Lời nói đầu
Trong xu hướng phát triển chung, đặc biệt là trong cơ chế thị trường, lĩnh vực đầu tư xây lắp đã và đang được mọi cấp mọi ngành, mọi người trong toàn xã hội quan tâm. Bởi những công trình kiến trúc, công trình công nghiệp, công trình cơ sở hạ tầng... hàng ngày hàng giờ liên tiếp mọc lên, có thể nói tốc độ phát triển ở lĩnh vực này nhanh chưa từng thấy ở nước ta. Chính trong bối cảnh này tính năng động tự chủ sáng tạo của các doanh nghiệp xây lắp đang được phát huy và kế toán xây lắp
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng Kế toán chi phí sản Xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp và một số ý kiến đề Xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là một bộ phận không thể thiếu để thực hiện vai trò quan trọng của ngành xây lắp đối với sự phát triển nền kinh tế đất nước trong thời kì đổi mới.
Trong xây dựng việc "sản xuất cái gì" và "sản xuất cho ai" đã được các chủ đầu tư có yêu cầu rất chi tiết trong hồ sơ thiết kế. Vấn đề còn lại là các doanh nghiệp xây lắp, đóng vai trò nhà thầu xây dựng, phải tự xác định cần phải làm thế nào để vừa đảm bảo chất lượng công trình, vừa tiết kiệm được chi phí, rút ngắn thời hạn xây dựng sao cho giá bán có thể cạnh tranh được. Vì vậy trong thị trường cạnh tranh, để giải quyết vấn đề "sản xuất như thế nào" thì việc xác định và kiểm soát được các chi phí đối với doanh nghiệp xây dựng là một yêu cầu có tính chất sống còn. Mà công cụ chính để giải quyết vấn đề trên là kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp. Từ đó có thể thấy việc hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp là hết sức cần thiết để giúp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này làm ăn có hiệu quả, nâng cao nghiệp vụ kế toán quản trị và góp phần phát huy hiệu lực quản lý nhà nước đối với toàn ngành xây dựng.
Để thực hiện tốt vài trò của mình, khoa học kế toán đã phát triển không ngừng và ngày càng hoàn thiện, trong đó kế toán xây lắp xét dưới góc độ đó cũng cần phải được nghiên cứu một cách khoa học dựa trên cơ sở các chuẩn mực, các nguyên tắc, chế độ kế toán, đồng thời nhất thiết phải gắn việc nghiên cứu nó với những đặc điểm riêng có của ngành xây lắp ảnh hưởng đến công tác kế toán và thực trạng tại các doanh nghiệp xây lắp ở nước ta hiện nay.
Bố cục của chuyên đề gồm ba phần:
A. Lời nói đầu.
Nội dung: I. Lý luận chung.
II.Thực trạng và một số đề xuất.
Kết luận.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này.
nội dung.
I. Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính gía Thành sản phẩm ở doanh nghiệp xây lắp.
1. Đặc điểm sản xuất xây lắp có ảnh hưởng tới công tác kế toán.
Sản xuất xây lắp là ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp nhằm tạo ra cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân, do các đơn vị xây lắp nhận thầu tiến hành. Ngành sản xuất này có các đặc điểm sau:
+ Sản phẩm xây lắp là các công trình vật kiến trúc có quy mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất dài, do đó việc tổ chức quản lý và hạch toánphải có dự án thiết kế thi công.
+ Sản phẫm xây lắp cố định tại nơi sản xuất, nơi sản xuất cũng là nơi đặt sản phẩm, nơi tiêu thụ sản phẩm, còn các điều kiện sản xuất phải di chuyển theo địan điểm đặt sản phẩm.
+ Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ(bàn giao cho bên A) theo giá dự toán hoặc giá thoẳ thuận với bên chủ đầu tư từ trước do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp không rõ nét.
+ Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất xây lắp và đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp có thể là các công trình hạng mục công trình, giai đoạn công việc có điểm dừng kỹ thuật.
2.Kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp:
2.1. Chi phí sản xuất xây lắp và phân loại chi phí sản xuấi xây lắp.
*. Khái niệm: Chi phí sản xuất xây lắp là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống, hao phí lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp xây lắp bỏ ra trong quá trình sản xuất.
*. Phân loại chi phí sản xuất xây lắp :
- Theo nội dung tính chất kinh tế của chi phí, có thể chia thành các loại sau:
+ chi phí nguyên vật liệu
+ chi phí về tiền lương
+ chi phí về các khoản tính trích theo lương
+ chi phí về công cụ dụng cụ sản xuất
+ chi phí về khấu hao máy móc thiết bị thi công và các tài sản cố định khác
+ chi phí dịch vụ mua ngoài
+ các chi phí khác bằng tiền
Theo khoản mục giá thành:
+ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm:
Trị giá nguyên vật liệu mà các doanh nghiệp xây lắp đã sử dụng phục vụ trực tiếp cho thi công ( không bao gồm cả nguyên vật liệu, máy móc thiết bị nhận của bên A)
+ chi phí nhân công trực tiếp:
Đối với doanh nghiệp xây lắp chi phí nhân công trực tiếpbao gồm tiền lương phải trả cho nhân công trực tiếp thi công và tiền thuê nhân công bên ngoài sử dụng phục vụ trực tiếp cho thi công. Nhân công trực tiếp trong doanh nghiệp xây lắp bao gồm cả công nhân trực tiếp xây lắp và công nhân vận chuyển vật lieẹu trong quá trình thi công.
+ chi phí sử dụng máy thi công:
Là khoản chi phí về sử dụng xe, máy thi công trong đó bao gồm tiền lương trả cho công nhân điều khiển máy thi công, chi phí vật liệu sử dụng phục vụ máy thi công (xăng, dầu), chi phí công cụ dụng cụ phục vụ cho máy thi công, chi phí khấu hao máy thi công, các chi phí khác bằng tiền.
+ chi phí sản xuất chung: bao gồm:
Tiền lương phải trả nhân viên quản lý tổ đội thi công, các khoản trích theo lương như: kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo số lương phải trả công nhân trực tiếp thi công, công nhân điều khiển máy thi công, nhân viên quản lý tổ độ thi công; chi phí công cụ dụng cụ, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài phục cho thi công ( điện., nước, điện thoại)và các chi phí khác bằng tiền như: chi phí chuẩn bị mặt bằng thi công, chi phí tát nước vét bùn khi có mưa hoặc mạch ngầm, chi phí đền bù hoa màu, di chuyển mồ mả.
- Theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất xây lắp với khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao cho bên A, có thể chia thành ba loại:
+ chi phí biến đổi.
+ chi phí cố định.
+ chi phí hỗn hợp.
2.2. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất xây lắp:
Theo hệ thông kế toán doanh nghiệp xây lắp ban hành theo quyết định 1864- 1998 QĐ/ BTC ngày 16/12/1998 của Bộ trưởng Bộ tài chính, thì trong các doanh nghiệp xây lắp chi phí áp dụng phương pháp kế toán hành tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên và do kế toán chi phí sản xuất xây lắp cũng theo phương pháp kê khai thường xuyên.
a.Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong doanh nghiệp xây lắp được phản ảnh trên tài khoản 621- " chi phí nguyên vật liệu trực tiếp".
Khi xuất nguyên vật liệu sử dụng phục cho thi công:
Nợ 621 Trị giá nguyên vật liệu xuất dùng.
Có 152
Trường hợp doanh nghiệp xây lắp mua nguyên vật liệu chuyển thẳng đến công trình phục vụ thi công.
+ Đối với doanh nghiệp chịu thuế giá trị gia tăng (VAT) theo phương pháp khấu trừ:
Nợ 621: Giá mua nguyên vật liệu chưa có thuế VAT
Nợ 133: Thuế VAT được khấu trừ
Có 333
111 Tổng số tiền theo gió thanh toán
112
141
+Đối với doanh nghiệp chịu VAT theo phương pháp trực tiếp:
Nợ 621
Có 331 Trị giá nguyên liệu theo giá thanh toán.
111
112
141
* Trường hợp có nguyên vật liệu không dùng hết trả lại nhập kho:
Nợ 152 Trị giá nguyên vật liệu nhập kho.
Có 621
* Trường hợp cuối tháng có nguyên vật liệu chưa dùng hết ở công trường để lại dùng cho tháng sau, kế toán điều chỉnh trên sổ sách:
+ Cuối tháng kế toán ghi:
Nợ 152 Trị giá nguyên vật liệu còn lại ở công
Có 621 trình để cho tháng sau.
+ Hoặc kế toán ghi số âm:
Nợ 621 Trị giá nguyên vật liệu còn lại ở công
Có 152 trình dùng cho tháng sau.
+ Tháng sau kế toán ghi:
Nợ 621 Trị giá nguyên vật liệu còn lại ở tháng trước
Có 152 dùng cho tháng này.
Cuối kỳ kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp sang tài khoản 154 để tính giá thành sảp phẩm xây lắp :
Nợ 154 chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Có 621
b.Kế toán chi phí nhân công trực tiếp:
Được phản ánh trên tài khoản 622 -" chi phí nhân công trực tiếp"
Tính tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp thi công
Nợ 622 Tiền lương
Có 3341
Khi tính tiền phải trả cho công nhân thuê ngoài sử dụng phục vụ cho thi công:
Nợ 622 Tiền thuê công nhân bên ngoài
Có 3342
Cuối kỳ kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp sang tài khoản 154 để tính sản phẩm xây lắp :
Nợ 154 chi phí nhân công trực tiếp
Có 622
b.Kế toán chi phí sử dụng máy thi công:
Chi phí sử dụng máy thi công được phản ánh trên tài khoản 623- "chi phí sử dụng máy thi công".
Nội dung tài khoản 623 như sau:
Nợ Có
Tập hợp chi phí sử dụng Kết chuyển chi phí sử dụng máy
máy thi công. thi công phân bổ cho các đối
tượng liên quan.
Chú ý: TK 623 chỉ sử dụng trong các doanh nghiệp xây lắp thực hiện xây dựng công trình theo phương thức thi công hỗn hợp ( vừa thi công bằng thủ công, vừa thi công bằng máy) thì các chi phí về sử dụng máythi công được ghi vào các tài khoản 621,622, 627 sau đó tổng hợp vào tài khoản 154 để tính giá thành ca máy phục vụ thi công.
Khi phát sinh các khoản chi phí thuộc nội dung chi phí sử dụng máy thi công, kế toán ghi vào bên Nợ TK623, tuỳ theo từng khoản chi phí mà ghi Có tài khoản liên quan:
+ Xuất vật liệu phục vụ máy thi công:
Nợ 623 Trị giá vật liệu sử dụng phục vụ máy thi công
Có 152
+ Mua vật liệu đưa thẳng đến phục vụ máy thi công:
Nợ 623: Giá mua nguyên vật liệu chưa có thuế VAT
Nợ 133: Thuế VAT được khấu trừ
Có 331
141 Tổng số tiền theo giá thanh toán
111
112
+ Tính tiền lương phải trả công nhân điều khiển máy thi công:
Nợ 623 Tiền lương
Có 3341
+ Xuất công cụ dụng cụ sử dụng phục vụ máy thi công:
Nợ 623
Có 153 Trị giá công cụ dụng cụ xuất dùng
+ Tính khấu hao máy móc thiết bị thi công:
Nợ 623 Khấu hao máy móc thiết bị thi công
Có 214
Nợ 009: Số khấu hao đã tính
+ Khi có các khoản chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền sử dụng phục vụ trực tiếp cho thi công:
Nợ 623: chi phí theo giá chưa có thuế VAT
Nợ 133: Thuế VAT được khấu trừ
Có 331
111 Tổng số tiền theo giá thanh toán
112
141
Cuối kỳ tính phân bổ và kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công cho các công trình hạng mục công trình, tiêu thức phân bổ có thể là:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
+ Chi phí nhân công tực tiếp.
Công thức:
Chi phí sử dụng máy thi công ồ chi phí sử dụng máy thi công tiêu thức
= * phân bổ
phân bổ cho các đối tượng ồ tiêu thức phân bổ của từng
đối tượng
Nợ 154 chi phí sử dụng máy thi công.
Có 623
b.Kế toán chi phí sản xuất chung:
Chi phí sản xuất chung được phản ánh trên tài khoản 627:
Khi phát sinh các khoản chi phí sản xuất chung kế toán ghi vào bên Nợ TK627, tuỳ theo từng nội dung chi phí mà ghi có tài khoản liên quan.
+ Tính tiền lương phải trả nhân viên quản lý tổ đội thi công:
Nợ 627 Tiền lương phải trả
Có 3341
+ Tính các khoản trích theo lương phải trả công nhân trực tiếp thi công, công nhân điều khiển máy thi công, nhân viên quản lý tổ đội thi công (KPCĐ, BHXH, BHYT).
Nợ 627 Các khoản tính trích theo lương
Có 3382
3383
3384
+ Xuất vật liệu quản lý tổ đội thi công:
Nợ 627 Trị giá vật liệu xuất dùng.
Có 152
+ Xuất vật liệu sử dụng phục vụ thi công:
Nợ 627
Có 153 Trị giá công cụ dụng cụ tính vào chi phí
142
+ Tính khấu hao tài sản cố định sử dụng phục vụ trực tiếp cho thi công:
Nợ 627 Khấu hao tài sản cố định
Có 214
Nợ 009 : Số khấu hao đã tính.
+ Các khoản chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác bằng tiền phục vụ trực tiếp cho thi công (điện, nước, điện thoại, tiếp khách của tổ đội thi công).
Nợ 627: chi phí theo giá chưa có thuế VAT
Nợ 133: Thuế VAT được khấu trừ
Có 331
111 Tổng số tiền theo giá thanh toán.
112
141
Cuối kỳ tính phân bổ và kết chuyển chi phí sản xuất chung cho các công trình, hạng mục công trình:
Nợ 154 chi phí sản xuất chung
Có 627
Tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp và kết chuyển giá thành sản phẩm xây lắp.
Việc tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp và tính giá thành sản phẫml được thực hiện trên tài khoản 154, các doanh nghiệp xây lắp khi vận dụng tài khoản 154 phải mở chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình (từng đối tượng tập hợp chi phí).
Cuối kỳ tập hợp chi phí sản xuất xây lắp phát sinh trong kỳ:
Nợ 154
Có 621: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Có 622: chi phí nhân công trực tiếp
Có 623: chi phí sử dụng máy thi công
Có 627: chi phí sản xuất chung.
Tính và kết chuyển giá thành thực tế của công trình, hạng mục công trình, giai đoạn công việc có điểm dừng kỹ thuật đã hoàn thành bàn giao cho bên A.
Nợ 632 Gía thành sản phẩm xây lắp.
Có 154
2.3. Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp:
Do đặc điểm hoạt động sản xuất xây lắp, đặc điểm đối tượng tập hợp chi phí, đối tượng tính gía thành sản phẩm xây lắp được áp dụng phổ biến là phương pháp tính trực tiếp. Đối tượng tính gía thành sản phẩm xây lắp là các công trình hạng mục công trình, giai đoạn công việc có điểm dừng kỹ thuật đã hoàn thành bàn giao cho bên A.
Giá thành chi phí khối chi phí khối lượng chi phí khối lượng
sản phẩm = lượng xây lắp + xây lắp phát sinh - xây lắp dở dang
xây lắp dở dang đầu kỳ. trong kỳ. cuối kỳ.
Trong cơ chế thị trường, tính năng động tự chủ, sáng tạo của các doanh nghiệp được đề cao, hơn nữa trong xây dựng việc sản xuất cái gì, cho ai đã được các chủ đầu tư yêu cầu rất cụ thể, rất chi tiết trong hồ sơ thiết kế. Vấn đề còn lại là các doanh nghiệp xây dựng đóng vai các nhà thầu xây dựng, phải tự xác định cần làm thế nào để vừa đảm bảo chất lượng công trình vừa tiết kiệm được chi phí, rút ngắn thời hạn xây dựng sao cho giá bán (giá dự thầu) có thể cạnh tranh được. Cuộc cạnh tranh giữa các xí nghiệp xây dựng, những người bán trong xây dựng thông qua đấu thầu để kí hợp đồng xây dựng công trình. Vì vậy trong thị trường cạnh tranh, để giải quyết vấn đề sản xuất như thế nào thì việc xác định và kiểm soát được các chi phí đối với các doanh nghiệp xây dựng là một yêu cầucó tính chất sống còn. Do vậy ta cần phải quan tâm đến giá dự thầu công trình xây lắp để từ đó xác định được gía thành thực tế công trình và hạch toán kế toán được đảm bảo chính xác.
Trong xây dựng, kế toán chi phí và kết quả của sản xuất kinh doanh,được hợp thành bởi ba bộ phận:
Kế toán chi phí và kết quả sản xuất theo từng hợp đồng hay công trình xây dựng.
Kế toán chi phí và kết quả sản xuất theo các bộ phận và của toàn doanh nghiệp.
Hạch toán thống kê và phân tích.
Hai phương pháp tính toán chi phí và kết quả được sử dụng chủ yếu trong kế toán quản trị kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng là:
Phương pháp tính toán cổ điển dựa trên chi phí trực tiếpvà các tỷ lệ phí ( gọi là phương pháp tính xuôi hay phương pháp phân phối hoàn toàn chi phí).
Phương pháp tính toán hiện đại dựa trên hiệu số giữa doanh thu và biến phí (gọi là phương pháp tính ngược từ giá chấp nhận cuả thị trường; phương pháp xác địng số dư đảm phí; phương pháp xác định khả năng bù đắp định phí có thu lãi hay phương pháp phân phối một phần chi phí).
Hai phương pháp này được vận dụng cho tất cả các bộ phận của kế toán quản trị kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng, theo từng nội dung: cho một quá trình xây lắp riêng lẻ, cho một công trình xây dựng và một thời gian niên lịch. Tuy nhiên, nội dung của phương pháp được thể hiện rõ nhất là trong trường hợp kế toán quản trị cho từng hợp đồng hay công trình xây dựng, đặc biệt trong trường hợp kế toán xác định giá dự thầu của hợp đồng, đặc biệt là trong trường hợp kế toán xác định giá dự thầu của hợp đồng. Do vậy em xin đề cập đến phương pháp tính toán chi phí và kết quả trong kế toán quản trị doanh nghiệp xây dựng trường hợp kế toán xác định giá dự thầu cho từng hợp đồng xây dựng.
Giá tranh thầu là giá do các doanh nghiệp xây dựng tham gia tranh thầu tự lập ra để tranh thầu dựa trên hồ sơ thiết kế, các yêu cầu của bên mời thầu, các quy định chung về định mức và đơn giá của nhà nước, các kinh nghiệm thực tế và ý đồ chiến lược tranh thầu.
Giá tranh thầu có thể có các định mức khác nhau, trong đó doanh nghiệp xây dựng cần xác định được giá cận dưới và độ tin cậy của giá tranh thầu.
Phương pháp cổ điển hay phương pháp phân phối hoàn toàn chi phí, còn gọi là phương phápdựa trên chi phí trực tiếp và các tỷ lệ phí được xác định một cách chủ quan chưa tính đến yếu tố giá cả thị trường.
Nội dung của phương pháp được trình bầy khái quát như sau :
+ Xác định các chi phí trực tiếp tiêu tốn cho các đối tượng sản phẩm xây lắp cụ thể gọi là chi phí xây lắp trực tiếp.
+ Xác định chi phí chung tính theo tỷ lệ % so với chi phí xây lắp trực tiếp.
+Xác định thu nhập chịu thuế tính trước theo tỷ lệ % so với giá thành dự toán xây lắp.
+ tính toán đơn gía đầy đủ cho mỗi loại công việc hay nhóm công việc xây dựng công trình.
Căn cứ khối lượng công việc đã được bên chủ đầu tư tính toán trước và bên doanh nghiệp dự thầu xác định lại theo hồ sơ thiết kế, doanh nghiệp xây dựng tham dự đấu thầu có thể tự xác định đơn giãd cho mình để tính giá tranh thầu, trên cơ sở tham khảo đơn giá dự toán chi tiết mà các chủ đầu tư đã sử dụng để tính giá xét thầu.
Phương pháp hiện đại hay phương pháp phân phốimột phần chi phí được xác định bằng hiệu số giữa doanh thu và biến phí. Chỉ tiêu này thể hiện phần đóng góp của từng hợp đồng xây dựng hoặc từng bộ phận của doanh nghiệp xây dựng là bao nhiêu để trang trải định phí và đóng góp và lợi nhuận chung của toàn doanh nghiệp.
Nếu gọi giá dự thầu là Gtxl thì theo cách tính Gxl ta có:
Gxlt= Zt+ VATt
Gxlt= Zt*(1+TGtgt)
Trong đó:
Zt là giá dự thầu chưa có thuế GTGTđầu ra, VATt là thuế GTGT đầu ra.
TGtgt là mức thuế suất (%) thuế GTGT quy định.
Theo phương pháp phân phối một phần chi phí, giá dự thầu chưa thuế của doanh nghiệp xây dựng theo ý đồ chiến lược tranh thầu được xác định theo công thức:
Zt=B+ Pt
Trong đó:
B là biến phí, B được xác định theo hồ sơ mời thầu. Chỉ tiêu này được xác định tương đối khách quan, ít phụ thuộc vào trình độ quản lý và khó tác động quản lý được tính theo công thức sau:
B = Tb+ Cb
Với Tb, Cb là phần biến phí trong chi phí trực tiếp và chi phí chung.
Pt là khả năng bù đắp định phí ( số dư đảm phí, mức lãi thô hay lãi trên biến phí) dự kiến khi tranh thầu. Nó được xác định trên cơ sở dự kiến cụ thể để tiền hành xây dựng công trình sau khi thắng thầu và phải dưạ vào tình hình cạnh tranh trong đấu thầu để quyết định.
Pt =Đ + L
Trong đó: Đ là định phí
L là lời nhuận nhận được theo dự kiến tranh thầu.
Chỉ tiêu Đ có thể được tính theo công thức sau:
Đ = Td + Cđ + TL
Td, Cđ là phần định phí trong chi phí trực tiếp và chi phí chung và TL là thu nhập chịu thuế tính trước bằng % so với giá thành dự toán xây lắp (giá thành dự toán xây lắp = chi phí trực tiếp + chi phí chung).
Chỉ tiêu dự kiến khi tranh thầu Pt có thể có các trường hợp sau:
Pt= Đ trường hợp này doanh nghiệp xây dựng sẽ hoà vốn ở hợp đồng dang xét.
Pt >Đ trường hợp này doanh nghiệp xây lắp sẽ có lãi ở hợp đồng đang xét.
Pt <Đ trường hợp này doanh nghiệp xây lắp sẽ bị lỗ ở hợp đồng đang xét.
doanh nghiệp xây dựng sẽ xác định được giá dự thầu cho cồng trình dự thầu đang xét:
Gxlt= Zt*(1+TGtgt).
Để đảm bảo thắng thầu và đạt được mục tiêu đề ra khi dự thầu, doanh nghiệp xây dựng cần phải xác định được giá cận dưới và độ tin cậy của giá dự thầu.
Giá dự thầu cận dưới Gxlt= B*(1+TGtgt) khi Pt= 0 trường hợp này doanh nghiệp xây lắp bị lỗ vì không đủ tiền để trang trải định phí của doanh nghiệp.
Thậm chí doanh nghiệp có thể lấy giá dự thầu cận dưới Gxlt= B. Trường hợp này doanh nghiệp xây dựng phải bù đắp cả định phí của doanh nghiệp và thuế GTGT đầu ra tính cho hợp đồng dự thầu bằng tiền thu từ các hợp đồng khác.
Trong trường hợp bình thường thì từ lợi nhuận dự kiến của phương án trranh thầu L, có thể xác định được mức lợi nhuận tính cho một đồng vốn Lv của phương án đang xét theo công thức:
Lv= L/V
Trong đó
V là số vốn trung bình bỏ ra cho thi công được xác định trên cơ sở thiết kế tổ chức thi công.
Nếu Lv nhỏ hơn một định phí cho phép, nghĩa là phươg án tranh thầu không hiệu quả, cần phải xem lại mức giá dự thầu.
Ưu điểm của phương pháp hiện đại so với phương pháp cổ điển là có thể thay đổi một cách linh hoạt phù hợp với tình hình thị trường.
Một số lưu ý khi áp dụng phương pháp hiện đại:
+ Trong trường hợp này phải tính cho mọi bộ phận của doanh nghiệp. Các bộ phận hay các công trường được tổ hợp thành từng nhóm sản phẩm theo loại hình xây dựng như xây dựng nhà ở, xây dựng cầu đường bộ, xây dựng bệnh viện, xây dựng nhà xưởng... Việc tổ hợp này tạo điều kiện để định giá tranh thầu phù hợp với tình thế đấu thầu cụ thể thông qua chỉ tiêu Pt.
+ Tại các bộ phận và các công trường chỉ tính toán biến phí B căn cứ vào các hợp đồng ( có thể có bộ phận lkhông có hợp đồng), phần còn lại Pt phải xá c định theo dự kiến thực tế cho tất cả các hợp đồng và công trường. Tuyệt đối không tính toán Pt theo các tỷ lệ phí quy định.
+ Để có cơ sở xác định các định phí Đ, nhất là định phí công trườg Cđ1 và Cđ2 cần phải có nhiều thông tin quá khứ của các thời kỳ trước để tham khảo.
Việc tính toán chỉ tiêu bù đắp định phí theo các cấp của doanh nghiệp xây dựng có đặc điểm cần quan tâm là nếu một công trường ( hay đội) xây dựng nào đó không ký được hợp đồng xây dựng, thì khi đó nó không có khả năng bù đắp định phí P, nhưng có một số khoản định phí ( định phí bắt buộc) vẫn có nguồn trang trải. Như vậy, công trường hay đội đang xét đã làm ảnh hưởng tới khả năng bù đắp định phí chung của từng lọai hình xây dựng cũng như cho toàn doanh nghiệp xây dựng, nghĩa các khoản định phí bắt buộc của công trường hay đội đang xét sẽ được trang trải bằng khả năng bù đắp định phí P của toàn loai hình xây dựng trong toàn doanh nghiệp.
Vậy có thể khẳng định rằng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây dựng thực sự cần thiết phải được thực hiện một cách chính xác trung thực để từ đó cung cấp các thông tin quá khứ hết sức quan trọng cho việc định giá thành dự thầu công trình và đạt được mụ tiêu chúng thầu cùng vơi một khả năng thu được lợi nhuận từ đó.Thắng thầu là bước khởi đầu có tính chất quyết định đến toàn bộ quá trình thi công sau này của mọi doanh nghiệp xây dựng, kế toán chi phí sản xuất phải là bộ phận đóng vai trò dẫn giá dự thầu đạt được hiệu quả tối ưu nhất.
Với cách tính chi phí sản xuất và gía thành sản phẩm xây lắp đã trình bầy một cách tổng quát trên đây giúp chúng ta nắm bắt được một số kiến thức về lý thuyết kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp.
Song trên thực tế, công tác kế toán, đặc biệt là kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm đang diễn ra tại các doanh nghiệp xây lắp ở Việt nam hiện nay ra sao? Nó đang còn những khó khăn vướng mắc nào cần phải khắc phục, hoàn thiện. Để kế toán thực sự đóng vài trò là một công cụ hữu hiệu nhất, phát huy hết tác dụng vốn có của nó giúp cho các nhà quản trị trong lĩnh vực xây lắp luôn luôn nắm bắt và kiểm soát được tình hình hoạt động của doanh nghiệp mình, từ đó ra các quyết định chính xác, kịp thời nhất trong quá trình dự thầu công trình cũng như trong quá trình thi công công trình với chi phí tiết kiệm nhất, chất klượng công trình tốt nhất, đảm bảo đúng thời điểm bàn giao công trình... tạo ra sức mạnh trong cạnh tranh mà cơ chế thị trường tạo ra buộc các doanh nghiệp phải tính đến mới có thể tồn tại được. Xuất phát từ những băn khoăn trên mà ngoài những kiến thức lý thuyết, chúng ta cần phải đi vào thực tế mới có thể có cái nhìn khái quát hơn về vấn đề này.
II. Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp và một số ý kiến đề xuất.
1.Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp:
Trước khi đi vào cụ thể của vấn đề này chúng ta hãy xem xét nét tình hình chung có tính nổi bật nhất đang diễn ra của lĩnh vực xây lắp hay đầu tư xây dựng ở nước ta hiện nay:
Nhìn lại những năm gần đây ai cũng có thể thấy rõ xu hướng phát triển đi lên của nền kinh tế đất nứơc nói chung và ngành xây lắp nói riêng, nó đã và đang tạo ra nhiều công trình kiến trúc mang tầm vóc trọng điểm của đất nước, các cơ sở hạ tầng làm nền tảng cho các ngành sản xuất vật chất và dịch vụ khác phát triển... Đầu tư xây dựng có vị trí hết sức quan trọng, nó tạo cơ sở vật chất, tăng tài sản cố định và năng lực sản xuất, góp phần làm biến đổi theo chiều hướng tích cực cơ cấu nền kinh tế quốc dân, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Và từ nhiều năm nay Đảng và nhà nước không ngừng đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng nhằm tăng cường các mặt quản lý và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nước ta. Chính phủ đã có nhiều văn bản: Nghị định số 177/CP ngày 20/10/1994 và gần đây là Nghị đinh số 42/CP ngày 16/7/1996, nhưng chỉ mới đề cập đến quản lý vốn đầu tư. Trong xây lắp việc quản lý hạch toán chưa được chặt chẽ dẫn đến tình trạng lãng phí, tham ô khá phổ biến, chấp hành nghĩa vụ nộp ngân sách chậm thất thoát nặng nề.
Có thể dẫn ra đây một số bất cập mà các doanh nghiệp xây dựng đang thực hiện trong quá trình quản lý, thi công, giám sát, thực hiện nghĩa vụ đối với Ngân sách nhà nước... như sau:
+ Căn cứ vào NĐ 96/CP ngày 27/12/1995 của chính phủ, doanh thu tính thuế được xác định theo gía trị hạng mục công trình hay phần việc đã hoàn thành vẫn không căn cứ vào thời điểm xác định công trình, hạng mục công trình, công việc đã hoàn thành ( chủ đầu tư đã chấp nhận thanh toán) mà thường doanh nghiệp hạch toán vào cuối quý, sáu tháng, thậm chí cuối năm. Mặt khác doanh nghiệp không hạch toán từng phần việc đã hoàn thành mà đợi đến khi kết thúc toàn bộ mới quyết toán một lần (công trình mà doanh nghiệp xây dựng để bán, người mua đã trả tiền, thời gian xây dựng dài, giá trị công trình hàng nhiều tỷ đồng)... Nếu doanh nghiệp hạch toán đúng thời điểm thì NSNN sẽ thu được kịp thời, tài vụ doanh nghiệp có điều kiện để đẩy mạnh việc thu nợ và do đó hạn chế việc phải vay ngân hàng.
+ Doanh nghiệp không hạch toán đầy đủ mà khoán trắng cho mỗi công trình, doanh nghiệp chỉ thu lại một tỷ lệ nhất định để làm nghĩa vụ đối với NSNN và trang trải chi phí cho quản lý doanh nghiệp, trong đó có một số công trình chứng từ không đầy đủ. Với hình thức trên doanh nghiệp ký hợp đồng với chủ đầu tư rồi giao cho chủ nhiệm công trìnhthực thi rồi nộp một tỷ lệ % lên doanh nghiệp, hình thức này phổ biến ở nhiều doanh nghiệp, chỉ đóng dấu để có tư cách pháp nhân vào hợp đồng và thu một khoản theo tỷ lệ % như lệ phí. Hình thức này thực chất là bán độ công trình, buông lỏng quản lý, không kiểm toán giám sát kiểm tra được cả về giá trị và cả về chất lượng công trình, do vậy nhiều đơn vị thi công lập quyết toán bằng cách phô tô lại dự toán.
+ Một trong những nguyên nhân chủ yếu tạo nên nợ phải thu nội bộ khó, hoặc không có khả năng đòi được là do các doanh nghiệp áp dụng cơ chế khoán còn có nhiều bất cập. Đó là khi áp dụng cơ chế khoán, giám đốc điều hành sản xuất kinh doanh chưa có biện pháp quản lý thích ứng, công tác hạch toán kế toán chưa có phương pháp hạch toán phù hợp để đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin cho công tác quản lý sản xuất kinh doanh. Lý do công tác hạch toán chưa đáp ứng là chế độ kế toán áp dụng cho loại hình xây lắp ban hành chậm (Quyết định số 1846/1998/QĐ/BTC ngày 16/12/1998) nội dung hạch toán nội bộ áp dụng tài khoản 136 và 336 phức tạp, trình độ kế toán viên còn thấp nên vận dụng sai rất nhiều.
+ Hiện nay các doanh nghiệp xây lắp áp dụng cơ chế khoán chưa chú ý đến biện pháp quản lý thích ứng, thiếu những quy định bằng văn bản nên chi phí lớn hơn mức khoán không được quyết toán, các khoản ứng không thanh toán được kế toán hạch toán vào nợ phải thu nội bộ, doanh nghiệp thiếu căn cứ để quy trách nhiệm cho đội nhận khoán, nợ quá nhiều năm không thu được phải hạch toán sang nợ khó đòi.
+ Đối với các công trình phải đấu thầu, các đơn vị thi công thường cố tình bóc tiên lượng dự toán thấp hơn so với thiết kế ( cố tình bỏ sót một số công việc vật tư thiết bị...) để thắng thầu. Sau đó phải quyết toán bổ sung và gía bổ sung cộng với giá thắng thầu lớn hơn giá trần vẫn thanh toán, và NSNN lại phải bù lỗ.
+ Tình trạng sử dụng vật tư không có chứng chỉ xác nhận quy cách chất lượng, không đầy đủ hoá đơn chứng từ do Bộ tài chính phát hành là rất phổ biến ở các địa phương. Nhất là đối với đơn vị thi công là công ty TNHH, công ty tư nhân thậm chí không có sổ sách kế toán, không tập hợp chứng từ gốc hoặc có chứng từ thì không hợp pháp, hợp lý, hợp lệ.
+ Lợi nhuận của các doanh nghiệp xây dựng hiện nay rất thấp nhìn chung chỉ đạt 1% đến 2% giá trị xây lắp, vốn kinh doanh thiếu phải vay vốn tín dụng, vốn thanh toán công trình lại chậm, thường vào cuối năm. Do đó lãi vay chiếm tỷ lệ lớn trong chi phí của công trình.
Để giúp các doanh nghiệp xây lắp vận dụng hệ thống tài khoản kế toán dễ dàng và đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin cũng như giải quyết một số tồn tại như đã nêu trên, tôi xin đưa ra một số ý kiến hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp về kế toán quản trị chi phí sản xuất, về nội dung trình tự hạch toán ở đơn vị xây lắp có áp dụng cơ chế khoán.
2.Một số ý kiến đề xuất:
2.1.Hoàn thiện kế toán quản trị chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp.
Như chúng ta biết hệ thống kế toán doanh nghiệp chia làm hai bộ phận, đó là: Kế toán tài chính và kế toán quản trị. ở nước ta kế toán quản trị còn mới mẻ, nhận thức và tổ chức trong các doanh nghiệp còn nhiều bất cập, nhưng với bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế thị trường hiện nay đều rất cần những thông tin chính xác từ bộ phận kế toán để ra các quyết định quản trị một cách linh hoạt trong kinh doanh đặc biệt là các quyết định về tài chính của doanh nghiệp. Để đáp ứng những đòi hỏi trên thì không thể không kể đến vai trò của kế toán quản trị, bởi kế toán quản trị là khoa học thu nhận xử lý và cung cấp thông tin về hoạt động của doanh nghiệp phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ doanh nghiệp. Thông tin do kế toán quản trị cung cấp là những thông tin chi tiết không chỉ là thông tin quá khứ, thông tin hiện thực, mà còn bao gồm cả thông tin về tương lai. Do đó kế toán quản trị có vai trò quan trọng đối với công tác quản trị nội bộ doanh nghiệp và được thể hiện qua tất cả các khâu, từ lập kế hoạch dự án đến thực hiện kiểm tra, giúp các nhà quản trị ra quyết định quản lý.
Trong các doanh nghiệp sản xuất nói chung, doanh nghiệp xây lắp nói riêng, chi phí sản xuất là một nội dung quan trọng trong toàn bộ công tác kế toán của doanh nghiệp. Tổ chức kế toán quản trị chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm phải tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ, trình độ và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Chính vì vậy kế toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp xây lắp cũng đang gặp phải những khó khăn chung của toàn ngành kế toán về chế độ kế toán cũng như hệ thống tài khoản._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KT1301.doc