MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
Stt
Tên bảng
Trang
Bảng 1
Báo cáo kết quả kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu từ năm 2001- 2003
15
Bảng 2
Kết quả kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản theo mặt hàng từ năm 2001- 2003
18
Bảng 3
Báo cáo kết quả kinh doanh theo thị trường từ năm 2001-2003
22
Bảng 4
Cơ cấu trình độ của cán bộ công nhân viên của công ty từ năm 1999-2003
27
Bảng 5
Cơ cấu độ tuổi của cán bộ công nhân v iên của công ty từ năm 1999-2003
29
Bảng 6
Cơ cấu về giới tính của cán bộ
57 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động Sản xuất kinh doanh của Công ty XNK & Đầu tư Hà Nội (UNIMEX), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công nhân viên của công ty từ năm 1999-2003
30
Bảng 7
Tình hinh sử dụng lao động của công ty từ năm 2001-2003
31
Bảng 8
Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty từ 2001-2003
32
Bảng 9
Các yếu tố chi phí của công ty XNK và đầu tư Hà nội năm 2001-2003
34
Bảng 10
Tình hình nộp ngân sách của công ty
35
LỜI NÓI ĐẦU
Như ta đã biết, hoạt động xuất khẩu đối với một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong xu hướng hội nhập ngày nay. Chính vì vậy mà việc nâng cao hiệu quả, nâng cao kim ngạch xuất nhập khẩu là mối quan tâm của chính phủ Việt Nam nói chung và của các doanh nghiệp ngoại thương nói riêng. Điều này thể hiện rõ trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước, Đảng và nhà nước ta đã hết sức coi trọng kinh tế đối ngoại trong đó có xuất nhập khẩu. Hiện nay cơ cấu hàng hoá nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhiều mặt hàng xuất nhập khẩu đạt giá trị kim ngạch cao. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có một số những vấn đề nổi cộm xuất phát từ thực tế kinh tế yếu kém của nước ta. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của nước ta mà đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu. Do vậy việc nghiên cứu đánh giá và đưa ra những biện pháp khắc phục nhằm đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu là hết sức cần thiết và cấp bách đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay..
Với tinh thần trên, trong thời gian thực tập tại Công ty XNK và đầu tư Hà Nội (Unimex- Hà Nội) được sự giúp đỡ của các cô, các chú phòng Kinh doanh 1, cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo : T.S Tạ Văn Lợi, tôi đã viết báo cáo thực tập này với mục đích tìm hiểu hoạt động kinh doanh, trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu của công ty UNIMEX, đồng thời đánh giá về thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty và đề ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu tại công ty.
Nội dung của báo cáo thực tập gồm có:
Chương I: Khái quát về công ty xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội.
Chương II. Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Chương III. Mục tiêu, phương hướng và hướng lựa chọn đề tài nghiên cứu
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU VÀ ĐẦU TƯ HÀ NỘI.
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY.
1. Lịch sử hình thành
Công ty xuất nhập khẩu và đầu tư Hà nội là một tổ chức kinh tế, làm chức năng quản lý sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu, chịu sự chỉ đạo về kinh tế – kỹ thuật ngoại thương của Bộ Ngoại thương nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cùng với sự phát triển và xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới của đất nước, công ty XNK và Đầu tư Hà Nội đã trải qua các giai đoạn hình thành và phát triển với các mốc thời gian như sau:
Tháng 2/1962, Công ty thu mua hàng xuất khẩu được thành lập do nhu cầu kinh doanh, sản xuất hàng xuất khẩu của thành phố ngày càng phát triển. Năm 1976 được đổi tên thành công ty Ngoại thương Hà Nội, sau đó là Sở ngoại thương Hà Nội.
Tháng 4/1980 hoạt động ngoại thương của Thành phố phát triển, UBND Thành phố Hà Nội đã thành lập Liên hiệp công ty XNK Hà Nội. Với tổng số hơn 2000 lao động gồm 6 công ty kinh doanh XNK và 2 xí nghiệp thảm len, Liên hiệp công ty XNK Hà Nội là một đơn vị kinh tế làm chức năng kinh doanh XNK tổng hợp, tổ chức sản xuất và kinh doanh trong nước.
Năm 1981, Liên hiệp công ty XNK Hà Nội được Nhà nước cho trực tiếp kinh doanh XNK với thị trường nước ngoài.
Năm 1987, UBND Thành phố đã chỉ đạo việc sắp xếp lại các cơ sở kinh doanh sản xuất trực thuộc liên hiệp công ty theo hướng tạo điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và cơ chế quản lý để các công ty cấp dưới có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, bộ phận văn phòng công ty vừa làm chức năng quản lý trong phạm vi được phân công, vừa trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu, đầu tư sản xuất và kinh doanh trong nước.
Trong thời kỳ này, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm đẩy mạnh xuất khẩu theo hướng đổi mới, nhưng hoàn toàn chưa có tính thực tế để xây dựng thành các quy định chính thức, nếp suy nghĩ trong công tác quản lý của cơ chế bao cấp chưa dễ thay đổi . Đây cũng là những khó khăn của công ty. Nhưng với những cố gắng của toàn bộ đội ngũ cán bộ, công ty đã đạt được những kết quả nhất định. Điều này đã chứng minh được hướng đi đúng đắn của công ty cũng như khả năng phát triển trong tương lai.
Cuối năm 1991, để phù hợp với yêu cầu phát triển trong tình hình mới, hoạt động của liên hiệp công ty được tăng thêm chức năng đầu tư, liên doanh với nước ngoài, nên được đổi tên thành Liên hiệp công ty XNK và đầu tư Hà Nội.
Trong giai đoạn này tình hình kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều biến động lớn ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành kinh tế, trong đó có lĩnh vực phân phối và lưu thông hành hoá bị tác động mạnh mẽ. Đây là giai đoạn cơ chế thị trường dần dần rõ nét. Vấn đề cạnh tranh xảy ra dữ dội, các khách hàng cũ của công ty trong nước không còn như trước nữa. Hầu hết các đơn vị Tỉnh đã trực tiếp xuất khẩu. Chính vì vậy, thị trường xuất khẩu và nhập khẩu đã bị thu hẹp, mất thị trường các nước XHCN, khu vực thị trường TBCN bắt đầu bị các đơn vị khác cạnh tranh. Các mặt hàng xuất khẩu uỷ thác lớn của công ty không còn nhiều, tình trạng thiếu vốn và chiếm dụng vốn lẫn nhau trong tổ chức kinh doanh khá phổ biến… Tóm lại, giai đoạn này công ty hoạt động trong tình hình chung đang diễn biến phức tạp, nên việc giữ vững và phát triển để thoát khỏi bế tắc là một nỗ lực rất lớn của công ty.
Sau khi nghiên cứu kỹ Quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng chính phủ, Chỉ thị số 18/CP-UB ngày 16/04/1994 của UBND Thành phố Hà Nội, Thông tư số 04-UB/KHH ngày 5/5/1994 của Uỷ ban kế hoạch Nhà nước và Chỉ thị số 272/TTg ngày 3/5/1995 của Thủ tướng chính phủ, Hội đồng giám đốc liên hiêp, ban chấp hành Đảng bộ liên hiệp, Ban chấp hành công đoàn Liên hiệp công ty xin chuyển đổi: Liên hiệp công ty XNK và đầu tư Hà Nội thành: Tổng công ty XNK và đầu tư Hà nội. Việc thành lập Tổng công ty XNK và đầu tư Hà nội trên cơ sở của liên hiệp công ty là cần thiết, tạo khả năng phát triển sản xuất kinh doanh của từng cơ sở và toàn Tổng công ty.
Công ty XNK và đầu tư Hà nội (nằm trong Tổng công ty XNK và đầu tư Hà Nội, được thành lập ngày 24/3/1993 theo Quyết định thành lập Doanh nghiệp Nhà nước số 1203/QĐUB của Uỷ ban Nhân dân Thành phố) là đơn vị kinh tế, hạch toán kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân, có tài khoản tại ngân hàng (kể cả tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng Ngoại thương) và sử dụng con dấu riêng theo quy định của Nhà nước.
Công ty XNK và đầu tư Hà Nội có tên giao dịch đối ngoại: Hà Nội IMPORT-EXPORT-CORPORATION.
Tên điện tín: UNIMEX Hà Nội, trụ sở giao dịch: 41 Ngô Quyền.
Telex: 411506 UHVT
Telex Fax: 84-4-5926
Telephone: 8255008
Tổng hợp vốn của UNIMEX Hà Nội có kết quả sau:
Vốn cố định: 5.538.394.661 đồng
Vốn lưu động:34.858.477.601 đồng.
Vốn khác: 27.424.439.632 đồng.
Từ năm 1995 đến nay, công ty bắt đầu mở rộng đối tượng kinh doanh ra các đơn vị nhỏ, lẻ như: Quận, Huyện, kể cả các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, chuyển dần từ XNK uỷ thác sang tự doanh; triển khai kinh doanh gia công XNK; khai thác việc nhập hàng phi mậu dịch phục vụ cho đối tượng người Việt Nam công tác, lao động, học tập ở nước ngoài được hưởng chế độ miễn thuế; xây dựng kho chứa hàng XNK…
Nhờ hàng loạt biện pháp kịp thời, đúng lúc, có hiệu quả nên công ty vẫn đứng vững và tiếp tục phát triển.
Có thể nói, mặt hàng kinh doanh đa dạng đã cho ta thấy chiến lược kinh doanh của công ty là đa dạng hoá sản phẩm. Tuy nhiên, hiện nay công ty đang tìm cho mình một hướng đi mới trong điều kiện tình hình thị trường thế giới có nhiều biến động do nhiều nhân tố tác động: chiến tranh, khủng hoảng, chính trị, thiên tai… Đó là việc tập trung nhiều đến mặt hàng chủ lực có khả năng thu hút được lợi nhuận cao. Trong đó mặt hàng nông sản chính là mặt hàng xuất khẩu được Nhà nước khuyến khích, lại có thị trường thế giới rộng lớn, khả năng cung cấp nguồn hàng dồi dào, đầu ra hợp lý, đảm bảo hàng của công ty được thị trường chấp nhận, có khả năng cạnh tranh với các đơn vị khác trong nước cũng như trên thị trường thế giới.
2. Quá trình phát triển của công ty
Xét về quá trình hoạt động và phát triển của Liên hiệp công ty XNK và đầu tư Hà nội từ khi thành lập đến nay có thể chia ra làm 3 thời kỳ:
2.1. Thời kỳ từ 1962 – 1975
Giai đoạn này là thời kỳ miền Bắc bắt đầu xây dựng và phát triển nền kinh tế CNXH, vừa chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở Miền Nam, vừa duy trì sản xuất phục vụ nhân dân.
Từ khi thành lập công ty kinh doanh hàng xuất khẩu (4/6/1962), công ty đã thực hiện được nhiệm vụ Thành ủy và Uỷ ban Nhân dân Thành phố giao. Từ nguồn hàng xuất khẩu được thu gom từ các huyện ngoại thành và các vùng xung quanh Hà Nội, công ty kinh doanh hàng xuất khẩu đã tập hợp và hình thành mạng lưới cơ sở là các tổ hợp tác, các hợp tác xã sản xuất, gia công hàng xuất khẩu: thảm len, thảm ngô, thảm đay, chiếu se ngô, hàng thêu ren… thu hút hàng vạn lao động thủ đô. Doanh thu năm 1962 của công ty kinh doanh hàng xuất khẩu mới chỉ đạt 123.000 đồng (mặt bằng giá lúc đó) thì đến năm 1975, doanh số của công ty đã đạt 52.000.000 đồng (mặt bằng giá lúc đó). Công ty đã tổ chức các trạm thu mua hàng nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng mây tre, hàng dệt… để hướng dẫn nghiệp vụ làm hàng xuất khẩu cho các cơ sở nhằm mở rộng mạng lưới sản xuất giao thông chế biến và thu gom hàng xuất khẩu. Đây là mô hình tổ chức ban đầu để hình thành và phát triển các đơn vị lớn chuyên doanh của công ty ngoại thương sau này.
2.2. Thời kỳ từ năm 1976 – 1985
2.2.1. Giai đoạn 1976 -1980
Đây là thời kỳ đất nước sau chiến tranh, cả nước xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Vào năm 1979, công ty ngoại thương Hà nội được thành lập với các trạm sản xuất gia công hàng xuất khẩu trở thành các xí nghiệp trực thuộc, đồng thời tiếp nhận thêm một số xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu từ các tổng công ty Trung Ương. Do vậy, quy mô tổ chức của công ty ngoại thương tương đối lớn. Trong giai đoạn này, doanh số của công ty liên tục tăng với mức tăng bình quân hàng năm là 42,1%, nộp lãi năm sau cao hơn năm trước từ 50% đến 96%. Riêng năm 1980 bằng 3 lần so với năm 1979. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm : thảm len, thảm đay, thêu ren, hàng dệt may… Lần đầu tiên Ngoại thương Hà Nội trực tiếp xuất khẩu 311 tấn lạc vỏ sang thị trường Singapore và nhập khẩu trực tiếp 1000 tấn urê phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Bằng các hoạt động XNK của mình, Liên hiệp công ty XNK Hà Nội đã khai thác được tiềm năng kinh tế của Thành phố và các vùng xung quanh, tạo công ăn việc làm góp phần ổn định đời sống cho hàng mấy vạn lao động. Phần nộp ngân sách đã góp phần cân đối thu chi ngân sách của Thành phố, quỹ hàng hoá nhập khẩu đã góp phần phát triển sản xuất và ổn định đời sống nhân dân Thủ đô. Sự phát triển các đơn vị trực thuộc Liên hiệp công ty đã tạo tiền đề cho sự phát triển thành các công ty thành viên độc lập sau này.
2.2.2. Giai đoạn từ 1981 – 1985
Đây là giai đoạn hoạt động ngoại thương của Việt Nam gặp nhiều khó khăn: đối với thị trường khu vực I, sự phân công hợp tác trong nội bộ khối S.E.V phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, nhu cầu nhập khẩu phải tương ứng khả năng xuất khẩu. Đối với các nước Khu vực II, do chính sách cấm vận của Mỹ và một số nước, quan hệ thương mại bị thu hẹp. Trước tình hình đó, Thành phố chủ trương phát triển ngoại thương nhằm giải quyết sự mất cân đối trong phát triển sản xuất và ổn định đời sống xã hội. Thực hiện chủ trương này, Liên hiệp công ty XNK Hà Nội đã có bước phát triển vượt bậc.
Về tổ chức, tiếp tục mở rộng quy mô, thành lập thêm 9 đơn vị đầu mối sản xuất kinh doanh. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong giai đoạn này tăng bình quân 14,6%/năm. Trong cơ cấu xuất nhập khẩu, phần xuất khẩu địa phương đã chiếm tỷ trọng 32,9%, phần nhập khẩu địa phương chiếm tỷ trọng tới 83,71%. Phạm vi kinh doanh xuất nhập khẩu của liên hiệp công ty đã mở rộng ra nhiều địa phương khác ở miền Bắc, Miền Trung. Đã hình thành các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: dệt kim, len đan, thảm len, khăn mặt bông, thảm đay, thêu màu, đồ hộp, khăn ăn, than đá, lạc vỏ, hoa tươi… Bằng nguồn vốn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu địa phương, Liên hiệp công ty đã nhập các loại máy móc thiết bị, phụ tùng, nguyên vật liệu phục vụ công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, và hàng tiêu dùng phục vụ đời sống.
Đánh giá thành tích của Liên hiệp công ty XNK Hà Nội, năm 1983 Nhà nước đã trao tặng Huân chương Lao động hạng 3.
2.3. Thời kỳ đổi mới 1986 – nay
2.3.1. Giai đoạn 1986 – 1990
Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục giảm sút nghiêm trọng, đời sống nhân dân rất khó khăn. Về kinh tế đối ngoại, khối S.E.V tan rã, buộc Việt Nam phải tự cân đối xuất nhập khẩu nên không đảm bảo đủ nguyên liệu phục vụ cho sản xuất và hàng tiêu dùng phục vụ đời sống, các đơn vị sản xuất – kinh doanh chuyển dần từ cơ chế bao cấp sang cơ chế tự hạch toán kinh doanh. Để đẩy mạnh được xuất khẩu, nhà nước đã cho phép nhiều đơn vị sản xuất – kinh doanh được xuất khẩu trực tiếp để nhập khẩu nguyên liệu, hàng hoá duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện chủ trương trên, Liên hiệp công ty XNK Hà Nội đã hợp tác liên doanh với nhiều đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu, tạo nguồn hàng xuất khẩu cho UNIMEX Hà Nội. Do sự thay đổi về tổ chức quản lý, chính sách điều hành XNK chung của Nhà nước, hoạt động kinh doanh của Liên hiệp công ty XNK và đầu tư Hà Nội gặp không ít khó khăn, nhưng tổng kim ngạch XNK của công ty trong giai đoạn này vẫn duy trì được ở mức tương đối cao, đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách Nhà nước.
Đặc biệt trong các năm 1986 đến 1988, Liên hiệp công ty XNK Hà Nội đã tạo ra một quỹ hàng hoá rất lớn để giúp thành phố cân đối các nhu cầu sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống của nhân dân thủ đô.
Các mặt hàng XNK chủ yếu của Liên hiệp công ty XNK Hà Nội trong giai đoạn 1986 – 1990:
Xuất khẩu: thảm len, thảm đay, hàng mây tre, hàng mỹ nghệ, khăn ăn, lạc nhân, dược liệu các loại, …
Nhập khẩu: hạt nhựa các loại, hạt giống rau, ôtô các loại, xe máy, mỳ chính…
2.3.2. Giai đoạn 1991 – 1995
Năm 1990 tình hình kinh tế xã hội và hoạt động kinh doanh XNK của Việt Nam có nhiều biến động và khó khăn, trong lĩnh vực ngoại thương, khối lượng hàng xuất khẩu của Việt nam từ các nước XHCN giảm từ 10% xuống còn 70% làm mất cân đối về vật tư hàng hoá cho nền kinh tế xã hội. Để bù đắp thiếu hụt đó, yêu cầu cấp bách là phải tăng cường xuất nhập khẩu đối với các nước TBCN, tuy nhiên nền kinh tế của chúng ta chưa chuyển kịp. Trong tình hình này, Nhà nước đã thực hiện chính sách mở cửa cho ngoại thương đối với mọi thành phần kinh tế kể cả các doanh nghiệp liên doanh đầu tư với nước ngoài. Liên hiệp công ty XNK và đầu tư Hà Nội cũng không nằm ngoài các khó khăn thách thức của đất nước. Về nguồn hàng xuất khẩu, liên hiệp công ty cũng chưa tổ chức chuyển đổi kịp về số lượng và chất lượng hàng hoá từ khu vực I ( yêu cầu chất lượng bình thường) sang khu vực II ( yêu cầu chất lượng cao). Về mặt thị trường, do chưa chuẩn bị kịp nên cũng thiếu hụt nghiêm trọng. Tình hình các công ty thành viên cũng gặp không ít khó khăn: một số công ty bị tổn thất do hàng hoá bị tồn đọng vì mất thị trường khu vực I, một số hàng hoá đã xuất mà không thu được tiền do biến động về chính trị của các nước khu vực I; một số công ty bị thua lỗ do chưa có đủ kinh nghiệm trong kinh doanh với thị trường khu vực II. Nhưng với những cố gắng nỗ lực của các công ty và toàn liên hiệp nên hoạt động kinh doanh đã được duy trì và có bước phát triển trong thời kỳ khó khăn 1986 – 1990.
Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong giai đoạn này là: gạo, thảm len các loại, hàng may mặc, than cám, khăn mặt bông, tham đay, thêu ren, mỹ nghệ, mây tre, dược liệu, lạc nhân, da trâu bò muối, nấm muối.
Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: đạm UREA, thuốc trừ sâu, hạt giống rau, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, hàng tiêu dùng phục vụ đời sống.
2.3.3. Giai đoạn 1996 – nay
Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế tại các nước Đông Nam Á và một số khu vực trên thế giới đã làm gay gắt hơn tình trạng thiếu thị trường xuất khẩu của các công ty ngoại thương nói chung và Liên hiệp công ty XNK và đầu tư Hà Nội nói riêng. Mặc dù đã cố gắng thâm nhập vào thị trường các nước TBCN phát triển ở Châu Âu, Mỹ và thị trường Châu Phi, Trung Đông, song kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường mới này chưa thực sự đem lại nhiều hiệu quả.
Trong giai đoạn này, Nhà nước tiếp tục có các chính sách khuyến khích mạnh mẽ về xuất khẩu đối với tất cả các đơn vị sản xuất – kinh doanh, không phân biệt thành phần kinh tế. Năm 2000 trên địa bàn Thủ đô đã có gần 70 đơn vị được XNK trực tiếp, trên 1000 văn phòng đại diện các Công ty nước ngoài đã trực tiếp tham gia quá trình mua bán háng hoá XNK. Trong tình hình đó, Liên hiệp công ty XNK và đầu tư Hà Nội đã có những cố gắng đáng khích lệ trong sản xuất – kinh doanh. Từ cuối những năm 1990 đến năm 2002, nhiều công ty từ chỗ khó khăn đã đạt được mục tiêu ổn định, có bước phát triển, có công ty còn phát triển với tốc độ cao. Về công tác thị trường, Liên hiệp công ty XNK và đầu tư Hà Nội đã có những cố gắng nhằm duy trì những thị trường cũ, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, mở rộng sang một số thị trường mới. Một số doanh nghiệp đã thu được kết quả tại các thị trường mới có tiềm năng: Mỹ, EU, Trung Đông và Châu Phi. Tất cả các công ty đã tham gia xây dựng và triển khai dần chương trình đẩy mạnh công tác xuất khẩu, nhập khẩu và chương trình đầu tư chung của toàn liên hiệp công ty.
Cho đến nay đại bộ phận các Công ty thành viên trực thuộc liên hiệp đã xác định được hướng phát triển và các giải pháp cụ thể của mình trong giai đoạn 2001 – 2005.
Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong giai đoạn này là: gạo, lạc nhân, chè các loại, càphê, hạt điều, hạt tiêu, cao su, hoa hồi, sa nhân, quế, và một số mặt hàng nông sản khác.
Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: máy móc thiết bị, ô tô các loại, hàng điện máy, giấy các loại, nguyên liệu may mặc, xe máy, rượu bia các loại, nguyên liệu phục vụ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG TY
1. Về mặt hàng
Trong những năm gần đây, Công ty XNK và đầu tư Hà Nội đã không còn hoạt động sản xuất, còn hoạt động đầu tư cũng thu hẹp, không còn đáng kể. Hoạt động kinh doanh của công ty chủ yếu chỉ còn lại ở khía cạnh xuất nhập khẩu. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu nhất của công ty vẫn là các sản phẩm nông sản, còn các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu vẫn là máy móc, trang thiết bị, hoá chất… phục vụ sản xuất trong nước.
1.1. Các sản phẩm nhập khẩu
Theo bảng số 1, ta thấy trong 3 năm qua, tình hình nhập khẩu của công ty tương đối thất thường, vào năm 2001, tổng giá trị nhập khẩu của công ty là 3.176.068 USD thì sang năm 2002, tổng trị giá nhập khẩu giảm xuống chỉ còn 2.994.023 USD, bằng 94,27% so với năm 2001. Tuy nhiên, đến năm 2003, kim ngạch nhập khẩu lại tăng rất mạnh mẽ lên 5.704.653 USD, tức là gần gấp đôi so với kim ngạch năm trước. Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu thì công ty chỉ nhập phần lớn là những mặt hàng phục vụ cho quá trình sản xuất trong nước như: máy xúc + đào, nhựa PVC, hoá chất, nhập rất ít mặt hàng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước như chảo chống dính, ôtô…
Cụ thể vào năm 2002, ta nhận thấy có sự giảm mạnh về kim ngạch nhập khẩu đối với rất nhiều mặt hàng: thiết bị văn phòng chỉ đạt hơn 35% so với năm 2001, gỗ các loại giảm xuống chỉ còn khoảng 75%, máy xúc + đào chỉ còn gần 70%. Tuy nhiên, sự sụt giảm kim ngạch nhập khẩu này lại phần lớn là do sự giảm sút trong kim ngạch nhập khẩu của 2 mặt hàng chủ đạo là: gỗ các loại và đặc biệt là sắt thép các loại. 2 mặt hàng này chiếm đến 30% tỷ trọng trong kim ngạch nhập khẩu toàn bộ các mặt hàng của công ty. Chính sự sụt giảm quá lớn của 2 mặt hàng này, đặc biệt là mặt hàng sắt thép các loại,
Bảng1: Báo cáo kết quả kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu từ năm 2001 - 2003
STT
Mặt hàng
Đơn vị
2001
2002
2003
số lượng
giá trị (USD)
số lượng
giá trị (USD)
% giá trị tăng 02/01
số lượng
giá trị (USD)
% tăng giá trị 03/02
1.
Máy xúc + đào
chiếc
3
92.035
2
61.358
66,67
7
200.000
325,96
2
Nhựa PVC
tấn
1.500
209.018
1.500
217.588
104,1
2.000
318.432
146,34
3
Thiết bị văn phòng
chiếc
-
310.200
-
110.028
35,47
-
110.445
100,38
4
Hoá chất các loại
tấn
100
334.400
1.000
382.452
114,40
2.000
750.555
196,25
5
Ôtô các loại
chiếc
20
150.110
40
345.021
229,84
75
589.000
170,71
6
Sắt thép các loại
tấn
4.000
818.294
1.000
217.589
26,59
8.000
1.800.589
827,52
7
Dây cáp + dây điện
cuộn
500
125.868
1.000
320.705
254,79
1.000
271.577
84,669
8
Cao su
tấn
2.000
251.320
4.000
573.866
228,34
5.000
751.100
130,89
9
Chảo chống dính
chiếc
5.000
40.500
20.000
160.610
396,56
10.000
100.555
62,61
10
Gỗ các loại
tấn
4.000
844.323
3.000
638.468
75,62
4.500
812.400
127,24
Tổng
3.176.068
2.994.023
94,27
5.704.653
190,53
Nguồn: Phòng tổng hợp Công ty XNK và đầu tư Hà Nội
tới75%, đã khiến cho tổng kim ngạch nhập khẩu phải giảm xuống đáng kể. Nguyên nhân của việc công ty trong năm 2002 đã nhập khẩu ít thép về hơn không phải là do nhu cầu trong nước về mặt hàng này chững lại, mà tại thời điểm này đang nảy ra cuộc tranh chấp về thị trường xuất khẩu thép giữa 2 khu vực cường quốc là Mỹ và Châu Âu, mà đây lại chính là 2 thị trường nhập khẩu chính của công ty đối với mặt hàng này. Thêm vào đó, chúng ta không thể không kể đến một thực tế đáng mừng trong giai đoạn này, đó là trong nước đã xuất hiện những công ty sản xuất được nhiều loại thép với chất lượng tương đối cao, giá cả lại phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng Việt Nam, có thể chấp nhận được. Nhận ra được thực tế đó, công ty đã nhanh chóng chuyển số vốn lẽ ra được dành để nhập khẩu thép và gỗ các loại sang nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng khác mà người dân Việt Nam đang có nhu cầu rất cao, giả sử như ô tô các loại (kim ngạch tăng gần 3 lần), Dây cáp + dây điện, cao su (hơn 2 lần), và đáng chú ý nhất là chảo chống dính (gần 4 lần). Đây quả là những con số rất ấn tượng đối với hoạt động nhập khẩu, tuy nhiên, những mặt hàng này từ trước đến nay vẫn không phải là những mặt hàng được công ty coi là chủ đạo nên vẫn không thể bù đắp được những mất mát mà công ty phải gánh chịu do sự sụt giảm kim ngạch nhập khẩu của các mặt hàng chủ đạo. Chính vì thế mà dù có sự tăng trưởng đáng kinh ngạc trong việc nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng này thì công ty vẫn phải chịu một sự giảm sút trong tổng kim ngạch nhập khẩu trong năm 2002, khoảng 5%.
Sang đến năm 2003, giá trị nhập khẩu của công ty lại tăng vọt lên gần 2 lần so với năm 2002. Nhận xét chung là trong năm này hầu hết kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng đều có mức tăng trưởng rất tích cực. Ngay cả đối với những mặt hàng mà trong năm 2002 bị giảm sút nghiêm trọng thì trong năm 2003 này cũng phục hồi và đạt được mức tăng trưởng rất cao. Ví dụ, mặt hàng sắt thép, sản lượng nhập khẩu đã tăng lên 8 lần so với năm 2002 và 2 lần so với năm 2001. Mặt hàng gỗ các loại cũng có mức tăng trưởng tương đối cao và cùng với mặt hàng sắt thép các loaị, nó đã khôi phục lại được vị thế đứng đầu, là sản phẩm nhập khẩu đầu tàu của công ty. Năm 2003, chỉ còn 2 mặt hàng là có tăng trưởng âm, đó là chảo chống dính và dây cáp + dây điện. Điều này cũng là dễ hiểu, bởi vì Công ty XNK và đầu tư Hà Nội là một công ty có quy mô tương đối nhỏ, nên dù có thể tìm được nhu cầu đối với các mặt hàng mà mình nhập khẩu về thì cũng khó có thể mở rộng hoạt động kinh doanh của mình ra mọi mặt hàng, chính vì vậy khi để dành vốn để nhập khẩu về những mặt hàng mà công ty coi là chủ đạo thì tất yếu phải hy sinh những mặt hàng khác không quan trọng bằng. Đây cũng là một chiến lược đúng đắn của công ty: đa dạng hoá mặt hàng nhập khẩu nhưng là sự đa dạng hoá có tính chọn lọc.
Nói chung, trong năm 2003, nhận biết được nhu cầu trong nước đối với phần lớn các sản phẩm mà công ty nhập khẩu về sẽ tăng, cho nên công ty đã nhanh chóng tìm kiếm những nguồn hàng nhập khẩu để có thể mua hàng về phục vụ cho nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, ta có thể nhận thấy rằng nhu cầu về các mặt hàng nhập khẩu như sắt thép các loại, cao su… tăng lên rất cao, trong khi đây lại chính là những mặt hàng mà trong nước hoàn toàn có thể sản xuất để phục vụ cho nhu cầu của người dân, điều đó chứng tỏ rằng khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam vẫn còn rất yếu kém. Ngay cả mặt hàng sắt thép các loại sản xuất trong nước, tuy đã dành được lợi thế từ nguyên nhân khách quan của nền kinh tế thế giới vào năm 2002, nhưng đến năm 2003, khi mâu thuẫn giữa 2 khu vực sản xuất thép lớn nhất trên thế giới là Mỹ và EU đã được giải quyết thì lập tức lại bị mất chỗ đứng trên thị trường vào tay các công ty của các nước phát triển này. Khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam là một vấn đề nan giải không chỉ của riêng các công ty sản xuất thép mà còn là của cả Nhà nước Việt Nam.
Còn về phần công ty, phải nói rằng ban quản lý đã rất năng động, tìm ra những cách giải quyết tương đối đúng đắn, dám mạnh dạn chuyển hướng sang nhập khẩu những mặt hàng không phải là chủ đạo khi tình hình thế giới về những sản phẩm chủ đạo biến động theo chiều hướng bất lợi. Tuy nguồn cung về mặt hàng nhập khẩu bị hạn chế, và có lúc cầu lên cao trong khi cung thiếu, dẫn đến giá thép trên thị trường thực tế trong nước có giai đoạn đã vượt
Bảng 2: Kết quả kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản theo mặt hàng từ năm 2001 - 2003
stt
Mặt hàng
năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
1
sản lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Giá cả (USD/ tấn)
sản lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Giá cả (USD/ tấn)
SL tăng trưởng 02/01
Sản lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Giá cả (USD/ tấn)
SL tăng trưởng 03/02
2
Gạo
784.1
196.025
250
798,60
195.843
243
101.85%
1041.3
258.242
248
130.3%
3
Lạc
351,3
462.662
1.317
378,00
498.960
1.320
107,7%
36,0
42.090
1.169
-90,5%
4
Hạt tiêu
287,21
631.480
2.200
251,58
641.805
2.255
84,5%
97,7
342.230
3.500
-61,1%
5
Hạt điều
250,78
207.184
2.800
241,46
965.575
2.880
96,4%
-
-
-
-
6
cao su
503,0
365.178
726
426,87
237.627
641
84,9%
194,6
96.000
491
-55,4%
7
Chè
500,0
795.000
1.590
496,11
793.448
1.599
99,2%
558,8
865.372
1.548
112,6%
8
Cà phê
121,8
177.828
1.460
110,88
128.359
1.157
90,9%
42,0
61.320
1.460
-61,8%
9
Quế
10,00
20.000
2000
12,45
25.522
2.050
120%
8,8
12.833
1.460
-29,4%
10
Hoa hồi
58,4
110.668
1.895
71,20
235.635
1.905
122,4%
334,1
461.490
1.381
333%
11
Sa nhân
6,00
45.000
7.500
4,00
30.000
7.500
66,7%
15,8
120.000
7.590
157%
NGUỒN : PHÒNG TỔNG HỢP CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU VÀ ĐẦU TƯ HÀ NỘI NĂM 2003
mức giá trần do Nhà nước quy định, nhưng công ty vẫn có khả năng nắm bắt được những cơ hội hiếm hoi, tìm kiếm được những mối hàng với giá rẻ tạm thời, nhưng chất lượng đảm bảo để đáp ứng được nhu cầu xây dựng trong nước đang lên cao.
Như vậy, ta có thể thấy rằng việc kinh doanh của công ty luôn được đội ngũ cán bộ công nhân viên thực hiện tương đối tốt. Đội ngũ lao động trong công ty tương đối năng động và tinh tế, có thể nắm bắt được nhu cầu, tình hình biến động của thị trường cả trong nước và trên thế giới để có sự chỉ đạo chuyển hướng kịp thời, phù hợp. Điều đó chứng tỏ công ty đã có một đội ngũ cán bộ có trình độ cũng như nghiệp vụ kinh doanh XNK khá tốt.
1.2. Các sản phẩm xuất khẩu
Trong những năm gần đây, công ty UNIMEX Hà Nội đã bước đầu chuyển hướng kinh doanh hàng xuất khẩu từ thu gom sang đầu tư vào sản xuất, chế biến, tạo chân hàng ổn định và lâu dài, mở rộng mạng lưới thu gom hàng nông sản xuất khẩu ở phía Bắc và phía Nam: chè, lạc, cà phê, cao su… do đó đã thu được những kết quả đáng kể.
Theo bảng số 2, ta thấy tình hình xuất khẩu hàng nông sản của công ty có một số điểm lưu ý như sau:
*. Gạo: là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty, có mức tăng trưởng tốt. Sản lượng xuất khẩu gạo năm 2003 đạt 1.041,3 tấn, tăng 130,3% so với năm 2002, chỉ đạt mức sản lượng xuất khẩu là 798,6 tấn và năm 2001 đạt 784,1 tấn. Do đó kéo theo sự tăng trưởng của doanh thu xuất khẩu mặt hàng gạo.
Để đạt được những thành tựu như vậy là nhờ cả những yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan.
Về yếu tố chủ quan, cần ghi nhận rằng công ty đã có những nỗ lực đáng kể trong việc đầu tư công nghệ, máy móc mới trong việc thu gom, bảo quản, vận chuyển và cả trong sản xuất, chế biến… mặt hàng này, nhờ vậy, chất lượng của mặt hàng gạo xuất khẩu đã tăng lên nhiều so với trước đây, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và khó tính của khách hàng trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, không thể không kể đến một điều kiện khách quan nhưng cũng mang lại cho công ty một lợi thế vô cùng quan trọng. Đó là: Việt Nam, từ một nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan, vào năm này đã vươn lên mạnh mẽ và đã đã đạt được vị thế dẫn đầu trên thị trường gạo quốc tế, trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Điều đó chứng tỏ rằng mặt hàng gạo của nước ta đã được thế giới chấp nhận và ưa chuộng hơn so với trước đây, và do đó, vị thế của bản thân mặt hàng gạo cũng được nâng lên đáng kể, tạo niềm tin nơi khách hàng các nước khác trên thế giới. Chính vì thế, không thể phủ nhận một lợi thế là ngày càng có nhiều đơn hàng nhập khẩu gạo Việt Nam hơn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam nói chung và Công ty XNK và đầu tư Hà Nội nói riêng ngày càng mở rộng được thị trường xuất khẩu gạo của mình.
*.Hoa Hồi: cũng là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty và có mức tăng trưởng vào loại cao nhất so với các mặt hàng xuất khẩu khác.Đặc biệt vào năm 2003, sản lượng xuất khẩu mặt hàng này đạt 334,1 tấn, tăng 333,0% so với năm 2002, chỉ đạt 71,2 tấn. Vì vậy cho nên mặc dù giá cả xuất khẩu của mặt hàng này có giảm chút ít nhưng vẫn tạo ra được mức tăng trưởng đột phá về doanh thu.
*. Chè: Có mức tăng trưởng tốt về doanh thu, năm 2003 đạt 865.372 USD, tăng 109% so với năm 2002 (đạt 793.448 USD). Tuy nhiên, cũng giống như mặt hàng hoa hồi, mức tăng trưởng này đạt được là do sự tăng trưởng về sản lượng trong xuất khẩu chứ không phải là do tăng giá.
*. Cà phê:._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0318.doc