Tài liệu Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh & nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH Ngọc Hoa: PHẦN MỞ ĐẦU
Trên thế giới mỗi ngày có hàng trăm nghìn doanh nghiệp ra đời và cũng với một số lượng doanh nghiệp như vậy thất thế, phá sản. Sự quyết liệt của thương trường thực sự là một thách thức lớn đối với các doanh nhân. Doanh nhân là người chủ doanh nghiệp nhạy cảm với tình thế, nắm vững những nguyên lý cơ bản trong cạnh tranh là yếu tố quyết định thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Vậy làm thế nào để Doanh nghiệp luôn đứng vững trên thương trường với tư thế tự chủ?
Bằng nhiều phươn... Ebook Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh & nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH Ngọc Hoa
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1712 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh & nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH Ngọc Hoa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp thống kê toán, phương pháp tổng hợp so sánh và phân tích số liệu đồng thời trong phạm vi nghiên cứu có hạn là báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong 2 năm trở lại đây là năm 2006, 2007, bài viết này hy vọng sẽ có thể thực hiện được các mục tiêu đã sau:
Một mặt, hệ thống hoá các vấn đề lý thuyết về cạnh tranh, mặt khác đi sâu tìm hiểu về năng lực cạnh tranh của công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Ngọc Hoa trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh văn phòng phẩm.
Bên cạnh đó, phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty TNHH Ngọc Hoa, qua đó đánh giá điểm mạnh, điểm yếu cũng như cơ hội và nguy cơ ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của công ty.
Cuối cùng là đề xuất giải pháp nhằm nâng cao nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty TNHH Ngọc Hoa và kiến nghị đối với các chính sách chủ quan của Nhà nước.
Mặc dù có rất nhiều vấn đề trong nền kinh tế cần được chúng ta nghiên cứu và làm sáng tỏ đặc biệt là những vấn đề liên quan tới năng lực cạnh tranh của doanh ngiệp. Tuy nhiên với chuyên đề này, tôi chỉ xin đề cập đến đối tượng nghiên cứu chính là năng lực cạnh tranh của công ty TNHH Ngọc Hoa trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh văn phòng phẩm để từ chỗ cho chúng ta cái nhìn về một doanh nghiệp mà có thể tiến tới nghiên cứu thêm các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác trên lãnh thổ Việt Nam. Từ đây chúng ta sẽ dần có cái nhìn tổng quan về năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế Việt.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Hồ Thị Bích Vân cùng các cán bộ, nhân viên của công ty trách nhiệm hữu hạn Ngọc Hoa đã giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này. Trong thời gian có hạn, bài viết này còn rất nhiều sai sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp để bài viết có thể hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH & THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.Lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.Khái niệm cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các khái niệm có liên quan
Cạnh tranh là một từ đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử muôn loài vạn vật dưới hình thức ban đầu là đấu tranh sinh tồn. Mọi sinh vật từ khi sinh ra đều phải cạnh tranh với các sinh vật cùng loại hay đấu tranh với các sinh vật khác để tồn tại và phát triển trong thế giới của mình. Đó là cạnh tranh về thức ăn, lãnh thổ, về các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống của mình. Những cuộc đấu tranh này đôi khi không hề đơn giản, chúng có thể vô cùng khốc liệt dẫn đến một mất một còn. Sinh vật nào có đủ bản lĩnh sẽ sinh tồn và ngược lại. Cuộc sống con người chúng ta cũng bắt đầu và phát triển như vậy. Cạnh tranh như một quy luật khách quan không thể tách khỏi hoạt động sống của con người từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ cho đến chủ nghĩa tư bản. Từ hoạt động cạnh tranh với tự nhiên để sinh tồn, con người cũng cạnh tranh với nhau để phát triển. Cạnh tranh tuy được thấy từ mọi góc cạnh của cuộc sống con người nhưng ở đây chúng ta chỉ đề cập đến cạnh tranh trong kinh tế, giữa các doanh nghiệp để tồn tại và phát triển trên thị trường nhiều biến động.
Ai đó đã nói "Cùng ngành nghề chứ không cùng lợi nhuận, cạnh tranh là sự tất yếu của thương trường. Cạnh tranh là sự so sánh, đối chứng sức mạnh cơ bản giữa các doanh nghiệp, những đe doạ thách thức hoặc cơ hội của doanh nghiệp, chủ yếu có được từ quá trình đối kháng của sức mạnh này. Cạnh tranh trên nhiều phương diện: Thương hiệu - Chất lượng - Mẫu mã - Giá cả... Chúng ta đã và đang tiến tới xây dựng một thương trường lành mạnh, một môi trường kinh doanh có văn hoá - sự phát triển vững bền cho doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung...
Xin trân trọng giới thiệu tới các doanh nghiệp, doanh nhân mười phương kế hữu hiệu trong cạnh tranh giành thắng lợi.
Đây là một nguyên tắc được dùng phổ biến nhất trong đấu tranh quân sự và chính trị, và nó cũng thích hợp trong cạnh tranh kinh tế thời hiện đại vì doanh nghiệp là một hệ thống lớn kiểu mở cửa, luôn muốn trao đổi thông tin và trao đổi năng lượng với môi trường toàn xã hội.
Bảo thủ là điều tối kị trong cạnh tranh, phải xem xét đánh giá tình hình, biết trước, làm trước là "pháp bảo" của thắng lợi. Các doanh nghiệp phải biết nhìn xa trông rộng và có sáng kiến để đối phó những thay đổi, những sự cố đột biến, tránh tình trạng không kịp đề phòng, không kịp trở tay.
Trên thương trường, hạt nhân của "bất ngờ, đánh vào chỗ không chuẩn bị" được thể hiện ở chữ "kỳ" Mưu lược "xuất kỳ bất ý" mà các ông chủ hiện đại thường dùng đều dốc tâm sức vào chữ "kỳ". Nếu muốn thành công đòi hỏi bạn phải có tư tưởng kinh doanh xuất kỳ (lạ thường), đưa ra sản phẩm lạ thường, xảo thuật kinh doanh lạ thường, phương thức tiêu thụ và thái độ phục vụ khác lạ.
"Thời gian là vàng bạc" thực sự là kinh nghiệm cạnh tranh hiện đại bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị của đồng tiền, đến chiếm dụng và tốc độ quay vòng của đồng tiền, đến việc năm bắt cơ hội. Với một doanh nghiệp mà nói, cơ hội thường là điểm chuyển hướng của thăng tiến, là nơi mở ra thành công, chỉ có nắm chắc được thời cơ thì chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mới có thể mang lại hiệu quả. Người cạnh tranh hiện đại phải rất coi trọng "cơ hội" phải tranh thủ thời gian từng giây, từng phút, nếu có cơ hội phải quyết đoán, dứt khoát bắt tay vào làm ngay.
Binh pháp có phép dùng binh: "Đánh đòn phủ đầu, lùi trước tiến sau". Người hành động sau trong cạnh tranh cũng có thể thắng được người khác - trên tất cả các mặt đều tỏ ra ưu thế hơn người hành động trước, họ có thể tiếp thu bài học thất bại của người đi trước để giành được hiệu quả kinh tế tương đối tốt. Nhưng người làm sau phải nhằm đúng thời cơ, hành động dứt khoát, quyết đoán, quyết không thể hành động mù quáng để dẫn đến thất bại quá sớm, cũng không nên do dự chần chừ mà để lỡ thời cơ
Cạnh tranh kinh tế thực chất là cuộc cạnh tranh về nhân lực, vật lực và tài lực. Nhưng bất kỳ cá nhân, tập thể nào cũng đều bị hạn chế trong những nguồn này. Trong tình hình như vậy, phải sử dụng nguồn vốn như thế nào để có hiệu quả nhất - Đây là một trong những điểm mấu chốt để cạnh tranh thắng lợi. Người thành công thật sự thì quy mô sự nghiệp của họ không thể trải ra quá rộng mà chỉ nên hành động trong phạm vi mình có thể nắm chắc được. Như vậy bảo đảm tập trung ưu thế, đột phá trọng điểm, thúc đẩy toàn cục.
Đây là một trong những nguyên tắc bắt buộc người quyết sách phải tuân theo khi lựa chọn phương pháp tối ưu. Muốn trong một thời gian ngắn chiếm được ưu thế canh tranh với chi phí thấp nhất, con đường duy nhất có thể lựa chọn là hướng tới cái lợi, tránh cái hại, phát huy sở trường, tránh sở đoản. Trong cạnh tranh kinh tế, bất kì một doanh nghiệp nào cho dù thực lực có mạnh đến đâu đều có điểm yếu và điểm mạnh của mình, đều không thể chiếm lĩnh toàn bộ thị trường. Trường hợp đứng trước lợi hại đan xen phải tuân thủ theo nguyên tắc: Hai cái lợi lấy cái lợi lớn, hai cái hại lấy cái hại nhỏ "Lấy cái mạnh của mình đánh lại cái yếu của đối phương" đồng thời đánh vào khe hở của thị trường.
Trong đối kháng và canh tranh của thị trường chúng ta không thể mãi mãi chỉ đi theo con
đường thẳng, trên vấn đề "thẳng" và "cong" phải cố gắng nhìn xa trông rộng, dự báo tương lai một cách chính xác, dũng cảm đối mặt với khó khăn, tỉnh táo nhìn nhận thành tích. Vừa làm hảo hán trong hoàn cảnh thuận lợi, không quá đắm mình trong tình thế có lợi, lại vừa làm anh hùng trong hoàn cảnh khó khăn, không hề dao động trước nguy cơ áp lực.
Kế Vu hồi được ứng dụng trong thời gian, là lấy kéo dài thay thế tốc thắng (thắng nhanh). Trong tình huống thời cơ và điều kiện chín muồi phải thần tốc, quyết chiến quyết thắng. Ngược lại khi điều kiện chưa đầy đủ, thời cơ chưa chín muồi, phải tính kế lâu dài, bảo toàn thực lực và lực lượng, đợi thời cơ chiến đấu lâu dài.
Để thực hiện mưu lược này nhà doanh nghiệp phải mang trong trái tim chí hướng lớn, phải tự tin vào tương lai ở phía trước; nếu thấy tự hổ thẹn, nhát gan lùi bước, không có chí hướng lớn thì khó có thể bước qua cửa ải "long môn". Thực hiện mưu lược "tích tiểu thành đại" còn phải có ý chí kiên trinh bất khuất và tinh thần không ngại khó khăn gian khổ. "
Những người thành công đều biết vận dụng thành thạo chiến thuật tiến thoái hợp lý hơn nữa đây còn là "pháp bảo"của thành công. Trong tình thế ở vào bất lợi, có thể đầu hàng, có thể giảng hòa cũng có thể rút lui. Trong ba điều này đầu hàng là thất bại hoàn toàn, giảng hoà là một nửa thất bại, rút lui có thể chuyển bại thành thắng.
Trong cạnh tranh kinh tế, lùi bước cũng là một khái niệm rất có giá trị. Có thể dự báo xem xét trước được hay không những thất bại hoặc tình hình xấu có thể xẩy ra để có được kế hoạch và thu xếp chu đáo.
Vì mục đích phát triển lâu dài, người thành công thường phải hi sinh một vài lợi ích nhỏ trước mắt, thậm chí bỏ ra một số vốn để mở rộng việc kinh doanh buôn bán từ nay về sau và cũng từ đó để gây dựng lòng tin. Người kinh doanh của doanh nghiệp phải thông qua hạch toán tỉ mỉ điều tra và dự tính chu đáo thị trường, mục tiêu "thả dây dài để câu cá lớn". Vì vậy có thể chấp nhận buôn bán lỗ vốn cũng được, chỉ cần đầu tư trên thị trường có tiềm lực phát triển thì cuối cùng vẫn giành được thắng lợi lớn.
Trong tác phẩm của mình, Michael Porter cũng thừa nhận không thể đưa ra một định nghĩa tuyệt đối về khái niệm năng lực cạnh tranh. Theo ông, “để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp phải có được lợi thế cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có được chi phí sản xuất thấp hơn hoặc là có khả năng khác biệt hoá sản phẩm để đạt được những mức giá cao hơn trung bình.
Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần phải ngày càng đạt được những lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp những hàng hoá hay dịch vụ có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn”.
Quan niệm của Michael Porter đã đề cập đến vấn đề năng lực cạnh tranh còn bao hàm cả việc doanh nghiệp phải liên tục duy trì lợi thế cạnh tranh của mình. Nói cách khác, doanh nghiệp phải liên tục duy trì mức lợi nhuận trên cơ sở bám sát với nhịp độ phát triển của thị trường hoặc thậm chí chủ động tạo lập nên sự phát triển của thị trường hoặc thậm chí chủ động tạo lập nên sự phát triển của thị trường. Việc hạ thấp giá thành sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh theo quan niệm mang tính dài hạn này của Michael Porter cũng như đại đa số các nhà nghiên cứu khác không bao hàm việc hạ thấp giá thành bằng những biện pháp có tính tiêu cực như cắt giảm lương nhân viên, cắt giảm chi phí bảo hộ lao động, cắt giảm chi phí phúc lợi, cắt giảm chi phí môi trường... Năng lực cạnh tranh ở đây cần phải được gắn liền với khái niệm phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội.
Có thể nói, ở giác độ vi mô, các nhà nghiên cứu vẫn chưa đưa ra được một định nghĩa thống nhất về khái niệm năng lực cạnh tranh, song cho dù có thể đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh thì cũng phải lưu ý rằng khái niệm năng lực cạnh tranh là một khái niệm động và các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh vì thế cũng không phải là một hệ thống các chỉ tiêu cố định. Đó phải là một hệ thống các chỉ tiêu không chỉ phản ánh được khả năng duy trì và phát triển về lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương lai. Việc xác định được hệ thống các chỉ tiêu này có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng cho mỗi doanh nghiệp để có thể định hướng xây dựng, khai thác và phát triển lợi thế cạnh tranh của mình.
Tổng hợp các trường phái lý thuyết trên, trên cơ sở quan niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và khả năng bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường, năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp có thể được xác định trên bốn nhóm yếu tố cấu thành sau:
Một là chất lượng, khả năng cung ứng, mức độ chuyên môn hoá các đầu vào.
Hai là, các ngành sản xuất và dịch vụ trợ giúp cho doanh nghiệp.
Ba là, yêu cầu của khách hàng về chất lượng hàng hoá, dịch vụ.
Cuối cùng là vị thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
Có thể nói, năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp có thể được hiểu là năng lực tồn tại, vươn lên trên thị trường cạnh tranh của doanh nghiệp về một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó, nói cách khác đó là khả năng duy trì (tăng trưởng) lợi nhuận và thị phần trong nước và quốc tế đối với một hay nhiều sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp.
1.2.Tính tất yếu khách quan của cạnh tranh
Chúng ta đang sống trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế mà trong đó các quyết định phân bổ nguồn lực, sản xuất và phân phối sản phẩm dựa trên cơ sở các giao dịch tự nguyện trên thị trường giữa nhà sản xuất, người tiêu dùng và chủ sở hữu đối với các yếu tố sản xuất. Việc ra quyết định trong nền kinh tế thị trường mang tính phi tập trung, nghĩa là các quyết định được đưa ra một cách tự phát, độc lập bởi các nhóm hay các cá nhân trong nền kinh tế thị trường chứ không có kế hoạch hay do các nhà lập kế hoạch của bộ máy nhà nước đề ra. Một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường là cạnh tranh. Cạnh tranh được coi như động lực thúc đẩy và tạo nên môi trường cho sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất. Bên cạnh đó, đi cùng với nền kinh tế thị trường là sự tồn tại của các quy luật kinh tế. Đây là những quy luật tác động trực tiếp tới bất cứ chủ thể nào khi gia nhập thị trường. Trong đó, quy luật cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản. Quy luật cạnh tranh là những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến giữa các chủ thể kinh tế có hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường trong những điều kiện nhất định, nó đòi hỏi các chủ thể tham gia cạnh tranh phải dùng mội biện pháp để độc chiếm hay chiếm ưu thế về thị trường sản phẩm cạnh tranh, nhờ đó thu được lợi nhuận cao nhất trong phạm vi có thể.
Như chúng ta đã biết, thì hiện nay, nước ta cũng đang vận hành một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó mà việc xem xét ảnh hưởng của cạnh tranh đối với các chủ thể trong nền kinh tế xã hội là vô cùng cần thiết. Cũng phải nói rằng, nền kinh tế thị trường dù vận hành dưới hình thức nào thì cũng mang bản chất của nền kinh tế thị trường, lấy cạnh tranh làm trung tâm.
Với một nền kinh tế thị trường có nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại song song như ở nước ta thì cạnh tranh như một tất yếu. Nền kinh tế nước ta vốn hết sức đa dạng về sở hữu ( nhà nước, tư nhân, tập thể...) và cũng đa dạng về thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể ...), để phát triển đất nước và tạo ra những hàng hoá dịch vụ ngày càng đáp ứng được nhu cầu của nhân dân thì các doanh nghiệp trong nước phải không ngừng cạnh tranh với nhau. Có như vậy mới xoá bỏ được nghèo nàn, lạc hậu. Bên cạnh đó, với các chính sách mở cửa nền kinh tế, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO_ các rào sản thương mại đều phải dần được tháo dỡ để mở đường cho các doanh nghiệp cạnh tranh công bằng trên thị trường trong nước và quốc tế_ thì ngày càng có thêm nhiều hơn các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam, tham gia thị trường Việt Nam, điều này khiến cho thị trường Việt Nam trở nên căng thẳng hơn và cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường vì thế cũng trở nên quyết liệt hơn. Để tồn tại được trên thị trường nhiều đua tranh đó, các doanh nghiệp phải tạo cho mình một năng lực cạnh tranh cần thiết và phải cố gắng duy trì được thế mạnh của mình nếu không sẽ không thể nghĩ đến việc đứng được trên thị trường.
Cạnh tranh là cần thiết cho nền kinh tế vì nó bảo đảm cho việc doanh nghiệp sẽ cố gắng tạo ra được những hàng hoá, dịch vụ tốt nhất để phục vụ cuộc sống của con người trên toàn thế giới. Điều này là hết sức rõ nét vì như chúng ta đã thấy, chỉ trong một ngành có sự độc quyền thôi thì chúng ta sẽ chỉ nhận được hàng hoá dịch vụ từ một nhà cung cấp duy nhất, nhà cung cấp này đôi khi tỏ ra “hách dịch” trong việc cung cấp hàng hoá cho chúng ta. Họ có thể đưa đến cho chúng ta những hàng hoá dịch vụ chất lượng không đảm bảo với giá thành cao mà chúng ta với tư cách là người tiêu dùng vẫn phải chấp nhận mà không được phàn nàn. Với cạnh tranh, thì tình trạng đó sẽ không còn, chúng ta sẽ có rất nhiều nhà cung cấp, và nếu họ không cố gắng để làm hài lòng chúng ta_những “thượng đế” của họ thì rất có thể họ sẽ bị đao thải khỏi thị trường. Với tư cách người mua chắc chắn chúng ta sẽ ưa thích cạnh tranh hơn. Ngoài ra, cạnh tranh còn có nhiều tác dụng khác đối với doanh nghiệp cũng như với nền kinh tế. Cạnh tranh chính là bức hoạ phản ánh rõ nét thực lực của một doanh nghiệp. Chiến thắng các đối thủ trên thị trường sẽ giúp các doanh nghiệp khẳng định được vị thế của mình. Cạnh tranh cũng giúp nền kinh tế phát triển vì các doanh nghiệp vì sự tồn tại, phát triển của mình sẽ không ngừng cải tiến máy móc, trang thiết bị sản xuất để tạo ra những sản phẩm tốt nhất cho thị trường, những doanh nghiệp nào làm không tổt sẽ tự khắc bị đào thải. Nền kinh tế -xã hội nhờ đó mà tăng trưởng và phát triển.
Có thể nói, cạnh tranh chính là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, nó tồn tại một cách khách quan và buộc các doanh nghiệp khi tham gia thị trường phải đối mặt. Chỉ có cạnh tranh thì họ mới đứng vững được trên thị trường, do đó trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình các doanh nghiệp buộc phải chấp nhận cạnh tranh như một tất yếu cho sự ở lại với thị trường của mình. Các doanh nghiệp cũng vì thế phải thường xuyên đua tranh với nhau, thường xuyên cải tiến để giành được ưu thế so với đối thủ. Nếu lợi nhuận được xem như là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải cố gắng sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao nhất nhằm thu được lợi nhuận tối đa đồng thời giảm chi phí sản xuất tạo độ an toàn trong kinh doanh.
1.3. Ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh
Như đã nói, trong nền kinh tế thị trường tất yếu có cạnh tranh. Một doanh nghiệp muốn cạnh tranh được trong nền kinh tế vì thế tất yếu cần có năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, cũng cần nói rằng, năng lực cạnh tranh không chỉ có ý nghĩa đối với doanh nghiệp nói riêng mà nó còn có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia và có ảnh hưởng sâu sắc tới các tầng lớp dân cư trong xã hội.
1.3.1. Đối với doanh nghiệp
Trước hết, việc nâng cao năng lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp chính là cơ sở cho sự tồn tại của doanh nghiệp đó. Trên thị trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là tất yếu khách quan. Các doanh nghiệp luôn phải tìm cách để đánh bại đối thủ của mình và trong cuộc chiến đầy khó khăn đó sẽ phải có người chiến thắng và kẻ thất bại. Người chiến thắng sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển, còn kẻ thất bại sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Mà điều này chắc hẳn không một doanh nghiệp nào muốn xảy đến cho doanh nghiệp của mình. Và vì vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể duy trì chỗ đứng của mình trên thị trường nhiều biến động là việc mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải nghĩ đến để tránh nguy cơ thất bại.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là vấn đề gắn liền với mục tiêu lợi nhuận vốn là lý do tồn tại của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận thì lợi nhuận cao nhất chính là mục tiêu hàng đầu của họ, mà lợi nhuận cao nhất này chỉ có được khi doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh. Hoạt động trong nền kinh tế thị trường, thường xuyên phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp hoặc tiềm ẩn vốn hết sức đa dạng và phức tạp, họ chính là lực lượng thường xuyên đe doạ đến vị thế và chỗ đứng của doanh nghiệp trên thị trường. Cũng vì thế mà doanh nghiệp nào có được năng lực cạnh tranh cao hơn thì doanh nghiệp đó mới có thể tồn tại và phát triển với tư cách là người chiến thắng so với các đối thủ của mình.
Có thể nói không một doanh nghiệp nào khi tham gia thị trường lại muốn mình thảm bại trước các đối thủ khác và vì không muốn thất bại nên họ luôn cố gắng để tồn tại và đứng vững trên thị trường. Làm được điều đó là không hề đơn giản đối với bất cứ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ. Họ phải cạnh tranh hết sức khốc liệt với các đối thủ, giành giật khách hàng, tạo vị thế chỗ đứng. Người ta thường nói “Thương trường như chiến trường”. Rõ ràng, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là vô cùng cần thiết để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiêp trên thị trường.
Bên cạnh đó, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn là cơ sở để phát triển sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là động lực cho sự phát triển sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng và chiều sâu. Doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường là doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng cũng như thị hiếu ngày càng khó chiều của họ nhưng phải tốt hơn đối thủ của mình; sản phẩm có sức thu hút và có khả năng tiêu thụ lớn hơn và điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Từ chỗ có được vị trí vững chắc trên thị trường, doanh nghiệp có thể nghĩ đến việc mở rộng sản xuất kinh doanh và tăng được thị phần của mình trên thị trường. Để đạt được những thành tựu đó, doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới mẫu mã sản phẩm, nắm bắt được thị hiếu của khách hang, thường xuyên chú trọng tới công nghệ sản xuất tiên tiến để tạo ra những sản phẩm không chỉ có mẫu mã đẹp mà còn có chất lượng tốt phục vụ tốt nhất nhu cầu của người tiêu dung. Cùng với những hoạt động đó, doanh nghiệp cũng cần phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị để giảm chi phí sản xuất và chi phí kinh doanh đến mức tối đa, có như vậy mới hạ được giá thành sản phẩm. Đây vốn được coi là một liệu pháp hàng đầu đối với các chủ doanh nghiệp trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình trên thị trường mà giá vẫn luôn là nhân tố được quan tâm nhiều nhất khi khách hàng lựa chọn sản phẩm hay dịch vụ. Với phương châm “ khách hàng là thượng đế”, các doanh nghiệp luôn cố gắng hết sức hết sức để thỏa mãn mọi yêu cầu của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ không những mẫu mã đẹp, chất lượng tốt mà giá cả phải hợp lý, phải chăng. Để thành công trong thế giới cạnh tranh vô cùng khốc liệt ngày nay, một điều cực kỳ quan trọng đối với các doanh nghiệp là phải ý thức được đối thủ cạnh tranh của mình đang làm gì và phải tìm ra được con đường cho mình để bắt kịp hoặc vượt qua sản phẩm của đối thủ. Và cũng để cạnh tranh thành công, doanh nghiệp cần phải thực hiện các nghiên cứu và phát triển sản phẩm đó là lý do cho sự tồn tại của phòng nghiên cứu và phát triển. Qua việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm, doanh nghiệp sẽ hiểu được mong muốn cũng như nhu cầu và khả năng biến nhu cầu của khách hàng thành hiện thực để sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng tốt nhất. Như vậy năng lực cạnh tranh chính là một yếu tố quyết định sự mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và sự phát triển của doanh nghiệp.
1.3.2.Đối với người tiêu dùng
Như đã nói ở trên, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và việc nâng cao năng lực cạnh tranh đã khiến cho các doanh nghiệp có thể sản xuất ra các sản phẩm tốt nhất với giá cả hợp lý nhất để phụ vụ các “ thượng đế” của mình. Rõ ràng, khách hang là những người được lợi nhiều nhất từ việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Bằng việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, người tiêu dùng sẽ có cơ hội được hưởng những hàng hoá tốt nhất với nhiều chủng loại khác nhau, thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vốn vô biên vô hạn của khách hàng. Để luôn dẫn đầu và tồn tại được trên thị trường, doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng, tính năng, công dụng của sản phẩm đồng thời phải sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại và các quy trình sản xuất, quản lý tiên tiến để cắt giảm chi phí. Vì vậy, khách hàng sẽ luôn có những sản phẩm hoàn thiện nhất với giá cả phải chăng nhất.
Cạnh tranh là một trận chiến giữa các doanh nghiệp và các ngành kinh doanh nhằm chiếm được sự chấp thuận và lòng trung thành của khách hàng. Hệ thống doanh nghiệp tự do đảm bảo cho các ngành có thể tự mình đưa ra các quyết định về mặt hàng sản xuất, phương thức sản xuất, và sự định giá cho sản phẩm hay dịch vụ. Cạnh tranh là một tiền đề của hệ thống sở hữu tự do bởi niềm tin rằng càng nhiều doanh nghiệp cạnh tranh sẽ đem đến cho khách hàng những hàng hoá có chất lượng tốt hơn. Nói cách khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách hàng các giá trị tối ưu đối với những đồng tiền mồ hôi công sức của họ.
1.3.3.Đối với nền kinh tế xã hội
Nâng cao năng lực cạnh tranh không chỉ có ý nghĩa đối với riêng bản thân doanh nghiệp hay chỉ với người tiêu dùng mà còn có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với nền kinh tế xã hội của quốc gia thậm chí là quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, cuộc chạy đua của các doanh nghiệp có vai trò động lực thúc đẩy sự phát triển đối với nền kinh tế và nâng cao năng suất lao động xã hội. Khi tham gia một cuộc cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp đều muốn giành thắng lợi dù rõ ràng đó không phải là việc dễ dàng. Tất yếu cho chiến thắng của mình là sự cố gắng của họ trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường có như vậy mới thu hút được mối quan tâm của khách hàng và thu được nhiều lợi nhuận bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của mình. Mà cụ thể là họ sẽ cố gắng để nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ, hạ giá thành nếu có thể, tạo lập và duy trì niềm tin của khách hàng đối với doanh nghiệp. Và như vậy trong cuộc chạy đua đó, những doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ sẽ tự khắc rút khỏi thị trường nhường chỗ cho những doanh nghiệp mới, những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Sự loại trừ bởi cạnh tranh này của nền kinh tế thị trường đã đảm bảo cho sự phát triển đi lên của nền kinh tế. Kinh tế phát triển vững mạnh chính là một sự bảo đảm vững chắc cho sự tiến bộ xã hội. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, khi mà nền kinh tế của một quốc gia gắn liền với nền kinh tế thế giới bởi sự phát triển của công nghệ thông tin đã thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia thì cạnh tranh có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu. Và như vậy cạnh tranh chính là một trong những động lực để phát triển kinh tế xã hội trên toàn thế giới.
Chúng ta từ đây có thể thấy nếu cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường là một cuộc cạnh tranh công bằng và đúng pháp luật thì có thể tạo nên những ảnh hưởng sâu sắc tới không chỉ doanh nghiệp và người tiêu dùng trực tiếp đối với sản phẩm của doanh nghiệp đó mà còn tới toàn bộ nền kinh tế xã hội của một quốc gia và nền kinh tế toàn cầu. Nhưng cũng cần phải chú ý rằng bản thân cạnh tranh cũng chứa đựng những khuyết tật của nền kinh tế thị trường đó là việc các doanh nghiệp luôn chạy theo lợi nhuận mà không chú trọng đến các vấn đề xã hội như tình trạng phân hoá giàu nghèo, vấn đề ô nhiễm môi trường, cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên... Mục tiêu tồn tại phát triển của doanh nghiệp và quốc gia mâu thuẫn với nhau nên vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để hài hoà giữa mục tiêu của cá nhân các doanh nghiệp và mục tiêu của toàn xã hội. Bên cạnh đó là thực trạng cạnh tranh thiếu công bằng, cạnh tranh gian dối, điều này làm các doanh nghiệp làm ăn chân chính cảm thấy bị không còn động lực để cạnh tranh trên thị trường, họ có thể nản lòng và như vậy cạnh tranh mất đi tác động tích cực của nó. Đối với việc này tất cả các quốc gia đều phải hết sức lưu tâm để đảm bảo cho các doanh nghiệp kinh doanh hợp pháp có thể tồn tại phục vụ xã hội.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh là một trong những vấn đề cần được sự quan tâm của tất cả các doanh nghiệp muốn cạnh tranh công bằng với các doanh nghiệp khác vì sự tồn tại và phát triển của bản thân giữa nền kinh tế đang hội nhập và mở cửa mạnh mẽ như nền kinh tế Việt Nam hoà vào xu hướng phát triển chung của thế giới. Và vì thế việc nâng cao năng lực cạnh tranh trở thành mục tiêu của mọi doanh nghiệp trong chiến dịch duy trì chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Tuy nhiên để có thể làm được điều đó là không hề dễ dàng. Có rất nhiều nhân tố có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây có thể là những nhân tố đến từ bên ngoài hay những nhân tố xuất phát từ ngay nội tại của doanh nghiệp mà chúng ta có thể thấy những nhân tố xuất phát từ bên trong này luôn giữ vai trò tiên quyết đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.4.1. Các nhân tố bên ngoài
Có rất nhiều các nhân tố từ môi trường bên ngoài có khả năng tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như các yếu tố đến từ môi trường vĩ mô hoặc vi mô. Nhóm các nhân tố này hết sức đa dạng và phức tạp với ảnh hưởng khá to lớn.
Với môi trường vĩ mô, các nhân tố cũng không phải ít, chúng có thể là các nhân tố kinh tế, các nhân tố liên quan đến chính trị- luật pháp, các nhân tố về khoa học công nghệ, văn hoá xã hội, các nhân tố tự nhiên...
Trong đó các nhân tố kinh tế được xem là quan trọng nhất bởi nó có vai trò quyết định đối với sự hình thành của một doanh nghiệp và có ảnh hưởng tới môi trường kinh doanh trong đó doanh nghiệp tham gia hoạt động. Không chỉ có ảnh hưởng ngay từ bước đầu gia nhập thị trường của doanh nghiệp mà chúng còn có tác động to lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Các nhân tố kinh tế có thể kể ra đây là: tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia, tỷ giá hối đoái, lãi suất, các chính sách kinh tế của Nhà nước.
Nếu một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì đi cùng với nó là mức thu nhập của người dân cũng sẽ nâng cao. Khi thu nhập tăng thì người dân cũng quan tâm nhiều hơn đến tiêu dùng. Mức sống gia tăng nhận thức của người dân vì thế cũng cao hơn, do đó đòi hỏi của họ đối với sản phẩm dịch vụ không những cần giá thành hợp lý mà chất lượng còn phải tốt, mẫu mã phải đẹp... Những đòi hỏi này sẽ tác động tới các doanh nghiệp, buộc họ phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, tiếp cận công nghệ hiện đại giảm chi phí để cạnh tranh.
Về tỷ giá thì ảnh hưởng của nó đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chỉ thực sự rõ nét khi doanh nghiệp đó có hoạt động kinh doanh trên thị trường quốc tế vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến giá nguyên vật liệu nhập._. từ nước ngoài, việc này cũng đồng nghĩa với việc gia tăng chi phí của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Lãi suất cũng được coi là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Muốn thành lập và hoạt động, doanh nghiệp thường phải đi vay, do đó lãi suất cao sẽ làm gia tăng chi phí của doanh nghiệp cho hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ giảm.
Các chính sách của Nhà nước cũng có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhà nước có thể đưa ra những chính sách kích thích sự phát triển của doanh nghiệp hoặc kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp bằng cách này hay cách khác.
Đối với các nhân tố thuộc môi trường luật pháp, chính trị thì sự ổn định về chính trị là tiền đề cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Hệ thống pháp luật với những điều khoản rõ ràng về kinh tế, cạnh tranh sẽ kích thích các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình một cách hiệu quả.
Chúng ta đang sinh sống trong thời đại của khoa học công nghệ hiện đại với những biến đổi nhanh chóng. Để bắt kịp thời đại thì việc nắm bắt được những tiến bộ khoa học công nghệ và áp dụng chúng vào hoạt động sản xuất kinh doanh là một đòi hỏi đối với các doanh nghiệp muốn gia tăng sức cạnh tranh của mình so với các đối thủ trên thị trường.
Ngoài các nhân tố trên thì các phong tục tập quán, lối sống, thị hiếu cũng như thói quen tiêu dùng ... hay các yếu tố thuộc môi trường tự nhiên cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào biết khai thác các thế mạnh của mình như hiểu rõ nắm vững tâm lý khách hàng hay lợi thế về nguồn lực tự nhiên cũng sẽ có được lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh của mình.
Đối với các nhân tố thuộc môi trường vi mô, mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Michael Porter đã thể hiện rất rõ, đó là những áp lực mà các nhân tố thuộc môi trường ngành đưa lại cho doanh nghiệp buộc doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Số lượng và quy mô của nhà cung cấp sẽ quyết định đến áp lực cạnh tranh, quyền lực đàm phán của họ đối với ngành, doanh nghiệp. Nếu trên thị trường chỉ có một vài nhà cung cấp có quy mô lớn sẽ tạo áp lực cạnh tranh, ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.
Khả năng thay thế sản phẩm của nhà cung cấp : Trong vấn đề này ta nghiên cứu khả năng thay thế những nguyên liệu đầu vào do các nhà cung cấp và chi phí chuyển đổi nhà cung cấp (Switching Cost).
Thông tin về nhà cung cấp : Trong thời đại hiện tại thông tin luôn là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của thương mại, thông tin về nhà cung cấp có ảnh hưởng lớn tới việc lựa chọn nhà cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp.
Hiện nay trên thị trường chỉ có 2 nhà cung cấp chip ( Bộ vi xử lý -CPU) cho máy tính là AMD và Intel. Tất cả các máy tính bán ra trên thế giới đều sử dụng bộ vi xử lý của hai hãng này chính vì quyền lực đàm phán của Intel và AMD với các doanh nghiệp sản xuất máy tính là rất lớn.
Một trường hợp nữa ngay trong ngành công nghệ thông tin là các sản phẩm của hệ điều hành Window như Word, Excel. Các nhà sản xuất máy tính không có sự lựa chọn vì chưa có hệ điều hành, các sản phẩm soạn thảo văn bản nào đáp ứng được nhu cầu tương đương với các sản phẩm của Mircosoft.
Với tất cả các ngành, nhà cung cấp luôn gây các áp lực nhất định nếu họ có quy mô , sự tập hợp và việc sở hữu các nguồn lực quý hiếm. Chính vì thế những nhà cung cấp các sản phẩm đầu vào nhỏ lẻ (Nông dân, thợ thủ công....) sẽ có rất ít quyền lực đàm phán đối với các doanh nghiệp mặc dù họ có số lượng lớn nhưng họ lại thiếu tổ chức.
Khách hàng là một áp lực cạnh tranh có thể ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.
Khách hàng được phân làm 2 nhóm: Khách hàng lẻ, Nhà phân phối. Cả hai nhóm đều gây áp lực với doanh nghiệp về giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ đi kèm và chính họ là người điểu khiển cạnh tranh trong ngành thông qua quyết định mua hàng.
Tương tự như áp lực từ phía nhà cung cấp ta xem xét các tác động đến áp lực cạnh tranh từ khách hàng đối với ngành: Quy mô, Tầm quan trọng, Chi phí chuyển đổi khách hàng, Thông tin khách hàng.
Đặc biệt khi phân tích nhà phân phối ta phải chú ý tầm quan trọng của họ, họ có thể trực tiếp đi sâu vào uy hiếp ngay trong nội bộ của doanh nghiệp.
Wal- Mart là nhà phân phối lớn có tầm ảnh hưởng toàn thế giới, hệ thống phân phối của Wal mart có thể ảnh hưởng tới nhiều ngành hàng như thực phẩm, hàng điện tử , các hàng hàng hóa tiêu dùng hàng ngày. Wal Mart có đủ quyển lực để đàm phán với các doanh nghiệp khác về giá cả, chất lượng sản phẩm cũng như các chính sách marketing khi đưa hàng vào trong hệ thống của mình.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, việc đưa các sản phẩm vào hệ thống phân phối của các siêu thị luôn gặp phải khó khăn và trở ngại vì các áp lực về giá và chất lượng. Hầu hết các sản phẩm của Việt Nam như dệt may, da giầy rất khó xâm nhập vào các thị trường lớn như Mỹ ,EU nếu không qua hệ thống phân phối. Chính vì vậy chúng ta đã được lắng nghe những câu chuyện về việc một đôi giầy sản xuất ở Việt Nam bán cho nhà phân phối với giá thấp còn người dân Việt Nam khi mua hàng ở nước ngoài thì phải chịu những cái giá cắt cổ so với sản phẩm cùng chủng loại ở trong nước.
Theo M-Porter, đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trên trong ngành nhưng có thể ảnh hưởng tới ngành trong tương lai. Đối thủ tiềm ẩn nhiều hay ít, áp lực của họ tới ngành mạnh hay yếu sẽ phụ thuộc vào các yếu tố sau
Sức hấp dẫn của ngành: Yếu tố này được thể hiện qua các chỉ tiêu như tỉ suất sinh lợi, số lượng khách hàng, số lượng doanh nghiệp trong ngành.
Những rào cản gia nhập ngành : là những yếu tố làm cho việc gia nhập vào một ngành khó khăn và tốn kém hơn: Kỹ thuật, Vốn , Các yếu tố thương mại: Hệ thống phân phối, thương hiệu , hệ thống khách hàng ...
Các nguồn lực đặc thù: Nguyên vật liệu đầu vào ( Bị kiểm soát ), Bằng cấp , phát minh sáng chế, Nguồn nhân lực, sự bảo hộ của chính phủ ....
Không ai có thể lường được việc Apple sẽ cho ra đời máy nghe nhạc Ipod đánh bại người hùng về công nghệ mutilmedia như Sony. Rõ ràng sức hấp dẫn của cầu các thiết bị nghe nhạc đã đưa Ipod trở thành sản phẩm công nghệ được ưa chuộng nhất. Chính Sony đã tự làm các rào cản về công nghệ, thương hiệu của mình giảm sút bằng việc quá chú trọng vào phát triển theo chiều rộng nhiều ngành để người tí hon Apple thâm nhập và kiểm soát toàn bộ thị trường, biến lợi thế cạnh tranh của Sony trở thành gánh nặng cho chính họ.
Tương tự như ví dụ trên chúng ta so sánh trong ngành công nghiệp nặng như sản xuất máy bay. Rào cản gia nhập ngành quá lớn cả về vốn, công nghệ, nguyên vật liệu đầu vào nên hiện tại chỉ có 2 hãng hàng không lớn cạnh tranh với nhau là Airbus và Boeing. Nếu không có sự đột biến về công nghệ để chế tạo ra sản phẩm mới hoặc là tối ưu hơn máy bay ( Loại máy nào đó có thể đi từ nơi này sang nơi khác như truyện cổ tích) hoặc là tính năng tương tương nhưng giá và công nghệ rẻ hơn thì chắc chắn rào cản gia nhập ngành chế tạo máy bay vẫn là đích quá xa cho các doanh nghiệp khác.
Sản phẩm và dịch vụ thay thế là những sản phẩm, dịch vụ có thể thỏa mãn nhu cầu tương đương với các sản phẩm dịch vụ trong ngành.
Ta có thể lấy luôn ví dụ sau đó mới đưa ra các nhận định về áp lực cạnh tranh chủ yếu của sản phẩm thay thế : Phần lớn thành viên trong Saga là các quý ông. Mà các quý ông thì có sở thích uống bia, rượu khi đã uống vào rồi thì là say, say thì các phu nhân sẽ không thích. Các bác thường đổ lỗi cho bạn bè, đồng nghiệp, đối tác .... để biện cớ cho việc mình tiêu thụ lượng lớn bia để bổ sung doanh thu cho các hàng bia hơi. Vậy bia thỏa mãn nhu cầu gì: Gặp gỡ đối tác, Tụ họp bạn bè, Bàn công việc với đồng nghiệp, .... còn vô vàn lý do khác nhưng ta xét trên phương diện công việc nên chỉ dùng một vài yếu tố để nhận định.
Vậy sản phẩm thay thế của bia, rượu là một hàng hóa ( hoặc dịch vụ có thể thỏa mãn các nhu cầu ở trên). Tại đây tôi xin liệt kê một số hàng hóa có thể thay thế được bia rượu : Uống cafe, uống trà, chơi thể thao .Các dịch vụ này có thể thỏa mãn các nhu cầu trên và thêm vào một lợi ích là được chị em saganor hoan nghênh.
Qua ví dụ trên chúng ta thấy áp lực cạnh tranh chủ yếu của sản phẩm thay thế là khả năng đáp ứng nhu cầu so với các sản phẩm trong ngành, thêm vào nữa là các nhân tố về giá, chất lượng , các yếu tố khác của môi trường như văn hóa, chính trị, công nghệ cũng sẽ ảnh hưởng tới sự đe dọa của sản phẩm thay thế.
Tính bất ngờ, khó dự đoán của sản phẩm thay thế : Ngay cả trong nội bộ ngành với sự phát triển của công nghệ cũng có thể tạo ra sản phẩm thay thế cho ngành mình. Điện thoại di động chính là sản phẩm thay thế cho điện thoại cố định và sắp tới là VOIP sẽ thay thế cho cả hai sản phẩm cũ.
Chi phí chuyển đổi: Chúng ta biết các phần mềm mã nguồn mở như Linux hay như ở Việt Nam là Viet Key Linux giá thành rất rẻ thậm chí là miễn phí nhưng rất ít người sử dụng vì chi phí chuyển đổi từ hệ điều hành Window và các ứng dụng trong nó sang một hệ điều hành khác là rất cao và có thể ảnh hưởng đến hoạt động, các công việc trên máy tính.
Các doanh nghiệp đang kinh doanh trong ngành sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo ra sức ép trở lại lên ngành tạo nên một cường độ cạnh tranh. Trong một ngành các yếu tố sau sẽ làm gia tăng sức ép cạnh tranh trên các đối thủ
Tình trạng ngành : Nhu cầu, độ tốc độ tăng trưởng ,số lượng đối thủ cạnh tranh...
Cấu trúc của ngành : Ngành tập trung hay phân tán.
Ngành phân tán là ngành có rất nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau nhưng không có doanh nghiệp nào có đủ khả năng chi phối các doanh nghiệp còn lại
Ngành tập trung : Ngành chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp nắm giữ vai trò chi phối ( Điều khiển cạnh tranh- Có thể coi là độc quyền)
Các rào cản rút lui (Exit Barries) : Giống như các rào cản gia nhập ngành, rào cản rút lui là các yếu tố khiến cho việc rút lui khỏi ngành của doanh nghiệp trở nên khó khăn : Rào cản về công nghệ, vốn đầu tư; Ràng buộc với người lao động, Ràng buộc với chính phủ, các tổ chức liên quan (Stakeholder), Các ràng buộc chiến lược, kế hoạch.
Thị trường cung cấp dịch vụ viễn thông di động Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều nhà cung cấp nhưng quyền lực chi phối thị trường vẫn nằm trong tay 3 nhà cung cấp dịch vụ viễn thông là Vina Phone , Mobifone và Viettel.. Nhu cầu sử dụng dịch vụ của Việt Nam tăng khoảng 5-10%/ năm, doanh thu, lợi nhuận của các nhà cung cấp cũng tăng với con số tương đương. Mặc dù cho các rào cản gia nhập ngành, rào cản rút lui .... là cao, áp lực từ khách hàng không đáng kể nhưng đang có rất nhiều doanh nghiệp chuẩn bị gia nhập vào thị trường . Một điều đáng mừng hơn nữa là sự ra đời của ngành dịch vụ kèm theo dịch vu viễn thông như : Các tổng đài giải trí, cá cược, các dịch vụ khác mà điển hình gần đây là xem giá chứng khoán qua mạng di động. Với xu hướng này sức cạnh tranh trong nội bộ ngành sẽ ngày càng gia tăng và lúc đó người tiêu dùng sẽ ngày càng được tôn trọng hơn.
Áp lực từ các bên liên quan mật thiết là áp lực không được đề cập trực tiếp ngay trong ma trận nhưng trong quyển sách " Strategic Management & Business Policy" của Thomas L. Wheelen và J. David Hunger có ghi chú về áp lực từ các bên liên quan mật thiết: Chính phủ, Cộng đồng Các hiệp hội, Các chủ nợ, nhà tài trợ, Cổ đông,
Complementor ( Tạm hiểu là nhà cung cấp sản phẩm bổ sung cho một hoặc nhiều ngành khác: Microsoft viết phần mềm để cho các công ty bán được máy tính, các doanh nghiệp khác có thể soạn thảo văn bản để bán được hàng...)
1.5. Phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bằng ma trận
Trong quá trình nghiên cứu về cạnh tranh, người ta sử dụng khái niệm năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh vốn có thể được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau như năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ… Trong phần nghiên cứu này chúng ta chỉ tập trung đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đồng thời đề xuất vận dụng công cụ ma trận về các yếu tố môi trường nội bộ để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hang để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh với các đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, các doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.
Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp cạnh tranh nào có khả năng thoả mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này và có hạn chế về mặt khác. Vấn đề cơ bản là doanh nghiệp phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Những điểm mạnh và điểm yếu bên trong của một doanh nghiệp được thể hiện thong qua các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp như marketing, tài chính, sản xuất, nhân sự, công nghệ, quản trị, hệ thống thong tin… Tuy nhiên, để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cần xác định được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ, chất lượng sản phẩm và bao gói, kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng, thông tin và xúc tiến thương mại, năng lực nghiên cứu và phát triển, thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp, trình độ lao động, thị phần sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng của thị phần, vị thế tài chính, năng lực tổ chức và quản trị doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp hiện nay, thông qua phương pháp so sánh trực tiếp các yếu tố nêu trên để đánh giá năng lực cạnh tranh của mình so với các đối thủ cạnh tranh. Đây là phương pháp truyền thống và phần nào phản ánh được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này là không cho phép doanh nghiệp đánh giá tổng quát năng lực cạnh tranh của mình với các đối tác cạnh tranh mà chỉ đánh giá được từng mặt, từng yếu tố cụ thể. Để khắc phục nhược điểm này, việc nghiên cứu vận dụng ma trận đánh giá các yếu tố môi trường nội bộ, qua đó giúp doanh nghiệp so sánh năng lực cạnh tranh tổng thể của mình so với các đối thủ trong ngành là một giải pháp mang tính khả thi cao.
Quá trình xây dựng công cụ ma trận này không có nhiều khó khăn lắm đối với các doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là cần xây dựng thang điểm và thang đo hợp lý. Đồng thời, trên cơ sở các số liệu điều tra từ nhà quản trị doanh nghiệp, các chuyên gia tư vấn, hay tập hợp ý kiến trực tiếp của khách hang, doanh nghiệp có thể đánh giá khách quan tầm quan trọng của các yếu tố được đưa vào ma trận. Các bước cụ thể để xây dựng công cụ ma trận đánh giá các yếu tố môi trường nội bộ quanh doanh nghiệp bao gồm:
Một là, lập danh mục các yếu tố có vai trò quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong một ngành kinh doanh ( thường là khoảng từ 10 đến 20 yếu tố)
Hai là, ấn định tầm quan trọng bằng cách phân loại từ không quan trọng đến quan trọng nhất cho mỗi yếu tố. Cần lưu ý tầm quan trọng được ấn định cho các yếu tố cho thấy tầm quan trọng tương đối của yếu tố đó với thành công của doanh nghiệp trong ngành kinh doanh. Như vậy, đối với các doanh nghiệp trong ngành thì tầm quan trọng của các yếu tố được liệt kê ở bước trước là như nhau.
Ba là, phân loại từ 1 đến 4 cho mỗi yếu tố đại diện ( thực tế có thể khoảng điểm rộng hơn). Cho điểm yếu nhất khi phân loại bằng 1, điểm yếu nhỏ nhất khi phân loại bằng 2, điểm mạnh nhỏ nhất khi phân loại bằng 3 và điểm mạnh lớn nhất khi phân loại bằng 4 và như vậy đây là điểm số phản ánh năng lực cạnh tranh từng yếu tố của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh trong ngành kinh doanh.
Bốn là, tính điểm cho từng yếu tố bằng cách nhân mức độ quan trọng của các yếu tố đó với điểm số phân loại tương ứng.
Năm là, tính tổng điểm cho toàn bộ các yếu tố được đưa ra trong ma trận bằng cách cộng điểm của các yếu tố thành phần tương ứng của mỗi doanh nghiệp. Tổng điểm này cho thấy, đây là năng lực cạnh tranh tuyệt đối của doanh nghiệp.
Từ đó, nếu tổng điểm của toàn bộ danh mục các yếu tố được đưa vào ma trận IFE từ 2,50 trở lên thì doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tuyệt đối trên mức trung bình. Ngược lại, tổng số điểm trong ma trận IFE nhỏ hơn 2,50 thì năng lực cạnh tranh tuyệt đối của doanh nghiệp thấp hơn mức trung bình.
Nếu ký hiệu yếu tố cần đánh giá là i, tầm quan trọng của yếu tố là h, điểm số phân loại cho yếu tố là M, năng lực cạnh tranh tuyệt đối của doanh nghiệp là ASI, năng lực cạnh tranh tuyệt đối của các đối thủ cạnh tranh là ASC, năng lực cạnh tranh tương đối của doanh nghiệp là RS, ta có các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thong qua công thức sau:
RS= ASI / ASC
Trong đó, ASC là năng lực cạnh tranh tuyệt đối của doanh nghiệp cạnh tranh trực tiếp trên thị trường mục tiêu của doanh nghiệp cần đánh giá hay còn được gọi là doanh nghiệp chuẩn.
Nhìn chung, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một tất yếu khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nếu không làm được điều này, doanh nghiệp không chỉ thất bại ở nơi đất khách quê người mà còn có thể phải chấp nhận những hậu quả tương tự trên ngay chính trên quê hương mình. Để nâng cao năng lực cạnh tranh thì một trong những việc mà doanh nghiệp cần làm là chủ động đánh giá thực lực kinh doanh của mình và tìm ra những điểm mạnh cơ bản để phát huy. Hy vọng rằng công cụ ma trận đánh giá các yếu tố môi trường nội bộ doanh nghiệp này sẽ góp phần giúp các doanh nghiệp đánh giá được năng lực cạnh tranh của mình trong mối tương quan so sánh với các đối thủ cạnh tranh trong thị trường mục tiêu, để từ đó tìm ra được những lợi thế cơ bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn giữ vị trí vô cùng quan trọng và đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế quốc gia. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp này đã và đang phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên bên cạnh việc mở ra các cơ hội cho các doanh nghiệp thì quá trình hội nhập cũng đem lại vô vàn những khó khăn và thách thức. Và phải nói rằng thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam chính là khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này trên trường quốc tế.
Năng lực cạnh tranh như đã nói đến từ đầu là thuật ngữ dung để nói đến các đặc tính cho phép một hãng cạnh tranh một cách có hiệu quả với các hãng khác nhờ chi phí thấp hoặc sự vượt trội về công nghệ và kỹ thuật trong so sánh quốc tế. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có nhiều lợi thế về cạnh tranh, tuy nhiên cũng còn nhiều hạn chế và yếu kém.
Thứ nhất, chất lượng và khả năng cạnh tranh về quản lý còn yếu kém. Đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bọ quản lý còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi với trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn các chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế- xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế. Từ đó khuynh hướng phổ biến là các doanh nghiệp hoạt động quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức trên các phương diện: quản lý tổ chức, chiến lược cạnh tranh, phát triển thương hiệu, sử dụng máy tính và công nghệ thong tin. Một số chủ doanh nghiệp mở công ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích kinh doanh, trong khi đó thiếu kiến thức và kỹ năng về kinh doanh vì vậy đã dẫn đến rủi ro và thất bại. Khả năng liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp chưa chặt chẽ, điều đó phần nào làm giảm bớt sức mạnh của cả cộng đồng doanh nghiệp.
Thứ hai, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao làm yếu đi khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. So sánh các sản phẩm trong nước với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philipines,… thì sản phẩm sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam có giá thành cao hơn từ 1,58 đến 9,25 lần mặc dù giá nhân công lao động thuộc loại thấp so với các nước trong khu vực. Hơn nữa, có quá nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động kinh doanh một mặt hàng trên cùng một thị trường đã dẫn đến tình trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp giảm sút. Tình trạng các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh với nhau, làm giảm giá một cách không cần thiết, đặc biệt là với các mặt hàng xuất khẩu đã làm giảm đáng kể năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp còn chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, chưa thực sự việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh, hạn chế khả năng cạnh tranh bằng giá (giá thành các sản phẩm trong nước cao hơn các sản phẩm nhập khẩu từ 20% - 40%). Chi phí kinh doanh còn cao, năng lực và bộ máy quản lý điều hành chưa tất, cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, công nghệ kinh doanh và khả năng tiếp cận đổi mới công nghệ kinh doanh còn lạc hậu,...
Thứ ba, năng lực cạnh tranh về tài chính vẫn còn rất yếu kém. Quy mô vốn và tài chính ( kể cả vốn chủ sở hữu và tổng vốn) của nhiều doanh nghiệp còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả vừa thiếu bền vững. Số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ khá cao, số lượng các doanh nghiệp này tuy tăng lên nhưng chủ yếu là quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu (xét về tổng thể thì 90% các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ). Tiềm lực về tài chính (đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân) hầu như rất hạn chế, vốn đầu tư ban đầu ít, vốn lưu động lại càng ít. Thiếu vốn dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không có điều kiện để lựa chọn các mặt hàng có chất lượng cao trong kinh doanh, đầu tư vào đổi mới các thiết bị, công nghệ kinh doanh. Những khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn của các doanh nghiệp là rất lớn, trong khi vốn tồn đọng còn nhiều trong các nguồn và việc huy động vốn trong dân vào đầu tư sản xuất kinh doanh chưa được cải thiện. Các doanh nghiệp Nhà nước được ưu đãi hơn về vốn trước hết là được cấp vốn ban đầu từ ngân sách, cấp đất xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh... Còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu dựa vào vốn tự có của cá nhân. Với khả năng tiếp cận nguồn vốn hạn chế, các doanh nghiệp có tình trạng phổ biến là chiếm dụng vốn lẫn nhau, làm lây nhiễm rủi ro giữa các doanh nghiệp.
Thứ tư, nhận thức và sự chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam còn rất hạn chế. Một số khá lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam còn chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hóa và sở hữu công nghiệp. Tình trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam bị các cơ quan chức năng phàn nàn, xử phạt vi phạm các chế độ về thuế, tài chính còn phổ biến. Nguyên nhan của tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng là do việc nhận thức, hiểu biết của doanh nghiệp về pháp luật còn hạn chế. Tâm lý ăn chuôi vẫn còn khá phổ biến.
Thứ năm, sự yếu kém về thương hiệu đã góp phần làm yếu khả năng cạnh tranh. Chưa đẩy mạnh ứng dụng chiến lược marketing tổng thể hoặc marketing đa dạng sản phẩm và đa thương hiệu. Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam chưa xây dựng được các thương hiệu mạnh, chưa khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có chiến lược xây dựng thương hiệu, chưa tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm và dịch vụ, do đó khả năng cạnh tranh còn yếu. Theo số liệu khảo sát của VCCI, chỉ có gần 10% số doanh nghiệp là thường xuyên tìm hiểu thị trường nước ngoài và trong số này chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu; khoảng 42% doanh nghiệp tìm hiểu thị trường nước ngoài không thường xuyên và khoảng 20% doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không có các hoạt động tìm hiểu thị trường nước ngoài. Việc tạo lập thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp còn bị xem nhẹ, chưa thực sự coi thương hiệu là tài sản của doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng còn ít. Nhận thức về tầm quan trọng của kênh phân phối của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế. Phần lớn các doanh nghiệp không xây dựng được mạng lưới phân phối trực tiếp ở nước ngoài.
Văn hóa doanh nghiệp, văn minh thương mại, hệ thống dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu và yếu.
Hội nhập quốc tế đã buộc các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh để đủ sức đứng vững trên thị trường. Năng lực cạnh tranh của các nhà quản lý doanh nghiệp là một trong những nhân tố quan trọng nhất có thể ảnh hưởng quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nhân ngày nay cần có những năng lực tổng hợp và ở mức độ cao hơn hẳn 5 năm trước, trong đó cần đặc biệt chú trọng bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về xây dựng và phát triển thương hiệu, về chiến lược cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh là sức mạnh của doanh nghiệp được thể hiện trên thương trường. Sự tồn tại và sức sống của một doanh nghiệp thể hiện trước hết ở năng lực cạnh tranh. Để từng bước vươn lên giành thế chủ động trong quá trình hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh chính là tiêu chí phấn đấu của các doanh nghiệp Việt Nam.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT, KINH DOANH &
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY TNHH NGỌC HOA
1. Giới thiệu chung về quá trình hình thành và phát triển của công ty TNHH Ngọc Hoa
1.1. Chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực sản xuất kinh doanh của công ty
Địa chỉ: 98 Cầu Gỗ, Hàng Bạc, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Diện tích mặt bằng kinh doanh: Hiện nay là 1 m2
Công ty TNHH Ngọc Hoa là một cơ sở sản xuất kinh doanh của tư nhân được thành lập từ những ngày đầu với quy mô tương đối nhỏ.
Trong 2 năm hoạt động của mình, chức năng, nhiệm vụ chính của công ty TNHH Ngọc Hoa là sản xuất và kinh doanh băng keo, đề can và các loại sản phẩm. Trong đó có thể nói văn phòng phẩm chính là những mặt hàng chủ đạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Là một doanh nghiệp hình thành và phát triển cùng với chặng đường đổi mới và phát triển của đất nước, công ty TNHH Ngọc Hoa cũng đã góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trước hết khi gia nhập vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, công ty cũng đã có những đóng góp vào ngân sách Nhà nước thông qua chế độ thuế, đồng thời tạo ra các sản phẩm phục vụ đời sống nhân dân trong nước. Bên cạnh đó, sự gia nhập của công ty cũng làm gia tăng sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng hoạt động trong ngành sản xuất văn phòng phẩm, do đó làm nền kinh tế phát triển. Ngoài ra, công ty cũng đã tạo ra công ăn việc làm cho không ít người, cùng các doanh nghiệp trong cả nước nâng cao đời sống nhân dân.
Lĩnh vực sản xuất chủ yếu của công ty theo giấy phép đăng ký kinh doanh bao gồm:
Băng dính
Đề can
Văn phòng phẩm khác
1.2. Đặc điểm bên trong của công ty
1.2.1. Đặc điểm về cơ cấu tổ chức
Hình 1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty TNHH Ngọc Hoa
GIÁM ĐỐC
PGĐ.
Kinh doanh
Kế toán trưởng
PGĐ.
Sản xuất
Tổ trưởng tổ vận chuyển
TP.
Kinh doanh
Thủ kho
Tổ trưởng tổ sản xuất
Thủ kho
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty TNHH Ngọc Hoa đã cho chúng ta thấy các bộ phận, các vị trí quản lý quan trọng của công ty cũng như quan hệ giữa các vị trí, các bộ phận đó theo các tuyến quyền hạn chủ yếu. Nó đã chỉ cho các nhà quản lý và nhân viên của công ty biết họ đang ở đâu trong tổ chức, gắn bó với các bộ phận khác và với tổ chức ra sao.
Công ty TNHH Ngọc Hoa được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp, các luật khác có liên quan và theo Điều lệ Công ty đã được đại hội đồng cổ đông thông qua.
Bộ máy tổ chức điều hành của công ty có thể thấy bao gồm: giám đốc công ty, 02 Phó giám đốc phụ trách những bộ phận khác nhau, Kế toán trưởng và các tổ trưởng, trưởng phòng chức năng.
Nếu xét theo cấp quản lý, cán bộ quản lý của công ty được chia thành 3 cấp:
Cán bộ quản lý cấp cao, giám đốc của công ty, là người chịu trách nhiệm quản lý toàn diện đối với toàn bộ tổ chức. Ông là người có quyền quyết định chiến lược của công ty, quyết định các chính sách và chỉ đạo các mối quan hệ của tổ chức với môi trường. Ông ta cũng là cán bộ quản lý tổng hợp.
Cán bộ quản lý cấp trung, các phó giám đốc và trưởng phòng kế toán, là những người chịu trách nhiệm quản lý những bộ phận và phân hệ của tổ chức mà cụ thể ở đây là bộ phận sản xuất, kinh doanh, kế toán. Họ là những người lãnh đạo của các cán bộ quản lý cấp thấp hơn. Trách nhiệm của họ là chỉ đạo quá trình triển khai các chính sách của tổ chức và thiết lập mối quan hệ cân bằng giữa đòi hỏi của những nhà quản lý với năng lực của các nhân viên. Trong trường hợp của công ty, các cán bộ quản lý cấp trung này cũng chính là những cán bộ quản lý chức năng.
Cán bộ quản lý cấp cơ sở, các trưởng phòng, tổ trưởng, thủ kho, là những người chịu trách nhiệm trước công việc của những người lao động trực tiếp._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12329.doc