Lời mở đầu
Đại hội đảng VIII đã xác định "xây dựng Việt Nam thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lưc lượng sản xuất "
Đó là nhiệm vụ đất nước ta đề ra, và hiện tại chúng ta đã và đang thực hiện, đất nước ta đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào nhưng bên cạnh đó cũng có rất nhiều những vấn đề đặt ra và đòi hỏi chúng ta phải giải quyết. Trong đó, để đạt được nhiệm vụ trên thì đò
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i hỏi chúng ta phải có cơ cấu kinh tế hợp lý muốn vậy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng phát triển kinh tế, vừa là kết quả của quá trình phát triển kinh tế xã hội trong một giai đoạn nhất định vừa là yếu tố cực kỳ quan trọng thúc đầy phát triển đưa quốc gia tiến lên một trình độ mới.
Đóng góp vào quá trình chuyển dịch ấy phải kể đến vai trò vô cùng quan trọng của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cơ cấu ngành kinh tế đạt được hiệu quả trong chuyển dịch sẽ thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Muốn vậy chúng ta phải có một định hướng, chủ trương và đặc biệt phải có một kế hoạch thật chính xác cho quốc gia để chuyển dịch trong giai đoạn tiếp theo.
Em đã chọn đề án môn học với đề tài "kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2006 - 2010 ".
Nội dung đề án gồm:
Phần I Lời mở đầu
Phần II Nội dung
Chương I: Sự cần thiết phải thực hiện kế hoạch 5 năm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Chương II: Tình hình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam thời kỳ 2001 - 2005.
Chương III: Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2006 -2010.
Em xin chân thành cảm ơn GS. TS. Vũ Thị Ngọc Phùng đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án này. Rất mong cô góp ý cho em.
Phần II: Nội dung
Chương I: Sự cần thiết phải thực hiện kế hoạch 5 năm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
I. Vai trò của kế hoạch 5 năm trong hệ thống kế hoạch hoá Việt Nam
1. Hệ thống kế hoạch hoá
1.1. Chiến lược phát triển
Chiến lược phát triển là hệ thống phân tích, đánh giá và lựa chọn về quan điểm, mục tiêu tổng quát định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản trong đó bao gồm các chính sách về cơ cấu, cơ chế vận hành hệ thống kinh tế xã hội nhằm thực hiện mục tiêu đặt ra trong khoảng thời gian dài.
Xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát triển là một yêu cầu bức thiết đặt ra có ý nghĩa rất quan trọng với một quốc gia trong nền kinh tế thị trường.
Xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát triển sẽ giúp các nhà lãnh đạo phải xem xét và xác định đất nước sẽ đi theo hướng nào và khi nào thì đạt tới một điểm cụ thể nhất định.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở, môi trường và quốc gia gặp phải luôn biến đổi nhanh chóng những biến đổi này phải có những chiến lược lâu dài giúp cho nhà quản lý nhắm vào cơ hội trong tương lai, tận dụng các cơ hội trong tương lai và giảm bớt nguy cơ liên quan đến điều kiện môi trường.
Xây dựng và quản lý bằng chiến lực phát triển giúp nhà lãnh đạo và quản lý đưa ra những quyết định tác nghiệp phù hợp.
1.2. Quy hoạch phát triển
Quy hoạch phát triển là sự thể hiện tầm nhìn, sự bố chí chiến lược về thời gian và không gian lãnh thổ, xây dựng khung vĩ mô về tổ chức không gian để chủ động hướng tới mục tiêu đạt hiệu quả cao, phát triển bền vững.
Quy hoạch phát triển trước hết là sự thể hiện của chiến lược trong thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Quy hoạch cụ thể hoá chiến lược cả về mục tiêu và giải pháp. Nếu không có quy hoạch sẽ mù quáng lộn sộn, đổ vỡ trong phát triển, quy hoạch để định hướng dẫn dắt, hiệu chỉnh trong đó có cả điều chỉnh thị trường.
Mặt khác quy hoạch còn có chức năng là cầu nối giữa chiến lược, kế hoạch và quản lý thực hiện chiến lược cung cấp căn cứ khoa học cho các cấp để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch chương trình dự án đầu tư, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh , bền vững và có hiệu quả.
1.3. Kế hoạch phát triển
Kế hoạch là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Nó là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển theo thời kỳ bằng các hệ thống chỉ tiêu và chỉ tiêu biện pháp định hướng phát triển và hệ thống các chính sách, cơ cấu áp dụng trong thời kỳ kế hoạch .
Trên phương diện vĩ mô hoạt động kế hoạch hoá phải hướng tới các mục tiêu luôn được tính tới: ổn định giá, đảm bảo công ăn việc làm tăng trưởng và cân đối thanh toán quốc tế. Các mục tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau, sự chênh lệch hay quá nhấn mạnh vào mục tiêu này sẽ ảnh hưởng xấu đến việc đạt được mục tiêu khác và cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến cân bằng tổng thể kinh tế.
Chức năng thể hiện bản chất của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường đó là chức năng dịnh hướng phát triển kinh tế xã hội. Kế hoạch đưa ra hệ thống mục tiêu phát triển vĩ mô trong nền kinh tế xã hội, xây dựng các dự án, các chương trình, tìm các giải pháp và các phương án thực hiện, dự báo khả năng, hướng phát triển, xác định các cân đối lớn… nhằm thực hiện chức năng dẫn dắt định hướng phát triển, xử lý kịp thời các mức cân đối xuất hiện trong nền kinh tế thị trường.
1.4. Chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội.
Nếu như trong nền kinh tế tập trung hệ thống kế hoạch thường được thể hiện cụ thể bằng các chỉ tiêu pháp lệnh thì trong nền kinh tế thị trường thực hiện các chương trình quốc gia giải quyết các vấn đề búc xúc về kinh tế xã hội, là một phương pháp kế hoạch hoá được áp dụng nhiều nước trên thế giới. ở Việt Nam cùng với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế phương pháp kế hoạch hoá quản lý theo các chương trình quốc gia cũng được áp dụng rộng rã từ năm 1992.
Kế hoạch hoá và quản lý theo các chương trình phát triển là việc đưa ra các chương trình mục tiêu xử lý những vấn đề nổi cộm của kinh tế xã hội của đất nước. Đây là một phương pháp quản lý vừa đặt biệt vừa mang tính nghệ thuật cao.
Chức năng chủ yếu của chương trình quốc gia là:
Cụ thể hoá kế hoạch đưa nhiệm vụ kế hoạch vào thực tế cuộc sống, có thể gọi đây là một phương pháp tiến hành của kế hoạch.
Xử lý các vấn đề gay cấn nhất về kinh tế xã hội của một quốc gia. Các vấn đề cần phải xây dựng và quản lý bằng chương trình quốc gia là các vấn đề búc xúc các khâu đột phá, các mắt xích quan trọng của nền kinh tế.
Các chương trình dự án phát triển được xem như là cơ sở để thực hiện phân bổ nguồn lực vốn đầu tư, ngân sách … thay cho hình thực phân bổ theo đối tượng như trước.
2. Kế hoạch chung hạn (kế hoạch 5 năm)
2.1. Vị trí trung tâm của kế hoạch 5 năm.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: "xây dựng kế hoạch 5 trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống kế hoạch hoá phát triển ". Thời gian 5 năm là thời gian trùng lặp với nhiệm kỳ làm việc của cơ quan chính phủ, là thời gian mà theo đó lợi tức đầu tư bắt đầu có sau một năm hoặc một vài năm. Những kế hoạch trong phạm vi 5 năm thường chính xác hơn, dễ thực hiện hơn những kế hoạch có thời gian dài hơn.
Vì vậy kế hoạch 5 năm giữ một vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống kế hoạch hoá Việt Nam. Nó đảm bảo cho những mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước không bị chệch hướng, đảm bảo đi sát thực tế phát triển nhanh, mạnh và bền vững phát huy được nguồn lực.
2.2. Nội dung của kế hoạch 5 năm.
Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các chiến lược và quy hoạch phát triển trong lội trình phát triển dài hạn của đất nước. Nó xác định các mục tiêu, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ 5 năm và xác định các cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương trình phát triển của khu vực kinh tế nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực tư nhân. Nội dung chủ yếu của việc lập kế hoạch 5 năm là:
Xác định nhiệm vụ tổng quát của các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong giai đoạn 5 năm như: mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, huy động tiết kiệm, các chỉ tiêu về phúc lợi xã hội.
Xác định các chương trình và lĩnh vực phát triển. Các vấn đề đựơc đưa vào lĩnh vực phát triển có sự lựa chọn. Nó thực sự phải là các vấn đề nổi cộm, trọng yếu cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Các chương trình phát triển chính là cơ sở để hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu phát triển của kỳ kế hoạch 5 năm.
2.3. Phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm
Phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm được áp dụng ở Việt Nam các nước đang phát triển là xây dựng kế hoạch 5 năm theo thời gian cố định, ví dụ kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 … Các chỉ tiêu kế hoạch được tính cho các thời kỳ 5 năm bình quân năm hoặc con số cuối năm. Đây là Phương pháp truyền thống dễ xây dựng quản lý và dễ đánh giá.
Nhưng hiện nay, các nước phát triển có công tác kế hoạch mạnh và chính xác như: Pháp, Đức, Nhật đã áp dụng thành công Phương pháp áp dụng 5 năm theo hình thái "cuốn chiếu". Kế hoạch 5 năm sẽ xác định mục tiêu cụ tổng thể bao gồm: kế hoạch chính sách, kế hoạch thực hiện dự tính cho năm kế thứ 2 cả dự báo kế hoạch cho các năm tiếp theo. Mức độ chi tiết cụ thể và chính xác của nội dung kế hoạch của những năm sau phụ thuộc vào số lượng và độ tin cậy của thông tin có được. Kế hoạch 5 năm sẽ được xem xét vào thời gian cuối mỗi năm. Khi cơ quan kế hoạch quốc gia hoàn tất năm đầu kế hoạch, họ bổ xung những dự trù, những mục tiêu, những dự án cho năm tiếp theo. Ví dụ kế hoạch 2001 - 2005 được xem xét vào cuối năm 2001 và đề kế hoạch mới cho thời kỳ 2002 - 2006. Trên thực tế kế hoạch đổi mới vào thời gian cuối mỗi năm nhưng số năm vẫn dữ nguyên.
Kế hoạch 5 năm xây dựng theo phương pháp "cuốn chiếu" sẽ khắc phục được tính nhất thời tuỳ tiện và thậm chí trái ngược nhau trong các mục tiêu cũng như trong các chính sách kinh tế. Phương pháp này đã đưa ra trong nhiều đề án đổi mới kế hoạch ơ Việt Nam.
II. Sự cần thiết phải thực 5 năm và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
1.1. Cơ cấu ngành kinh tế.
- Khái niệm: Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế dự báo bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một khoảng thời gian và không gian nhất định, trong điều kiện xã hội cụ thể hướng vào thực hiện các mục tiêu đã định.
- Phân loại:
Cơ cấu kinh tế thường bao gồm:
Cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu thành phần kinh tế.
Cơ cấu vùng lãnh thổ.
Cơ cấu ngành kinh tế là tổng hợp các ngành hợp thành các tương quan tỉ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành kinh tế phản ánh phần nào trình độ phát triển của lược lượng sản xuất và phân công lao động xã hội của quốc gia.
Cơ cấu kinh tế ngành xã hội được hình thành bởi việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Trong cơ cấu lãnh thổ có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Tuỳ theo tiềm năng phát triển kinh tế, gắn liền với sự hình thành phân bố dân cư trên lãnh thổ để phát triển tổng hợp hay ưu tiên một vài ngành kinh tế nào đó. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ, phải đảm bảo sự hiệp thành và phát triển có hiệu quả của các ngành kinh tế trên lãnh thổ và trên phạm vi cả nước.
Cơ cấu thành phần kinh tế biểu hiện hệ thống tổ chức kinh tế gắn với các chế độ sở hữu khác sau có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng là nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu cùng lãnh thổ trong quá trình phát triển.
Ba loại hình cơ cấu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó cơ cấu ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Trong quá trình phát triển của một quốc gia cơ cấu kinh tế luôn thay đổi. Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường gọi là chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự thay đổi về tỉ trọng của các ngành trong GDP hay là sự phát triển không đều giữa các ngành. Ngành có tốc độ phát triển cao hơn tốc độ phát triển chung của nền kinh tế thì sẽ tăng tỉ trọng và ngược lại ngành có tốc độ thấp hơn thì sẽ giảm tỉ trọng.
Cơ cấu ngành kinh tế lại có thể xem xét thấy trên nhiều góc độ. Với việc xem xét các yếu tố đầu vào là cơ cấu lao động, cơ cấu kỹ thuật. Thông thường cơ cấu đầu ra tính theo giá trị sản xuất được sự dụng để phản ánh cơ cấu ngành. Sự chuyển dịch cơ cấu này mang tính quy luật, đó là khi thu nhập đầu người tăng lên thì tỉ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm sẽ giảm xuống còn tỉ trọng của công nghiệp và dịch vụ sẽ tănng lên. Khi đạt đến trình độ nhất định tỉ trọng của dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn tỉ trọng của công nghiệp.
Thực tế phát triển của đất nước đã chỉ ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỉ lệ chỉ tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tốc độ tăng thu nhập còn chi tiêu cho hãng tiêu dùng cao cấp sẽ có tốc độ tăng nhanh hơn.
2. Nhiệm vụ
Mặc dù xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là mang tính quy luật, nhưng trong thực tế là không có một mô hình chuyển dịch chung cho tất cả các nước.Trong công tác kế hoạch những vấn đề thường phải đặt ra như cần ưu tiền cho nông nghiệp đến mưc độ nào so với công nghiệp trong thời kỳ đầu phát triển, các mối liên kết kinh tế được phát huy thế nào qua từng thời kỳ. Do đó nhiệm vụ đặt ra cho chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là.
Xác định các điều kiện, yếu tố các quan điểm chi phối sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây là cơ sở để đưa ra các hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nó bao hàm, các vấn đề kinh tế xã hội, khoa học, công nghệ, các mối quan hệ kinh tế quốc tế và các nguồn lực của đất nước.
Xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cụ thể hoá bằng các quan hệ tỉ lệ giữa các ngành sao đảm bảo phù hợp với xu thế biến động chung và phản ánh được đặc điểm của nền kinh tế trong điều kiện cụ thể.
Xác định hướng huy động và sự dụng các yếu tố đầu vào đặc biệt là cơ cấu vốn đầu tư và cơ cấu vốn lao động nhằm đảm bảo được cơ cấu đầu ra theo hướng đã xác định.
Đề xuất các chính sách, biện pháp kinh tế xã hội cần thiết để hướng dẫn hoạt động nền kinh tế sao cho đáp ứng được yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Chương II: Tình hình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam 2001 - 2005
I. Mục tiêu và những yếu tố cơ bản tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành.
1. Mục tiêu của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2001- 2005.
1.1. Mục tiêu chung
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII - VIII, IX của Đảng đã xác định mục tiêu của CNH - HĐH và coi đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Đó không phải chỉ đơn thuần là quá trình tăng tỷ trọng của công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp trong tổng GDP của nền kinh tế mà thực chất là quá trình đổi mới căn bản về cơ cấu sản xuất, tạo nền tảng cho sự phát triển nhanh, bền vững, và hiệu quả theo hướng hội nhập mở cửa của toàn bộ nền kinh tế. Mục tiêu của CNH - HĐH là phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH - HĐH được xem là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong các ngành, các lĩnh vực sản xuất và hoạt động dịch vụ.
Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đến năm 2005 là:
Tỷ trọng khu vực I (Nông - Lâm nghiệp thuỷ sản) 20 - 21%.
Tỷ trọng khu vực II (công nghiệp xây dựng)
Tỷ trọng khu vực III (dịch vụ) 41 - 42%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH - HĐH là chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta nhằm m ục tiêu tổng quát đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần nhân dân, tạo nền tảng đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại đến năm 2020. Với mục tiêu đến năm 2020 là:
Cơ cấu GDP theo 3 khu vực là
Nông nghiệp: từ 16 - 17%
Công nghiệp: 40 - 41%.
Dịch vụ: 42 - 43%.
Để đạt được các mục tiêu đó, quy mô và tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và từng ngành nói riêng nhất thiết phải lớn hơn, nhanh hơn và vững chắc hơn. Vì vậy vai trò của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó vai trò của nhà nước thông qua cơ chế và chính sách kinh tế tài chính có ý nghĩa quyết định. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một quá trình xây dựng và phát triển các tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH bao gồm:
Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nền công nghiệp trong đó có công nghiệp sản xuất tư liệu, công nghiệp, công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng; nền nông nghiệp hàng hoá lớn chất lượng cao, gắn vơéi thị trường trong và ngoài nước, các dịch vụ cơ bản, tiềm lực khoa học công nghệ. Đó là quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ nông nghiệp, sản xuất nhỏ, phân tán, tư duy tự cấp tự phát kỹ thuật lạc hậu sang nền công nghiệp hiện đại quy mô lớn, tập trung và chuyên môn hoá cao, theo quy hoạch gắn với thị trường trong nước và quốc tế.
Với quan điểm phát triển nhanh nhưng phải đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao và bền vững, theo định hướng XHCN. Nên quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói riêng nhất thiết phải có cơ chế chính sách kinh tế tài chính phù hợp. Các chính sách đầu tư thuế, khoa học công nghệ, thị trường, phân phối thu nhập, đào tạo nguồn nhân lực thu hút đầu tư nước ngoài và các nguồn vốn của các thành phần kinh tế, cơ chế quản lý và đặc biệt phải hoàn thiện quy hoạch ngành.
2. Những yếu tố ảnh hưởng cơ bản tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
2.1. Đường lối chính sách của nhà nước
Đường lối chính sách của nhà nước có tác động rất to lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế bởi chính nhờ những chính sách này mà quá trình chuyển dịch mới diễn ra thuận lợi được mà không bị lệch hướng.
Trong quá trình chuyển dịch thị trường bằng những chính sách của nhà nước thì mới có thể khai thác được các yếu tố đầu vào của quá trình chuyển dịch như: vốn, lao động đặc biệt là ivới đầu tư, chính bằng chính sách của nhà nước ta mới thu hút được vốn đầu tư nước ngoài một cách hiệu quả như vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) hoặc các viện trợ chính thức (ODA). Bên cạnh đó là những chính sách thuế, chính sách với những khoa học công nghệ như nghiên cứu tổ chức thực hiện.. Chính sách của nhà nước có tác động to lớn đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
2.2. Cơ cấu vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là tiền đề tiên quyết đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Bởi muốn chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thì đầu vào quan trọng nhất của quá trình chuyển dịch lại là vốn đầu tư phát triển.
Sự chuyển dịch cơ cấu vốn có tác động rất lớn đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:
Trong một thời gian dài, đầu tư chỉ được hiểu là nói về đầu tư xây dựng từ ngân sách, còn lúc này chúng ta đã bao quát cơ cấu vốn đầu tư phát triển từ mọi nguồn đầu tư như đầu tư từ ngân sách, tín dụng đầu tư, đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, đầu tư của các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước, của khu vực dân cư nói chung.
Trong khi nhấn mạnh vai trò bậc nhất quan trọng của tích luỹ nội bộ nền kinh tế chúng ta coi vốn trong nước là quyết định vốn bên ngoài là quan trọng, nhưng tới đại hội thứ IX của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ phải kết hợp, hai loại nguồn lực này trong một thể thống nhất để đầu tư phát triển.
Vậy cần phải nhận thức rõ ràng, đúng đắn việc sử dụng và huy động vốn thì chúng ta mới đảm bảo chuyển dịch một cách nhanh, hiệu quả bền vững.
2.3. Công nghệ
Tiến bộ kỹ thuật là yếu tố thúc đẩy hệ số kỹ thuật thay đổi và sự thay đổi này lại là yếu tố quyết định thay đổi cơ cấu ngành kinh tế cho thấy sự tác động của tiến bộ kỹ thuật đến cơ cấu ngành được thể hiện ở chỗ tiến bộ kỹ thuật thúc đẩy ngành mới ra đời. Tiến bộ kỹ thuật làm nâng cao năng suất lao động. Tác động đến cơ cấu lao động và tiến bộ kỹ thuật, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của sản phẩm, thúc đẩy việc hợp lý cơ cấu ngành.
Như vậy ta thấy yếu tố công nghệ tác động rất lớn đến cơ cấu ngành.
2.4. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hoá diễn ra nhanh và mạnh trên khắp thế giới thì Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó bởi chỉ có hội nhập thì ta mới có thể tồn tại và phát triển được, mà nhiệm vụ của chúng ta là phải phát triển để trước hết là không bị tụt hậu. So với quốc tế và sau đó là phát triển để bắt kịp các nước trong khu vực và quốc tế. Vậy nên qúa trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng bị chịu tác động rất lớn của quá trình toàn cầu hoá: vốn đầu tư công nghệ, và thị trường…
II. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam thời kỳ 2001 - 2005.
1. Đánh giá chung:
1.1. Đánh giá tốc độ tăng trưởng
Trong thời kỳ 2001 - 2005 tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam tăng liên tục qua các năm từ 6,89% năm 2001, 7,08%.
Năm 2002%; 7,34% năm 2003 lên tới 7,69% năm 2004. Tính đổi năm 2004 tốc độ tăng trưởng GDP là 7,69% đây là mức tăng cao nhất của Việt Nam kể từ năm 1998 và đứng thứ ba (sau trung quốc và xingapo) trong khu vực Đông á, và Đông Nam á.
Tính đến năm 2004, do chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và có tốc độ tăng giá trị tăng thêm cao nhất, nên khu vực công nghiệp xây dựng vẫn đóng góp lớn nhất vào tốc độ tăng trưởng chung chiếm tới hơn 51% hay 3,9 điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng GDP. Năm 2004 khu vực Nông - Lâm - Thuỷ sản đạt tốc độ tăng giá trị tăng thêm 3,5% và đóng góp 9,6% hay hơn 0,7 điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng GDP. Theo tỷ lệ phần trăm của khu vực công nghiệp xây dựng cũng như khu vực nông lâm thủy sản đều giảm so với năm 2003.
Đặc biệt trong năm 2003 dịch vụ đặc biệt là ngành du lịch thương mại và vận tải đường biển trên tuyến trung đông, bị ảnh hưởng nhiều nhất của chiến tranh Irắc và dịch SARS trong chín tháng đầu năm khu vực dịch vụ chỉ tăng khoảng 6,5% thấp hơn 0,06 điểm % so với mức tăng cường hàng năm 2002. Nhờ kịp thời, kiểm soát được dịch SARS và sơ luận seagamls bước vào quý IV khu vực này đã hồi phục nhanh trở lại và tăng trưởng cả năm đạt 6,6% cũng là mức cao nhất trong năm năm trở lại khu vực dịch vụ có mức đóng góp cao thứ 2 vào nhịp độ tăng GDP. Và kết quả tăng trưởng kinh tế đến năm 2004 của Việt Nam.
Có phần rất đáng kể là nhờ tốc độ tăng trưởng vượt trội của khu vực dịch vụ (7,8% so với mức tăng gần 6,5% năm 2003 hơn 6,5% năm 2002, và 6,1% năm 2001).
Năm 2004 khu vực dịch vụ đã đóng góp tới 39,3% hay hơn 3,0 điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng GDP.
Bảng 1.1. Tăng trưởng GDP và đóng góp vào tăng trưởng GDP theo ngành 2001 - 2004 %.
2001
2002
2003
2004
Tốc độ tăng trưởng (giá năm 1994)
GDP
6,89
7,08
7,34
7,69
Nông - Lâm - Thuỷ sản
2,98
4,17
3,62
3,50
Công nghiệp - xây dựng
10,39
9,48
10,48
10,20
Dịch vụ
6,10
6,54
6,45
7,47
Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo điểm phần trăm
GDP
6,89
7,08
7,34
7,69
Nông - Lâm - Thuỷ Sản
0,69
0,93
0,79
0,74
Công nghiệp - Xây dựng
3,68
3,47
3,92
3,93
Dịch vụ
2,52
2,68
2,63
3,62
Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo tỷ lệ %
GDP
100,00
100,00
100,00
100.00
Nông - Lâm - Thuỷ Sản
10,08
13,20
20,76
9,60
Công nghiệp - Xây dựng
53,38
48,96
53,37
51,67
Dịch vụ
36,54
37,84
35,86
39,33
Nguồn: Tổng cục thống kê
1.2. Đánh giá sự thay đổi tỷ trọng các ngành trong GDP
Đánh giá sự thay đổi và tính hiệu quả của chuyển dịchc ơ cấu ngành kinh tế thường phải xem xét trong trung hạn và dài hạn. Vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được xếmt trong quan hệ với những năm trước, từ đó đặt sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với động thái chung mang tính xu thế. Nói cách khác ở đây ta xem xét những động thái của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ 2001 - 2005 và tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế trong những năm tiếp theo.
Ta so sánh cơ cấu ngành kinh tế năm 2004 và sự đối chứng với năm 2001 được khái quát trong bảng sau:
Bảng 1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế năm 2001 - 2004
Đơn vị: %
2001
2004
GDP
100,00
100,00
Nông Lâm Thuỷ sản
23,2
20,4
Công nghiệp xây dựng
38,6
38,5
Dịch vụ
38,1
41,1
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
Xét trong giai đoạn 2001 - 2004 có thể thấy những mặt sau đây thể hiện tích cực của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Sự phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm và tỷ trọng giá trị công nghiệp, xây dựng và dịch vụ ngày càng tăng lên. Nếu năm 2001 nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 23,2%.
GDP thì năm 2004 tỷ trọng này còn 20,4% trong cùng thời kỳ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đã tăng lên từ 76,8% lên 79,6%.
- Sự nỗ lực cao của các ngành và các chủ thể kinh tế trong việc vượt qua những trở ngại thách thức mở rộng quy mô sản xuất đáp ứng các yêu cầu thị trường trong và ngoài nước. Điều này thể hiện rất rõ trong sự phát triển nông nghiệp (vượt qua thiên tai và dịch bệnh) và của nhiều ngành công nghiệp (vượt qua thách thức của "cơn báo giá nguyên liệu" và cạnh tranh quốc tế).
Sự chuyển dịch cơ cấu nói tại các ngành kinh tế thể hiện rõ nét hơn động thái chuyển từ yếu tố sẵn có sang sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của thị trường, tính định hướng thị trường của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, biểu hiện ngày càng rõ hơn không chỉ với sản xuất công nghiệp mà còn với nhiều ngành sản xuất nông nghiệp. Sự tăng lên đột biến của một số ngành công nghiệp (chẳng hạn, đồ gỗ đóng tàu…) thể hiện sự năng động trong năm bắt các cơ hội do thị trường mang lại…
Trong động thái chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế diễn ra trong năm 2004, sự tác động trực tiếp của nhà nước với quá trình này đang dần chuyển sang sự tác động qua vai trò định hướng, qua các cơ chế chính sách khuyến khích và hỗ trợ, sự tác động của thị trường đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ngày càng tăng lên…
Nói cách khác việc sử dụng các quan hệ thị trường trong điều tiết sản xuất và phân bổ các nguồn lực đã có chuyển biến nhất định.
Tuy vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng bộc lộ những khuyết đỉêm và có thể có ảnh hưởng tiêu cực trong cả ngắn hạn và dài hạn có thể nêu ra mấy mặt cơ bản sau:
- Tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế, về cơ bản, chưa có sự chuyển biến đáng kể, sự đổi mới của các ngành dịch vụ chất lượng cao (tài chính, ngân hàng, viễn thông, hàng không..) chưa tương ứng với yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy giá trị tuyệt đối của ngành dịch vụ, có sự gia tăng (cùng với sự gia tăng của các ngành kinh tế khác) nhưng gia tăng với tốc độ không cao, do đó… tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế có xu hướng giảm.
2000 là 38,7% năm 2001 là 38,6% năm 2002 là 38,5% năm 2003 là 38,2% năm 2004 nhếch lên được 38,5%.
Điều này không thích hợp với xu hướng của thế giới là tỷ trọng dịch vụ có xu hướng tăng nhanh và ngày càng trở thành ngành kinh tế có vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế quốc dân.
- Tính tự phát của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn khá đảm nét, điển hình là trong sản xuất nông nghiệp. Trong điều kiện quyền tự chủ của các hộ nông dân được đề cao họ có quyền chủ động sử dụng ruộng đất được giao vào mục đích kinh doanh, nhưng năng lực thị trường lại hết sức hạn chế nên dễ bị sự điều tiết tự phát của thị trường và do đó gặp rủi ro trong quá trình kinh doanh trên thị trường. Việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt là nuôi tôm rộng rãi ở nhiều vùng, phát triển nuôi bằng cá bể ở đồng bằng sông cửu long.
- Tính kém hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế quốc dân và cơ cấu kinh tế nói chung. Trong công nghiệp, công nghiệp khai thác tàu nguyên (than và dầu khí) công nghiệp gia công cho nước ngoài (giầy dép, dệt may, điện tử…) chuyển tỷ trọng cao trong đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu, phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu. Trong nông nghiệp, chăn nuôi còn chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn trong giá trị sản xuất của ngành. Trong dịch vụ chủ yếu tập trung vào dịch vụ phổ thông (thương mại, du lịch) thiếu vắng hoặc phát triển còn ở trình độ thấp ở những dịch vụ cao cấp và những dịch vụ thiết yếu của kinh tế thị trường (tài chính, bảo hiểm, khoa học và công nghệ, giáo dục.)
2. Đánh giá chất lượng chuyển dịch
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng có những hạn chế bất cập. Nếu lấy cơ cấu ngành kinh tế làm thước đó về trình độ phát triển, thì cơ cấu kinh tế Việt Nam tính đến năm 2003 chỉ tương đương với cơ cấu kinh tế các nước trong khu vực vào những năm 80 trong thế kỷ trước.Theo số liệu thống kê năm 2001, tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp - thuỷ sản ở Malaixia - Thái Lan 10% philipin 15%, Indonexia 16%, Trung Quốc 15%.
Còn ở Hàn Quốc là 4%.
- Tỷ trọng khu vực công nghiêp - xây dựng.
của Malixia đạt 49,6%, Thái Lan 40%
Indonexia là 46,5% Trung Quốc 52,2% Hàn Quốc 41,4%.
- Tỷ trọng khu vực dịch vụ của
Malaxia là 41,9% Thái Lan 49,8%
Philipin: 53,6% Hàn Quốc 54,1%
ấn độ: 48,4%.
Tìm hiểu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước trong khu vực cho thấy họ rất coi trọng phát triển dịch vụ và tìm cách nâng cao tỷ trọng của khu vực này trong GDP. Lý giải tình hình này, các chuyên gia kinh tế cho rằng.
Thứ nhất khu vực dịch vụ thường có năng suất và hiệu quả cao hơn so với khu vực nông lâm thuỷ sản và cũng cao hơn khu vực công nghiệp xây dựng. Chẳng hạn phát triển du lịch vừa không mất phí vận chuyển ra nước ngoài không phải chịu thuế nhập khẩu, không phải nhận nguyên vật liệu. Vừa khai thác được lợi thế điều kiện tự nhiên, lịch sử , vừa tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động. Dịch vụ tài chính tiền tệ, tín dụng là hình thức mang lại nhiều lợi nhuận bởi sức mạnh vốn có của công cụ tiền tệ; xuất khẩu lao động vừa giải quyết được công ăn việc làm, vừa thu được ngoại tệ vừa nâng cao tay nghề, học được tác phong làm việc công nghiệp.
- Thứ hai: Thị trường của sản phẩm dịch vụ còn rất rộng lớn do nhu cầu gần như không có giới hạn như đối với sản phẩm vật chất và tinh thần.
- Thứ ba, khu vực dịch vụ không những ít phụ thuộc vào nguồn nguyên nhiên liệu nhập khẩu phương tiện vận chuyểntỷ giá đồng tiền… mà hoạt động của khu vực này còn ít tác động xấu đối tài nguyên, môi trường sinh thái như các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp.
Còn ở nước ta, nhiều năm gần đây phát triển khu vực dịch vụ hầu như chưa đạt được mục tiêu đề ra. Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra mục tiêu đến năm 2005 tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP phải đạt 41% - 42% và đến năm 2010 phải đạt 42 - 43% so với các nước láng giềng, đây không phải là mục tiêu cao, nếu không nói là thấp nhưng sau khi đạt mức cao nhất (dạt 44,06% vào năm 1995) tỷ trọng khu vực này trong GDP đã liên tục bị giảm sút. Năm 2000 còn 38,74% năm 2001 là 38,63% năm 2002 là 38,46% và năm 2003 chỉ còn 38,22%.
Tốc độ tăng GDP do khu vực dịch vụ tạo ra liên tục bị giả._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28151.doc