Thực trạng hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng của các Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam

Lời nói đầu Trước khi chuyển sang cơ chế thị trường toàn bộ nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoa tập trung bao cấp, hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng bị chi phối bởi cơ chế này. Hệ thống ngân hàng hoạt động theo cơ chế một cấp, ngân hàng nhà nước vừa đảm nhận chức năng quản lý nhà nước về hệ thống tiền tệ tín dụng, vừa nhận chức năng kinh doanh. Nhưng trên thực tế các nghiệp vụ kinh doanh hoàn toàn được thực hiện dưới sự chỉ đạo bằng kế hoạch cuả nhà nước. V

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1456 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng của các Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốn hoạt động của ngân hàng phần lớn được lấy từ nguồn vốn cấp pháp, chứ không phải từ nguồn vốn huy động từ xã hội . Bước sang cơ chế thị trường, hệ thống ngân hàng được chia thành 2 cấp: Ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô, hệ thống NHTM thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Nguồn vốn kinh doanh được huy động từ những nguồn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế. Và hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh quan trọng nhất đem lại phần lớn lợi nhuận cho NHTM nhưng đây cũng là hoạt động có nhiều rủi ro nhất. Trong cơ chế thị trường các ngân hàng thương mại bị chi phối bởi những quy luật cạnh tranh khắc nghiệt. Để đạt được hiệu quả hoạt động lớn nhất các NHTM phải đặc biệt quan tâm đến chất lượng tín dụng và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trong nền kinh tế thị trường. Đề án chỉ nêu lên một phần nào đó các vấn đề này, đề án bao gồm: Chương I: Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường. Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM ở Việt Nam. Chương I: tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng của nhtm trong nền kinh tế thị trường. i. khái niệm chung về tín dụng ngân hàng 1. Khái niệm: Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Danh từ tín dụng (Credit) dùng để chỉ những hành vi kinh tế phức tạp như: Bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác... Tín dụng là một phạm trù kinh tế phán ảnh quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hoá. - Trong mỗi hành vi tín dụng ta thấy đây là sự giao dịch giữa hai bên. + Trái chủ (người cho vay) – trao một số tài sản hay tiền bạc. + Người thụ trái (người đi vay) hứa sẽ hoàn trả lại trong một thời gian nhất định nào đó. Nhà kinh tế Pháp ông Lonis Bandin đã định nghĩa tín dụng là “một sự trao đổi hàng hoá hiện tại lấy một hàng hoá tương lai”. Trong sự trao đổi này, yếu tố thời gian xen lẫn, cũng vì sự xen lẫn đó sự trao đổi này mang theo sự bất trắc và rủi ro. Vì vậy tín dụng dựa vào sự tín nhiệm lẫn nhau, và ngày nay các nghiệp vụ tín dụng đã được chuyên nghiệp bởi các ngân hàng. 2. Phân loại Việc phân loại tín dụng khá cần thiết sẽ hỗ trợ cho mục đích quản lý của ngân hàng. *Dựa vào kỳ hạn các khoản tín dụng: thời hạn giao vốn cho khách hàng sử dụng. Tín dụng ngắn hạn: dưới 12 tháng sử dụng đầu tư vào tài sản lưu động, tín dụng trung hạn từ 1 năm đến 3 năm. Tín dụng dài hạn lớn hơn 3 năm hoặc 5 năm, trong một khoảng thời gian dài các NHTM không cho vay dài hạn, thậm chí không cho vay trung hạn bởi vì thiếu các công cụ quản lý rủi ro, và nhất là thiếu nguồn vốn lâu dài và khó huy động vốn. Các nghiệp vụ dài hạn này được các tổ chức “chuyên ngành” tự do hoạt động với các nguồn vốn vay chủ yếu qua phát hành trái phiếu và tài trợ cho đầu tư qua huy động tiết kiệm gián tiếp. NHTM giữ vai trò trung gian giữa thị trường tài chính và doanh nghiệp. Chỉ bắt đầu từ những năm 70 các ngân hàng thương mại mới bắt đầu hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực các nghiệp vụ dài hạn nhưng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng 1 cách tốt nhất, các ngân hàng thương mại dần chú ý tới phần thị trường cho vay dài hạn. *Theo tính chất đảm bảo khoản vay - Tín dụng có đảm bảo. - Tín dụng không đảm bảo. Để nhận được vốn người vay phải ký hợp đồng tín dụng, các bước hoàn thành một hợp đồng tín dụng là: + Kiểm tra khả năng vay và khả năng chi trả của người vay. + Kí hợp đồng tín dụng. + Kí hợp đồng đảm bảo tín dụng. Đảm bảo tiền vay có ý nghĩa quan trọng vì xét cho cùng đảm bảo tiền vay là đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng, trên thực tế các loại quan trọng nhất của đảm bảo tín dụng gồm có: +Bảo lãnh: hợp đồng cam kết đơn phương mà người bảo lãnh cam kết với người cho vay sẽ chi trả khoản nợ của người vay khi cần thiết. +Đảm bảo: đây là hoạt động của đại lý kinh tế nó khác với bảo lãnh là nó không bổ sung cho giao dịch chính. Trong hoạt động ngân hàng không ít trường hợp người vay phải có cam kết đảm bảo trả nợ của ngân hàng khác. Khi cấp đảm bảo, ngân hàng sẽ là người đảm bảo đối với người cho vay, chi trả số tiền nhất định khi xảy ra trường hợp đảm bảo. +Cầm cố giấy tờ có giá trị hàng hoá và tài sản khác: Quyền cầm cố: yêu cầu vật chất đối động sản của người khác hoặc yêu cầu được quyền nhận khoản bồi thường từ việc bán tài sản cầm cố, nếu người vay nợ không trả được nợ. Việc cầm cố này không những trả đủ nợ mà còn cả số lãi tiền vay và số tiền bội ước trả do không thực hiện được cam kết. Quyền cầm cố quy định tài sản cầm cố theo sự đồng ý của người vay và cho vay phải được chuyển cho người cho vay là người sở hữu trực tiếp, còn người vay chỉ còn là người sở hữu gián tiếp tài sản cầm cố. Trong hoạt động ngân hàng điều đó có nghĩa là người vay không còn quyền sử dụng, khi người vay không thực hiện được cam kết thì ngân hàng có thể bán tài sản đó. + Chuyển tài sản đảm bảo. - Ngân hàng có quyền sở hữu đối với tài sản cầm cố nhưng đồng thời chuyển cho người vay đảm bảo đó để họ tiếp tục sử dụng. + Nhượng lại các yêu cầu chi trả và các hoá đơn: Nếu người vay có các yêu cầu chi trả đối với người thứ 3, thì họ nhượng lại cho ngân hàng làm đảm bảo tín dụng. Cầm cố bất động sản : Cầm cố nhà cửa có tầm quan trọng khá lớn . Nhưng ngân hàng có thể dựa vào uy tín của khách hàng để cho vay không cần bảo đảm. Cho vay không cần bảo đảm đang là một thách thức đối với ngành ngân hàng. *Dựa vào hình thái tồn tại của vốn tín dụng ta có thể phân loại thành: tín dụng bằng tiền và tín dụng bằng hiện vật. Tín dụng bằng hiện vật tức là vốn tín dụng tồn tại dưới hình thức hiện vật; có thể các doanh nghiệp mua bán chịu giữa nhau hoặc thuê tài sản… Hình thức tín dụng này có độ an toàn khá cao, vì người cho vay nắm sở hữu về mặt pháp lý được pháp luật bảo vệ, tài sản có tính lỏng kém, khó chuyển đổi, vì vậy có thể hiện vật dễ dàng thu hồi khi cần thiết. ii. tín dụng ngân hàng 1. Vai trò của tín dụng Tín dụng sẽ đáp ứng nhu cầu về vốn trong hoạt động xây dựng kinh doanh. Các ngân hàng sẽ đóng vai trò trung gian thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng những nhu cầu đầu tư về xây dựng và kinh doanh, tức là đã chuyển vốn từ những người không có cơ hội đầu tư sinh lợi tới những người có cơ hội. Tín dụng đảm bảo nhu cầu tiêu dùng cá nhân trong xã hội, người tiêu dùng có thể chọn thời điểm để mua sắm tốt nhất, cung cấp vốn cho những người có nhu cầu mua cái họ cần, không cần phải chờ đến khi tiết kiệm đủ món tiền để mua. Các tổ chức tín dụng khi cho khách hàng vay vốn muốn vốn được sử dụng đúng mục đích có hiệu quả, phải giám sát quá trình hoạt động của khách hàng, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng như toàn bộ hoạt động kinh tế chung của nền kinh tế quốc dân. Khi tín dụng được chuyên nghiệp hoá chi phí để vay vốn sẽ giảm thiểu, tiết kiệm chi phí lưu thông, ổn định thị trường. Ngân hàng sẽ có rất nhiều những hình thức huy động vốn: tín phiếu, thương phiếu, cổ phần. Các hình thức đầu tư cũng rất đa dạng, đầu tư vào xây dựng cơ bản cho vay ngắn hạn trung hạn dài hạn. Tín dụng cái thiện đời sống kinh tế của mỗi người trong xã hội, nền kinh tế tăng trưởng, phát triển. 2. Các loại tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng là tín dụng có sự tham gia của các ngân hàng đóng vai trò là các trung gian trong tín dụng. Hoạt động theo hình thức vay để cho vay. Vốn tín dụng ngân hàng dưới hình thức tiền tệ, đã được giải phóng ra khỏi quá trình sản xuất. Vai trò trung gian của ngân hàng là tất yếu bởi vì có nhu cầu về vốn, có vốn tạm thời nhàn rỗi sẽ xuất hiện vai trò trung gian tài chính của ngân hàng. Quá trình vận động của vốn tín dụng tương đối độc lập với sự vận động của quá trình sản xuất kinh doanh. Với những đặc điểm trên, tín dụng có thể đáp ứng được nhu cầu cả về khối lượng, số lượng, thời gian. Vốn tín dụng có thể chuyển đổi đa dạng giữa các ngành nghề khác nhau, bởi nó có tính lỏng cao. Tín dụng có độ rủi ro tương đối cao. Cùng với sự phát triển của xã hội, các hình thức tín dụng khác nhau dần được hình thành và ngày càng được hoàn thiện và đa dạng hoá. Đây chính là biểu hiện của ngân hàng không những thích nghi với nhu cầu của tái sản xuất mà còn thu hút nhiều nhất khách hàng bằng việc đa dạng hoá các lĩnh vực tín dụng. Đây là một vài nét rất cơ bản về các hình thức tín dụng ngân hàng. 1. Tín dụng vãng lai - Tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng của mình bằng nội tệ hoặc ngoại tệ theo nhu cầu của khách hàng có thể được sử dụng nhưng không vượt quá số tiền tối đa quy định trong hợp đồng. Việc tính số dư các khoản nộp và rút khỏi tài khoản được tiến hành sau những thời gian quy định trong hợp đồng, đồng thời thanh toán các khoản chi trả tín dụng trên tài khoản thống nhất của ngân hàng. Khách hàng của ngân hàng có quan hệ thương mại với nhiều bạn hàng là người cung cấp cũng như người mua giữa họ thường xuyên phát sinh những cam kết và các yêu cầu tiền tệ mà khối lượng có thể thay đổi. Ngân hàng nhận tiến hành các thanh toán về các yêu cầu và các cam kết thường xuyên của họ để hợp lý hoá chu chuyển chi trả của khách hàng. Trường hợp xảy ra là các khoản nợ tạm thời của khách hàng vượt các khoản thu của họ và trên tài khoản không có vốn để bù đắp chênh lệch đó, nến khách hàng phải ký kết hợp đồng với ngân hàng về việc xin cấp tín dụng vãng lai. Khách hàng có thể thường xuyên sử dụng toàn bộ số tiền đã thoả thuận trong hợp đồng, hoặc không sử dụng trong một thời gian dài vì các khoản thu thường xuyên bù đắp các khoản nợ phát sinh của chủ tài khoản. Tín dụng vãng lai được sử dụng tuỳ thuộc vào tình hình tài chính của khách hàng. Theo quan điểm khả năng sử dụng thì tín dụng vãng lai là tín dụng trung hạn và dài hạn. Tín dụng vãng lai được cấp chủ yếu để bổ sung vốn cho sản xuất và lưu thông thường xuyên . Tín dụng vãng lai có thể cấp cho khách hàng dưới các hình thức khác nhau: tiền mặt, chuyển tiền chi trả tín phiếu, mua giấy tờ có giá… 2. Tín dụng chấp nhận Tín dụng chấp nhận liên quan đến thương phiếu. Tín dụng chấp nhận là tín dụng mà ngân hàng chấp nhận chuyển tiền mà khách hàng lập cho mình với điều kiện khách hàng hoàn trả tiền vay khi thương phiếu tới hạn chi trả. Như vậy ngân hàng có thể chi trả hoặc kỳ phiếu được xuất trình. Việc chấp nhận của các ngân hàng lớn thường là đảm bảo chắc chắn khi chuyển kỳ phiếu cho người thứ ba người phát hành kỷ phiếu có thể sử dụng kỳ phiếu với các mục đích khách nhau, như để chi trả hàng hoá để chiết khấu ở các ngân hàng khác đôi khi kỳ phiếu nằm lại ngân hàng đã chấp nhận nó hoặc được chiết khấu ngay sau khi chấp nhận cùng một ngân hàng có thể thực hiện 2 nghiệp vụ nối tiếp nhau: chấp nhận và chiết khấu kỳ phiếu. Tín dụng chấp nhận thuộc nhóm tín dụng ngắn hạn. 3. Tín dụng thế chấp -Tín dụng thế chấp là khoản tín dụng ngắn hạn được thế chấp bằng bất động sản hoặc trái quyền khi cấp tín dụng thế chấp được đánh giá không theo giá trị đầy đủ mà bị chiết khấu tuỳ thuộc vào loại động sản và rủi ro tiêu thụ động sản đó. Các loại thế chấp quan trọng nhất có: a. Tín dụng thế chấp các giấy tờ có giá Đây là hình thức quan trọng nhất bởi vì nghiệp vụ nhận thế chấp và đánh giá các giấy tờ có giá không phức tạp. b. Tín dụng thế chấp hàng hoá Hình thức này rất thông dụng thường các ngân hàng thương mại cho phép khách hàng gửi hàng ở kho của mình và hàng đó dùng để đảm bảo những số tiền ngân hàng ứng cho khách hàng. c. Tín dụng thế chấp kim loại quý Hiện nay ít được sử dụng, vật thế chấp thường là những đồng tiền vàng, thỏi bạc, bạch kim, giá thế chấp thường là 95% giá hiện hành. d. Tín dụng thế chấp các yêu chi trả Vật thế chấpp là các yêu cầi tài chính khác nhau như: tiền gửi tiết kiệm, bảo hiểm, yêu cầu chi trả lương, cầm cố bất động sản. 4. Tín dụng được hoàn trả bằng các phần bằng nhau trong năm. a. Tín dụng trả dần: chủ yếu là tín dụng trung hạn, tín dụng tiêu dùng, loại tín dụng này còn được sử dụng trong du lịch. + Loại “A” đây là khoản vay trực tiếp cũng được trả trực tiếp của khách hàng đối với ngân hàng , tiền cũng được trả trực tiếp cho ngân hàng. + Loại “B” ngân hàng cho khách hàng vay có sự kết hợp chặt chẽ với thương nghiệp. Người mua chỉ nộp 20-30% giá trị hàng hoá, số còn lại sẽ được ngân hàng cho vay. Ngân hàng và thương nghiệp sẽ kí kết hợp đồng về việc cấp tín dụng trả dần. Hợp đồng này buộc ngân hàng chuyển cho thương nghiệp 80% giá trị hàng hoá, số tiền 20% do khách hàng nộp được giữ tại ngân hàng được dùng làm đảm bảo tín dụng. Sau khi khách hàng trả hết nợ, ngân hàng sẽ chuyển số tiền (20%) cho cửa hàng. Trong trường hợp khách hàng không có khả năng chi trả cửa hàng sẽ chịu trách nhiệm về các khoản vay. + Loại “C” có sử dụng kỳ phiếu, người mua nộp 25-40% giá trị hàng hoá, số còn lại được lập các kỳ phiếu. b. Tín dụng nhỏ - Chủ yếu là tín dụng tiêu dùng khách hàng là người có thu nhập vững chắc, khoản vay này không cần ký hợp đồng tín dụng. Người vay xuất trình hoá đơn mua hàng và giấy trả lương. 5. Tín dụng bảo lãnh - Bảo lãnh thực ra không phải là cho vay vì người bảo lãnh không hề ứng tiền mà chỉ nhận bảo đảm cho người có nợ đối với chủ nợ thôi. Chỉ khi nào con nợ không trả được nợ mới phải trả nợ hộ. Sự bảo lãnh thường được áp dụng trong những trường hợp mà một thương gia muốn mua chịu một thương gia khác. Ví dụ một thương gia Việt Nam muốn mua chịu một thương gia Pháp, và phải ký một thương phiếu nhưng người bán ngân ngại rằng thương gia Việt Nam không trả được nợ buộc thương gia Việt Nam phải được 1 ngân hàng bảo lãnh. Bảo lãnh là một hành vi có thể gặp nhiều rủi ro, để bảo lãnh ngân hàng phải nghiên cứu thận trọng uy tín và năng lực tài chính của khách hàng. Bảo lãnh thường được thực hiện trong các trường hợp sau: +Bảo lãnh để khách hàng có thể đi vay ngân hàng khác, đặc biệt vay các ngân hàng nước ngoài. + Bảo lãnh về đóng thuế cho nhà nước + Bào lãnh về các hợp đồng đấu thầu. Tín dụng bảo lãnh có thể là dài hạn và ngắn hạn. 6. Các nghiệp vụ liên kết tín dụng. - Trong hoạt động thực tiễn của ngân hàng không ít các trường hợp mức vay (hoặc mức rủi ro) mà một ngân hàng không tự mình đảm đương nổi. Cần có sự liên kết giữa các ngân hàng, Trong liên kết đó có một ngân hàng đứng ra làm đầu mối đàm phán với khách hàng theo điều kiện của các ngân hàng liên kết đưa ra, ký hợp đồng tín dụng, thu hút vốn của các ngân hàng liên kết và chuyển giao cho khách hàng thu nợ và chia lãi. Sự liên kết này được giải tán sau mỗi hợp đồng, song cũng có sự liên kết lâu dài được triệu tập lại khi có một hợp đồng lớn. iii. chất lượng tín dụng các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, là nguồn thu quan trọng trong hoạt động kinh doanh của toàn ngành ngân hàng. Chất lượng tín dụng càng cao thể hiện mức đóng góp của một hoạt động ngân hàng đối với xã hội càng lớn. Chất lượng tín dụng cao là điều kiện trước hết đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của ngành ngân hàng. 1. Chất lượng tín dụng Nhiều ý kiến cho rằng chất lượng tín dụng chính là kết quả của các khoản tín dụng được thực hiện trọn vẹn, người vay thực hiện đúng các cam kết vay tiền, ngân hàng thu được cả gốc lẫn lãi đúng hạn. ý kiến trên cũng đúng nhưng không mang ý bao quát. Chất lượng tín dụng thể hiện bằng lợi ích của nguồn thu nhập của nguồn lợi nhuận bao gồm lợi ích hữu hình và lợi ích vô hình và lợi ích kinh tế xã hội. 2. Các yếu tố cấu thành chất lượng tín dụng. a. Vốn tiền tệ khả dụng - Bao gồm vốn tự có, vốn chủ sở hữu, vốn huy động. Vốn huy động là bộ phận chủ lực quan trọng nhất trong nguồn vốn khả dụng của ngân hàng. Ngân hàng đi vay để cho vay. Vì vậy để huy động vốn tạo nguồn vốn khả dụng hùng hậu đáp ứng nhu cầu khách hàng từ đó mở rộng tín dụng và qua đó nâng cao chất lượng tín dụng. Việc huy động vốn ảnh hưởng trực tiếp bởi: mức lãi suất mức lạm phát, chất lượng dịch vụ và uy tín ngân hàng. b. Dự trữ bắt buộc Do ngân hàng nhà nước quy định về công cụ điều chỉnh lượng cung ứng tiền tệ, các ngân hàng có trách nhiệm pháp lý quy định phải thực hiện đầy đủ về lượng dự trữ bắt buộc ký gửi tại ngân hàng nhà nước. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm giảm lượng vốn tiền tệ khả dụng và là pháp lệnh không thể thoái thác. c. Vốn thanh khoán hiện hành - Các ngân hàng thương mại luôn phải để dành vốn thanh khoản hiện hành từ vốn tiền tệ khả dụng để đáp ứng nhu cầu thanh toán trước mắt cho người gửi tiền. - Mức vốn thanh khoản phải được tính toán đúng đảm bảo, không lãng phí vốn khả dụng, đồng thời không gây ra tình trạng căng thẳng, thiếu hụt vốn thanh toán. d. Nợ khó đòi không có khả năng thu hồi. Đây là yếu tố nguy hiểm làm xấu chất lượng tín dụng ngân hàng, có thể dẫn tới ngân hàng bị mất người, mất của, bị sập tiệm. Chất lượng tín dụng ngân hàng cao nhất là khi ngân hàng không có nợ khó đòi. e. Dự phòng rủi ro: Theo thông lệ chung quốc tế hàng năm ngân hàng kiểm kê và đánh giá lại chất lượng tín dụng đối với tổng dư nợ. Nếu các khoản vay đã qua hạn không có khả năng thu hồi phải được trích quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp một phần hoặc toàn bộ, tuỳ theo tính chất của khoản nợ khi số nợ khi số nợ đã được bù đắp sau đó lại thu được nợ sẽ được coi là thu nhập của ngân hàng. Dự phòng rủi ro có trường hợp khá lớn làm cho vốn khả dụng của ngân hàng sụt giảm nghiêm trọng. f. Lãi suất tín dụng ngân hàng ở nước ta, các ngân hàng thương mại phải thực hiện lãi suất cho vay nằm trong lãi suất trần của ngân hàng nhà nước không được vận dụng tăng lãi suất vượt trần này. Hiện nay chúng ta đang đi tìm và tiến tới sẽ thực hiện lãi suất cơ bản để tăng tính cạnh tranh và tính chủ động trong kinh doanh của các ngân hàng. g. Thời hạn cho vay Thời hạn cho vay ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất và mức tiền vay. Việc tính toán và xác định thời hạn cho vay là rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu lợi nhuận của ngân hàng. Ngân hàng phải tính toán sao cho thời hạn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho bên vay trả nợ đúng hạn. Thời hạn cho vay của nhiều khoản tín dụng được liên tục hài hoà, hạn chế thời gian đọng vốn, vốn khả dụng không sinh lời. Sau khi đánh giá sơ bộ các yếu tố cấu thành chất lượng tín dụng ta có thể đi đến kết luận có 3 nhân tố chính ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng là: - Ngân hàng thương mại - Khách hàng - Môi trường vĩ mô. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. 3.1. Các ngân hàng thương mại Như ở phần trên ta đã xem xét, ngân hàng thương mại là tổ chức thực hiện việc đi vay để cho vay. Vì vậy khả năng huy động vốn đáp ứng nhu cầu của khách hàng là những tiêu thức để đánh giá khả năng của một ngân hàng. Chuyển sang cơ chế thị trường và chấp nhận sự cạnh tranh không chỉ trong nước mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải đầu tư nghiên cứu, phát triển đổi mới trang thiết bị kỹ thuật. Các doanh nghiệp cần có một nguồn vốn để giải quyết vấn đề trên. Tại sao ngân hàng có thể đảm bảo được trách nhiệm này? bởi vì ngân hàng có khả năng: +Khả năng tập hợp vốn: trên thực tế nhiều cá nhân và tổ chức có tiền đã tìm cách đầu tư vốn của mình vào các hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lời song đã vấp phải những hạn chế do vốn của họ không đáp ứng được nhu cầu vốn của những người cần vốn (nhu cầu này bao gồm: yếu tố về số lượng thời gian….). Đặc biệt trên thị trường vốn quy mô kinh tế chỉ có thể đạt được bằng cách tập hợp những số tiền nhỏ thành những số tiền lớn để nhằm đáp ứng nhu cầu người vay. Điểm khác nhau cơ bản trong nguồn vốn của NHTM với các doanh nghiệp phi tài chính là NHTM kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ nền kinh tế còn các doanh nghiệp hoạt động trên nguồn vốn tự có là chính. Để đánh giá nguồn vốn của một ngân hàng chúng ta sử dụng 2 chỉ số: Chỉ số 1 = x 100 Chỉ số 2 = x 100 Chỉ số 1 cho phép ta xác định khả năng và quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế của NHTM chỉ số 2 là chỉ số cơ cấu vốn huy động. Bên cạnh việc huy động vốn dưới dạng tiền gửi, các NHTM còn có thể thu hút vốn dưới dạng đi vay. Khi thiếu vốn kinh doanh ngân hàng có thể đi vay NHTm, các tổ tín dụng trong nước, tổ chức tín dụng nước ngoài…ngân hàng thương mại (NHTM) có thể vay vốn các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài và chi phí ngân hàng phải trả lớn hơn vốn huy động trực tiếp từ nền kinh tế dưới dạng tiền gửi tiết kiệm hoặc tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Các ngân hàng thương mại chỉ đi vay khi phải đối phó với những rủi ro về thanh khoản, ngoại hối. Các NHTM có thể vay vốn ở NHNN theo quy định của NHNN, các NHNN tỉnh thành phố chỉ được xét cho vay thanh toán bù trừ còn những khoản vay khác phải do ngân hàng trung ương quy định. Về ngân hàng TW muốn tập trung quản lý nhằm kiểm soát chặt chẽ khối lượng tiền lưu thông. Song việc làm này gây khó khăn cho NHTM vì nếu muốn nhận được vốn vay, NHTM phải tốn nhiều thời gian và chi phí trong khi đó điều kiện kinh doanh không cho phép chờ đợi. Số lượng những ngân hàng thương mại vay vốn của NHNN không nhiều. Ngoài ra, NHTM có thể vay các tổ chức tín dụng nước ngoài, vốn vay là những ngoại tệ mạnh. Để vay được vốn của tổ chức tín dụng nước ngoài, NHTM phải là doanh nghiệp có uy tín, hoạt động đa dạng, quan hệ quốc tế tốt, công nghệ ngân hàng tiên tiến… mới được sự đồng ý của NHNN. Mặc dù điều kiện để được cấp tín dụng của NH nước ngoài rất khó khăn nhưng nếu được cấp ngân hàng sẽ nhận được số vốn lớn với lãi suất thấp (lãi suất ngoại tệ), chi phí giao dịch nhỏ. Hiệu quả cuối cùng là chi phí bình quân trên một đồng vốn nhỏ hơn rất nhiều so với chi phí phải trả cho một đồng vốn huy động trong nước. Đây là một số trường hợp cá biệt, vì vậy huy động vốn trong nước rất quan trọng. Hiện nay, nước ta vẫn chưa hoàn chỉnh được một lãi suất cơ bản. Mức lạm phát cũng được khống chế bởi chính sách vĩ mô của nhà nước. Vì vậy, để nắm được phần thắng trong huy động vốn thì ngân hàng cần có uy tín cao, chất lượng dịch vụ tốt. Để nâng cao được chất lượng tín dụng các tín dụng các ngân hàng cần phải nhận biết được những thế mạnh mà bản thân của ngân hàng mình để thu hút khách hàng. +Vị thế do địa điểm vị trí hoạt động: nếu một ngân hàng đặt trụ sở ở cạnh một ngân hàng khác có nhiều ưu thế hoặc nơi đặt trụ sở không phù hợp, thì việc kinh doanh sẽ khá khó khăn. Vị trí đặt trụ sở phải phù hợp với quy mô hoạt động kinh doanh là những vị trí tập trung dân cư, gần những trung tâm thương mại lớn. + Bề dày hoạt động của ngân hàng sẽ tạo cho ngân hàng những kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. + Quy mô và địa bàn hoạt động sẽ giải quyết nhiều vấn đề chiến lược. + Khách hàng cũng rất quan tâm đến tính chất sở hữu của loại hình ngân hàng thương mại,khách hàng rất tin tưởng đối với các NHTM quốc doanh. + Đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng chính là bộ mặt của ngân hàng. Ngân hàng cần quan tâm đến trình độ cán bộ, nhân viên ngân hàng không chỉ là trình độ chuyên môn mà còn là thái độ, phong cách giao tiếp, cư xử có văn hoá, văn minh lịch sự. + Và vấn đề quan trọng nhất mà khách hàng quan tâm là chất lượng và giá cả dịch vụ cung cấp. Chất lượng dịch vụ là: - Tính chất kịp thời, chính xác, an toàn và tiện lợi của dịch vụ. - Công nghệ ngân hàng. - Uy tín trong thanh toán. -Trình độ kỹ thuật nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng. - Địa điểm cung cấp dịch vụ thuận lợi an toàn. - Thủ tục đơn giá phức tạp. Giá cả dịch vụ : - Lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay. - Phí được. Nắm chắc được những yếu tố trên, ngân hàng mới có thể dễ dàng nâng cao sức cạnh tranh cũng như nâng cao chất lượng tín dụng. Ngoài việc quan tâm đến huy động vốn, có được lượng vốn hùng hậu để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng ngân hàng còn 1 vấn đề nan giải cần quan tâm đó là nợ quá hạn (nợ xấu). 3.2. Nợ quá hạn Trong hệ thống ngân hàng, nợ quá hạn là tồn tại cơ bản nhất, nếu không nhanh chóng khắc phục sẽ đe doạ trực tiếp đến sự lành mạnh và an toàn của hệ thống ngân hàng cũng như tình hình kinh tế – xã hội. Bản chất hiện tượng nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng Chúng ta xem xét mối quan hệ tín dụng hoàn hảo giữa ngân hàng và khách hàng, đó là sự hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng đến thời điểm đáo hạn. Còn nợ quá hạn phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo, khách hàng (người đi vay) không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho ngân hàng đúng hạn. Quá trình tín dụng được cấu thành từ hai quá trình riêng biệt: quá trình vay và quá trình trả nợ. Một chu trình của tín dụng bao gồm 3 giai đoạn, giai đoạn thứ nhất: giai đoạn phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay. Giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người vay, một bên nhận được giá trị và một bên nhường giá trị. Giai đoạn thứ hai: sử dụng trong quá trình tái sản xuất. Người đi vay sẽ sử dụng giá trị vốn tín dụng để đầu tư vào hoạt động kinh doanh. Giai đoạn thứ ba: giai đoạn hoàn trả tín dụng, người đi vay hoàn trả cho người vay kèm theo phần lãi thoả thuận. Đây là một chu trình khép kín, nhưng giai đoạn thứ ba là giai đoạn đặc trưng nhất của một quan hệ tín dụng hoàn hảo, nó khác biệt quan hệ tín dụng với những quan hệ tài chính khác. Nợ quá hạn là sự vi phạm hai đặc trưng của tín dụng đó là đặc trưng về thời hạn và tính hoàn trả đầy đủ. Thời hạn là khoảng thời gian từ khi người đi vay nhận được khoán tín dụng cho đến khi người cho vay nhận được lượng giá trị bao gồm cả gốc lẫn lãi theo thoả thuận. Để đánh giá tình trạng nợ quá hạn của một ngân hàng người ta có thể sử dụng tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, tức là: Tỷ lệ nợ quá hạn = . 100 Có rất nhiều loại hình nợ quá hạn khác nhau nếu căn cứ vào: Thời gian -Nợ quá hạn phát sinh tạm thời có thể thu hồi trong thời gian ngắn. - Nợ quá hạn sau thời gian mới thu hồi được. - Nợ quá hạn không thể thu hồi được (thời gian không xác định) Khả năng thu hồi - Nợ quá hạn thu hồi được 100% - Nợ quá hạn thu hồi được 1 phần - Nợ quá hạn mất trắng. Mức độ đảm bảo - Nợ quá hạn được đảm bảo hoàn toàn - Nợ quá hạn được đảm bảo một phần - Nợ quá hạn không được đảm bảo. Nợ quá hạn gây thiệt hại cho NHTM cụ thể là: -Nợ quá hạn dẫn đến sự ứ đọng vốn, chu trình tín dụng là một vòng quay khép kín , giả sử nợ quá hạn có thể thu hồi sau một thời gian nhất định tức là đã làm cho thời hạn vòng quay thực tế lớn hơn vòn quay tín dụng đã thoả thuận, như vậy đã làm giảm tới độ chu chuyển vốn tín dụng dẫn đến làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận của ngân hàng. - Nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng của NHTM làm giảm khả năng thanh toán. Bởi vì NHTM hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay” tức là huy động vốn sau đó cho vay lấy lãi thu lợi nhuận trả lãi cho số vốn đã huy động, nhưng nợ quá hạn đã làm cho ngân hàng không thu được vốn và lãi để thực hiện điều đó. + Một NHTM mất khả năng thanh toán tạm thời sẽ làm giảm uy tín kinh doanh của ngân hàng có thể dẫn đến hiện tượng người gửi tiền đồng loạt rút tiền đẩy ngân hàng đi tới phá sản. Các khoản nợ quá hạn luôn luôn chứa đựng khả năng không thu hồi được vốn vay 1 phần hoặc toàn bộ. Ngân hàng mất vốn tức là giảm khả năng kinh doanh, giảm lợi nhuận, nếu số vốn quá lớn bước cuối cùng là phá sản. Nợ quá hạn sẽ làm giảm chất lượng tín dụng, giảm hiệu quả kinh tế xã hội. Nguyên nhân dẫn đến các khoản nợ quá hạn có nhiều, nhưng có thể xếp vào các loại nguyên nhân chủ yếu sau. Nguyên nhân từ khách hàng - Rủi ro trong công việc sản xuất kinh doanh của khách hàng. + Do sự biến động của thị trường cấp: giá nguyên liệu, thiếu nguyên liệu. - Cung vượt cầu, hàng hoá ế đọng, chất lượng sản phẩm không đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, gây lãng phí vốn, mất vốn, đây được gọi là rủi ro đạo đức. - Nguồn lực tài chính của doanh nghiệp, chủ dự án không lành mạnh, khả năng thanh toán kém. Các nguồn thu doanh nghiệp rất hạn chế nhưng khối lượng các khoản nợ đến hạn quá lớn. Nguyên nhân từ ngân hàng + Ngân hàng chưa thật chú trọng vào mục tiêu của các khoản vay, tính toán không chính xác hiệu quả đầu tư dự án xin vay dẫn đến các quy định sai lầm trong cho vay. + Ngân hàng đánh giá chưa đúng về các khoản vay, về người đi vay, chủ quan tin tưởng vào khách hàng quen của mình coi nhẹ khâu kiểm tra không nỗ lực kiểm tra tình hình tài chính, phi tài chính, khả năng thanh toán hiện tại, tương lai, nguồn trả nợ…. + Cán bộ tín dụng không có kinh nghiệm không am hiểu về ngành kinh doanh mà mình đang tài trợ, thiếu số liệu thống kê, cho tiêu để phân tích so sánh, đánh giá vai trò vị trí của doanh nghiệp trong ngành, khả năng thị trường hiện tại và tương lai, chu kỳ, vòng đời của sản phẩm. + Ngân hàng quá quan tâm tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo đảm thế chấp coi nhẹ công tác phòng ngừa rủi ro, kiểm tra giám sát, đối với dự án xin vay, không nắm vững tình hình sử dụng vốn vay, không có các biện pháp xử lý ngăn chặn kịp thời khi có dấu hiệu xấu của khoản vay. - Quá dựa vào dự án đầu tư, vào khoản cho vay và chạy theo số lượng cho vay, cho vay càng nhiều càng tốt, chú trọng không đúng mức đến chất lượng tín dụng. - Cán bộ tín dụng không bao quát hết các điểm yếu về mặt pháp lý hoặc các sai sót khách quan chủ quan khác, trong hồ sơ chứng từ xin vay của doanh nghiệp. - Thiếu thông tin tín dụng, thông tin tín dụng không chính xác, kịp thời, chưa có “danh sách phân loại doanh nghiệp”, chưa đánh giá doanh nghiệp một cách đúng đắn. - Ngân hàng thiếu một cơ cấu theo dõi, quản lý rủi ro. Các nguyên nhân khác a. Rủi ro do hoàn cảnh kinh tế xã hội trong nước - Nếu nền kinh tế trong nước đang ở tình trạng suy thoái, sản xuất bị đình đốn, thu nhập của mỗi thành viên trong xã hội bị giảm, ảnh hưởng tới khả năng trả nợ ngân hàng hoàn thiện nhiều biến động khác, lạm phát thiên nhiên, thiên tai, dịch hoạ. b. Nhân tố chính sách Những thay đổi về chính trị, chính sách, chế độ, luật pháp, những thay đổi đó có ảnh hưởng không ít nhiều tới quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Vì vậy qua phần chúng ta phân tích, nếu một ngân hàng thiếu một chính sách cho vay rõ ràng, không phù hợp với đặc điểm thực trạng kinh tế bao gồm định hướng chung trong việc cho vay, chế độ tín dụng ngắn hạn, đúng hạn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29354.doc
Tài liệu liên quan