Lời nói đầu
Chương I.
Những vấn đề lí luận cơ bản về Xuất khẩu và sự
Cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu nông sản của việt Nam
I. Cơ sở lý luận của xuất khẩu:
Các lý thuyết về Thương mại quốc tế
Lý thuyết của trường phái trọng thương :
Lý thuyết trọng thương là nền tảng cho các tư duy kinh tế từ năm 1500 đến năm 1800. Lý thuyết này cho rằng sự phồn vinh của một quốc gia được đo bằng bằng lượng tài sản mà quốc gia đó cất giữ và thường được tính bằng vàng. Theo lý thuyết này chính phủ nên
45 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động Xuất khẩu nông sản của Công ty Sản xuất dịch vụ & Xuất nhập khẩu Nam Hà Nội (HAPROSIMEX), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu và nếu thành công họ sẽ nhận được giá trị thặng dư mậu dịch được tính theo vàng từ các nước khác.
Việt nam cũng giống như nhiều nước khác sau khi giành được độc lập sau đại chiến Thế giới lần thứ II, đã bắt đàu xây dựng cơ cấu sản xuất và chiến lược thương mại gần giống như ý tưởng của lý thuyết trọng thương trong thời hoàng kim đó là đẩy mạnh xuất khẩu.
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
Không như trường phái trọng thương, AdamSmith cho rằng: “sự giàu có của mỗi quốc gia phụ thuộc vào số hàng hoá và dịch vụ có sẵn hơn là phụ thuộc vào vàng”.
Theo Adam Smith, nếu thương mại không bị hạn chế theo nguyên tắc phân công thì các quốc gia có lợi ích từ thương mại quốc tế - nghĩa là mỗi quốc gia có lợi thế về mặt điều kiện tự nhiên hay do trình độ sản xuất phát triển cao sẽ sản xuất ra những sản phẩm nhất định mà mình có lợi thế với chi phí thấp hơn so với các nước khác. Ông phê phán sự phi lý của lý thuyết trọng thương và chứng minh rằng: mậu dịch sẽ giúp cả hai bên đều gia tăng tài sản. Theo ông, nếu mỗi quốc gia đều chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối, thì họ có thể sản xuất được những sản phẩm có chi phí thấp hơn so với nước khác để xuất khẩu, đồng thời lại nhập khẩu về những hàng hoá mà nước này không sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chi phí sản xuất cao hơn giá nhập khẩu.
Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
Theo lý thuyết này, mỗi quốc gia có nhiều hiệu quả thấp hơn so với các nước khác trong việc sản xuất các loại sản phẩm mà vẫn có thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu vì nó có thể tạo ra lợi ích không nhỏ mà nếu bỏ qua quốc gia đó sẽ mất đi cơ hội để phát triển. Nói cách khác trong điểm bất lợi vẫn có những điểm thuận lợi để khai thác khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu, những quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra các loại hàng hoá sẽ có thể chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá ít bất lợi nhất để trao đổi với các quốc gia khác và nhập về những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó gặp rất nhiều khó khăn và bất lợi. Từ đó tiết kiệm được nguồn lực của mình và thúc đẩy sản xuất trong nước.
Khái niệm về hoạt động xuất khẩu:
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, là việc buôn bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán với nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến hàng hoá sản xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các công nghệ kỹ thuật cao, từ hàng hoá hữu hình cho đến hàng hoá vô hình. Tất cả các hoạt động trao đổi này đều nhằm mục đích đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Việc trao đổi hàng hoá mang lại lợi ích cho các quốc gia, do đó các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Nếu xem xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp thường áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế.
Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các công ty thực hiện xuất khẩu trong đó có thể là:
+ Sử dụng khả năng vượt trội ( hoặc những lợi thế) của công ty.
+ Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất.
+ Nâng cao được lợi nhuận của công ty.
+ Giảm được rủi ro do tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu.
Các hình thức xuất khẩu:
Xuất khẩu trực tiếp
Trong hình thức này, các nhà xuất khẩu trực tiếp giao dịch và ký kết hợp đồng bán hàng cho các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài được nhà nước và Pháp luật cho phép. Với hình thức này không có sự tham gia của bất kỳ một tổ chức trung gian nào
ưu điểm của xuất khẩu trực tiếp
Nhược điểm của hình thức này
Xuất khẩu uỷ thác
Trong hình thức này, đơn vị xuất khẩu (bên nhận ủy thác) nhận xuất khẩu một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và nhận được một khoản thù lao theo thỏa thuận với đơn vị có hàng xuất khẩu (bên ủy thác). Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp một doanh nghiệp có hàng hoá muốn xuất khẩu, nhưng vì doanh ngiệp không được phép tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu hoặc không có điều kiện để tham gia. Theo hình thức này, quan hệ giữa người bán và người mua được thông qua người thứ ba gọi là trung gian (người trung gian phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới).
Ưu điểm của hình thức này là:
Nhược điểm của hình thức này:
Buôn bán đối lưu.
Đây là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người mua, lượng hàng hoá mang trao đổi có giá trị tương đương. Mục đích của hình thức này không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị bằng giá trị lô hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này giúp doanh nghiệp tránh được sự biến động của tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối đồng thời có lợi khi các bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình.
Có nhiều hình thức buôn bán đối lưu: hàng đổi hàng (phổ biến), trao đổi bù trừ, chuyển giao nghĩa vụ...
Gia công xuất khẩu (gia công quốc tế)
Là hình thức xuất khẩu, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế tạo ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được một khoản phí như thỏa thuận của cả hai bên. Trong hình thức này bên nhận gia công thường là các quốc gia đang phát triển, có lực lượng lao động dồi dào, có tài nguyên thiên nhiên phong phú. Họ sẽ có lợi vì tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, có điều kiện đổi mới và cải tiến máy móc để nâng cao năng suất sản xuất. Còn đối với nước đặt gia công họ khai thác được giá nhân công rẻ và nguyên phụ liệu khác từ nước nhận gia công.
Xuất khẩu theo nghị định thư:
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu mà nhà nước giao cho để tiến hành xuất khẩu một hoặc một số loại hàng hóa nhất định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã được ký giữa hai chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phi trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thực hiện hình thức này thường không có rủi ro trong thanh thư.
Xuất khẩu theo hình thức này có nhiều ưu đãi như: khả năng thanh toán nhanh, rủi ro thấp...
3.6. Xuất khẩu tại chỗ:
Là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không cần vượt qua biên giới quốc gia nhưng khách hàng vẫn có thể mua được. ở hình thức này doanh nghiệp không cần phải đích thân ra nước ngoài đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua lại tìm đến với doanh nghiệp do vậy doanh nghiệp tránh được những thủ tục rắc rối của hải quan, không phải thuê phương tiện vận chuyển, không phải mua bảo hiểm hàng hóa. Hình thức này thường được áp dụng đối với quốc gia có thế mạnh về du lịch và có nhiều tổ chức nước ngoài đóng tại quốc gia đó.
Tạm nhập tái xuất :
Với hình thức này, một nước sẽ xuất khẩu những hàng hóa đã nhập từ một nước khác sang nước thứ ba. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp có thể thu được một khoản lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng, khả năng thu hồi vốn cao. Hình thức này được áp dụng khi có sự khó khăn trong quan hệ quốc tế giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu.
Nội dung chính của hoạt động xuất khẩu hàng hoá: bao gồm các bước
4.1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường:
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền sản xuất với lưu thông hàng hóa. ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có thị trường.
Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh thương mại quốc tế là một loạt các thủ tục, kỹ thuật được đưa ra để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ những thông tin cần thiết về thị trường, từ đó có thể đưa ra những quyết định chính xác. Chính vì vậy, nghiên cứu thị trường đóng một vai trò hết sức quan trọng giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Không phải chỉ đối với kinh doanh thương mại quốc tế mà bất cứ trong lĩnh vực nào cũng đòi hỏi các nhà kinh doanh phải có đầy đủ các thông tin, hiểu biết về thị trường mà mình đang hướng tới. Mỗi thị trường hàng hoá cụ thể lại có những quy luật riêng, quy luật này thể hiện qua sự biến đổi nhu cầu cung cấp và giá cả hàng hoá trên thị trường
Hình 1 : Các bước thực hiện xuất khẩu hàng hoá
Bước 1
Nghiên cứu thị trường
Bước 2
Lập kế hoạch , chiến lược xuất khẩu
Bước 3
Đàm phán và ký kết
hợp đồng xuất khẩu
Bước 4
Thực hiện hợp đồng
xuất khẩu
Việc nghiên cứu thị trường sẽ giúp cho các nhà kinh doanh hiểu được các quy luật vận động trên thị trường đó. Điều này trong kinh doanh quốc tế càng đòi hỏi phải nghiên cứu công phu và tỷ mỉ hơn, vì giá cả và khối lượng hàng thường lớn hơn so với thương mại trong nước, hơn nữa là do các nhà kinh doanh trong nước phải tiếp xúc với môi trường kinh doanh mới có yếu tố quốc tế... Chính vì vậy mà việc nghiên cứu thị trường phải có kế hoạch nhất định bao gồm: nhận biết về sản phẩm xuất khẩu, lựa chọn thị trường và tìm hiểu đối tác.
Khi nghiên cứu thị trường nước ngoài, doanh nghiệp phải xác định được các vấn đề sau:
a- Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu (bán gì?)
Đây là một trong những nội dung cơ bản và cần thiết đầu tiên, các doanh nghiệp có ý định gia nhập vào thị trường thương mại quốc tế thì trước tiên phải xác định được mặt hàng mà mình sẽ đưa ra. Mục đích của việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là để lựa chọn được những mặt hàng kinh doanh phù hợp năng lực và khả năng của doanh nghiệp đồng thời đáp ứng được nhu cầu thị trường, từ đó mới mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh. Mặt hàng được lựa chọn ngoài yêu cầu phải đạt tiêu chuẩn phù hợp với thị trường quốc tế còn phải phù hợp với khả năng cung ứng của doanh nghiệp.. Khi lựa chọn mặt hàng xuất khẩu các nhà kinh doanh phải chú ý nghiên cứu những vấn đề sau:
Mặt hàng thị trường đang cần là gì ?
Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?
Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống?
b, Lựa chọn thị trường xuất khẩu (bán ở đâu)
Việc lựa chọn thị trường để xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với việc nghiên cứu thị trường trong nước, bởi ngoài việc nghiên cứu về quy luật vận động của thị trường... còn phải nghiên cứu một số vấn đề khác như: điều kiện tiền tệ, tín dụng điều kiện vận tải (của thị trường nước ngoài mà mình hướng tới)...Việc lựa chọn thị trường phải chú ý một số vấn đề sau:
Thị trường và dung lượng thị trường
Vấn đề biến động giá cả trên thị trường.
c- Lựa chọn đối tác kinh doanh (bán cho ai?)
Trong hoạt động xuất khẩu, để có thể thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách thuận lợi, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro, doanh nghiệp phải thông qua một hay nhiều Công ty đang hoạt động trên thị trường đó, họ có kinh nghiệm thị trường mình cần hướng tới cũng như địa vị pháp lý để đảm bảo cho hai bên hoạt động một cách thuận lợi. Nhưng khi lựa chọn đối tác cần phải chú ý tới:
- Quan điểm kinh doanh của đối tác
- Lĩnh vực kinh doanh của đối tác
- Khả năng về tài chính.
- Uy tín và mối quan hệ của đối tác kinh doanh.
- Những người đại diện cho Công ty kinh doanh và phạm vi trách nhiệm của họ đối với Công ty nếu người giao dịch trực tiếp là đại diện của Công ty.
4.2. Xây dựng kế hoạch, chiến lược xuất khẩu:
Dựa vào kết quả thu được từ việc nghiên cứu thị trường, các đơn vị kinh doanh xuất khẩu cần xây dựng một kế hoạch kinh doanh cụ thể. Đây là bước chuẩn bị trên giấy tờ, dự đoán về diễn biến của quá trình xuất khẩu hàng hoá cũng như mục tiêu sẽ đạt được khi thực hiện quá trình này. Kế hoạch kinh doanh là phương án hoạt động cụ thể của doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu xác định trong kinh doanh.
Nội dung của công việc xây dựng kế hoạch kinh doanh gồm:
Một kế hoạch kinh doanh có khoa học dựa trên cơ sở phân tích chuẩn xác và đúng dắn về thị trường, bạn hàng cũng như về nội lực của Công ty mình sẽ góp phần vào thành công trong kinh doanh.
4.3. Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu:
Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất khẩu, tìm hiểu đối tác và đàm phán để thoả thuận mọi điều kiện có liên quan thì doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và đối tác sẽ thực hiện bước tiếp theo là ký kết hợp đồng. Khi đã ký kết hợp đồng có nghĩa giữa doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và đối tác cùng rằng buộc với nhau thông qua các điều khoản quy định trong hợp đồng
Hợp đồng xuất khẩu hàng hoá bao gồm các nội dung.
- Số hợp đồng.
- Ngày, tháng, năm và nơi ký kết hợp đồng.
- Các điều khoản của hợp đồng
Khi ký kết hợp đồng cần lưu ý các điểm sau:
4.4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu:
Sau khi đã ký kết hợp đồng, người xuất khẩu sẽ tổ chức thực hiện hợp đồng mình đã ký kết. Căn cứ vào nội dung hợp đồng, doanh nghiệp tiến hành sắp xếp các công việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng
Hình 2 : Các bước tiến hành việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Chuẩn bị hàng hoá
Xin giấy phép xuất khẩu
Thuê tầu
Kiểm nghiệm hàng hoá
Làm thủ tục hải quan
Giải quyết khiếu nại
Hoàn thành bộ CTTT
Mua bảo hiểm
Giao hàng lên tầu
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến thúc đẩy xuất khẩu:
1. Thúc đẩy xuất khẩu là gì :
2. Nội dung của thúc đẩy xuất khẩu của Doanh nghiệp
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thúc đẩy xuất khẩu của Doanh nghiệp
+ Thuế quan
+ Hạn ngạch
+Tiêu chuẩn kỹ thuật
+Các yếu tố chính trị, luật pháp
+Các yếu tố khoa học công nghệ
+Khả năng tài chính, nguồn nhân lực của Doanh nghiệp
+ Uy tín của Doanh nghiệp
III. Sự cần thiết phải thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của việt Nam
Đặc điểm của mặt hàng nông sản và thị trường nông sản trên thế giới
Đặc điểm mặt hàng nông sản:
- Các mặt hàng nông sản như: Gạo, lạc, cà phê, quế, cao su... là những hàng hoá thiết yếu đối với đời sống và sản xuất của mỗi quốc gia. Cho nên đa số các nước trên thế giới đều trực tiếp hoạch định các chính sách can thiệp vào sản xuất, xuất khẩu lương thực và nước nào cũng chú trọng chính sách dự trữ quốc gia và bảo hộ nông nghiệp, coi an ninh lương thực là vấn đề cấp bách.
- Mặt hàng nông sản là một trong những mặt hàng có tính chiến lược, do vậy đại bộ phận buôn bán hàng nông sản quốc tế được thực hiện thông qua hiệp định giữa các Nhà nước mang tính dài hạn.
-Quá trình sản xuất, thu hoạch, buôn bán hàng nông sản mang tính thời vụ.
-Hàng nông sản chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố khí hậu, thời tiết.
-Chất lượng hàng nông sản sẽ tác động trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng. Chính vì vậy nó luôn là yếu tố đầu tiên được người tiêu dùng quan tâm.
Đối với hàng nông sản, khâu bảo quản và chế biến rất quan trọng vì: Giá cả hàng nông sản xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào chất lượng. Chất lượng hàng nông sản không những phụ thuộc vào khâu sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu bảo quản và chế biến. Chính vì vậy, để nâng cao giá hàng nông sản xuất khẩu thì khâu bảo quản và chế biến phải được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm.
Chủng loại hàng nông sản rất phong phú và đa dạng nên chất lượng của cùng một mặt hàng cũng rất phong phú và đa dạng. Thói quen tiêu dùng và sự đánh giá về cùng một mặt hàng trên thị trường thế giới rất khác nhau.
Như vậy, có thể thấy với một loại nông sản nó có thể được ưa thích ở thị trường này song lại không được chấp nhận ở thị trường khác, giá có thể cao ở thị trường này song lại rất thấp ở thị trường khác. Vì vậy, trong kinh doanh hàng nông sản đối với một doanh nghiệp vấn đề xác định thị trường mục tiêu, thị trường tiềm năng đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với doanh nghiệp.
Thị trường nông sản thế giới :
Trong thương mại quốc tế nói chung và trong xuất khẩu hàng nông sản nói riêng việc nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế là rất quan trọng. Nó giúp cho các doanh nghiệp làm công tác xuất nhập khẩu nói chung và Công ty Haprosimex nói riêng những thông tin quan trọng về nhu cầu hàng nông sản và từ đó Công ty sẽ đưa ra quyết định đúng đắn, mang lại hiệu quả tốt cho hoạt động kinh doanh của mình.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quốc gia xuất khẩu hàng nông sản nhưng các nước đang phát triển là những nước xuất khẩu hàng nông sản chủ yếu. Tuy nhiên hàng nông sản được xuất khẩu từ các nước này chủ yếu là các mặt hàng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế nên giá trị xuất khẩu chưa cao.
Nước nhập khẩu hàng nông sản có thể là các nước chậm phát triển, đang phát triển hoặc phát triển. Tuy nhiên nhu cầu của mỗi nước đối với hàng nông sản rất khác nhau.
Thị trường nhập khẩu hàng nông sản đã và đang bị thu hẹp lại. Hiện tại các nước phát triển có nhu cầu nhập khẩu hàng nông sản lớn nhất thế giới. Tuy nhiên các nước này đã và đang thực hiện một cách phổ biến và sâu rộng chế độ trợ cấp cho sản xuất nông nghiệp ở mức độ cao, bảo hộ thị trường nông sản nội địa dưới nhiều hình thức. Cơ chế này không những làm tăng khả năng xuất khẩu hàng nông sản của các nước này mà còn hạn chế nhập khẩu nông sản của các nước này. Đây thực tế là một bất lợi lớn đối với sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu khẩu nông sản của các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam
Tình hình trên làm cho thị trường nông sản bị thu hẹp trong khi nguồn cung cấp nông sản khá dồi dào ở các nước Châu á, Mỹ La Tinh, Tây Âu, Bắc Mỹ đã đưa kinh doanh nông sản trên thị trường thế giới vào tình trạnh cạnh tranh quyết liệt khiến cho giá nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới giảm, gây bất lợi cho những người sản xuất nông nghiệp và cho những nước xuất khẩu nông sản.
Theo như đã phân tích ở trên, thị trường nông sản thế giới đang bị thu hẹp, nguồn cung cấp hàng nông sản trên thị trường thế giới ngày càng dồi dào, cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu nông sản nguyên liệu diễn ra ngày càng gay gắt buộc các nước đang phát triển phải xuất khẩu nông sản nguyên liệu cho các nước phát triển với giá thấp (các nước đang phát triển sẽ chế biến lại để xuất khẩu). Mặt khác hàng nông sản chế biến sâu của các nước đang phát triển lại phải cạnh tranh với hàng nông sản xuất khẩu cùng loại của các nước phát triển ở thế yếu hơn do hạn chế về công nghệ chế biến và khả năng đầu tư cho công nghệ chế biến nông sản xuất khẩu.
Ngày nay thị trường quốc tế ngày càng được mở rộng, nhu cầu về hàng nông sản càng lớn nhưng bên cạnh đó tình hình cạnh tranh cũng vô cùng khắc nghiệt. Doanh nghiệp phải thực sự bước vào cuộc cạnh tranh gay gắt về nông phẩm, uy tín, điều kiện thanh toán... với các doanh nghiệp xuẩt khẩu trong và ngoài nước.
Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt Nam
2.1. Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
Tiềm năng sản xuất hàng nông sản của Việt Nam
Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp nên đối với sản xuất hàng nông sản, Việt Nam có tiềm năng khá lớn. Nếu như được đầu tư một cách đồng bộ, hợp lý, lâu dài sẽ hứa hẹn trở thành một trung tâm sản xuất nông sản lớn, tiềm năng này thể hiện ở:
2.1.1.1. Về đất đai:
2.1.1.2. Về khí hậu
2.1.1.3. Về nhân lực:
2.1.1.4. Các chính sách của Nhà nước:
Với tiềm năng to lớn của mình, triển vọng về sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam trong những năm tới là rất sáng sủa. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khai thác được tiềm năng đó một cách tốt nhất để giải quyết vững chắc và ổn định lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội.
2.1.2. Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
Rất nhiều năm nay, mặc dù điều kiện thời tiết thiên nhiên không mấy thuận lợi, do chủ động ứng phó bằng cách chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi nông nghiệp Việt Nam được mùa liên tục toàn diện trên cả 3 miền, chẳng những thoả mãn ở mức tối thiểu nhu cầu của nhân dân mà còn dư thừa một khối lượng nông sản dưới dạng hàng hoá. Trong khi nhu cầu thị trường nội địa không lớn, sức mua và năng lực tài chính thanh toán của đại bộ phận dân cư hạn chế, nhu cầu về các chủng loại hàng hoá cao cấp chưa cao thì xuất khẩu nông sản hàng hoá là lối thoát duy nhất hợp lý, hoàn toàn phù hợp với xu thế quốc tế hoá, khu vực hoá nền kinh tế. Tăng cường tiềm lực xuất khẩu nông sản hàng hoá là phương hướng ưu tiên được Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quan tâm, cụ thể hoá bằng chính sách hỗ trợ tài chính, thuế, đầu tư xuất nhập khẩu...
Bảng 1: Sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu
của Việt Nam giai đoạn 1998 - 2002
ĐV:1000tấn,%
STT
Mặt hàng
1998
Tốc độ tăng
1999
Tốc độ tăng
2000
Tốc độ tăng
2001
Tốc độ tăng
2002
Tốc độ tăng
1
Gạo
3.730
4,33
4.508
20,86
3.500
-22,36
3.550
1,43
3.242
2
Cà phê
332
-15,31
482
45,18
733
52,07
910
24,15
718,6
-21,03
3
Cao su
191
-1,65
265
38,74
273
3,02
300
9,89
447,6
49,20
4
Lạc nhân
87
1,16
56
-35,63
76
35,71
80
5,26
5
Chè
33
0,30
36
9,09
56
55,55
58
3,57
6
Hạt điều
25,7
-22,82
18,4
-28,40
34
84,78
40,9
20,29
62,2
52,08
7
Hạt tiêu
15,1
-38,87
34,8
130,46
37
6,32
56,1
51,62
76,6
48,39
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam
Hiện nay các mặt hàng như: gạo cà phê, cao su đã vươn lên trở thành các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. So với tốc độ phát triển bình quân trên thế giới thì ba mặt hàng trên của Việt Nam có tốc độ phát triển cao và có nhiều mặt hàng đã vươn lên đứng vị trí cao trong số các nước tham gia xuất khẩu trên thị trường thế giới. Chẳng hạn: từ năm 1998, Việt Nam đã vươn lên vượt Mỹ về xuất khẩu gạo, chỉ đứng sau Thái Lan. Cà Phê Việt Nam hiện nay đang vượt Indonexia về số lượng xuất khẩu, vươn lên đứng vị trí số 3 trong số các nước xuất khẩu, chỉ đứng sau Brasin và Colombia. Cao su cũng đứng vào danh sách 10 nước xuất khẩu hàng đầu của thế giới.
Bảng :2 Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam
Đơn vị tính: triệu USD
STT
Mặt hàng
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
KH năm 2003
1
Gạo
588
725
725
2
Cà phê
200
323
420
3
Cao su
350
269
350
4
Hạt tiêu
107
120
5
Hạt điều
117
209
240
6
Rau quả
7
Lạc nhân
79
202
230
8
Chè
38
Nguồn: Tạp chí Thương Mại
2.2. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam
Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong những qua đạt kết quả cao. Bước đầu nước ta đã hình thành được các nhóm hàng nông sản xuất khẩu có giá trị lớn, một số mặt hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD như gạo, cà phê, hạt điều, lạc nhân...một điều đáng mừng là các mặt hàng xuất khẩu không những tăng nhanh về số lượng đa dạng mà về chủng loại danh mục ngày càng được bổ sung.
Tuy nhiên nhìn trên nhiều mặt, xuất khẩu nông sản còn xa mới xứng với tiềm năng hiện có của nền nông nghiệp nước nhà, tuy sản lượng xuất khẩu ngày càng tăng nhưng kim nghạc còn nhỏ, hiệu quả kinh tế còn thấp, còn nhiều thách thức trong việc tìm kiếm “đầu ra” cho nhiều loại nông sản hàng hoá. Tính bình quân cho các nhân khẩu làm nông nghiệp xuất khẩu mới đạt khoảng 4,5 USD. ở đây, tồn tại nhiều nguyên nhân khác nhau liên quan đến nhiều khâu:
- Trong sản xuất: sản xuất nông nghiệp nói chung, cho xuất khẩu nói riêng còn nhiều sự chia cắt, tách biệt khâu sản xuất với khâu chế biến và tiêu thụ, các vùng nguyên liệu phân tán, xé nhỏ, phương thức canh tác thủ công (từ gieo trồng, chăn bón đến thu hoạch, bảo quản) ít có cơ hội áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật làm cho năng xuất thấp, tiêu hao nhiều lao động, giá thanh cao. Hạn chế lớn nhất của hàng hoá nông nghiệp xuất khẩu chủ yếu là dưới dạng thô hoặc qua sơ chế giá trị gia tăng không cao. Hạn chế này càng trở nên thách thức to lớn đối với Việt Nam khi các hàng rào thuế quan đã bị dỡ bỏ và miễn giảm thuế chỉ áp dụng cho các mặt hàng nông sản đã qua chế biến trong APEC mà Việt Nam là một thành viên. Tình trạng này kéo dài, hàng nông sản của ta sẽ thiếu năng lực cạnh tranh. Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm nước ngoài với giá rẻ hơn được chế biến bằng công nghệ hiện đại, mẫu mã phong phú...
-Trong khâu phân phối và tiêu thụ: Hàng nông sản của ta mới tập trung vào một số thị trường hạn chế, dễ bị sức ép và biến động nhiều vì không có đối trọng so sánh. Các nhà xuất khẩu trong nước không hỗ trợ liên kết hợp tác với nhau, giúp đỡ người nông dân trực tiếp sản xuất mà còn tranh mua, tranh bán, nâng hạ giá tuỳ tiện làm cho diễn biến giá cả thị trường phức tạp, không đúng với thực chất. Thêm vào đó, hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam vẫn còn mang tính manh mún, còn thiếu một tầm nhìn chiến lược dài hạn trên cơ sở nắm bắt thông tin thương mại chính xác và hiểu biết xu hướng vận động của thị trường quốc tế nói chung, đối với từng chủng loại hàng hoá nói riêng. Năng lực tiếp thị, khả năng phân tích thị trường và việc tiến hành quản lý xuất nhập khẩu của đội ngũ cán bộ còn thiếu kinh nghiệm dẫn đến sự chậm chễ và thua thiệt.
Chính vì những nguyên nhân nêu trên, việc thúc đẩy xuất khẩu nông sản và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trở nên cấp thiết.
Chương II.
Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của
công ty SX-DV & XNK Nam Hà Nội (HAPROSIMEX SAI GON)
I. Khái quát về Công ty HAPROSIMEX Sài Gòn:
Quá trình hình thành và phát triển của công ty HAPROSIMEX
Sự hình thành của công ty HAPROSIMEX
Tiền thân của công ty sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu Nam Hà Nội là Ban đại diện phía Nam của Liên hiệp sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp Hà Nội. Cuối năm 1991, để mở rộng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở cả 3 miền, Tổng GĐ Liên hiệp sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp Hà Nội đã ra quyết định thành lập Ban đại diện phía Nam, sau chuyển thành chi nhánh HAPROSIMEX Sài Gòn trực thuộc sự quản lý của Liên hiệp sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu.
Chức năng nhiệm vụ : thời điểm này Công ty chủ yếu hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Cơ cấu hoạt động xuất nhập khẩu chủ yếu trong thời gian này là hàng thủ công mỹ nghệ, ngoài ra còn có một số hàng nông sản như cà phê, chè, tiêu, lạc nhân.
Quá trình phát triển của công ty HAPROSIMEX
Giai đoạn 1 (1992-1998)
Sau khi được thành lập với tên gọi là Ban đại diện phía Nam của Liên hiệp sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp Hà Nội, đến tháng 8/1992 đã đổi tên thành Chi nhánh Liên hiệp sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp Hà Nội. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tăng dần và quy mô ngày càng lớn
Thi hành Nghị định số 388/HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội đồng bộ trưởng về việc thành lập doanh nghiệp Nhà nước, chi nhánh Liên hiệp đã được đổi tên thành Chi nhánh Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu Nam Hà Nội
Bảng 3: Tình hình hoạt động của Công ty từ năm 1992-1998
Năm
Chỉ tiêu
ĐVT
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Số lao động
(người )
10
20
35
50
80
95
180
Tốc độ tăng
(%)
-
100
75
42,86
60
18,75
89,47
Kim ngạch XNK
triệu $
0,5
3,1
15
14
14,5
14,5
15
Tốc độ tăng
(%)
-
520
383,87
-6,67
3,57
0
3,45
Doanh số kinh doanh
tỷ đồng
5
35
108
95
181
270
295
Tốc độ tăng
(%)
-
600
208,6
-12,04
90,66
49,07
9,26
Thu nhập bình quân
nghìn đồng/ người/tháng
600
800
950
1.050
1.100
1.200
1.300
Tốc độ tăng
(%)
-
33,33
18,75
10,53
4,76
9,09
8,33
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của công ty
Giai đoạn 2 (1999-nay)
Trước sự lớn mạnh của chi nhánh Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu Nam Hà Nội, trước những khó khăn mà Xí nghiệp phụ tùng xe đạp xe máy Lê Ngọc Hân đang gặp phải, đồng thời thực hiện chủ trương củng cố doanh nghiệp Nhà nước, sát nhập các đơn vị vừa và nhỏ, UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 07/QĐ-UB ngày 2/1/1999 sát nhập với Xí nghiệp phụ tùng xe đạp xe máy Lê Ngọc Hân và đổi tên thành Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu Nam Hà Nội. Tên giao dịch: HAPROSIMEX SAI GON. Trụ sở chính: 28B Lê Ngọc Hân, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Có thể nói sau khi ra đời công ty đã vấp phải rất nhiều khó khăn do đổi mới về cơ chế làm việc, bộ máy tổ chức hành chính và đặc biệt là những khó khăn về con người mới chưa kịp nắm bắt những công việc mới và hoạt động của công ty. Song với một ban lãnh đạo có tài năng và kinh nghiệm cũng như một đội ngũ nhân viên nhiệt tình với công việc, hoạt động kinh doanh của công ty đã dần đi vào thế
ổn định. Sau khi được thành lập, Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu Nam Hà Nội đã có điều kiện chủ động phát huy mọi thế mạnh sẵn có, mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, khắc phục được những khó khăn vướng mắc mà chi nhánh, xí nghiệp từng gặp phải trong giao dịch. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu không ngừng mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh doanh và thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu nhiệm vụ Nhà nước giao.
Trước xu thế phát triển chung của thị trường trong và ngoài nước cũng như nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng về vấn đề dịch vụ và đặc biệt là sức ép từ các đối thủ cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước, tháng 12/2000, tiếp tục thực hiện chủ trương của Nhà nước về củng cố doanh nghiệp Nhà nước, UBND Thành phố Hà Nội ra Quyết định số 6908/QĐ-UB ngày 12/12/2000 sát nhập Công ty ăn uống dịch vụ bốn mùa vào Công ty sản xuất -XNK Nam Hà Nội, đổi tên Công ty sản xuất -Xuất nhập khẩu Nam Hà Nội thành Công ty sản xuất-dịch vụ và Xuất nhập khẩu Nam Hà Nội, và chuyển Công ty về trực thuộc Sở Thương Mại để thực hiện quản lý về mặt Nhà nước. Tên giao dịch : HAPROSIMEX SAI GON. Trụ sở giao dịch chính của Công ty: chuyển đến 38-40 Lê Thái Tổ, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội .
Tháng 3/2002 để triển khai dự án xây dựng Xí nghiệp Liên hiệp chế biến thực phẩm Hà Nội, UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 1757/QĐ-UB ngày 20/3/2002 về việc sát nhập Xí nghiệp giống cây trồng Toàn Thắng thuộc Công ty giống cây trồng Hà Nội vào Công ty sản xuất - dịch vụ & xuất nhập khẩu Nam Hà Nội.
Công ty sản xuất- dịch vụ và Xuất nhập khẩu Nam Hà Nội là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Sở Thương Mại Hà Nội kinh doanh trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ & xuất nhập khẩu, có tư cách pháp nhân đầy đủ, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập, có tài khoản tại ngân hàng ngoại thương. Hiện nay công ty đã xây dựng được một mạng lưới bán hàng xuất nhập khẩu tại 53 nước và khu vực trên thế giới.
Chức năng, nhiệm._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0498.doc