc là có nhưng rất nghèo làn về chủng loại cũng như về tính năng chữa bệnh. Với đặc điểm, đặc trưng của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên là sẽ trích một tỷ lệ nhất định so với phí để lập quỹ hình thành nên tủ thuốc trường học. Để khắc phục hạn chế đã nêu trên thì việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên có thể góp phần vào việc thực hiện điều này.
Nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên là loại hình bảo hiểm tự nguyện, phí bảo hiểm hoàn toàn do người tham gia đóng góp và hình thành nên một quỹ lớn dùng để chi trả cho đối tượng là học sinh - sinh viên khi gặp tai nạn, rủi ro, giúp cho học sinh - sinh viên có điều kiện học tập tốt hơn, góp phần ổn định cuộc sống cho các gia đình học sinh - sinh viên không may gặp tai nạn, rủi ro. Đặc biệt đối với những gia đình gặp khó khăn về kinh tế. Họ cho con em mình đi học cũng là sự cố gắng lớn rồi, cho nên khi con em họ gặp rủi ro thì rất có thể các em phải thôi học. Do vậy, nghiệp vụ này đã thể hiện tinh thần nhân đạo, thể hiện tinh thần đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau của cha ông ta.
Bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên cũng đảm bảo nguyên tắc cơ bản “lấy số đông bù số ít”. Đây là nguyên tắc cực kỳ quan trọng trong kinh doanh bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, khi nghiệp vụ được triển khai mỗi em đóng góp một khoản tiền (phí bảo hiểm) hình thành nên một quỹ bảo hiểm chung. Như vậy có thể thấy nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên là cần thiết khách quan và việc triển khai nghiệp vụ này tại các công ty bảo hiểm là rất phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay.
2. Tác dụng
Cùng với sự phát triển nhanh chóng ổn định của nền kinh tế nước ta nói chung, các nghành kinh tế nói riêng. Thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng trở nên sôi động. Trong thời gian qua đã có nhiều công ty bảo hiểm được thành lập dưới các hình thức khác nhau như: công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), doanh nghiệp có vốn đầu tư 100% vốn nước ngoài (Prudential, AIA). Bản thân các công ty bảo hiểm cũng không ngừng mở rộng quy mô, phạm vi, lĩnh vực hoạt động của mình. Bằng cách mở rộng việc thành lập các chi nhánh văn phòng khu vực. Trong đó một trong những nghiệp vụ được triển khai và đẩy mạnh là nghiệp vụ bảo hiểm con người. Chính vì vậy mà những năm gần đây, bảo hiểm con người được các công ty bảo hiểm tập trung đặc biệt bổ sung, hoàn thiện và mở rộng phạm vi hoạt động của mình lên rất nhiều. Trong đó có nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên. Chúng ta có thể dễ dàng thấy được một số tác dụng chủ yếu của nghiệp vụ này như sau:
Bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên là công cụ hữu hiệu để các gia đình ổn định về mặt tài chính. Trong điều kiện nền kinh tế đất nước ta đang phát triển, đời sống của người dân còn khó khăn, đặc biệt là đối với tầng lớp có thu nhập thấp như nông dân, công nhân, viên chức nhà nước. Do đó, việc có một quỹ được hình thành do sự đóng góp của các bên nhằm trợ giúp cho các gia đình có con em đi học tham gia bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên là rất cần thiết. Với nguyên tắc số đông bù số ít, các gia đình có con em đi học tham gia bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên với một chi phí thấp. Nếu không may xảy ra tai nạn thì bảo hiểm sẽ đứng ra chi trả chi phí khám, điều trị, các gia đình tránh được tình trạng rắc rối về mặt tài chính vì nhiều khi đó là chi phí lớn tới mức không thể tự trang trải. Do đó, bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên là người bạn đáng tin cậy cho các bậc phụ huynh khi có con em đi học.
Ngoài chức năng, nghĩa vụ của công ty bảo hiểm là chi trả khi rủi ro xảy ra, công ty bảo hiểm còn có nghĩa vụ cùng với bên tham gia bảo hiểm đề xuất áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Do vậy, bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên là lời nhắc nhở cho các bậc cha mẹ và các em học sinh - sinh viên luôn có ý thức đề phòng tai nạn. Một nguyên tắc bất di bất dịch của bảo hiểm là chỉ bảo hiểm cho những rủi ro bất ngờ không lường trước được chứ không phải tai nạn do cố tình. Do đó, khi tham gia ngoài trách nhiệm của chính các em là phải tự bảo vệ mình thì phần trách nhiệm của gia đình khi các em ở nhà và nhà trường khi các em ở trường là rất lớn. Các bậc phụ huynh cần phải đề ra thời gian biểu cho con em mình khi ở nhà để tiện theo dõi, nhà trường cần đề ra các nội quy, quy tắc chặt chẽ cùng với các biện pháp kỷ luật nếu các em vi phạm. Điều này có ý nghĩa quan trọng, góp phần vào hạn chế tai nạn xảy ra cho các em, đảm bảo cho cơ thể phát triển khoẻ mạnh, không ngừng trao đổi, rèn luyện về tư cách đạo đức và khoa học để phấn đấu thành người có ích cho đất nước.
Bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên góp phần giúp học sinh - sinh viên học tập tốt hơn, tham gia học tập liên tục, đặc biệt là đối tượng học sinh -sinh viên con nhà nghèo không may gặp tai nạn rủi ro. Đối với tầng lớp dân cư có thu nhập cao thì vấn đề trang trải cho chi phí khám và điều trị thương tật là không mấy khó khăn. Tuy nhiên, trong điều kiện đất nước ta hiện nay phần lớn dân cư có thu nhập ở mức thấp, đặc biệt là dân cư nông thôn, miền núi, cao nguyên. Đây là lớp người thực sự khó khăn ngay cả trong việc duy trì cho các em theo học, nên khi gặp rủi ro, tai nạn các em khó có thể tiếp tục học được. Do vậy, với việc tham gia bảo hiểm học sinh - sinh viên sẽ bù đắp những chi phí điều trị để từ đó giúp cho việc học tập của các em được liên tục và ổn định.
Một tác dụng quan trọng của hoạt động bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm học sinh - sinh viên nói riêng đó là có tác dụng huy động vốn cho nền kinh tế quốc dân. Bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên tạo lập quỹ tiền tệ tập trung lớn, ngoài phần bù đắp cho việc chi trả, chi trả còn góp phần vào đầu tư phát triển kinh tế. Bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc "số đông bù số ít" có nghĩa là huy động sự đóng góp phần nhỏ của nhiều người để chi trả số tiền lớn cho số ít người, những người mà họ gặp phải rủi ro. Thông qua nghiệp vụ bảo hiểm này công ty sẽ thu một khoản phí (thường rất nhỏ) của từng người để tạo quỹ bảo hiểm lớn. Một phần quỹ này được giữ lại cho việc chi trả chi trả, phần còn lại được đầu tư trở lại cho nền kinh tế từ đó góp phần vào quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước.
Nghiệp vụ bảo hiểm học sinh - sinh viên phát sinh mối quan hệ giữa Gia đình - Nhà trường - Công ty bảo hiểm. Trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này từ khâu khai thác đến khâu giải quyết chi trả và tiến hành chi trả thì mối quan hệ ba bên luôn luôn được bền chặt. Trong quá trình khai thác để nghiệp vụ này đến được với các em và để cho các em hiểu được nghiệp vụ bảo hiểm này từ đó tích cực tham gia thì cán bộ khai thác của các công ty bảo hiểm phải thông qua nhà trường tổ chức những buổi tiếp súc với các em học sinh để từ đó có thể giúp cho các em hiểu được và từ đó xuất phát nhu cầu tham gia. Người quyết định đến việc tham gia bảo hiểm lại là gia đình của các em. Sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm thì công ty bảo hiểm còn phải phối hợp với gia đình và nhà trường để cùng nhau giúp các em học sinh áp dụng các biện pháp đề phòng rủi ro và giải quyết khiếu nại (nếu không may rủi ro xảy ra) sao cho đạt kết quả và hiệu quả cao nhất, kịp thời nhất. Như vậy thông qua nghiệp vụ bảo hiểm học sinh - sinh viên gắn kết mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm với nhà trường và gia đình, làm tổng hoà các mối quan hệ xã hội.
Để cạnh tranh và đứng vững trên thị trường các công ty bảo hiểm phải không ngừng mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động của mình. Để thực hiện được điều này thì công ty phải tăng số lượng nhân viên khai thác.Từ đó tạo thêm việc làm cho cán bộ công nhân viên và không ngừng cải thiện thu nhập.
II. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên
1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
1.1. Đối tượng bảo hiểm
Đây là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên nên đối tượng bảo hiểm là tính mạng và tình trạng sức khoẻ của các em học sinh - sinh viên.
Người tham gia bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên là người ký kết hợp đồng bảo hiểm và nộp phí bảo hiểm nhưng không phải nộp cho chính bản thân mình mà nộp cho người thứ ba (người được bảo hiểm). Người tham gia bảo hiểm là cha mẹ hay người đỡ đầu có trách nhiệm nuôi nấng, chăm sóc các em đứng ra mua bảo hiểm cho con em mình. Tuy nhiên, ở sinh viên vừa là người tham gia bảo hiểm, vừa là người được bảo hiểm.
Người được bảo hiểm là học sinh đang học ở các trường như: nhà trẻ, mẫu giáo, phổ thông cơ sở, phổ thông trung học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề... là sinh viên các trường cao đẳng, đại học, học viện... bao gồm cả học sinh đang theo học tại các trường dân lập hay công lập.
Học sinh tham gia loại hình bảo hiểm này vẫn được tham gia và hưởng quyền lợi của các loại hình bảo hiểm khác nếu ký kết các hợp đồng độc lập với nhau.
1.2. Phạm vi bảo hiểm
Trên lý thuyết phạm vi bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên gồm những rủi ro sau:
Bị chết trong mọi trường hợp.
Bị tai nạn thương tật.
Bị ốm đau, bệnh tật phải nằm viện điều trị phẫu thuật.
Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp sau đây không thuộc phạm vi bảo hiểm:
Học sinh đến tuổi thành niên bị chết do tự tử, tiêm chích ma tuý...
- Do hành động cố ý của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm hay người được hưởng quyền lợi bảo hiểm (trừ những người được bảo hiểm chưa đến tuổi vị thành niên).
- Điều trị hoặc phẫu thuật các bệnh bẩm sinh, chỉnh hình, thẩm mỹ, làm chân tay giả, răng giả...
Chiến tranh phóng xạ.
Trong thực tế phạm vi bảo hiểm của các công ty bảo hiểm triển khai có sự khác nhau, cụ thể đối với công ty bảo hiểm PJICO bao gồm:
1.2.1. Những rủi ro được bảo hiểm
Đối với bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên, những rủi ro được bảo hiểm là những rủi ro trong lãnh thổ việt nam đối với người được bảo hiểm như sau:
Chết do mọi nguyên nhân.
Thương tật thân thể do tai nạn.
ốm đau, phẫu thuật phải nằm viện phẫu thuật.
Như vậy điều khoản bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên được xây dựng trên các quy tắc bảo hiểm có liên quan đã được ban hành:
- Quy tắc bảo hiểm sinh mạng cá nhân (ban hành theo quyết định số 391/TC/QĐ/BHXH ngày 20/9/1991 của Bộ tài chính.
- Quy tắc bảo hiểm tai nạn thân thể học sinh 24/24 giờ (ban hành kèm theo quy định số 256/TC/QĐ/BHXH ngày 22/7/1991 Bộ tài chính)
- Quy tắc bảo hiểm nằm viện và phẫu thuật (ban hành kèm theo quyết định số 466/TC/QĐ/BH ngày 2/7/1993 của Bộ tài chính).
Bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên là một trong những sản phẩm bảo hiểm của PJICO, ra đời phù hợp với tình hình thị trường, nhằm đạt được mục đích mềm dẻo, linh hoạt trong hoạt động. Học sinh - sinh viên trở thành người được bảo hiểm khi đóng phí để tham gia bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên. Học sinh - sinh viên đó được hưởng quyền lợi trong những trường hợp sau:
Trường hợp I: Chết hoặc thương tật thân thể do tai nạn. Tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm được cấu thành bởi 3 yếu tố:
- Một lực từ bên ngoài: là việc không lường trước được, không mong đợi xảy ra, tai nạn tại một thời điểm nhất định. Nó diễn ra trong một thời gian ngắn, không phải là một quá trình kéo dài.
- Ngoài ý muốn: có nghĩa là người được bảo hiểm không gây tai nạn.
- Tác động lên thân thể và là nguyên nhân trực tiếp làm cho người được bảo hiểm bị chết hoặc bị thương tật thân thể. Phạm vi bảo hiểm còn được mở rộng đối với trường hợp tai nạn xảy ra do người được bảo hiểm có hành động cứu người, tài sản của nhà nước, của nhân dân và chống hành vi phạm pháp.
Trường hợp II: ốm đau, tai nạn, phải nằm viện, hay phẫu thuật tại bệnh viên. ở đây bệnh viện được hiểu là một cơ sở khám chữa bệnh hợp pháp, được Nhà nước công nhận, có khả năng và phương tiện chuẩn đoán bệnh, điều trị bệnh và phẫu thuật, có điều kiện thuận lợi cho việc điều trị nội trú.
Nằm viện là người được bảo hiểm cần lưu trữ ít nhất 24 giờ ở bệnh viện để điều trị lâm sàng.
Học sinh được coi là phẫu thuật khi trải qua các ca mổ để điều trị các thương tật hoặc các bệnh tật do các phẫu thuật viên có bằng cấp thực hiện. Để được hưởng những rủi ro trên xảy ra thì người được bảo hiểm phải có thời gian điều trị nội trú tại bệnh viện hoặc phẫu thuật do ốm đau bệnh tật.
Ví dụ: Học sinh A tham gia bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên phải phẫu thuật do đau ruột thừa. Do vậy bảo hiểm trợ cấp như sau:
Trợ cấp nằm viện phẫu thuật = Số ngày nằm viện 0,3% STBH
Trợ cấp phẫu thuật được hưởng theo quy định số 446/TC/BHXH của Bộ tài chính ban hành ngày 02/03/1993.
Điều kiện bảo hiểm: Đây là những quy định phạm vi, trách nhiệm của người bảo hiểm đối với tổn thất của người được bảo hiểm.
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm học sinh - sinh viên có 3 điều kiện bảo hiểm là:
Chết do mọi nguyên nhân (Điều kiện bảo hiểm A)
Thương tật thân thể do tai nạn (Điều kiện bảo hiểm B)
ốm đau, bệnh tật phải nằm viện phẫu thuật (điều kiện bảo hiểm C)
Điều kiện bảo hiểm A.
Theo điều kiện bảo hiểm này sẽ bảo hiểm cho trường hợp chết ro mọi nguyên nhân. Trừ trường hợp chết do nguyên nhân từ những rủi ro không được bảo hiểm.
Về hiệu lực bảo hiểm: Đối với trường hợp chết do tai nạn và các hợp đồng tái tục liên tục. Bảo hiểm có hiệu lực ngay sau khi người tham gia bảo hiểm đóng phí đầy đủ theo quy định. Đối với trường hợp chết không do tai nạn và hợp đồng bảo hiểm không liên tục. Bảo hiểm có hiệu lực sau 30 ngày kể từ ngày đóng phí bảo hiểm.
Quyền lợi của người được bảo hiểm: trường hợp người được bảo hiểm chết thuộc phạm vi bảo hiểm. PJICO trả toàn bộ số tiền bảo hiểm ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm.
Điều kiện bảo hiểm B.
Theo điều kiện bảo hiểm này, sẽ bảo hiểm cho trường hợp thương tật thân thể do tai nạn. Trừ những thiệt hại do nguyên nhân từ những rủi ro không được bảo hiểm.
Hiệu lực bảo hiểm: Bảo hiểm có hiệu lực kể từ khi đóng phí bảo hiểm.
Quyền lợi của người được bảo hiểm: Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật thân thể thuộc phạm vi được bảo hiểm. PJICO trả tiền bảo hiểm theo bảng tỷ lệ trả tiền bảo hiểm ban hành kèm theo quyết định số 05/TCBH ngày 2/1/1993 của Bộ tài chính.
Điều kiện bảo hiểm C.
Điều kiện bảo hiểm này sẽ trả tiền cho trường hợp ốm đau, bệnh tật phải nằm viện hoặc phẫu thuật. Trừ những thiệt hại do rủi ro không được bảo hiểm.
Hiệu lực bảo hiểm: Bảo hiểm có hiệu lực sau 30 ngày kể từ ngày đóng phí đối với trường hợp thương tật. Các hợp đồng tái tục mặc nhiên có hiệu lực ngay sau khi ký hợp đồng và đóng phí cho thời gian tiếp theo.
Quyền lợi của người được bảo hiểm: Trường hợp người được bảo hiểm phải nằm viện thuộc phạm vi bảo hiểm, PJICO trả trợ cấp mỗi ngày 0,3% số tiền bảo hiểm nhưng không quá 60 ngày/ năm bảo hiểm. Trường hợp người được bảo hiểm phải phẫu thuật thuộc phạm vi bảo hiểm. PJICO trả trợ cấp theo bảng tỷ lệ trả tiền phẫu thuật.
1.2.2 Những rủi ro không được bảo hiểm
Một trong những nguyên tắc của bảo hiểm thương mại là chỉ bảo hiểm cho những rủi ro không lường trước được. Chứ không bảo hiểm cho những gì chắc chắn xảy ra, đã xảy ra. Rủi ro không lường trước được là những rủi ro không biết trước được nó có thể xảy ra vào thời điểm nào, ở đâu, không phụ thuộc vào ý muốn, nhận thức chủ quan của con người. Bảo hiểm được điều hành trên cơ sở nhận bảo hiểm lành mạnh. Để trong thực tế không có rủi ro để người bảo hiểm không đủ khả năng thanh toán trách nhiệm của mình. Chính vì thế trong bảo hiểm sẽ có những rủi ro loại trừ.
Hơn thế nữa, những điểm loại trừ được sử dụng vì lý do sau đây:
Một sự cố bảo hiểm cụ thể không thể bảo hiểm được như chiến tranh, rủi ro hạt nhân.
Một sự cố mà công ty bảo hiểm không được hỗ trợ bằng hình thức tái bảo hiểm.
Một sự cố đã được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm khác (tức là không được phép bảo hiểm trùng). Tuy nhiên, nếu đối tượng bảo hiểm là con người thì một người có thể được phép tham gia nhiều nghiệp vụ bảo hiểm ở các đơn vị khác nhau.
Một số rủi ro được loại trừ vì yêu cầu cho mức phí của nó quá cao đối với khách hàng.
Khi những rủi ro này xảy ra đối với người được bảo hiểm trong những trường hợp sau PJICO không chịu trách nhiệm :
Người được bảo hiểm có hành động cố ý gây ra tai nạn hoặc bị tai nạn do hành động phạm tội của người hưởng tiền bảo hiểm.
Người được bảo hiểm là học sinh cấp 2 trở lên, vi phạm nghiệm trọng pháp luật, các quy định của nhà trường, chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội khác, vi phạm nghiêm trọng luật lệ an toàn giao thông.
Cảm đột ngột, trúng gió bệnh tật hoặc những tai biến trong quá trình điều trị gây ra.
Người được bảo hiểm bị ảnh hưởng của bia, rượu, ma tuý, hoặc các chất kích thích tượng tự khác.
Điều trị và phẫu thuật các bệnh bẩm sinh, những thương tật hoặc những chỉ định phẫu thuật có từ trước ngày bảo hiểm.
Điều trị theo yêu cầu của người bảo hiểm mà không liên quan đến việc điều trị và phẫu thuật bình thường do cơ quan y tế quy định.
Tạo hình thẩm mỹ, chỉnh hình, phục hồi chức năng, làm chân tay giả, răng giả…
Ngộ độc thức ăn, đồ uống.
Điều trị hoặc sử dụng thuốc không theo quy định của cơ quan y tế.
Người được bảo hiểm là học sinh cấp 2 trở lên tham gia trò chơi mang tính chất nguy hiểm như trèo cây, cột điện, mái nhà…hoặc những đồ vật nguy hiểm như chất nổ.
Động đất, núi lửa, nhiễm phóng xạ.
Rủi ro chiến tranh, nội chiến, đình công.
2. Mức trách nhiệm bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là hạn mức trách nhiệm của công ty bảo hiểm được nghi rõ trong hợp đồng, là hạn mức chi trả, chi trả cao nhất cho người được bảo hiểm trong trường hợp xảy ra tổn thất thuộc phạm vi được bảo hiểm.
Khác với nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, mức trách nhiệm được xác định dựa vào giá trị của tài sản. Trong bảo hiểm con người, giá trị của con người không thể xác định được là bao nhiêu. Do đó, số tiền bảo hiểm được quy định theo sự thoả thuận giữa hai bên. Việc định ra hạn mức trách nhiệm của công ty phải đảm bảo quyền lợi vật chất cho học sinh - sinh viên, lợi nhuận cho công ty sau đó là đến các vấn đề xã hội. Mức trách nhiệm bảo hiểm đề ra phải tuân thủ các nguyên tắc chung là nguyên tắc rộng rãi và đảm bảo kinh doanh. Mức trách nhiệm không phù hợp sẽ không khuyến khích được các em học sinh tham gia. Với mức trách nhiệm cao sẽ gây khó khăn cho việc đóng phí nhất là đối với những đối tượng có đời sống còn khó khăn. Tuy nhiên, mức trách nhiệm thấp nó sẽ không đủ để trang trải những thiệt hại khi không may gặp rủi ro.
Bên cạnh đó, số tiền bảo hiểm là cơ sở quan trọng để xác định số tiền chi trả. Để làm sao việc giải quyết số tiền chi trả cho người được bảo hiểm là thoả đáng giúp cho người tham gia bảo hiểm đảm bảo đời sống bình thường.
3. phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là một khoản tiền do người tham gia đóng góp cho công ty bảo hiểm để hình thành nên một quỹ bảo hiểm chung. Quỹ này được dùng để chi trả khi rủi ro xảy ra.
Để có thể tính toán được phí bảo hiểm, người ta phải dựa vào số tiền bảo hiểm theo công thức:
Phí bảo hiểm = Tỷ lệ phí Số tiền bảo hiểm
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên nếu tham gia bảo hiểm theo điều kiện nào thì áp dụng mức phí cho điều kiện ấy. Nếu tham gia kết hợp thì tỷ lệ phí bằng tỷ lệ phí của từng điều kiện được kết hợp.
Mức phí có thể tính theo công thức:
P= f + d
trong đó:
f: Phí thuần
d: Phụ phí
Ci: Tổng số tiền chi trả cho số học sinh – sinh viên tham gia bảo hiểm bị chết trong năm i.
Vi: Tổng số tiền chi trả cho học sinh - sinh viên tham gia bảo hiểm phải nằm viện năm i.
Pi: Tổng số tiền chi trả cho số học sinh – sinh viên tham gia bảo hiểm phải nằm viện phẫu thuật năm i
Hi: Tổng số học sinh – sinh viên tham gia bảo hiểm năm i.
Phí bảo hiểm có thể tính riêng cho từng cấp học. Hiện nay, khi triển khai nghiệp vụ này các công ty bảo hiểm Việt Nam áp dụng biểu phí do Bộ tài chính quy định. Trong biểu phí con người do Bộ tài chính ban hành có quy định tỷ lệ phí cho từng loại bảo hiểm. Đối với loại hình bảo hiểm con người với mức trách nhiệm từ 4 triệu đến 20 triệu. PJICO áp dụng tỷ lệ phí là 0,28%. Như vậy, trong điều khoản bảo hiểm học sinh - sinh viên điều kiện bảo hiểm A chết hoặc thương tật tai nạn có phí bảo hiểm 0,28% số tiền bảo hiểm. Riêng tỷ lệ phí bảo hiểm của loại hình bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật được quy định trong từng độ tuổi khác nhau.
Các nhân tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm
Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm nói chung, việc tính toán phí bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên cũng phải tuân theo một quy trình tính phí chung. Trước hết, phải xác định tỷ lệ phí bằng thống kê xác suất xảy ra tai nạn, số tiền chi trả bình quân…sau đó cộng thêm tỷ lệ phụ phí để xác định phí bảo hiểm toàn bộ mà người tham gia phải đóng.
Do tính chất đặc điểm của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên nên có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tính phí và tuỳ vào từng trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó việc xác định đúng tỷ lệ phí có ý nghĩa rất quan trọng, nó có tính chất quyết định đến sự cạnh tranh, đảm bảo khả năng chi trả chi quản lý…
Yếu tố thứ nhất ảnh hưởng đến phí bảo hiểm là số tiền bảo hiểm.
Như chúng ta đã biết: Phí bảo hiểm = Tỷ lệ phí Số tiền bảo hiểm. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm này cứ mỗi số tiền bảo hiểm khác nhau thì ta có mức phí đóng tương ứng khác nhau. Việc xác định đúng mức trách nhiệm (STBH) mà người tham gia cũng rất quan trọng. Mức trách nhiệm sao cho có mức phí đóng phù hợp với khả năng tài chính của người tham gia. Cán bộ khai thác có thể đưa ra những số tiền bảo hiểm khác nhau và tương ứng là mức phí phải đóng để cho người tham gia có thể lựa chọn.
Điều kiện bảo hiểm: Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm. Trong nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên có 3 điều kiện bảo hiểm:A ,B, C. Người tham gia bảo hiểm có thể lựa chọn tham gia cả 3 điều kiện trong trường hợp này mức phí phải đóng sẽ là mức phí của 3 điều kiện cộng lại. Hoặc có thể tham gia hai trong ba điều kiện. Mức phí bảo hiểm phải đóng là tổng mức phí của hai điều kiện đã tham gia.
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện tài chính và nhu cầu bảo hiểm của người tham gia với các điều kiện khác nhau. Họ có thể tham gia bảo hiểm chỉ với một điều kiện. Ta thấy điều kiện tham gia bảo hiểm khác nhau thì mức phí cũng khác nhau.
Nhân tố thứ ba ảnh hưởng đến phí bảo hiểm là độ tuổi của người được bảo hiểm. Theo bảng tỷ lệ tử vong thì con người ở độ tuổi càng cao thì tỷ lệ tử vong càng lớn. Do đó, nếu đối tượng được bảo hiểm có độ tuổi cao hơn thì mức phí mà họ phải đóng cũng cao hơn.
Trên đây là ba nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến mức phí. Ngoài ra còn có các yếu tố ảnh hưởng tác động đến việc tính phí bảo hiểm như là: Điều kiện kinh tế, cơ sở hạ tầng, khoảng cách từ nhà đến trường, các thiết bị an toàn. Do tính kinh tế, địa lý, khí hậu của mỗi vùng thì đều có các đặc điểm khác nhau nên việc xác định một mức phí phù hợp không phải là đơn giản. ở các thành phố, do có điều kiện kinh tế hơn, nên nhiều học sinh được đến trường do đó việc xác định phí đảm bảo được quy luật số lớn.
Mặt khác, trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm thì luôn luôn phải thực hiện nguyên tắc thu bù chi đảm bảo kinh doanh có lãi. Nên phải có một mức phí hợp lý để đảm bảo thu bù đắp chi. Tuy nhiên cũng cần phải có mức phí phù hợp để thu hút được người tham gia bảo hiểm.
4.Hợp đồng bảo hiểm
4.1. Khái niệm
Hợp đồng bảo hiểm là cam kết trách nhiệm giữa người bảo hiểm (công ty bảo hiểm) và người tham gia bảo hiểm. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm thường ghi rõ những điều mà hai bên cùng thoả thuận với những văn bản pháp lý trong lúc thực hiện hợp đồng. Đối với bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên, hợp đồng thường được ký kết vào đầu năm học. Người tham gia bảo hiểm kết hợp học sinh – sinh viên là bố mẹ, người đỡ đầu, người có quan hệ họ hàng, người thân thích có quan hệ nuôi nấng và chăm sóc các em hoặc thầy cô giáo ở trường học mà học sinh đang theo học đứng ra ký kết hợp đồng bảo hiểm kết hợp học sinh – sinh viên. Người tham gia bảo hiểm không bị hạn chế về tuổi tác, mức độ thân thích hay mức độ tàn tật.
4.2. Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm
Trong hoạt động giao dịch bảo hiểm trên thị trường thế giới có 2 loại nguyên tắc bảo hiểm được áp dụng là những nguyên tắc ngầm định và những nguyên tắc minh thị.
Những nguyên tắc ngầm định là những nguyên tắc không thể hiện trong hợp đồng song theo pháp luật thì hiểu là mặc nhiên ràng buộc mà hai bên phải tuân thủ trước và trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng.
Những nguyên tắc minh thị được thể hiện thành văn bản trong hợp đồng. Thông thường hợp đồng thường có những điều khoản chủ yếu sau:
Đối tượng được bảo hiểm: là học sinh, sinh viên đang theo học tại các trường học.
Số tiền bảo hiểm: Người tham gia bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên có thể lựa chọn các mức phí có số tiền bảo hiểm phù hợp.
Phí bảo hiểm: Được đặt ra tương ứng với số tiền bảo hiểm và điều kiện bảo hiểm.
Điều kiện bảo hiểm: Người tham gia bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn tham gia các điều kiện. Trên thực tế người ta thường lựa chọn các điều kiện kết hợp B và C với mức phí 0,5% số tiền bảo hiểm.
Thời hạn bảo hiểm: Hợp đồng bảo hiểm kết hợp ._.học sinh - sinh viên có thời hạn 1 năm từ 0 giờ ngày nộp phí đến 0 giờ cùng ngày năm sau. Hợp đồng bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên vẫn có hiệu lực khi người tham gia chuyển trường, chuyển chỗ ở. Tuy nhiên, phải thông báo thay đổi cho công ty bảo hiểm biết.
Quyền lợi của người tham gia bảo hiểm: Khi rủi ro, tai nạn, ốm đau, bệnh tật thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra, người tham gia bảo hiểm sau khi đã đóng phí đầy đủ sẽ được hưởng chế độ chi trả của bảo hiểm cụ thể:
Nếu tham gia kết hợp cả 3 điều kiện A, B, C
Trường hợp chết theo điều kiện A. Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm sẽ được hưởng số tiền chi trả.
Số tiền chi trả = STBH kết hợp cả 3 điều kiện
Trường hợp tai nạn (mức trách nhiệm 20 triệu đồng).
Số tiền chi trả = Tỷ lệ chi trả STBH
Trường hợp nằm viện phẫu thuật do ốm đau, bệnh tật.
Số tiền chi trả = Tỷ lệ nằm viện STBH Số ngày nằm viện + Tỷ lệ phẫu thuật STBH
Tuy nhiên, Số tiền chi trả Số tiền bảo hiểm.
Nếu tham gia bảo hiểm kết hợp hai điều kiện B + C
Trường hợp tai nạn:
Số tiền chi trả = Tỷ lệ chi trả STBH
Trường hợp nằm viện phẫu thuật do ốm đau bệnh tật
Số tiền chi trả = Tỷ lệ nằm viện STBH + Tỷ lệ phẫu thuật STBH
(Số tiền chi trả Số tiền bảo hiểm)
Trường hợp tai nạn phải nằm viện phẫu thuật.
Số tiền chi trả = Tỷ lệ chi trả STBH + Tỷ lệ nằm viện Số ngày nằm viện STBH + Tỷ lệ phẫu thuật STBH
Số tiền chi trả Số tiền bảo hiểm (B+C)
Trường hợp chết:
Do tai nạn: số tiền chi trả = số tiền bảo hiểm.
Do điều trị tại bệnh viện.
Số tiền chi trả = Tỷ lệ nằm viện Số ngày nằm viện STBH + Tỷ lệ phẫu thuật STBH + Chi phí mai táng + STBH
Nếu tham gia bảo hiểm kết hợp A +C.
Trường hợp chết do mọi nguyên nhân.
Số tiền chi trả = Số tiền bảo hiểm
Trường hợp nằm viện phẫu thuật do ốm đau bệnh tật
Số tiền chi trả = Tỷ lệ nằm viện Số ngày nằm viện STBH.
Trường hợp chết trong thời gian điều trị tại bệnh viện
Số tiền chi trả = STBH + tỷ lệ nằm viện số ngày nằm viện số tiền chi trả + tỷ lệ phẫu thuật STBH + mai táng phí.
Quy định chung được PJICO quy định như sau:
Số ngày nằm viện không quá tối đa 60 ngày trong một năm hợp đồng ngắn hạn dưới 1 năm thì số ngày nằm viện tối đa được tính theo tỷ lệ tương đương.
Trợ cấp mai táng phí không quá: 300.000đ.
Tỷ lệ nằm viện.
0,2% số tiền bảo hiểm đối với trường hợp gãy xương phải bó bột nhưng điều trị ngoại trú. Tối đa không quá 7 ngày cho một lần
0,3% số tiền bảo hiểm/ ngày đối với các trường hợp nằm viện do cảm cúm, sốt vi trùng, suy nhược cơ thể, viêm phế quản, ngộ độc thức ăn, điều trị đông y, các bệnh ung thư, bệnh ngoài da, dưỡng thai…
0,5% số tiền bảo hiểm/ ngày đối với các trường hợp còn lại.
Trong thực tế, đối với bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên các công ty bảo hiểm thường tiến hành loại hình bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên với điều kiện bảo hiểm là điều kiện kết hợp B +C ( chết hoặc thương tật thân thể do tai nạn, trợ cấp nằm viện phẫu thuật).
4.3. Giải quyết khiếu nại
Khi rủi ro không may xảy ra gây tổn thất, thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm thì bên tham gia bảo hiểm thực hiện việc khiếu nại công ty bảo hiểm, để được giải quyết chi trả. Trên cơ sở hồ sơ khiếu nại của bên tham gia bảo hiểm công ty bảo hiểm tiến hành giải quyết khiếu nại. Công việc này bao gồm: công tác giám định và công tác chi trả.
4.3.1 Công tác giám định
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm con người nói chung, nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên nói riêng, không cần thiết phải tiến hành giám định trực tiếp tại hiện trường mà trên cơ sở các chứng từ y tế, các giấy tờ khác có liên quan, các cán bộ phụ trách, các đơn vị tham gia bảo hiểm tiến hành xác minh.
Các nội dung khi tiến hành xác minh
Xác định nguyên nhân tai nạn có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không.
Các chứng y tế và các chứng từ có liên quan. Có đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý hay không.
Biên bản xác minh tai nạn là văn bản mang tính pháp lý quan trọng. Do vậy cán bộ xác minh phải chịu hoàn toàn về tính chính xác, trung thực, khách quan về nguyên nhân tai nạn, mức độ tổn thương thực tế đã nghi nhận trong biên bản.
Các bước tiến hành xác minh.
Sau khi nhận được hồ sơ tai nạn, cán bộ xác minh phải kiểm tra đối chiếu với hợp đồng và danh sách tham gia bảo hiểm để xác định mức độ trách nhiệm, loại hình bảo hiểm, khách hàng tham gia, tên khách hàng trong danh sách đã có trong danh sách tham gia bảo hiểm hay chưa, đã nộp phí chưa.
Kiểm tra biên bản tai nạn (nếu là tai nạn), các chứng từ y tế để xác định theo thời gian xảy ra tai nạn, xác định rõ ràng thương tích, có nằm viện hay không, nếu có thì thời gian là bao lâu, có phẫu thuật hay không…trường hợp có nghi vấn phải xác minh tại bệnh viện và nơi xảy ra tai nạn.
Các chứng từ y tế bao gồm: giấy chứng nhận ra viện, phiếu mổ, phim chụp, sổ y bạ, đơn thuốc…phải có dấu xác nhận của bệnh viện nơi người được bảo hiểm điều trị.
Lập biên bản xác minh theo mẫu của công ty. Cán bộ xác minh phải ghi rõ họ tên và ký tên. Nội dung chủ yếu của biên bản xác minh gồm: người bị tai nạn, địa chỉ, số tiền bảo hiểm, số hợp đồng, sổ danh sách, điều kiện bảo hiểm, thời điểm xảy ra tai nạn, địa điểm xảy ra tai nạn…và xác nhận của cơ quan có thẩm quyền.
Biên bản xác minh nếu thực hiện một cách đầy đủ, chính xác sẽ giúp công ty bảo hiểm tránh được những sai xót trong khâu chi trả không thoả đáng cho khách hàng hay bị những kẻ xấu trục lợi cố ý gây tai nạn để hưởng tiền bảo hiểm hoặc mua bảo hiểm sau khi đã gây tai nạn.
4.3.2 Công tác chi trả
Chi trả tiền bảo hiểm là hoạt động trọng tâm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bởi vì khi mua bảo hiểm, có nghĩa là khách hàng đã trả tiền cho các sản phẩm bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm cam kết trả tiền bảo hiểm một cách nhanh chóng và đầy đủ nếu không may họ bị tổn thất. Chính vào thời điểm tổn thất xảy ra, phía khách hàng thường bị những “cú sốc” lớn về tinh thần, đặc biệt là trong những trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Trong lúc này thì năng lực, sự trung thực, tính hiệu quả, sự tế nhị và tính nhân đạo của doanh nghiệp bảo hiểm được thừa nhận qua cách sử sự của mình với các nạn nhân của sự kiện được bảo hiểm. nếu giải quyết tốt thì đó là cách quảng cáo tốt nhất đối với một doanh nghiệp bảo hiểm. Điều này thể hiện trên một số mặt như: tốc độ giải quyết chi trả, thái độ, tinh thần, trách nhiệm của cán bộ bảo hiểm.
Nguyên tắc khi tham gia tiến hành chi trả phải tuân thủ theo quyết định về chi trả sau:
Hồ sơ chi trả phải đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý:
Cán bộ chi trả phải căn cứ vào biên bản xác minh để chi trả.
Thời gian quy cách chi trả tuỳ theo công ty và được ghi rõ trong hợp đồng bảo hiểm.
Số tiền chi trả tối đa là bằng số tiền bảo hiểm tương ứng với mỗi vụ tai nạn
Các bước tiến hành: Để đảm bảo tính pháp lý, cán bộ xác minh phải gửi cho cán bộ chi trả những giấy tờ sau:
Giấy yêu cầu bảo hiểm do người tham gia hoặc do người đại diện hợp pháp mang đến.
Biên bản tai nạn (nếu là tai nạn)
Giấy chứng tử, giấy xác nhận quan hệ thân nhân với nạn nhân có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền.
Chứng từ y tế có đóng dấu của cơ quan y tế nơi người được bảo hiểm điều trị.
Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm.
Biên bản xác minh tai nạn phải có chữ ký của cán bộ xác minh và chứng nhận của chính quyền địa phương nơi xảy ra tai nạn
Trường hợp người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp của người được bảo hiểm có hành động không trung thực trong khai báo, thu thập các chứng từ hồ sơ tai nạn, bệnh án. Công ty bảo hiểm có quyền xem xét hoặc phối hợp với cơ quan chức năng giải quyết, tuỳ mức độ vi phạm mà xử lý.
Trong trường hợp người được bảo hiểm cảm thấy việc giải quyết không được thoả đáng thì có thể khiếu nại với công ty, thời hạn khiếu nại là 3 tháng kể từ ngày nhận chi trả, quá 3 tháng mọi khiếu nại không còn giá trị.
III. Bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên với bảo hiểm an sinh giáo dục
Giống nhau
Xã hội càng phát triển, đời sống con người càng nâng cao thì nhu cầu về bảo hiểm càng lớn. Nhất là nhu cầu đảm bảo hiện tại và tương lai cho con cái họ. Nắm bắt được điều này, nhiều công ty bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực nhân thọ và phi nhân thọ đều có triển khai nghiệp vụ bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là các em nhỏ.
Hai nghiệp vụ bảo hiểm này có những điểm giống nhau cơ bản sau.
Mục đích: trợ giúp cho học sinh và gia đình các em một số tiền nhất định để nhanh chóng khắc phục khó khăn, phục hồi sức khoẻ và sớm trở lại trường lớp khi không may các em gặp rủi ro tai nạn. Thông qua các hình thức bảo hiểm này đã tạo lập mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó giữa nhà trường, gia đình với nhà bảo hiểm để từ đó làm tốt hơn công tác đề phòng và hạn chế ngăn ngừa tai nạn, nhanh chóng khắc phục hậu quả của tai nạn rủi ro xảy ra đối với học sinh. Ngoài ra thông qua hoạt động bảo hiểm giúp các em nâng cao được ý thức cộng đồng ngay từ khi còn nhỏ tuổi. Mục đích cao cả hơn là giúp cho việc học tập của các em liên tục không bị gián đoạn. Đảm bảo cho những người làm chủ của đất nước sau này được phát triển toàn diện.
Nguyên tắc: Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung các công ty bảo hiểm đều áp dụng các nguyên tắc bảo hiểm để từ đó giúp cho hoạt động kinh doanh được đảm bảo an toàn. Trong hai nghiệp vụ này đều áp dụng một trong những quy tắc của bảo hiểm thương mại là: Chỉ bảo hiểm cho những rủi ro không thể lường trước được chứ không phải là bảo hiểm cho những gì chắc chắn xảy ra hoặc đã xảy ra. Rủi ro không lường trước được là những rủi ro không biết trước nó xảy ra vào thời điểm nào, ở đâu không phụ thuộc vào ý muốn và nhận thức chủ quan của con người.
Nguyên tắc số đông bù số ít cũng là một trong những nguyên tắc quan trọng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nghiệp vụ bảo hiểm triển khai hiệu quả đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh chung chỉ khi thu hút được đông đảo học sinh tham gia. Ngoài ra hai nghiệp vụ bảo hiểm này cũng áp dụng những nguyên tắc khác như nguyên tắc phân tán rủi ro, nguyên tắc trung thực tuyệt đối.
Hình thức bảo hiểm: Đây là hai nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm. Khả năng tham gia bảo hiểm phụ thuộc vào khả năng tài chính của người tham gia. Người tham gia phải đóng hoàn toàn phí bảo hiểm. Do đó, hai loại hình nghiệp vụ này có hình thức tham gia là tự nguyện. Người tham gia bảo hiểm có quyền lựa chọn có tham gia bảo hiểm hay không? Tham gia tại công ty bảo hiểm nào với mức trách nhiệm là bao nhiêu?
2. Khác nhau
Hai nghiệp vụ này có những điểm khác nhau chủ yếu sau:
Về tính chất bảo hiểm: nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên chỉ có tính chất khắc phục khó khăn về tài chính cho gia đình các em khi không may rủi ro được bảo hiểm xảy ra. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm An sinh giáo dục, là một nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ ngoài tính chất khắc phục khó khăn khi rủi ro được bảo hiểm xảy ra. Nghiệp vụ này còn có tính chất tiết kiệm và ít nhiều gắn bó với kết quả kinh doanh của các công ty bảo hiểm. Khi hết hạn hợp đồng mà không có rủi ro được bảo hiểm xảy ra thì người tham gia sẽ nhận được một khoản tiền bảo hiểm. Mục đích của khoản tiền này là nhắm trang trải cho các chi phí khi các em đi học.
Thời gian bảo hiểm: thời hạn bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên thường ngắn (dưới 1 năm). Bên cạnh đó khi tham gia bảo hiểm với các điều kiện A, B, C hoặc có thể tham gia kết hợp. Khi hết thời hạn bảo hiểm mà rủi ro được bảo hiểm may mắn không xảy ra thì người tham gia bảo hiểm không nhận được một khoản tiền nào. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm an sinh giáo dục có thời hạn bảo hiểm dài hơn. Thời hạn bảo hiểm tối thiểu thường là 5 năm. Khi tham gia bảo hiểm hợp đồng bảo hiểm còn có điều khoản bổ xung đi kèm theo. Khi hết thời hạn bảo hiểm mà rủi ro được bảo hiểm không xảy ra, người được bảo hiểm vẫn còn sống thì công ty bảo hiểm đã trả cho bên tham gia một khoản tiền bằng số tiền bảo hiểm.
Phạm vi bảo hiểm: Nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên bảo hiểm cho người tham gia theo 3 điều kiện:
Điều kiện bảo hiểm A
Điều kiện bảo hiểm B
Điều kiện bảo hiểm C
Người tham gia vào nghiệp vụ này có thể lựa chọn điều kiện mà mình có thể tham gia phù hợp nhất.
Nghiệp vụ bảo hiểm An sinh giáo dục quy định rõ phạm vi được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm chứ không theo các điều kiện bảo hiểm như nghiệp vụ trên. Khi tham gia bảo hiểm thì người tham gia không có quyền lựa chọn cho mình tham gia trong phạm vi nào.
Hợp đồng bảo hiểm: Nghiệp vụ bảo hiểm An sinh giáo dục có số tiền bảo hiểm lớn hơn. Do đó, người tham gia bảo hiểm dễ trục lợi hơn, để phòng tránh điều này thì các công ty bảo hiểm nhân thọ đưa ra hợp đồng chặt trẽ hơn. Trong hợp đồng nghiệp vụ bảo hiểm An sinh giáo dục người tham gia phải trả lời những câu hỏi có liên quan đến tình trạng sức khoẻ của đối tượng được bảo hiểm (ở đây là các em nhỏ) trên đơn yêu cầu bảo hiểm. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên, các em học sinh tham gia thường dưới hình thức tham gia tập thể. Nên hợp đồng thường đơn giản ngắn gọn thuận tiện cho người tham gia. Tuy nhiên trong hợp đồng bảo hiểm loại này còn quy định tỷ lệ trích từ phí bảo hiểm để lập tủ thuốc trường học (điều này nghiệp vụ bảo hiểm An sinh giáo dục không có).
Khi tham gia bảo hiểm thì người tham gia phải đóng phí bảo hiểm. ở đây, cách đóng phí giữa hai nghiệp vụ là khác nhau. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên người tham gia phải đóng một mức phí tương đối nhỏ so với nghiệp vụ bảo hiểm An sinh giáo dục và phí bảo hiểm được đóng một lần ngay sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm. Người tham gia nghiệp vụ bảo hiểm An sinh giáo dục phải đóng một mức phí định kỳ tương đối lớn và mức phí này có thể được đóng theo tháng, quý, năm. Có sự khác nhau về mức phí phải đóng giữa hai nghiệp vụ này là vì: Nghiệp vụ An sinh giáo dục sau thời hạn bảo hiểm mà rủi ro bảo hiểm không xảy ra thì công ty bảo hiểm phải trả cho người tham gia một khoản tiền đúng bằng số tiền bảo hiểm.
Chương II
phân tích tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên.
I. vài nét về PJICO
1.Lịch sử ra đời và phát triển
Trong những năm vừa qua, toàn Đảng toàn dân ta đang thực hiện công cuộc đổi mới và phát triển nhằm đưa nền kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và thực tế đã cho thấy nền kinh tế của đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nguyên nhân của sự thành công này một phần là do Nhà Nước ta đã thực hiện việc giao vốn, quyền chủ động sản xuất kinh doanh, tự bảo quản nguồn vốn của mình. Điều này làm cho hoạt động kinh tế thương mại dịch vụ trong nước ngày càng trở nên sôi động và góp phần tạo ra sự chuyển biến tích cực đến nền kinh tế đất nước.
Mặt khác cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước thì nhu cầu của người dân không ngừng tăng lên, và bảo hiểm dần trở thành một nhu cầu tất yếu. Bởi vì trong cuộc sống hàng ngày con người khó có thể đề phòng hoặc ngăn ngừa hết những rủi ro bất ngờ thường xuyên xảy ra trong cuộc sống và trong công việc. Khi gặp rủi ro mỗi cá nhân, doanh nghiệp, tập thể thường phải chịu những hậu quả nhất định về mặt tài chính mà con người không phải lúc nào cũng đủ khả năng khắc phục được. Xã hội càng phát triển thì những hậu quả của những rủi ro có xu hướng ngày càng tăng lên mà các biện pháp thông thường như tích luỹ, đi vay, tham gia vào các hội tương trợ đều khó có thể khắc phục được. Chính vì vậy mà bảo hiểm trở thành một nhu cầu khách quan không thể thiếu được trong nền kinh tế xã hội. Bảo hiểm đã trở thành một lá chắn hữu hiệu giúp cho mọi thành viên trong xã hội.
Sau khi Nghị định 100/cp của chính phủ được ban hành ngày 18/12/1993 về việc cho phép thành các công ty kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm…
Từ đó, trên thị trường bảo hiểm của nước ta xuất hiện một loạt các công ty bảo hiểm như công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, công ty cổ phần … như vậy trên thị trường phát triển không ngừng cả về số lượng công ty và cả số nghiệp vụ mà các công ty bảo hiểm đã triển khai. Trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ cũng vậy. Sau khi hơn 30 năm thị trường bảo hiểm chỉ có một mình Bảo Việt tiến hành hoạt động kinh doanh. Ngày 15/6/1995 công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (gọi tắt là PJICO) đã chính thức được thành lập và đi vào hoạt động. Người đề xướng ra dự án thành lập công ty bảo hiểm Petrolimex là Tổng công ty xăng dầu Việt Nam. Đã tiếp xúc với các cổ đông để thảo luận về vấn đề góp vốn cổ phần trong lĩnh vực bảo hiểm. Kết quả là sau gần một năm chuẩn bị Petrolimex cùng với 8 cổ đông sáng lập nên công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex. Ngày 27/05/1995, Bộ tài chính đã cấp giấy phép đủ điều kiện kinh doanh bảo hiểm cho công ty. Ngày 08/06/1995 ubnd thành phố Hà Nội cấp giấy phép thành lập và ngày 15/6/1995 Uỷ ban kế hoạch thành phố Hà Nội cấp giấy phép đăng ký kinh doanh. Kể từ ngày đó công ty có tên chính thức là công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO).
Công ty PJICO mới thành lập có tổng số vốn là 55 tỷ đồng
Trong đó vốn điều lệ là 53 tỷ đồng với 80% là vốn góp của 8 cổ đông lớn tại Việt Nam và quốc tế.
Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex )
Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (vietcombank)
Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (vinare)
Công ty thép Việt Nam (vsc)
Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ (matexim)
Công ty điện tử Hà Nội (hanel)
Công ty thhh thiết bị an toàn ( a- t)
Liên hiệp đường sắt Việt Nam (vre)
Là một công ty ra đời đầu tiên theo Nghị định 100/cp của chính phủ, từ ngày đầu khó khăn với tổng số chỉ là 8 cán bộ công nhân viên quản lý, điều hành, mà hầu hết chỉ mới tốt nghiệp đại học. Cho đến nay công ty PJICO đã là một công ty trẻ đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ. Từ chỗ khách hàng của công ty chỉ là những cổ đông nay đã có hàng nghìn khách hàng thuộc tất cả các lĩnh vực, các ngành nghề, các thành phần kinh tế đã tham gia bảo hiểm tại PJICO. Công ty đã có nhiều công trình bảo hiểm lớn như: khách sạn Hà Nội deawoo, cao ốc hitc tại Hà Nội, diamon plaza tại thành phố Hồ Chí Minh, đường trên Quốc lộ 1, Quốc lộ 5, đường xuyên á, điện Hàm thuận - Đamin, các tàu dầu lớn của Petrolimex, vosco…đã liên tục tham gia bảo hiểm tại PJICO.
Bên cạnh việc thực hiện tốt công tác kinh doanh bảo hiểm gốc, công ty cũng đã chú trọng sử dụng các nguồn vốn nhàn rỗi để tái đầu tư cho nền kinh tế thông qua việc cho khách hàng vay tín dụng, đầu tư mua tín dụng, trái phiếu kho bạc. Song song với việc mở rộng mạng lưới kinh doanh công ty luôn tăng cường hợp tác với các công ty bảo hiểm bạn như Bảo Việt, Bảo Long, Bảo Minh, uic…thông qua các dịch vụ đồng bảo hiểm. Ngoài ra, công ty còn hợp tác với các công ty tái bảo hiểm như vinare, munich re, colloge re, swiss re, hatfort re, west of england.
Nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên có thể nói đây là một trong những nghiệp vụ đầu tiên PJICO triển khai trong những ngày tham gia hoạt động. Đây là nghiệp vụ không còn mới mẻ gì trên thị trường Việt Nam. Nó đã được Bảo Việt triển khai trong một thời gian dài và hiện tại trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có nhiều công ty tham gia khai thác nghiệp vụ bảo hiểm này.
2. Cơ cấu tổ chức của PJICO
Ngay sau khi được cấp giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh, công ty đã nhanh chóng triển khai và phát triển bộ máy tổ chức, mạng lưới kinh doanh bảo hiểm tại địa bàn Hà Nội và trên phạm vi cả nước.
Để phục vụ khách hàng tốt hơn, công ty PJICO không chỉ tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh mà còn ở nhiều tỉnh khác từ bắc vào nam, từ thành phố đến nông thôn.
Sau 7 năm hoạt động, từ chỗ bắt đầu với 8 cán bộ nhân viên và một số ít phòng ban đầu tiên đặt tại Hà Nội, đến nay công ty đã có một đội ngũ cán bộ đông đảo, 11 chi nhánh trên 20 văn phòng đại diện trực thuộc. Ngoài ra, công ty đã có trên 400 đại lý, cộng tác viên trong cả nước. Với mạng lưới tổ chức kinh doanh như vậy, PJICO trong những năm qua không ngừng phát triển. Doanh thu tăng, thị trường mở rộng, uy tín ngày càng nâng cao, đời sống cán bộ ngày một cải thiện… từ đó góp phần vào quá trình phát triển và hội nhập thị trường bảo hiểm Việt Nam với thị trường bảo hiểm quốc tế.
Sơ đồ tổ chức bộ máy của PJICO
Phó tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc
đại hội cổ đông
Hội đồng quản trị
Tổng giám đốc
Phòng BH phi hàng hải
Văn phòng BHKV I
Văn phòng BHKV II
Văn phòng BHKV III
Văn phòng BHKV IV
Văn phòng BHKV V
Văn phòng BHKV VI
Văn phòng BHKV VII
Chi nhánh Quảng Ninh
Chi nhánh Hải Phòng
Phòng BH Thanh Hoá
Chi nhánh Nghệ An
Phòng BH Hà Tĩnh
Chi nhánh Quảng Bình
Chi nhánh T.Thiên Huế
Chi nhánh Đà Nẵng
Phòng BH Quảng Nam
Phòng tổng hợp
Phòng quản lý nghiệp vụ
Phòng BH hàng hải
Phòng tái bảo hiểm
Chi nhánh Khánh Hoà
Chi nhánh Sài Gòn
Chi nhánh Cần Thơ
Phòng BH An Giang
Phòng BH Kiên Giang
Phòng BH Cà Mau
Phòng tổ chức cán bộ
Phòng đầu tư tín dụngvà ttck
Ban thanh tra pháp chế
Các tổng đại lý, đại lý, cộng tác viên bảo hiểm
Phòng TS hoả hoạn
Phòng kế toán
3. Kết quả kinh doanh trong những năm vừa qua
Trong những năm qua, mặc dù thị trường bảo hiểm quốc tế có nhiều biến động và gặp không ít khó khăn cho các công ty bảo hiểm. Tuy nhiên vượt qua những khó khăn công ty bảo hiểm PJICO đã đạt được doanh thu lớn trong nhiều năm qua.
Bảng 1: Doanh thu của công ty PJICO qua các năm (1996 – 2002)
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Doanh thu( Tỷ đồng)
Tốc độ phát triển (%)
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
70
97,5
116
118
141,5
164,6
211,9
-
139,28
118,97
101,72
119,92
116,32
128,74
Nguồn: “ Báo cáo tổng kết của PJICO”.
Trong 7 năm qua tốc độ tăng trưởng doanh thu của PJICO đạt tốc độ rất cao. Đây là mức tăng trưởng tương đối cao mà nhiều doanh nghiệp trẻ trong điều kiện kinh doanh còn gặp khó khăn trong hiện nay mong muốn.
Về mặt lợi nhuận: ngay từ năm đầu hoạt động kinh doanh công ty PJICO đã kinh doanh có lãi và chia lãi cổ tức ở mức 14,4%/ năm. Kể từ đó đến nay lợi nhuận sau thuế của công ty luôn tăng trưởng ở mức ổn định. Tỷ lệ cổ tức của PJICO luôn cao hơn từ 1,2 đến 2 lần lãi suất tiền gửi ngân hàng cùng kỳ hạn.
Công ty luôn thực hiện việc bảo tồn và phát triển nguồn vốn. Vốn điều lệ của công ty là 55 tỷ đồng. Sau 8 năm hoạt động công ty không những đã bảo toàn được vốn mà còn phát triển được nguồn vốn kinh doanh của mình. Tổng nguồn vốn nhàn rỗi cho đầu tư quy ra VND của PJICO tính đến thời điểm 31/12/2002 là 152.679.348.237 đồng tăng 12,6% so với năm 2001. Doanh thu đầu tư đạt 9,5 tỷ đồng, 105,6% kế hoạch, tăng 11,8% so với năm 2001.
Là công ty cổ phần bảo hiểm đầu tiên nhưng PJICO không nhận bất cứ sự ưu đãi nào của Nhà nước. Mặc dù vậy trong những năm qua PJICO vẫn thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế của mình. Trong năm 2002 dự kiến nộp ngân sách Nhà nước là gần 20 tỷ đồng.
Về mặt hiệu quả xã hội: Sự ra đời và phát triển của công ty đã tạo ra công ăn việc làm cho hàng trăm lao động tại khu vực Hà nội và các địa phương mà công ty có chi nhánh và văn phòng đại diện. Tổng số lao động của công ty đến thời điểm 31/12/2002 là 372 người, tăng 38 người so với 1/1/2002, trong đó có 93% cán bộ có trình độ đại học. Đời sống cán bộ công nhân viên và gia đình họ luôn được sự quan tâm của ban lãnh đạo và ngày càng được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người của toàn công ty là 1,85 triệu đồng/người/tháng.
Ngoài việc góp phần ổn định xã hội thông qua công tác chi trả, công ty PJICO còn thực hiện đầu tư trở lại nền kinh tế mỗi năm hàng trăm tỷ đồng từ các nguồn phí nhàn rỗi: từ phí bảo hiểm thu được, từ quỹ dự phòng nghiệp vụ được tích luỹ qua các năm, thông qua việc cho vay đối với các dự án của khách hàng, mua tín phiếu trái phiếu kho bạc nhà nước.
Trong những năm qua công ty còn giúp cho hàng chục khách hàng ổn định, khắc phục được tổn thất sau rủi ro xảy ra. Năm 2000 công ty đã giải quyết kịp thời nhiều vụ tổn thất cho khách hàng với tổng số tiền gần 50 tỷ đồng, năm 2001 tổng số tiền chi trả lên tới gần 70 tỷ đồng. Trong năm 2002 công ty đã chi trả là 76,9 tỷ đồng tỷ lệ chi trả là 43,8 tỷ đồng. Công ty cũng thể hiện uy tín của mình qua việc giải quyết nhanh chóng, thoả đáng các vụ tổn thất bảo hiểm lớn nhất tại Việt Nam từ trước đến nay, bảo vệ chính đáng quyền lợi của người được bảo hiểm và phía Việt Nam, đó là sự đâm va ô nhiễm giữa hai tầu dầu Petrolimex 1 và tàu Formosa one tại Bà địa với tổn thất khiếu nại lên tới 19 triệu USD.
Với những kết quả trên năm 2000 công ty đã được nhà nước tặng thưởng huân chương Lao động hạng ba nhân dịp 5 năm thành lập. Hiện tại công ty được đánh giá là một trong những công ty cổ phần hoạt động tốt của Việt Nam và có đủ điều kiện tiêu chuẩn tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoáng.
Do sự hoạt động hiệu quả của PJICO nên thị phần thị trường của PJICO không ngừng mở rộng. Tính đến năm 2002 thị phần của công ty PJICO so với các đối thủ cạnh tranh như sau.
Bảng 2:Thị phần của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ.
TT
Công ty
Doanh thu
(tỷ đồng)
Tăng trưởng (%)
Thị phần (%)
1
2
3
4
5
6
7
Bảo việt
Bảo minh
PVIC
PJICO
Bảo long
PTI
Các công ty bảo hiểm khác
1.240
862
445
176
34
113
22,0
53,8
193,0
27,1
30,7
22,0
40,4
28,1
14,5
5,7
1,1
3,7
6,5
Nguồn: “báo cáo tổng kết năm 2002 tại Pjico
Như vậy ta thấy trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam thì công ty bảo hiểm Bảo việt chiếm thị phần rất lớn 40,4%. Tuy nhiên từ năm 1998 đến nay thị phần thị trường của Bảo việt giảm 5% một năm. Công ty Bảo minh chiếm vị trí thứ hai 28,1%. Công ty bảo hiểm PJICO do mới hoạt động được vài năm nên thị phần là 5,7%.
II. tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên
Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt hiện nay, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm đòi hỏi các phải đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình, phải tiến hành triển khai nhiều nghiệp vụ bảo hiểm. Trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thì chúng ta nhận thấy khâu đầu tiên và quan trọng nhất là khâu khai thác.
Khâu khai thác có những tác dụng sau:
- Quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm khác với các hoạt động kinh doanh thông thường là sản phẩm của chu trình kinh doanh đảo ngược. Hoạt động kinh doanh diễn ra theo trình tự nhà bảo hiểm thu tiền trước và chuyển giao sản phẩm bảo hiểm sau. Như vậy khâu khai thác cũng giống như là một khâu tiêu thụ sản phẩm mà bất cứ một đơn vị nào hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thì khâu tiêu thụ là khâu quyết định.
- Tác dụng thứ hai là: Do sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình mặc dù nó được thể hiện qua giấy tờ trên hợp đồng bảo hiểm. Cho nên, người mua không thể nhận thấy ngay trước mắt chất lượng của sản phẩm như những sản phẩm khác được bán trên thị trường. Trên thực tế nó chỉ là một bản cam kết giữa hai bên về một loại rủi ro nào đó. Họ cần phải được hướng dẫn, chỉ rõ những gì mà họ có thể nhận được sau khi mua sản phẩm. Do vậy, mà khâu khai thác được công ty đặc biệt quan tâm.
- Một nguyên tắc hàng đầu trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm là quy luật “số đông bù số ít” nên chỉ có khai thác được nhiều thì mới có thể thực hiện tốt được các khâu tiếp theo như: đề phòng, hạn chế tổn thất, giám định chi trả.
Trong quá trình định phí của công ty bảo hiểm thì dựa trên quy luật số đông bù số ít do vậy chỉ có khai thác được nhiều thì mới đảm bảo các giả định khi tính phí, có khai thác tốt thì mới có thể triển khai được sản phẩm hoàn thiện và bền vững.
Nếu khai thác tốt thì doanh thu mới cao được, thị phần của công ty được mở rộng, sức cạnh tranh cao, từ đó giúp cho công ty không ngừng phát triển quy mô của mình.
- Trong quá trình hoạt động khai thác của nhân viên công ty với khách hàng cũng có thể phát hiện ra khách hàng đó có nhu cầu cần thêm các sản phẩm khác.
- Bất kỳ một hoạt động nào của các công ty bảo hiểm thì đều phải bỏ ra một chi phí xác định cho các khu vực khai thác. Nếu khai thác được nhiều hợp đồng bảo hiểm, nhiều học sinh tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này hơn thì chi phí trên một hợp đồng khai thác được sẽ giảm.
Một quy trình khai thác bảo hiểm của bất kỳ công ty bảo hiểm nào được diễn ra theo các bước sau đây:
+ Lập kế hoạch khai thác
+ Tổ chức khai thác
+ Đánh giá kết quả khai thác
+ Tổ chức rút kinh nghiệm khai thác
Bên cạnh đó còn tiến hành đánh giá kết quả và hiệu quả của hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên.
Sau khi đây chúng ta lần lượt xem xét từng bước của khâu khai thác.
1. Lập kế hoạch khai thác
Lập kế hoạch khai thác là bước đầu tiên rất quan trọng của khâu khai thác và cũng là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai một sản phẩm, nó đặc biệt quan trọng đối với sản phẩm mới.
- Mục đích của lập kế hoạch khai thác: giúp cho những nhà lãnh đạo của công ty xác định được tính khả thi và các bước (quy trình) để từ đó tạo cho khâu khai thác đạt được kết quả cao. Thông qua bước này nhà lập kế hoạch sẽ đi phân tích đặc điểm tình hình, điều kiện chung, điều kiện riêng để từ đó xác định thảo luận và cuối cùng là đưa ra mục tiêu khai thác nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh – sinh viên trong năm nay là bao nhiêu? và xác định kế hoạch để thực hiện kế hoạch đó.
- Trên đây là những mục tiêu của bước lập kế hoạch. Để nhà lập kế hoạch đưa ra được mục tiêu khai thác sao cho phù hợp và có tính khả thi thì phải căn cứ vào các yếu tố sau:
+ Thứ nhất là: Biến động của tình hình kinh tế chính trị thế giới ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Cũng như sự phát triển của nền kinh tế đất nước ta trong những năm vừa qua và có thể dự báo kinh tế của đất nước ta trong thời gian tới. Đây là nhân tố mang tính chất vĩ mô. Tuy nhiên, chúng lại ảnh hưởng, tác động đến mọi hoạt động của xã hội. Nếu như tình hình chính trị an ninh không ổn định rủi ro xã hội xảy ra ngày càng nhiều và ở mức độ thường xuyên thì nhu cầu tham gia bảo hiểm của các em học sinh sẽ lớn. Sự tăng trưởng của kinh tế có ảnh hưởng mật thiết đến thu nhập của từng cá nhân trong gia đình của các em học sinh. Từ đó ảnh hưởng lớn đến khả năng tham gia bảo hiểm của hcọ sinh. Thực tế nước ta trong những năm vừa qua đất nước ta được đánh giá có nền kinh tế chính trị ổn định, GDP tăng trưởng khá cao và ổn định (năm 2002 tăng trưởng 7%) theo dự đoán GDP năm 2003 của đất nước ta tăng từ 7 đến 8%.
Trong quá trình lập kế hoạch cũng cần chú ý đến các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm có biến động hay không. Đây là hành lang phá._.phải gửi thông báo hết hạn hợp đồng hoặc là khách có những yêu cầu gửi giải đáp thêm một số điểm trong hợp đồng. Công ty thay vì sử dụng dịch vụ bưu chính có thể sử dụng thư điện tử. Với ưu điểm là nhanh, rẻ, tiện lợi hơn rất nhiều. Tuy nhiên chỉ áp dụng được với những khách hàng có điều kiện tiếp cận thường xuyên với dịch vụ này hầu hết các công ty, doanh nghiệp, tổ chức. Nhưng với tốc độ tin học hoá nhanh chóng như hiện nay, chúng ta tin rằng trong tương lai việc sử dụng này sẽ phổ biến.
2. Khó khăn
Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex mới chỉ hoạt động kinh doanh được 8 năm. Mặc dù đã đạt được những thành công đáng kể trong quá trình kinh doanh. Tuy nhiên uy tín của công ty chưa cao thị phần của công ty vẫn còn thấp so với Bảo Việt. Sau một thời gian dài công ty Bảo Việt tiến hành kinh doanh độc quyền. Trong thời gian này họ đã xây dựng một hệ thống mạng lưới đại lý trên khắp toàn quốc, các cộng tác viên ở các trường học. Bên cạnh đó Bảo Việt còn có một bề dày kinh nghiệm, bề dày khai thác. Chính thời gian hoạt động này đã tạo ra cho Bảo Việt có một uy tín lớn và một số lượng khách hàng truyền thống lớn. Số lượng khách này có thể tái tục qua các năm. Ngược lại công ty bảo hiểm PJICO những năm đầu hoạt động kinh doanh bảo hiểm công ty bảo hiểm chủ yếu cho khách hàng là cổ đông mà nghiệp vụ bảo hiểm chủ yếu là bảo hiểm về vật chất. Còn đối với sản phẩm bảo hiểm kết hợp học sinh – sinh viên chỉ có thể khai thác ngoài cổ đông. Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm chỉ là những lời nói, lời hứa, lời cam kết...do vậy uy tín của công ty quyết định đáng kể đến kết quả khai thác. Mặt khác, công ty PJICO là một công ty cổ phần, hình thức doanh nghiệp mà dân ta còn chưa quen, còn quan niệm là “con chung” không ai chịu trách nhiệm, không có gì bảo đảm. Đây là một trở ngại khá lớn trong việc gây ấn tượng, sự tự tin cho khách hàng khi tham gia mua bảo hiểm tại công ty.
Một số các công ty bảo hiểm sử dụng các biện pháp cạnh tranh phí thiếu trung thực. Nhiều công ty ngoài các biện pháp dịch vụ khách hàng như tặng quà, tư vấn...để lôi kéo khách hàng họ còn sử dụng biện pháp hạ phí. Tuy Bộ tài chính đã quy định một tỷ lệ giảm phí tối đa nhưng nhiều trường hợp các công ty khác vẫn vi phạm tỷ lệ này. Họ giảm phí xuống tới mức nguy hiểm, gây rủi ro cho cả phía khách hàng và công ty. Đối với hình thức cạnh tranh không lành mạnh này, PJICO không có phương thức để đối phó và trong nhiều trường hợp công ty đã mất khách hàng do bị đối phương chào giá quá thấp có khi chỉ bằng một nửa.
Do sản phẩm bảo hiểm học sinh- sinh viên là sản phẩm bảo hiểm mà cùng một lúc nhiều công ty bảo hiểm nhân thọ triển khai. Đặc điểm, điều kiện, phạm vi bảo hiểm, phí bảo hiểm, chưa tạo ra sự khác biệt so với nghiệp vụ bảo hiểm này của công ty. Vì vậy đòi hỏi có nhiều thời gian để xâm nhập thị trường.
- Khó khăn thứ ba là công ty chưa chú trọng khuyếch trương sản phẩm. Để bán được sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào đội ngũ đại lý, nhân viên khai thác, ngoài việc đào tạo những khai thác viên giỏi, có trách nhiệm thì công ty cần phải hỗ trợ họ bằng việc tuyên truyền quảng cáo về thương hiệu của công ty về sản phẩm mà mình cung cấp. Biện pháp này sẽ giúp công ty xây dựng được tên tuổi một cách nhanh hơi, làm cho khách hàng hiểu rõ về công ty cũng như hiểu rõ về sản phẩm. Chúng ta thấy hoạt động khuyếch trương sản phẩm của bảo việt rất mạnh như thông qua việc tài trợ các hoạt động văn hoá cho các trường học có đông đảo các em tham gia.
Do công ty thực hiện việc phân cấp chi trả nên vẫn còn những tồn tại về khâu giải quyết chi trả tổn thất.
Các văn phòng bảo hiểm đại diện khu vực chỉ có quyền hạn giải quyết chi trả cho những tổn thất xảy ra của nghiệp vụ bảo hiểm học sinh - sinh viên có giá trị tổn thất dưới 500.000 đ. Nếu giá trị tổn thất lớn hơn phải chuyển lên cho cấp quản lý giải quyết. Vì thế gây ra những rắc rối nhất định cho người tham gia, để nhận được chi trả người tham gia bảo hiểm sẽ phải chờ đợi, tốn nhiều thời gian công sức và gây cảm giác khó chịu. Bên cạnh đó, việc phân cấp bồi thưởng ảnh hưởng khá lớn đến kết quả của nhân viên khai thác. Nếu như khách hàng tham gia tại công ty không may gặp rủi ro khi đó nếu phòng giải quyết chi trả làm việc không chu đáo không thoả mãn được nhu cầu của khách hàng. Khi đến thời gian tái tục hợp đồng với khách hàng này thì người khai thác khó có thể thuyết phục khách hàng tiếp tục ký hợp đồng.
Công tác khai thác chưa phong phú, hạn chế trong trình độ chuyên môn của đội ngũ khai thác, kết quả khai thác đồng thời không cao.
Trên thực tế hiện nay tại PJICO trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ khai thác tại các văn phòng khu vực chưa cao. Trong quá trình khai thác của mình các nhân viên khai thác chỉ chú trọng đến doanh thu khai thác thu được là bao nhiêu? họ không quan tâm công tác đánh giá rủi ro, tuyên truyền phổ biến các biện pháp để đề phòng hạn chế rủi ro, tuyên truyền phổ biến các biện pháp để đề phòng hạn chế rủi ro. Nhiều thắc mắc của khách hàng về những thông tin về sản phẩm mà đòi hỏi nhân viên khai thác phải có nghĩa vụ giải thích rõ. Nhưng thực tế thì còn nhiều trường hợp cán bộ khai thác chưa giải thích cho khách hàng hiểu biết về sản phẩm mà mình đang trào bán.
II. Phương hướng hoạt động trong thời gian tới
Trong thời gian tới công ty hoạt động theo những phương hướng sau:
Liên tục tạo thế vững chắc cho công ty trên thị trường bảo hiểm tăng sức cạnh tranh thông qua những hoạt động nâng cao chất lượng và hiệu quả khai thác, giám định, chi trả. Thực hiện mục tiêu sứ mệnh là phục vụ khách hàng, đảm bảo ổn định tài chính cho khách hàng tránh những xáo trộn đời sống kinh tế – xã hội.
Tăng doanh thu ở tất cả các nghiệp vụ đồng thời tập trung vào các nghiệp vụ truyền thống: bảo hiểm học sinh- sinh viên, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tai nạn con người.
xây dựng và thực hiện các biện pháp khai thác phù hợp để khuyến khích khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty, không ngừng mở rộng thị phần của công ty.
Chú trọng công tác đào tạo về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học cho các cán bộ, nhân viên, đại lý của công ty.
Tiếp tục xây dựng và duy trì các mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp bảo hiểm lớn trong và ngoài nước.
Trên đây là những phương hướng, mục đích hoạt động của PJICO trong thời gian tới để có thể đạt được những mục tiêu này nói chung và nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm học sinh – sinh viên nói riêng thì cần có một số giải pháp chính sau đây:
III. một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh – sinh viên.
1. Giải pháp ngoài phạm vi doanh nghiệp.
Đây là những giải pháp mang tính chất vĩ mô. Có sự can thiệp và điều tiết vĩ mô của nhà nước. Do đó, bản thân công ty bảo hiểm không thể thực hiện được. Nhưng hoạt động kinh doanh bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm lại chịu ảnh hưởng rất lớn của những tác động này. Do vậy doanh nghiệp bảo hiểm phải quan tâm đến các điều kiện bên ngoài từ đó đưa ra được cho mình những chiến lược sao cho phù hợp với xu thế chung của thị trường. Những giải pháp chủ yếu này là:
Hiện nay, theo quy định của các văn bản pháp luật thì việc tham gia bảo hiểm ở hình thức tự nguyện. Bộ tài chính ban hành các quyết định về quy tắc bảo hiểm trong đó có quy định về đối tượng tham gia, phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm ...nghiệp vụ bảo hiểm học sinh – sinh viên có đối tượng tham gia chỉ là trẻ em đến trường và sinh viên. Tuy nhiên, so với sản phẩm an sinh giáo dục của bên nhân thọ thì có đối tượng tham gia có thể gồm cả trẻ em chưa đến tuổi đến trường. Do đó,chúng ta còn thấy một thành phần nữa có thể tham gia nghiệp vụ bảo hiểm học sinh – sinh viên là trẻ em chuẩn bị đến trường. Hơn nữa hiện nay sự nghiệp của nhà nước ta là thực hiện việc phổ cập tiểu học có nghĩa là mọi trẻ em đều phải được đến trường, mọi người dân trong xã hội đều phải biết chữ.
Căn cứ vào tất cả các vấn đề trên em xin mạnh dạn đưa ra những kiến nghị sau: cơ quan Nhà nước cần phải tăng cường tính hiệu lực và ngày một hoàn thiện luật kinh doanh bảo hiểm. Bộ tài chính phải có trách nhiệm cụ thể hoá luật kinh doanh bảo hiểm và có biện pháp phối hợp với cơ quan chức năng khác để tuyên truyền phổ biến đến người dân. Bộ tài chính có thể căn cứ vào “luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em” để có thể xây dựng lại quy tắc của nghiệp vụ bảo hiểm học sinh - sinh viên có thể mở rộng đối tượng tham gia là các em chuẩn bị đến tuổi đi học. Có thể quy định hình thức tham gia bảo hiểm bắt buộc là những đối tượng nhà trẻ, mẫu giáo. Điều này hỗ trợ đắc lực cho cho sự nghiệp phổ cập tiểu học của đất nước ta. Tuy nhiên việc áp dụng hình thức bắt buộc này. Có thể áp dụng một cách khéo léo cho phù hợp với từng điều kiện của từng địa phương, khu vực khác nhau...
Vấn đề thứ hai là tình trạng giảm phí bảo hiểm bừa bãi bất chấp khung phí đã quy định của Bộ tài chính. Theo quy đinh chung thì Bộ tài chính quy định một tỷ lệ giảm phí tối đa theo đó cho phép các công ty bảo hiểm chỉ được giảm phí theo một giới hạn nhất định. Do vậy mà các công ty bảo hiểm chỉ có thể cạnh tranh thu hút khách hàng bằng dịch vụ khách hàng, sự nhanh chóng trong khâu giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, nhiều công ty vì mục đích cạnh tranh, để thu hút khách hàng đã hạ phí xuống xát mức nguy hiểm, gây rủi ro cho việc chi trả, nguy hại đến lợi ích của khách hàng, làm mất ổn định của thị trường bảo hiểm.
Để khắc phục tình trạng này trước hết nhà nước cần phải có văn bản quy định xử phạt, lúc này không nên chỉ để ở mức phạt hành chính mà có thể nâng nên mức cao hơn nếu vi phạm nghiêm trọng và văn bản này cần phải đưa vào áp dụng thực tế chứ không phải trên văn bản lý thuyết. Đây sẽ là cơ sở về mặt pháp lý cho xử lý vi phạm nhưng điều khó hơn là phát hiện những vi phạm này để phát hiện ra những hiện tượng này thì Bộ tài chính có thể thành lập ra một ban thanh tra không thường xuyên về bảo hiểm để tìm ra các vi phạm.
Để hiệu quả khai thác có thể đạt được kết quả cao thì một trong các yếu tố quyết định đó chính là ý thức và nhu cầu khả năng của người tham gia bảo hiểm. Để các em học sinh có thể hiểu được sự cần thiết của việc tham gia bảo hiểm. Thì đòi hỏi về phía nhà trường cần thực hiện các biện pháp tuyên truyền có thể thông qua các cuộc sinh hoạt toàn trường (buổi chào cờ đầu tuần) hoặc các buổi sinh hoạt trong lớp học, các buổi dã ngoại tìm hiểu thực tế. Tại những buổi sinh hoạt này nhà trường có thể mời các cán bộ, chuyên gia về lĩnh vực bảo hiểm, hoặc các nhân viên của các công ty bảo hiểm. Các nhân viên này có thể tiếp xúc với các em và tuyên truyền giới thiệu những kiến thức cơ bản nhất về bảo hiểm.
2. Giải pháp trong phạm vi doanh nghiệp
2.1. Xây dựng chiến lược khai thác phù hợp
Đây là một chiến lược mang tính khoa học và đòi hỏi phải có những đầu tư nghiên cứu nhất định mới thu được kết quả .
- Điều quan trọng hàng đầu là PJICO phải xác định vị trí của mình trên thị trường. Mỗi doanh nghiệp trên thị trường đều có vị trí nhất định, vị trí đó ảnh hưởng tới doanh nghiệp, tới kế hoạch của doanh nghiệp, được xác định dựa trên những tiêu thức: quy mô của doanh nghiệp, các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh, quy mô tài chính
Ví dụ như xem xét về quy mô doanh nghiệp dựa trên các chỉ tiêu như thị phần, sự đa dạng của các mạng lưới phân phối. Trên thị trường bảo hiểm học sinh – sinh viên hiện nay công ty chiếm thị phần cao nhất là Bảo việt, sau đó là Bảo minh và ở vị trí thứ ba là PJICO so với hai công ty Bảo việt, Bảo Minh thì PJICO còn có những khó khăn hơn về vốn, về mạng lưới phân phối, số lượng nhân viên, sức mạnh truyền thống, kinh nghiệm kỹ thuật.
- Vấn đề thứ hai là xác định kế hoạch mục tiêu, nghiên cứu hành vi của khách hàng mục tiêu.
Để xác định chiến lược phù hợp cho nghiệp vụ bảo hiểm học sinh - sinh viên, việc xác định kế hoạch mục tiêu có là số lượng học sinh mà công ty, văn phòng khu vực của công ty khai thác là bao nhiêu. Khách hàng mục tiêu ở đây là những bậc phụ huynh có con đang theo học tại các trường. Cần phải tiến hành nghiên cứu hành vi của khách hàng mục tiêu để điều tra xem họ nghĩ gì về sản phẩm của mình mức độ họ hiểu biết về sản phẩm là bao nhiêu... Qua công tác nghiên cứu hành vi của khách hàng mục tiêu để sao cho có thể cải tiến sản phẩm của mình mà khách hàng có nhu cầu và khả năng mua lớn nhất.
- Hiểu rõ về những ưu nhược điểm của sản phẩm bảo hiểm mình cung cấp.
Do đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm là vô hình nên khó có thể thuyết phục khách hàng tin vào sản phẩm của mình ngay từ ban đầu. Khách hàng chỉ biết được sản phẩm sau khi đã tiêu dùng nó tức là khi nhận được chi trả. Như vậy, chỉ có chất lượng thực tế của sản phẩm là nhân tố quyết định. Riêng đối với sản phẩm bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên của Bảo Việt và PJICO có những điểm rất tương đồng như là: phí bảo hiểm bằng 0,5%STBH thời hạn giải quyết chi trả là trong vòng 15 ngày. Do vậy hai công ty bảo hiểm này chỉ có thể cạnh tranh sản phẩm này thông qua dịch vụ khách hàng.
- Quá trình xác định quy trình khai thác gồm hai mảng lớn là quy trình khai thác và biện pháp hỗ trợ
Nhìn chung quy trình khai thác khá hoàn chỉnh tuy nhiên còn khâu tổ chức rút kinh nghiệm khai thác còn chưa được chú trọng quan tâm. Bước này cần phải được rõ hơn về giá trị, vai trò giúp cho quy trình khai thác được hoàn thiện hơn.
Chỉ một quy trình khai thác hoàn hảo không thôi thì kết quả khai thác không đạt kết quả cao. Dó đó, công ty cần phải chú trọng vào các biện pháp hỗ trợ: các biện pháp này sẽ giúp công ty tạo được hình ảnh của mình trong tâm trí khách hàng, đưa sản phẩm của công ty đến với khách hàng, đưa sản phẩm của công ty đến với khách hàng, làm giảm đi nhược điểm về “sức mạnh truyền thống”.
Biện pháp hỗ trợ có thể gồm các biện pháp sau:
Công tác tuyên truyền quảng cáo: tuyên truyền quảng cáo là một trong những chiến lược marketing. Người tiêu dùng thường bảo thủ và do đó có sức ỳ hoặc thái độ ngần ngại, chần chừ trong việc mua bảo hiểm. Vì thế để thành công, PJICO trước mắt phải để khách hàng biết đến mình, biết PJICO có những sản phẩm gì, đặc điểm của sản phẩm như thế nào? Nếu tham gia thì khách hàng sẽ có những quyền lợi gì?
Muốn truyền tải được lượng thông tin đó công ty phải soạn thảo chương trình quảng cáo cụ thể: xây dựng mục tiêu, ngân sách chi cho quảng cáo, phương tiện truyền tin, mức chi phí thông điệp, đánh giá hiệu quả quảng cáo mang lại.
Phương tiện truyền tin có thể là qua Tivi, báo chí, phát tờ rơi. Mỗi phương tiện có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Để có thể mang lại kết quả cao hơn thì nên sử dụng kết hợp các biện pháp này.
Tivi: là phương tiện đến được số đông người xem, có thể truyền đạt thông tin bằng âm thanh, hình ảnh, màu sắc. Nhưng chi phí cho hình thức này lại rất đắt.
Báo chí: chi phí rẻ nhưng lại không có nhiều người được tiếp xúc.
Phát tờ rơi: chi phí thấp, gây tò mò kích thích nhưng lại hạn chế ở lượng người nhận tin.
Nội dung thông điệp cần ngắn gọn, dễ hiểu, thông tin phải được lựa chọn kỹ càng. Một khâu quan trọng trong việc quảng cáo đó chính là khâu đánh gía hiệu quả mang lại. Quá trình đánh giá này thường dựa vào các chỉ tiêu như: doanh thu, thị phần, chi phí quảng cáo. Quảng cáo tuyên truyền cần có một khoảng thời gian nhất định thì mới thu được tác dụng vì thế khi theo dõi có thể chi phí kỳ này rất cao nhưng doanh thu có thể không thay đổi.
Công ty có thể tổ chức các cơ hội tiếp xúc giữa học sinh các trường học với cán bộ nhân viên của công ty để từ đó có thể nâng cao được danh tiếng của công ty.
Những buổi tiếp xúc như thế này có thể là: trích ra chi phí tiếp thị sản phẩm để lấy khoản tiền này phối hợp với một số trường học lập ra quỹ học bổng vượt khó. Để có thể hỗ trợ cho các em học giỏi có hoàn cảnh khó khăn. lưu ý khi thực hiện biện pháp này là: phần thưởng không nhất thiết phải có giá trị lớn( có thể chỉ là món quà). Khi tiến hành trao giải thì nên tiến hành với các buổi sinh hoạt toàn trường. Do kinh phí tiếp thị có hạn nên công ty không thể áp dụng với các trường. Do đó, công ty phải lựa chọn một số trường có số lượng học sinh lớn có nhu cầu tham gia bảo hiểm cao.
Bên cạnh đó, công ty có thể tổ chức các buổi nói chuyện giữa nhân viên của công ty mình với các em học sinh. Hoặc là tổ chức những cuộc thi tìm hiểu về bảo hiểm, về công ty bảo hiểm về đặc điểm vai trò và sự cần thiết khi tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này. Từ đó công ty có thể lựa chọn một số bài làm tốt để trao giải. Cần lưu ý khi lựa chọn các trường để áp dụng hình thức này là: những trường học có số lượng học sinh tham gia vào nghiệp vụ này chưa đông, các em còn chưa hiểu rõ lắm về bảo hiểm, về công ty bảo hiểm và các nghiệp vụ mà công ty triển khai.
2.2. Tăng tính đồng bộ trong dây truyền cung cấp sản phẩm bảo hiểm
Các khâu trong quá trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm đều có tác động qua lại, tương hỗ lẫn nhau. Các khâu như: giám định, chi trả trực tiếp tạo nên chất lượng sản phẩm, từ đó ảnh hưởng đến khâu khai thác. Theo tổ chức hoạt động của PJICO thì tổ chức phòng chi trả tại trụ sở chính của công ty nhưng các văn phòng hoạt động khai thác lại được đặt ở các nơi khác nhau. Chính điều này tạo ra một bất cập đó là: khi các nhân viên trong quá trình đi khai thác thì thường bán sản phẩm bảo hiểm tại các trường học, khách hàng quen biết hoặc các khách hàng truyền thống trong nhiều năm. Tuy nhiên, khi rủi ro xảy ra dẫn đến thiệt hại gây khó khăn về tài chính, tổn thương về tinh thần cho khách hàng mà các nhân viên khai thác thuộc các văn phòng này chỉ có thẩm quyền giải quyết những vụ tổn thất có giá trị không vượt quá 500.000đ. Nếu tổn thất lớn hơn mức này thì hồ sơ này được chuyển lên phòng chi trả giải quyết; khi đó nhân viên của phòng chi trả sẽ trực tiếp làm việc với những khách hàng này. Chính điều này làm cho người khách hàng có cảm giác bị nhân viên khai thác bỏ rơi. Nếu như phòng chi trả không giải quyết tốt thì sẽ gây khó khăn lớn cho người đi khai thác sau này. Nên chăng công ty PJICO cần nghiên cứu xem xét để tổ chức lại cơ cấu của mình như là: tạo ra nhiều chi nhánh nhỏ kết hợp cùng với nhân viên chuyên về chi trả tại ngay điểm khai thác đó; nhưng điều này cần phải được chú ý đến hình thức trục lợi.
Về công tác giám định và chi trả cần đào tạo thêm cán bộ làm công tác này đồng thời nâng cao trình độ, kỹ thuật của các cán bộ cũ, đào tạo cho họ trở thành những nhân viên chủ chốt. Trang bị cho giám định viên một số trang thiết bị hiện đại để đảm bảo quá trình giám định được đầy đủ. Rút ngắn thời gian giám định đến mức có thể để đảm bảo lợi ích cho phía khách hàng. Ngoài ra, thực hiện phương châm chi trả “ nhanh chóng, kịp thời, chính xác” đây là khâu cuối cùng nhưng là khâu khách hàng đánh giá sản phẩm vì vậy cần phải đảm bảo đúng sát thực tế, cần cảnh giác với hành vi trục lợi bảo hiểm.
Nói tóm lại, để có thể nâng cao được hiệu quả khai thác thì công ty nên tiến hành việc gắn kết các khâu trong quá trình triển khai nghiệp vụ này, có nghĩa là gắn kết từ khâu khai thác đến khâu chi trả.
2.3. Mở rộng kênh phân phối sản phẩm
Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm điều quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp chính là việc bán sản phẩm. Việc bán sản phẩm có thể thông qua hai kênh chính đó là kênh bán trực tiếp (thông qua nhân viên khai thác của công ty) kênh bán sản phẩm gián tiếp (thông qua các đại lý). Để có thể nâng cao được hiệu quả khai thác thì cần phải tăng cường được hiệu quả hoạt động và mở rộng được các kênh phân phối này; để đạt được điều này thì cần phải thực hiện một số công việc sau:
Tổ chức mạng lưới đại lý, cộng tác viên khai thác bảo hiểm một cách hợp lý và có hiệu quả ở trong thị trường học sinh – sinh viên đại học. Cộng tác viên nghiệp vụ bảo hiểm học sinh có thể là cộng tác viên ở các trường, phòng giáo dục, tại quận huyện. Mạng lưới cộng tác viên này sẽ thực hiện những công việc sau: phổ biến chủ trương, tuyên truyền công tác bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên, thu phí bảo hiểm nộp cho công ty, phối hợp với các cơ quan chức năng giải quyết hậu quả tai nạn, sử dụng hợp lý tủ thuốc sơ cứu ban đầu khi có rủi ro xảy ra đối với học sinh.
Do đặc thù của nghiệp vụ nên bố trí mạng lưới cộng tác viên cần phải rộng khắp, những người chuyên về công tác chăm sóc sức khoẻ cho học sinh sẽ là cộng tác viên đắc lực cho công ty. Muốn vậy công ty nên giành một chế độ hoa hồng, khen thưởng hợp lý tạo ra được sự tín nhiệm tới khách hàng. Đảm bảo khuyến khích đông đảo khách hàng để họ luôn hưởng ứng tới công ty và sẵn sàng cộng tác. Mạng lưới đại lý, cộng tác viên cần phải được trang bị đầy đủ kiến thức về cả nghiệp vụ và lĩnh vực y tế học sinh.
Công ty cần mở rộng hơn nữa địa bàn hoạt động của mình cùng với việc tăng số lượng học sinh – sinh viên. Công ty cần xúc tiến mở rộng địa bàn ở một số quận còn chưa khai thác được và ở các huyện ngoại thành, khắc phục những hạn chế ban đầu do thiếu nhân lực và cơ sở vật chất.
Sau một số năm hoạt động PJICO đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệp cho nên cần xây dựng thêm mạng lưới đại lý để tập trung vào khu vực thị trường vẫn còn để ngỏ, đồng thời tăng thêm số lượng nhân viên khai thác.
Bên cạnh đó PJICO có thể giới thiệu về công ty, về các sản phẩm, chào hàng qua mạng internet.
2.4. Cải tiến sản phẩm bảo hiểm cho phù hợp với tình hình hiện nay
Trong những năm gần đây hệ thống các trường dân lập đã được mở rộng, tuy nhiên thực tế cho thấy số lượng không tới trường ở Hà Nội vẫn còn cao (ngoại thành là 19,5%, nội thành là 7,8%). Do vậy, một biện pháp có thể thu hút nhiều đối tượng tham gia là công ty PJICO có thể phát triển loại hình bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên thành bảo hiểm kết hợp trẻ em dưới 18 tuổi.
Một biện pháp nữa là mở rộng phạm vi bảo hiểm và áp dụng nhiều mức trách nhiệm khác nhau, đồng thời mở rộng nhiều mức phí. Bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên triển khai ở PJICO trong những năm qua dựa trên cơ sở kết hợp hai điều kiện B (tai nạn 24/24 giờ) và điều kiện C ( trợ cấp nằm viện, phẫu thuật) phí bảo hiểm áp dụng thông dụng cho mọi đối tượng học sinh là 0,5% số tiền bảo hiểm. Thực tế áp dụng hai điều kiện B và C, cũng mức phí này, trong những năm qua trên địa bàn Hà Nội là tương đối hợp lý đảm bảo quy luật “ số đông bù số ít” và san sẻ rủi ro được bảo hiểm ở lứa tuổi khác nhau. Tuy nhiên, công ty vẫn phải đưa phạm vi bảo hiểm ở điều kiện A ngày càng mở rộng, bởi vì theo số liệu thống kê hàng năm về số học sinh bị rủi ro, tai nạn thì số học sinh bị chết chiếm phần nhỏ trong số học sinh bị rủi ro tai nạn. Hiện nay, mức phí công ty đang áp dụng là rất hợp lý với việc chi trả tiền bảo hiểm và đảm bảo mức trách nhiệm cao, bù đắp và hỗ trợ được cho các đối tượng học sinh. Hiện tại đối với bảo hiểm học sinh, PJICO áp dụng mức trách nhiệm từ 4 đến 10 triệu đồng. Quyết định chọn mức trách nhiệm nào khi tham gia bảo hiểm phụ thuộc vào khả năng tài chính của người tham gia bảo hiểm, đồng thời còn phụ thuộc vào từng đối tượng tham gia bảo hiểm khác nhau.
Với việc cải tiến sản phẩm, mở rộng phạm vi đối tượng bảo hiểm sẽ tạo cho sản phẩm trở nên phù hợp với nhiều người hơn, từ đó giúp cho quá trình khai thác đạt hiệu quả cao.
2.5. Xác định mức giá hợp lý, chú ý giảm phí cho những khách hàng truyền thống
Phí bảo hiểm là một nhân tố cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau: phí bảo hiểm hiểu được tính toán dựa trên xác suất xảy ra rủi ro được thống kê trong những năm vừa qua, lãi suất ngân hàng và nhiều yếu tố khác. Việc xác định mức phí phù hợp cho mỗi công ty quyết định đến doanh thu phí và sự cạnh tranh của các doanh nghiệp. Phí thu gồm hai thành phần là phí thuần và phụ phí; phí thuần dựa trên cơ sở tính toán đảm bảo tổng phí thu được từ các đối tượng tham gia trong năm phải bằng tổng giá trị chi trả trong năm. Đây là một tỷ lệ phí đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Thành phần thứ hai là phụ phí, phần phí này để đảm bảo cho chi phí quản lý, hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Do đó, ta thấy để có thể giảm phí, hạ thấp tỷ lệ phí thì công ty bảo hiểm có thể giảm phụ phí bằng cách tiết kiệm chi phí trong quản lý. Tuy nhiên, trong hoạt động của mình mà áp dụng mức phí quá cao cho nghiệp vụ bảo hiểm này thì sẽ không thể cạnh tranh với các đối thủ khác. Nếu áp dụng tỷ lệ phí quá thấp thì sẽ làm cho hoạt động khai thác của doanh nghiệp đạt kết quả thấp và gây khó khăn trong công tác chi trả, vì vậy vẫn phải đảm bảo được giá trang trải đủ các chi phí và quỹ bảo hiểm đủ lớn để đảm bảo nguyên tắc “số đông bù số ít”. Bởi trên thực tế, có những trường học có số lượng học sinh tham gia nhiều thì có khi họ không quan tâm đến công ty nào cung cấp mà họ chỉ quan tâm đến công ty nào có sản phẩm có mức phí thấp. Nên phải xác định một mức giá (phí) hợp lý để từ đó tăng khả năng cạnh tranh và nâng cao hiệu quả cho công tác khai thác.
Doanh thu khai thác của các nhân viên khai thác thì phần lớn doanh thu là phí thu được từ khách hàng truyền thống. Một đặc điểm thuận lợi trong hoạt động kinh doanh phi nhân thọ là doanh thu của các nhân viên khai thác năm sau đều cao hơn năm trước. Do hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ có thời hạn dưới 1 năm nên khi hết hạn hợp đồng mà không có sự kiện nào xảy ra thì khách hàng lại tái tục hợp đồng. Nên chăng để khuyến khích việc tái tục thì công ty cần giảm phí cho những khách hàng truyền thống và tại các trường học có số lượng học sinh tham gia nhiều năm nhưng không có rủi ro xảy ra.
2.6. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ
Trên thực tế hiện nay, còn tồn tại tình trạng một số nhân viên khai thác thiếu kiến thức về nghiệp vụ bảo hiểm; khi họ tiếp xúc với khách hàng thì chưa giải thích rõ ràng để cho khách hàng hiểu về sản phẩm mà mình đang bán. Do vậy:
Công ty nên tổ chức nhiều buổi học bồi dưỡng thêm những kiến thức cho cán bộ nhân viên, đồng thời mời chuyên gia trong lĩnh vực bảo hiểm về giảng dạy và nói chuyện. Bên cạnh đó, sắp xếp và bố trí công việc, cử cán bộ có năng lực và nhu cầu đi học các lớp đào tạo về bảo hiểm ở nước ngoài.
Tổ chức các buổi tập huấn cho cộng tác viên bảo hiểm, nhân viên khai thác của công ty. Cán bộ khai thác không chỉ có tuyên truyền vận động mà có thể tiến hành xác minh hồ sơ tai nạn. Chính vì vậy cán bộ khai thác phải được trang bị kiến thức về bảo hiểm, tập huấn và có kinh nghiệm, có kiến thức về y tế. Khi đó sẽ nâng cao được hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ và cộng tác viên, đồng thời góp phần vào thực hiện tốt công tác hạn chế rủi ro tổn thất.
Cần đặc biệt chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, khả năng tiếp cận và thuyết phục khách hàng. Nếu khách hàng từ chối thì cần tìm hiểu lý do: ấn tượng tốt, đã quen mua ở một công ty khác, không có nhu cầu mua bảo hiểm… thì khai thác viên cần linh hoạt trong ứng sử để xử lý kịp thời.
2.7. Thường xuyên tổ chức hội nghị khách hàng.
Trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm còn tồn tại khoảng cách giữa khách hàng và nhà thiết kế sản phẩm. Nhưng yêu cầu của việc thiết kế sản phẩm phải đáp ứng được yêu cầu là phù hợp với mong muốn của khách hàng. Do đó, tổ chức hội nghị khách hàng là rất cần thiết đối với mỗi công ty. Hoạt động này là cơ hội tiếp xúc giữa ban lãnh đạo công ty với khách hàng, là dịp để cho khách hàng bầy tỏ tâm tư nguyện vọng của mình, họ đưa ra những mặt được và chưa được, ưu điểm, khuyết điểm của sản phẩm mà công ty đã triển khai. Thông qua đó ban lãnh đạo sẽ đưa ra những giải pháp để ngày một hoàn thiện sản phẩm của mình. Hội nghị khách hàng có thể tổ chức sau một thời gian hoạt động, có thể là nửa năm hoặc một năm. Trong những dịp như vậy nên có những quà tặng mang tính chất kỷ niệm cho những khách hàng tham gia lâu dài nhằm cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của họ đối với công ty.
Ngoài ra công ty có thể thiết lập các đường dây nóng nhằm lắng nghe kịp thời sự phản ánh của khách hàng. Thông qua đường dây nóng này công ty có thể có được những thông tin về khách hàng đang có nhu cầu mua bảo hiểm.
Kết luận
Bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên là một loại hình bảo hiểm con người, có đối tượng tham gia là học sinh, sinh viên đang tới trường. Thông qua việc triển khai nghiệp vụ này, không những nó giúp cho công ty tăng được danh tiếng, chiếm lĩnh thị phần của các đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, nó còn có ý nghĩa về mặt xã hội - cụ thể hơn là: thông qua nghiệp vụ này nó đã góp phần vào sự nghiệp giáo dục của đất nước ta, bằng việc hỗ trợ một phần tài chính cho các em không may gặp phải rủi ro. Bên cạnh đó, nghiệp vụ bảo hiểm này còn góp phần vào việc phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm.
Để quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên thu được kết quả cao, thì một khâu đóng vai trò quan trọng và quyết định là khâu khai thác. Như vậy, chỉ bằng cách nâng cao hiệu quả khai thác thì mới có thể thu hút được đông đảo các đối tượng tham gia, để từ đó tăng được hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Từ khi bắt đầu hoạt động kinh doanh PJICO đã triển khai ngay nghiệp vụ bảo hiểm này và đã thu được những kết quả đáng kể. Tuy kết quả này chưa so sánh được với các đối thủ hoạt động lâu năm nhưng nó là thành tích đáng khích lệ đối với một công ty mới tham gia thị trường được ít năm.
Qua quá trình tích luỹ những lý luận kiến thức về bảo hiểm nói chung, về nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên nói riêng cùng với 15 tuần vừa qua. Em tìm hiểu thực tế tại văn phòng khu vực VII thuộc công ty cổ phần bảo hiểm PJICO, kết hợp với lý luận với thực tiễn em đã nghiên cứu đề tài này. Để hoàn thành được đề tài này em nhận được sự giúp đỡ rất tận tình, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cán bộ tại văn phòng khai thác số VII. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình: kinh tế Bảo hiểm, chủ biên: GS.TS. Hồ Sỹ Sà, Khoa Bảo hiểm- Trường ĐH KTQD - Hà Nội năm 2002.
2. Giáo trình: Quản trị kinh doanh Bảo hiểm, chủ biên: PGS.PTS Nguyễn Cao Thường, khoa Bảo Hiểm, Trường ĐH KTQD năm 1998.
3. Giáo trình Bảo hiểm, chủ biên: PGS.TS. Hồ Xuân Phương, Võ Thị Pha, Trường ĐH TC- KT Hà Nội năm 1999.
4. Bảo hiểm- Nguyên tắc & thực hành, David- E.Bland, Học viện bảo hiểm Hoàng gia Anh, năm 1993.
5. Nguồn số liệu của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex.
6. Quy tắc bảo hiểm kết hợp học sinh - sinh viên.
7. Luật kinh doanh bảo hiểm.
8. Tạp chí bảo hiểm năm 2002
9. Tạp chí “Thông tin thị trường bảo hiểm - tái bảo hiểm”
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0040.doc