Thực trạng hoạt động nghiệp vụ của hải quan Việt Nam và sự cần thiết phải hiện đại hoá

Mục lục LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................... 3 Chương 1: VAI TRÒ CỦA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ HẢI QUAN HOẶC LIÊN QUAN ĐẾN HẢI QUAN............................................................. 6 1.1. Các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan ............ 6 1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan ......................................

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động nghiệp vụ của hải quan Việt Nam và sự cần thiết phải hiện đại hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
................................ 6 a) Hải quan với sự xuất hiện trong lịch sử hoạt động thương mại. ............. 6 b) Vai trò, vị trí của các điều ước quốc tế trong đời sống luật pháp quốc tế nói chung và hải quan nói riêng: .......................................................................... 7 1.1.2. Các điều ước quốc tế về hải quan ......................................................... 8 1.1.3. Các điều ước liên quan đến hải quan ................................................. 12 1.1.4. Các tổ chức quốc tế có liên quan ........................................................ 16 a) Tổ chức Hải quan thế giới (WCO)......................................................... 16 b) Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu A - Thái Bình Dương (APEC) ............ 22 c) Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) ............................................. 27 d) Diễn đàn Hợp tác Kinh tế A - Âu (ASEM) ............................................. 29 1.2. Vai trò của các điều ước quốc tế đối với vấn đề hiện đại hoá hải quan 33 1.2.1. Hiện đại hoá hải quan - một tất yếu khách quan:.............................. 33 1.2.2. Các nội dung hiện đại hoá hải quan: ................................................. 36 1.2.3. Vai trò của các Điều ước quốc tế có liên quan đến hiện đại hoá hải quan: 38 1.2.4. Vai trò của các Tổ chức quốc tế có liên quan đến hiện đại hoá hải quan: 39 Chương 2 THỰC TIỄN THAM GIA, THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ HẢI QUAN HOẶC LIÊN QUAN ĐẾN HẢI QUAN CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM ................................................................................... 44 2.1. Tổng quan về hải quan việt nam ............................................................ 44 2.1.1. Hải quan việt nam qua các thời kỳ ..................................................... 44 2.1.2. Yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới: ............................................. 46 2.2. Thực tiễn tham gia, thực hiện các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan của hải quan việt nam: .............................................. 49 2.2.1. Sự cần thiết tham gia vào các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan trong tiến trình cải cách, hiện đại hoá của Hải quan Việt Nam: 49 2.2.2. Thực tiễn tham gia các điều ước quốc tế về hải quan và liên quan đến hải quan của hải quan Việt Nam....................................................................... 54 2.3. Những khó khăn, thuận lợi của Hải quan việt nam khi tham gia các điều ước quốc tế này: ........................................................................................ 58 2.3.1. Khó khăn, tồn tại :............................................................................... 58 2.3.2. Thuận lợi: ............................................................................................ 60 2.3.3. Bài học rút ra: ..................................................................................... 62 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT THỰC HIỆN: ..... 65 3.1. Phương hướng tham gia, thực hiện các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan của Hải quan việt nam. .................................... 65 3.2. Đề xuất kiến nghị..................................................................................... 67 I- Biện pháp thực hiện Công ước KYOTO: ..................................................... 67 II- Thực hiện Công ước HS.............................................................................. 73 III. Thực hiện Hiệp định trị giá GATT/WTO: .................................................. 74 IV. Công nghệ thông tin: ................................................................................... 76 V- Thực hiện Hiệp định TRIPs: ........................................................................ 79 KẾT LUẬN........................................................................................................ 81 LỜI NÓI ĐẦU Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và nhà nước ta đã chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính, coi đó là một trong những khâu quan trọng để có thể hội nhập kinh tế quốc tế cả về diện rộng và bề sâu. Với định hướng đó, ngành Hải quan đã sớm tham gia vào quá trình này và đã đạt được nhiều thành tích quan trọng trong các mảng công việc chủ yếu của Ngành như giám sát quản lý, thu thuế xuất nhập khẩu, đấu tranh chống buôn lậu..., bước đầu tạo tiền đề thuận lợi cho tiến trình hiện đại hoá hoạt động hải quan . Tuy nhiên, theo đà phát triển kinh tế, thương mại trên thế giới và ở Việt Nam, giao lưu kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch của nước ngoài với Việt Nam cũng tăng lên đáng kể, điều đó làm cho khối lượng công việc mà ngành Hải quan phải quản lý cũng tăng lên gấp nhiều lần trong khi cơ sở vật chất kỹ thuật, biên chế, trình độ cán bộ có tăng lên không đáng kể. Hệ thống các quy trình làm việc tuy đã được cải tiến, nâng cấp nhưng vẫn chưa thoát hẳn khỏi các biện pháp truyền thống trong khi ngành Hải quan đang trên đà triển khai áp dụng các quy trình nghiệp vụ tiên tiến, hiện đại. Chính khoảng cách bất cập giữa quy trình truyền thống với những mục tiêu yêu cầu của quy trình hiện đại đã đặt ngành Hải quan trước một thách thức phải khẩn trương hiện đại hoá nghiệp vụ hải quan. Hơn nữa, với chính sách thu hút đầu tư, tạo thông thoáng cho các hoạt động xuất nhập khẩu của Đảng, nhà nước, hoạt động của Hải quan cũng phải phục vụ cho định hướng này, phải giảm thiểu phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho những doanh nghiệp làm ăn chính đáng trong khi vẫn phải đảm bảo yêu cầu quản lý, mà chìa khoá của vấn đề này,từ thực tiễn của hải quan các nước, là nghiệp vụ hải quan đã được hiện đại hoá. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ đặt ra đối với Hải quan Việt Nam trong tiến trình hiện đại hoá là: muốn làm tốt thì trước hết phải hiểu rõ, nắm bắt được chính  Deleted: Page 2 Deleted: of 78 xác và đầy đủ các nội dung, yêu cầu hiện đại hoá để từ đó định ra phương án, cách thức, bước đi phù hợp, hiệu quả nhất, mà hầu hết các nội dung hiện đại hoá được đúc kết và tích tụ trong các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan - đối tượng nghiên cứu của khoá luận này. Thông qua việc phân tích nội dung các Điều ước quốc tế có liên quan, các yêu cầu hiện đại hoá nghiệp vụ Hải quan, đối chiếu với các nội dung quy định tại các Điều ước quốc tế đa phương về Hải quan, khoá luận sẽ góp thêm phần cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý cho tiến trình hiện đại hoá Hải quan, xây dựng một chiến lược tiếp cận và tham gia các Điều ước quốc tế đa phương về Hải quan, giúp cho hoạt động Hội nhập quốc tế về Hải quan có những bước đi, lộ trình thích hợp, bảo đảm hài hoà giữa thực hiện các yêu cầu quốc tế với lợi ích quốc gia. Đó cũng chính là việc nhận biết tốt hơn "luật chơi" để tránh bị áp đặt, tránh những bước đi thiếu tỉnh táo trong hội nhập. Phục vụ cho mục tiêu nêu trên, khoá luận tập trung phân tích một số nội dung chủ yếu sau: - Tính tất yếu, khách quan của các yêu cầu hiện đại hoá công tác hải quan. - Thực trạng hoạt động nghiệp vụ của Hải quan Việt nam và sự cần thiết phải hiện đại hoá. - Các nội dung hiện đại hoá hải quan trên thế giới. - Quá trình hội nhập, hiện đại hoá nghiệp vụ của hải quan Việt nam và những bài học rút ra. - Phương hướng chiến lược về hiện đại hoá công tác hải quan và các kiến nghị, giải pháp cụ thể. Trong quá trình thực hiện, người viết đã căn cứ vào các quan điểm, đường lối của Đảng - Nhà nước trong vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, so sánh, dự báo... để làm rõ vấn đề, bảo đảm tính khách quan của kết quả nghiên cứu. Các tài liệu được sử dụng bao gồm các tài liệu, báo cáo tổng kết công tác của ngành hải quan, tài liệu của Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), các tài liệu chuyên ngành và các tài liệu khác trong và ngoài nước có liên quan đến các Công ước về Hải quan hoặc liên quan đến Hải quan. Khóa luận được chia làm ba chương như sau: Chương 1: Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực Hải quan là một xu thế phát triển tất yếu. Chương 2. Thực trạng hoạt động nghiệp vụ của hải quan Việt nam và sự cần thiết phải hiện đại hoá. Chương 3. Phương hướng và giải pháp hiện đại hoá hải quan trong tiến trình hội nhập quốc tế. Người viết xin chân thành cám ơn Tiến sĩ Nguyễn Hữu Khải cùng nhiều cán bộ của Vụ Hợp tác Quốc tế - Tổng Cục Hải quan đã tận tình giúp đỡ để người viết hoàn thành tốt khoá luận này. Chương 1: VAI TRÒ CỦA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ HẢI QUAN HOẶC LIÊN QUAN ĐẾN HẢI QUAN 1.1. Các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan 1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan Hải quan với sự xuất hiện trong lịch sử hoạt động thương mại. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, phong phú và ngày một đòi hỏi cao sự thoả mãn về hàng hoá. Do vậy, các dịch vụ trao đổi, mua bán, chuyển nhượng, tín dụng, thông tin ngày càng phát triển... nên có thể nói, các phạm trù như buôn bán, thương mại, thương trường, thị trường, cạnh tranh luôn gắn liền với sản xuất hàng hoá của xã hội loài người. Như vậy, có thể nói nguồn gốc của các hoạt động hải quan là từ khi xuất hiện sản xuất hàng hoá, con người sản xuất hàng hoá ra không chỉ để thoả mãn nhu cầu của bản thân mà với mục đích để trao đổi, đây chính là tiền đề về kinh tế. Khi xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã, giai cấp chủ nô ra đời dựa vào vị thế và sức mạnh của mình đã chiếm đoạt thành quả, sản phẩm lao động của các nông nô, dần dần xuất hiện những thành phần dư giả vật chất trong xã hội, thúc đẩy sự phát triển của các nghề thủ công, thúc đẩy việc buôn bán, thúc đẩy quá trình tách thành thị ra khỏi nông thôn, cơ cấu xã hội thay đổi và hình thành bộ máy quản lý cai trị trong xã hội. Như vậy, khi xã hội phân chia giai cấp và hình thành các quốc gia, đây chính là các điều kiện về chính trị của việc xuất hiện các hoạt động hải quan. Như vậy, hoạt động hải quan xuất hiện từ khi có sự phân công lao động sản xuất và xuất hiện hàng hoá, và luôn gắn liền với việc trao đổi buôn bán thương mại giữa các vùng lãnh thổ khác nhau. Các cộng đồng này để bảo vệ lợi ích của mình tự đặt ra các biện pháp quy định để kiểm soát hàng hoá qua lại địa phận mình. Có thể nói, nếu không có trao đổi buôn bán thương mại giữa các cộng đồng, các lãnh thổ thì cũng không có hoạt động của hải quan. Xã hội càng phát triển, sự giao lưu giữa các cộng đồng càng đa dạng phong phú về tất cả mọi lĩnh vực, đòi hỏi mỗi cộng đồng, quốc gia phải tự ban hành các quy định về hoạt động của hải quan để kiểm tra, kiểm soát và thực hiện các đường lối chính sách phát triển kinh tế, chính trị xã hội của quốc gia mình và như vậy cùng với sự phát triển của xã hội, pháp luật hải quan cũng ngày một phát triển và hoàn thiện. Ngày nay, pháp luật hải quan của các nước, ngoài việc thực hiện các chức năng chính như kiểm tra hàng hoá, thu thuế, chống buôn lậu, còn có nhiệm vụ mới như kiểm soát lưu chuyển tiền tệ, chống việc rửa tiền của bọn tội phạm, thực hiện việc kiểm tra đối với các quyền về sở hữu trí tuệ, ngăn chặn và phòng chống tội phạm kinh tế, hình sự; kiểm soát sự tuân thủ pháp luật về môi trường, về hàng hải, hàng không và kiểm tra, kiểm soát chất lượng hàng hoá, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng... Vai trò, vị trí của các điều ước quốc tế trong đời sống luật pháp quốc tế nói chung và hải quan nói riêng: Tiến trình phát triển theo dòng lịch sử của các quốc gia và dân tộc trên thế giới đã nảy sinh các mối quan hệ chính trị, kinh tế văn hoá ngày càng phong phú, đa dạng và phức tạp. Để các mối quan hệ đó phát triển ổn định theo những phương hướng nhất định, luật pháp quốc tế đã ra đời, tồn tại thông qua hai hình thức cơ bản, đó là điều ước quốc tế và tập quán quốc tế. Nói cách khác, điều ước quốc tế chính là một trong hai nguồn cơ bản của Luật quốc tế, là sự thoả thuận  Deleted: Page 2 giữa các chủ thể của Luật quốc tế với nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm thiết lập những quy tắc pháp lý bắt buộc gọi là những qui phạm luật quốc tế để ấn định, thay đổi hoặc huỷ bỏ những quyền và nghĩa vụ với nhau. Vì hoạt động hải quan gắn liền với giao lưu và buôn bán quốc tế, hải quan ra đời sau khi phát sinh các nhu cầu và hoạt đông thực tế về giao lưu và buôn bán quốc tế, nên thế giới đã xây dựng nhiều điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan. Mục tiêu của các điều ước quốc tế này nhằm định ra những khuôn khổ pháp lý chung đảm bảo sao cho trong khi hải quan từng nước phục vụ lợi ích và chủ quyền quốc gia mình vẫn dựa trên một số nguyên tắc và tiêu chuẩn nhất định nhằm thúc đẩy giao lưu và thương mại chung của thế giới. Phần nhiều các điều ước đa phương này thể hiện dưới dạng Công ước. Từ đó càng thấy rằng trước yêu cầu quốc tế hoá và hội nhập mạnh mẽ hiện nay, chúng ta cần coi trọng việc nghiên cứu để nắm vững, trên cơ sở đó có những bước đi hợp lý trong việc tham gia các công ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan. Việc hiểu rõ vai trò của các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan sẽ tạo cho ta thế chủ động trong hội nhập quốc tế và khu vực, hạn chế các yếu tố bất lợi, đồng thời qua đó từng bước chuẩn hoá các luật và quy định của ta đáp ứng nhu cầu phát triển trước mắt và lâu dài. 1.1.2. Các điều ước quốc tế về hải quan Có 15 Công ước về hải quan do Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) xây dựng và quản lý. Cụ thể như sau: i) Công ước thành lập Hội đồng hợp tác Hải quan (có hiệu lực từ 4/11/1952). Mục đích: định ra những nguyên tắc cơ bản về tổ chức, hoạt động, mục tiêu của Hội đồng hợp tác Hải quan. Các nước, lãnh thổ Hải quan độc lập, các tổ chức quốc tế tham gia công ước này thì trở thành thành viên WCO, được hưởng các Deleted: Page 2 quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ của WCO. Cho đến nay đã có 161 quốc gia và các lãnh thổ tham gia ký kết công ước này khiến WCO trở thành tổ chức quốc tế lớn thứ hai trên thế giới sau Tổ chức Liên hiệp quốc. ii) Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà các thủ tục Hải quan (Công ước Kyoto) có hiệu lực từ 25/9/1974): Mục đích: nhằm làm cho thủ tục Hải quan của các nước trên thế giới đơn giản hơn và hài hoà với nhau để tạo thuận lợi cho xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh. Đây được coi là một công ước "xương sống" về nghiệp vụ Hải quan. Qua quá trình thực hiện, Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan (cũ) đã bộc lộ rõ những nhược điểm của nó mà một trong những nhược điểm cơ bản là chưa tạo ra sự thống nhất, hài hoà thực sự các qui trình thủ tục hải quan giữa các nước. Bằng việc sửa đổi nội dung, cơ cấu, các yêu cầu cụ thể, tiên quyết khi tham gia công ước, Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan (sửa đổi năm 1999) đã giải quyết được nhược điểm của Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan (cũ) nhằm tạo ra sự thống nhất hài hoà thực sự giữa thủ tục hải quan cuả các nước trên thếgiới. Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan sửa đổi năm 1999 (hiện vẫn chưa có hiệu lực vì đang chờ đủ số thành viên theo qui định thông báo việc tham gia chính thức của họ vào Nghị định thư sửa đổi là 40 thành viên), đến nay mới có 25 nước tham gia ký kết. iii) Công ước về Hệ thống hài hoà trong mô tả và mã hoá hàng hoá (Công ước HS) có hiệu lực từ 1/1/1988), hiện có 108 nước tham gia ký kết. Mục đích: nhằm thống nhất tên gọi của mọi loại hàng hoá trong thương mại quốc tế bằng việc đưa ra một hệ thống thống nhất trong mô tả và mã hoá hàng hoá. Hệ thống này đáp ứng được những yêu cầu cơ bản trong tất cả các lĩnh vực có liên quan (thương mại, hải quan, thuế xuất nhập khẩu, thống kê, giao nhận vận chuyển... hàng hoá).  Deleted: Page 2 Deleted: of 78 iv) Công ước về Danh mục phân loại hàng hoá theo biểu thuế có hiệu lực từ 11/9/1959, nhưng ít được sử dụng. Hiện chỉ có 8 nước tham gia. v) Công ước Hải quan về sổ ATA cho việc chấp nhận tạm thời hàng hoá (Công ước ATA) có hiệu lực từ 30/7/1963, hiện có 63 nước tham gia. Mục đích: tạo thuận lợi cho việc tạm chấp nhận (tạm nhập, tạm xuất khẩu hàng hoá) thông qua việc ban hành và sử dụng bộ chứng từ ATA (Admission Temporaire - Temporary Admission) mang tính quốc tế và các biện pháp bảo dảm cho việc thực hiện. Phạm vi áp dụng: thường áp dụng đối với hàng hoá là các thiết bị chuyên ngành, hàng hội chợ, triển lãm, hàng phục vụ hội nghị hoặc các sự kiện tương tự. vi) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng khoa học có hiệu lực từ 5/8/1969 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 56 nước tham gia. vii) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng giáo dục có hiệu lực từ 10/9/1970 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 38 nước tham gia. viii) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng chuyên nghiệp có hiệu lực từ 1/7/1962 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 55 nước tham gia. ix) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng của người đi biển có hiệu lực từ 1/12/1965 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 42 nước tham gia. x) Công ước Hải quan về tạm nhập các vật dụng bao bì có hiệu lực từ 15/3/1962 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 38 nước tham gia. xi) Công ước Hải quan về tạm nhập các hàng hoá phục vụ hội chợ triển lãm có hiệu lực từ 13/7/1962 do WCO xây dựng và quản lý, hiện có 61 nước tham gia. xii) Công ước Hải quan về quá cảnh quốc tế hàng hoá (Công ước ITI) tạm nhập các vật dụng khoa học có hiệu lực từ 7/6/1961 do WCO xây dựng và quản lý. gia. xiii) Công ước Istanbul có hiệu lực từ 26/6/1990, hiện có 38 nước tham Mục đích: cũng nhằm tạo thuận lợi cho việc tạm chấp nhận, nhưng bao gồm nhiều chủng loại hàng hoá hơn và áp dụng cả đối với các phương tiện giao thông, súc vật... Công ước này cũng quy định tính bắt buộc phải sử dụng bộ chứng từ ATA. xiv) Công ước Nairobi có hiệu lực từ 21/5/1980, còn gọi là Công ước quốc tế về giúp đỡ hành chính lẫn nhau nhằm ngăn ngừa và trấn áp các vi phạm Hải quan. Hiện có 51 nước tham gia công ước này. Mục đích: nhằm thiết lập sự hợp tác đa phương giữa các nước thành viên WCO trên cơ sở trao đổi các thông tin và phối hợp về kiểm soát chống buôn lậu, chống gian lận thương mại, trong đó có chống buôn lậu ma tuý, các chất hướng thần và tài sản văn hoá. xv) Hiệp định Hải quan ASEAN có hiệu lực từ 3/1997: Do các nước ASEAN cùng nhau dự thảo và ký kết, có thể coi như là Tuyên ngôn của ASEAN về Hải quan. Hiệp định nêu ra các mục tiêu phấn đấu của Hải quan các nước trong khối là: Đơn giản hoá và hài hoà hoá trên các lĩnh vực: trị giá hải quan (theo trị giá GATT/WTO với một lộ trình đẩy nhanh); danh mục biểu thuế quan theo mã HS; thủ tục Hải quan (theo tiêu chuẩn của Công ước Kyoto). Có hệ thống pháp luật hải quan trong sáng, minh bạch. Quản lý có hiệu quả và giải phóng hàng hoá nhanh chóng để thúc đẩy thương mại và đầu tư nội khu vực. Phòng ngừa và đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại. Với những mục tiêu cụ thể như: Xây dựng Danh mục Biểu thuế hài hoà ASEAN (AHTN) theo mã HS, hài hoà danh mục biểu thuế cấp 8 số. AHTN sẽ dựa vào HS 6 số, sẽ sử dụng cấp độ 8 số có mục đích thuế. Trị giá Hải quan: trị giá theo GATT, không sử dụng xác định trị giá hải quan như công cụ bảo hộ. Cần có lịch trình thực hiện GATT. Thống nhất cách thức thực hiện Hiệp định ở tất cả các nước thành viên. Thủ tục hải quan: thực hiện đơn giản và hài hoà hoá thủ tục hải quan theo chuẩn mực của Công ước Kyoto nhằm thông quan hiệu quả và nhanh chóng. Trong số các điều ước quốc tế nêu trên, Hải quan Việt Nam tập trung nghiên cứu tham gia một số công ước quan trọng như Công ước Kyoto, Công ước HS, Công ước Nairobi, Công ước ATA. 1.1.3. Các điều ước liên quan đến hải quan Ngoài những công ước trên còn có một số Công ước do các tổ chức quốc tế khác xây dựng và quản lý có liên quan đến hải quan như: i) Hiệp định về Trị giá GATT/WTO (Hiệp định thực hiện Điều VII của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT do Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) xây dựng và Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) quản lý, có hiệu lực từ 1/1/1981 và được điều chỉnh lại khi GATT trở thành WTO, hiện có 145 nước tham gia, trong đó có 127 nước là thành viên WCO, 18 nước không phải là thành Mục đích: tạo ra một hệ thống xác định trị giá Hải quan hợp lý, thống nhất, trung tính. Bao gồm các nguyên tắc: chấp nhận giá thực trả hoặc sẽ phải trả trong điều kiện giao dịch bình thường trên thị trường tự do như là cơ sở để xác định trị giá; việc xác định trị giá được dựa trên giá CIF và trên số lượng thực tế nhập khẩu. ii) Công ước Hải quan về Container do WTO xây dựng và WCO quản lý, có hiệu lực từ 6/12/1975, hiện có 26 nước tham gia ký kết. Mục đích: cho phép chấp nhận tạm thời (tạm nhập, tạm xuất) các container (có hàng hoặc rỗng) mà không thu thuế. Công ước bao gồm các điều khoản về việc tạo ra container, các thủ tục chấp nhận tạm thời container, sử dụng container trong vận chuyển nội địa, quy định kỹ thuật về container dùng trong vận chuyển quốc tế với niêm phong Hải quan... iii) Nhóm các Công ước về ma tuý: Do Liên hợp quốc ban hành, bao gồm: "Công ước thống nhất về ma tuý - năm 1961", "Công ước về các chất kích thích - năm 1971", "Công ước về chống buôn bán ma tuý - năm 1988": Mục đích: thống nhất trong phạm vi quốc tế về việc chống buôn bán, vận chuyển, sử dụng và sản xuất trái phép các loại ma tuý, quy định các biện pháp hợp tác quốc tế về vấn đề này. hoá: iv) Nhóm công ước về tạo thuận lợi cho việc đi lại, vận chuyển hàng Xu hướng quốc tế hoá kinh tế và sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, sự gia tăng du lịch làm bùng phát các nhu cầu về giao thông, vận chuyển hàng hoá, đi lại. Uỷ ban kinh tế, văn hoá, xã hội châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) của Liên hợp quốc đã thông qua giải pháp lớn về cải thiện tình hình giao thông và đi Deleted: Page 2 lại trong khu vực, lấy thập kỷ 90 làm thập kỷ giao thông liên lạc châu Á - Thái Bình Dương. Giải pháp của ESCAP gồm 2 mặt: - Thúc đẩy thiết kế, xây dựng các tuyến đường bộ, đường sắt trong khu vực và liên khu vực với cơ sở hạ tầng hiện đại (phần cứng). - Mặt khác, nhanh chóng tiêu chuẩn hóa, đơn giản hoá và hài hoà các biện pháp quản lý việc đi lại, vận chuyển hàng hoá giữa các nước trong khu vực (phần mềm). "Phần mềm" được phát triển song song với "phần cứng" thì cơ sở hạ tầng mới phát huy được tác dụng. Cả Liên hợp quốc cũng như ESCAP đều khuyến nghị các nước trong khu vực tham gia các Công ước: * Công ước Hải quan về Vận tải hàng hoá quốc tế với sổ TIR (Công ước TIR, 1975): Mục đích: đưa ra phương thức vận tải quá cảnh sử dụng bộ chứng từ TIR (TIR: vận tải đường bộ quốc tế). Bộ chứng từ này được lập dưới dạng sổ gồm nhiều liên khai báo về hàng hoá được vận chuyển. Trang đầu bộ chứng từ này ghi kết quả kiểm tra, xác nhận của Hải quan nước xuất phát. Những trang sau lần lượt được lưu tại Hải quan nước quá cảnh và nước đến cuối cùng để theo dõi (các nước này công nhận kết quả kiểm tra Hải quan của nước xuất phát và không kiểm tra hàng quá cảnh nữa). Như vậy hàng quá cảnh sẽ đi qua các biên giới rất nhanh chóng. * Công ước quốc tế về hài hoà các hình thức kiểm tra ở biên giới (1982): Vì ở biên giới các nước thường có rất nhiều loại hình kiểm tra thuộc nhiều chuyên ngành: kiểm dịch động thực vật, kiểm tra y tế, kiểm tra sự ăn khớp với các tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm tra chất lượng, các loại hình kiểm tra khác về xuất nhập khẩu và quá cảnh hàng hóa, kiểm tra hải quan... Nếu như thiếu sự phối hợp thống nhất các loại hình kiểm tra này thì sẽ gây phiền hà, ách tắc tại các cửa Deleted: Page 2 khẩu. Công ước khuyến nghị: do kiểm tra Hải quan mang tính phổ biến nhất nên các loại hình kiểm tra khác phải hoạt động hài hoà với kiểm tra hải quan. Đồng thời, các nước có chung biên giới cần thu xếp tương thích với nhau về các hoạt động kiểm tra, về giờ giấc làm việc của các trạm cửa khẩu... * Công ước hải quan về tạm nhập xe cộ đường bộ phục vụ thương mại (1956): Đề cập đến việc tạo thuận lợi và các biện pháp quản lý tạm nhập miễn thuế xe cộ dùng trong hoạt động này (xe cộ vận chuyển kinh doanh hành khách, vận tải hàng hoá). v) Hiệp định WTO về Sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) có hiệu lực năm 1995: Trong bối cảnh tự do hoá thương mại toàn cầu, lợi dụng sự nới lỏng các biện pháp quản lý, tình trạng buôn bán trao đổi hàng hoá vi phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày càng nổi cộm, chiếm tới 5-8% tổng số thương mại thế giới. Vòng đàm phán Urugoay đã mất nhiều thời gian để đàm phán, đi đến ký kết "Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ - TRIPS". Hiệp định TRIPs có bước phát triển mới trong việc đề ra các biện pháp thực thi, nhất là khẳng định vai trò quan trọng của Hải quan đối với thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới qua kiểm tra, kiểm soát xuất nhập khẩu. Cơ sở của vấn đề là: nếu thực hiện tốt các biện pháp tại biên giới về sở hữu trí tuệ (thông qua kiểm soát xuất nhập khẩu) thì có thể ngăn chặn hàng hoá vi phạm sở hữu trí tuệ trước khi đưa vào lưu thông, sẽ hiệu quả hơn rất nhiều khi phải truy tìm trong nội địa. vi) Hiệp định về Chương trình Thuế quan ưu đãi hiệu lực chung (CEPT) ký tại Singapore ngày 28/1/1992 đã đưa ra phương pháp và mục tiêu cụ thể: - Xây dựng lộ trình cắt giảm thuế trong nội khối ASEAN xuống 20%, sau đó là 0-5% - theo chương trình cắt giảm thuế quan (điều 4 của Hiệp định CEPT). - Những hàng hoá thoả mãn tiêu thức của CEPT được xác định theo hàm lượng xuất xứ ASEAN là 40% (Điều 5-A2). - Xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế (Điều 5-A2). - Ap dụng Hiệp định trị giá hải quan GATT/WTO (Điều 5-D). vii) Hiệp định quá cảnh ASEAN có hiệu lực từ 1998: Hiệp định nhấn mạnh đến việc tạo thuận lợi cho quá cảnh hàng hoá giữa các nước ASEAN, được ký kết cuối năm 1998 tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại Hà Nội. Hiệp định bao gồm hàng chục nghị định thư nhằm cụ thể hoá các nội dung và cách thức hoạt động và có hiệu lực vào cuối năm 2000. Về hải quan có tới 2 Nghị định thư liên quan trực tiếp (được ASEAN giao cho Hải quan các nước dự thảo và hoàn tất) là Nghị định thư số 2 "Về bố trí các cửa khẩu quá cảnh ASEAN", Nghị định thư số 7 "Về thủ tục Hải quan đối với hàng hoá, phương tiện quá cảnh". Theo quy định này, thủ tục Hải quan với hàng hoá và phương tiện quá cảnh ASEAN sẽ giảm thiểu đáng kể, tạo thuận lợi cho việc giao lưu thương mại và du lịch trong nội bộ khối. 1.1.4. Các tổ chức quốc tế có liên quan Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) Lịch sử hình thành: Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, ngày 12 tháng 9 năm 1947, 13 nước thành viên đại diện cho Uỷ ban Hợp tác Kinh tế Châu Âu đã nhất trí thành lập một Nhóm nghiên cứu để xem xét khả năng thành lập một hay nhiều liên minh hải quan giữa các nước Châu Âu trên cơ sở các nguyên tắc của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Năm sau đó Nhóm nghiên cứu này đã thành lập ra 2 Uỷ ban - Uỷ ban về Kinh tế sau này trở thành Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Uỷ ban Hải quan sau này trở thành Hội đồng Hợp tác Hải quan (CCC). Uỷ ban Hải quan có nhiệm vụ nghiên cứu tổng hợp các vấn đề về kỹ thuật hải quan ở nhiều nước khác nhau nhằm tiêu chuẩn hoá thủ tục hải quan, hài hoà Danh mục hàng hoá và thống nhất định nghĩa trị giá hải quan và các quy định, luật lệ hải quan khác. Ngày 15 tháng 12 năm 1950, Nhóm nghiên cứu này đã đi tới quyết định cần phải thành lập một tổ chức mới mang tính toàn cầu, chuyên trách các vấn đề thuộc nghiệp vụ hải quan nhằm nghiên cứu sâu hơn lĩnh vực phân loại, xác định trị giá hải quan,vv. đồng thời có thể mở rộng phạm vi hoạt động. Thế là “Công ước thành lập Hội đồng Hợp tác Hải quan” ra đời và chính thức có hiệu lực ngày 4/11/1952. Sau đó, hai Công ước quan trọng khác đã được ký kết tại Brussels là “Công ước về Trị giá Hải quan của hàng hoá (có hiệu lực từ ngày 28/7/1953) và Công ước về Danh mục Phân loại Hàng hoá và Biểu thuế Hải quan (có hiệu lực từ ngày 11/9/1959). Tổ chức chính thức của Hải quan đã ra đời. Hội đồng Hợp tác Hải quan không chỉ có nhiệm vụ thực hiện 2 Công ước quốc tế nêu trên mà còn nhằm đạt được ở mức độ cao nhất việc hài hoà và thống nhất các hệ thống quy trình thủ tục hải quan và tăng cường phát triển các kỹ thuật nghiệp vụ và luật lệ quy định về Hải quan. Ngày 26/1/1953 Kỳ họp lần thứ nhất của Hội đồng Hợp tác Hải quan đã diễn ra tại Brussels (với sự tham gia của Tổng cục trưởng Hải quan 17 nước Châu Âu). Vì ý nghĩa lịch sử này, 30 năm sau (năm 1983), Hội đồng Hợp tác Hải quan đã quyết định chọn ngày 26/1 hàng năm làm "Ngày quốc tế Hải quan". Theo Công ước thành lập, chức năng và mục tiêu của Hội đồng Hợp tác Hải quan bao gồm:  Deleted: Page 2 Deleted: of 78 a. Nghiên cứu mọi vấn đề có liên quan đến hợp tác hải quan mà các bên ký kết thoả thuận phát triển phù hợp với các mục tiêu chung của Công ước này; b. Kiểm tra mọi khía cạnh kỹ thuật của các chế độ hải quan cũng như các nhân tố kinh tế liên quan đến chúng, nhằm đề xuất với các thành viên của Hội đồng những phương tiện thực tiễn để đạt được mức độ hài hoà và thống nhất cao nhất; c. Dự thảo các công ước và điều khoản bổ xung Công ước, cũng như khuyến cáo việc thông qua các dự thảo đó cho các Chính phủ hữu quan; d. Ban hành các khuyến nghị nhằm đảm bảo việc giải thích và áp dụng thống nhất các Công ước đã ký do kết quả các công việc của Hội đồng, cũng như đối với Công ước về Danh mục nhằm phân loại hàng hoá trong các biểu thuế quan và Hiệp định về xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá do Nhóm nghiên cứu của Liên minh thuế quan Châu Âu soạn thảo, và để đạt được mục đích này, thực hiện những chức năng mà các điều khoản của Công ước trên quy định rõ ràng cho Hội đồng; e. Ban hành các khuyến nghị với tư cách là một cơ quan hoà giải nhằm giải quyết các tranh chấp có thể nảy sinh trong việc giải thích hoặc áp dụng các Công ước nêu tại khoản (d) trên đây, phù hợp với các điều khoản của các Công ước đó; các bên hữu quan có thể với sự nhất trí chung, thoả thuận trước việc tuân thủ khuyến cáo của Hội đồng; f. Đảm bảo việc phổ biến các thông tin liên quan đến luật lệ và nghiệp vụ hải quan; g. Cung cấp cho các Chính phủ hữu quan , mặc nhiên hoặc theo yêu cầu của họ những thông tin hoặc ý kiến về các vấn đề hải quan nằm trong khuôn khổ các mục tiêu chung của Công ước và ban hành các khuyến nghị về lĩnh vực này; Deleted: Page 2 h. Hợp tác với các ._.Tổ chức liên chính phủ về các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của Hội đồng. Để phản ánh thực tế qui mô phát triển về số lượng các thành viên và ý nghĩa ngày càng tăng trên toàn cầu, Hội đồng Hợp tác Hải quan chính thức được đổi tên thành Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) năm 1994. Cho đến tháng 6/2002, WCO có 161 thành viên, 16 Công ước Quốc tế (tính cả Công ước Kyoto sửa đổi) và 50 khuyến nghị về các lĩnh vực hoạt động của Hải quan. Các Uỷ ban chính của WCO gồm có Hội đồng, Uỷ ban Chính sách, Ban Thư ký, Ban Tài chính, Ban Kiểm soát, Ban kỹ thuật thường trực và Tiểu ban quản lý thông tin, Ban Kỹ thuật về Nguyên tắc Xuất xứ, Ban Kỹ thuật về Trị giá, Ban Kỹ thuật về Hệ thống Hài hoà (HS) và các Tiểu ban Đánh giá lại HS, Tiểu ban Khoa học. Hội đồng là cơ quan quyết định tối cao, gồm những người đứng đầu tổ chức hải quan các nước thành viên, họp phiên toàn thể vào cuối tháng 6 hàng năm tại Brussel hoặc tại một nước thành viên, quyết định đường lối chính sách chung cho các hoạt động trong năm. Ban Thư ký, đứng đầu là Tổng Thư ký, với sự trợ giúp của một Phó Tổng Thư ký, một Cục trưởng Cục Tạo thuận lợi và Tuân thủ, một Cục trưởng Cục các Vấn đề thương mại và Thuế quan, đặt trụ sở chính tại Brussels (Bỉ), với 140 quan chức và nhân viên, có nhiệm vụ hỗ trợ các vấn đề liên quan đến trước và sau phiên họp toàn thể của Hội đồng. Uỷ ban Chính sách bao gồm Chủ tịch Hội đồng do Hội đồng bầu ra và 6 Phó chủ tịch (trưởng đại diện 6 khu vực hải quan), và 17 thành viên, có nhiệm vụ xem xét, đưa ra những khuyến nghị đối với các vấn đề thuộc chính sách chủ yếu của WCO, và hoạt động như một nhóm chỉ đạo định hướng của Hội đồng. Deleted: Page 2 Ban Tài chính gồm 17 thành viên do Hội đồng bầu ra và nhóm họp hàng năm để bàn về các khía cạnh tài chính của WCO, cũng như báo cáo tài chính lên Hội đồng. Trong lĩnh vực hải quan, WCO chia các nước thành viên làm 6 khu vực là: Châu A và Thái Bình Dương; Châu Mỹ; Châu Âu; Bắc Phi, Trung và Cận Đông; Tây và Trung Phi; Đông và Nam Phi. Mỗi khu vực tiến hành các hoạt động khác nhau theo sáng kiến của Trưởng Đại diện Khu vực. Việt Nam thuộc khu vực Châu A - Thái Bình Dương, một khu vực luôn được WCO đánh giá là khu vực năng động và hoạt động có hiệu quả nhất. Hội nghị Hải quan khu vực Châu A - Thái Bình Dương họp hai năm một lần. Hội nghị lần thứ 9 diễn ra tại Hồng Kông năm 2002. Hiện Hồng Kông đang giữ vai trò Trưởng Đại diện Khu vực từ năm 2000. Đóng góp tài chính: Các thành viên đóng góp tài chính trên tinh thần tự nguyện theo dự trù của Ban Tài chính, tuy nhiên mức đóng góp không được ít hơn 0,15% (từ năm tài khoá 2001/2002). Hiện Mỹ là thành viên đóng góp nhiều nhất (25%). Việt Nam đóng góp ở mức 0,15% (tương đương khoảng 20.000 đô la Mỹ). Ngôn ngữ : ngôn ngữ chính thức được sử dụng tại WCO là tiếng Anh và tiếng Pháp. Tiếng Tây Ban Nha được sử dụng trong một số cuộc họp kỹ thuật. Vai trò của WCO: Từ một tổ chức quy mô nhỏ, WCO đã trở thành một tổ chức năng động có quy mô khắp toàn cầu. WCO phối hợp chặt chẽ với các tổ chức khác như WTO, UNCTAD, ICC, UNEP, CITES, UNESCO, UNDCP, INTERPOL, IMF,v.v với những nỗ lực thúc đẩy thương mại bằng việc tạo thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá qua biên giới, đồng thời tăng cường các biện pháp có hiệu quả hạn chế gian lận hải quan, bảo vệ môi trường, bảo vệ các di sản văn hóa thế giới.  Deleted: Page 2 WCO đề ra 3 mục tiêu trong Kế hoạch Chiến lược tập trung hỗ trợ các nước thành viên thực hiện Hiệp định Trị giá WTO gồm: - Giúp các nước thành viên là nước đang phát triển và kém phát triển thực hiện đầy đủ Hiệp định Trị giá WTO. - Khuyến khích các nước thành viên diễn giải và áp dụng Hiệp định Trị giá theo một cách thống nhất, có tính dự báo và minh bạch. - Đảm bảo rằng các nước thành viên tuân thủ các nguyên tắc thống trị của Hiệp định Trị giá WTO thông qua việc áp dụng các thông lệ làm việc đúng mực. Trước thách thức và vận hội mới, WCO đề ra các mục tiêu đạt được trên con đường của thế kỷ 21: Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi thương mại hợp pháp qua biên giới. Tăng cường đấu tranh chống buôn lậu quốc tế. Tăng cường hài hoà và tiêu chuẩn hoá các thủ tục hải quan. Khuyến khích các cơ quan Hải quan trao đổi thông tin nghiệp vụ. Khuyến khích cơ quan Hải quan các nước phát triển và các nước đang phát triển sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Cải thiện quan hệ giữa Hải quan và các Doanh nghiệp. Đáp ứng các đòi hỏi về trợ giúp ngày càng tăng trong lĩnh vực đào tạo Hải quan. Trợ giúp Hải quan các nước tham gia vào nền kinh tế thị trường. Gửi các chuyên gia sang các nước để trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Hoạt động của Hải quan Việt Nam trong khuôn khổ WCO: Với tư cách là thành viên từ năm 1993, Hải quan Việt Nam đã tích cực tham gia vào các hoạt động của Hội đồng như tham dự các kỳ họp, nắm bắt tham gia ý Deleted: Page 2 kiến vào các hoạt động của Hội đồng, các hoạt động cụ thể diễn ra tại Hải quan khu vực Châu A - Thái Bình Dương. Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu A - Thái Bình Dương (APEC) I. Về tổ chức APEC: Vào những năm cuối của thập kỷ 80, trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá của nền kinh tế thế giới, Diễn đàn Hợp tác Châu A -Thái Bình Dương (gọi tắt là APEC) được thành lập năm 1989 với tư cách là một nhóm đối thoại không chính thức. APEC là một tổ chức linh hoạt bao gồm 21 thành viên (nền kinh tế) trong khu vực Châu A - Thái Bình Dương cam kết hợp tác nhằm tự do hoá thương mại và đầu tư, thực hiện hợp tác chặt chẽ hơn nữa về kinh tế và kỹ thuật. APEC là một tổ chức đơn nhất, không phải là một tổ chức chính thức, dựa trên các nguyên tắc thương mại tự do, không giống như Thị trường tự do Châu Âu, không phải là một nhóm hoạch định chính sách hoặc hệ tư tưởng giống như OECD. Mục tiêu của APEC là thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư vào năm 2010 đối với các nền kinh tế phát triển và vào năm 2020 đối với các nền kinh tế đang phát triển, triển khai các cam kết cụ thể trong các lĩnh vực thương mại và đầu tư, mở rộng hợp tác khoa học kỹ thuật. Những mục tiêu liên quan đến hoạt động hải quan là: Tăng cường tự do hoá thương mại và hợp tác kinh tế. Hỗ trợ hệ thống thương mại đa phương mở. Giảm thiểu các hàng rào cản trở trao đổi hàng hoá và đầu tư. Tìm các biện pháp hợp tác để đối phó với các thách thứuc trong khu vực và toàn cầu. Kêu gọi sự đóng góp tự nguyện của các thành viên nhằm tự do hoá thương mại và tạo thuận lợi cho thương mại đầu tư. Đưa vào các biện pháp thuế quan và phi thuế quan. Các chương trình hành động tập thể (CAP): Các hoạt động do các thành viên của APEC cùng thực hiện nhằm đạt mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư. Xử lý các vấn đề biên giới như thuế quan, hải quan tiêu chuẩn và các vấn đề mới nảy sinh do toàn cầu hoá, chính sách cạnh tranh, dịch vụ, mua sắm của chính phủ. II. Hoạt động của Hải quan Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác APEC: Hải quan Việt Nam ưu tiên triển khai thực hiện các mục tiêu là: Đơn giản hoá và hài hoà hoá các thủ tục hải quan theo Công ước Kyoto. Thực hiện Hiệp định Trị giá GATT/WTO. Phân loại hàng hoá theo danh mục HS. Tự động hoá Hải quan. Thực hiện Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ TRIPs. Thực hiện mục tiêu liêm chính Hải quan. Lịch trình thực hiện 12 mục tiêu CAP của Việt Nam là: 1. Về Danh mục HS: Việt Nam đã tham gia Công ước HS và Công ước có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 1/1/2000. Hiện này Danh mục hàng hoá và Danh mục Biểu thuế Xuất nhập khẩu của Việt Nam về cơ bản đã tuân thủ các quy định của Công ước HS ở cấp độ 6 số. Việc mở rộng lên 8 số và việc điều chỉnh Danh mục hàng hoá XNK của Việt Nam hiện đang được Nhóm công tác liên Ngành về Công ước HS nghiên cứu triển khai. 2. Về công khai hóa các thông tin: Việc công khai hóa các thông tin liên quan đến quy trình thủ tục hải quan đã và đang được thực hiện từng bước thông qua các hình thưc như phát hành các ấn phẩm giới thiệu về quy trình thủ tục hải quan, giới thiệu qua các phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết công khai tại các trụ sở hải quan, tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa hải quan và các doanh nghiệp, thiết lập các đường dây nóng để khách hàng kịp thời năm bắt các thông tin cần thiết. 3. Về Công ước Kyoto: Hải quan Việt Nam luôn đánh giá cao tầm quan trọng của Công ước Kyoto trong việc đơn gian hoá và hài hoà hoá các thủ tục hải quan. Trong công cuộc cải cách hành chính của mình, Hải quan luôn lấy Công ước Kyoto làm cơ sở để cải tiến quy trình thủ tục hải quan. Việt Nam đã tham gia Công ước Kyoto (1973) từ năm 1997 và hiện nay đang trong quá trình nghiên cưú trình Chính phủ xem xét việc tham gia Công ước Kyoto sửa đổi. 4. Về UN/EDIFACT và thương mại điện tử: Việc trao đổi dữ liệu điện tử và các thông tin về thương mại điện tử hiện còn là vấn đề mà ta còn gặp nhiều khó khăn cả về trình độ kỹ thuật, vốn, trang thiết bị và cơ sở hạ tầng. Nay ta đã sử dụng các mạng máy tính cục bộ nhưng để đạt mục tiêu này cần có sự đầu tư rất lớn về vốn, trang thiết bị và trình độ kỹ thuật. 5. Về Trị giá Hải quan theo GATT/WTO: Hiện nay Việt Nam đang áp dụng cả 2 phương pháp xác định trị giá theo Định nghĩa Bruxelles và Hiệp định Trị giá WTO. Về cơ bản ta thực hiện theo Hiệp định Trị giá WTO, dựa trên trị giá giao dịch theo chứng từ và hoá đơn thương  Deleted: Page 2 mại. Việc áp dụng Bảng giá tối thiểu ta đã và đang nghiên cứu và giảm dần các mặt hàng trong danh mục Bảng giá tối thiểu này. Việt Nam đang tiến hành các công việc chuẩn bị khẩn trương và cần thiết để có thể thực hiện Hiệp định Trị giá WTO đối với tất cả các hàng hoá xuất nhập khẩu vào năm 2003. 6. Về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs): Đây là vấn đề còn khá mới mẻ đối với Hải quan Việt Nam, tuy nhiên, ta mong muốn sớm thực hiện vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) trong thời gian tới. Hiện nay Hải quan Việt Nam đang phối hợp với các Bộ ngành hữu quan để đưa ra các quy định và thủ tục liên quan tới bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới. 7. Các quy định về kháng nghị rõ ràng: Các vấn đề liên quan đến khiếu nại của doanh nghiệp đối với các quyết định của Hải quan đều được giải quyết thông qua các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành. Hiện nay, Hải quan Việt Nam căn cứ vào Luật khiếu nại tố cáo và trình tự giải quyết các khiếu nại, tố cáo đã được Quốc hội thông qua và căn cứ vào Pháp lệnh Hải quan, Pháp lệnh về xử phạt hành chính, Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính để giải quyết các khiếu kiện của doanh nghiệp. Các điều khoản về kháng nghị cũng đã được thể hiện trong Luật Hải quan vừa được Quốc hội thông qua vào tháng 6/2001. Tuy nhiên, hiện nay ta còn gặp nhiều khó khăn về kiến thức, trình độ và kinh nghiệm thực tế trong việc thực hiện vấn đề này. 8. Về hàng hoá tạm nhập: Tuy Việt Nam chưa tham gia Công ước ISTANBUL và Công ước ATA nhưng trên thực tế loại hình thủ tục tạm nhập tái xuất này đã được áp dụng ở Việt Nam như kho ngoại quan, khu công nghiệp, khu chế xuất, hàng quá cảnh. Trong thời gian tới sẽ xem xét, nghiên cứu khả năng tham gia các Công ước nói trên. Deleted: Page 2 9. Về hài hoà các dữ liệu trong APEC: Hiện nay chưa thực hiện quy trình tự động hoá hải quan nên việc hài hoà các dữ liệu trong APEC là rất khó khăn. Hơn nữa việc cung cấp các thông tin ra bên ngoài cần được Chính phủ cho phép và mức độ cung cấp đến đâu, những thông tin nào có thể cung cấp được? Do vậy, cần có sự chỉ đạo của Chính phủ. Tuy nhiên, Hải quan Việt Nam đang hết sức cố gắng tăng cường công tác tự động hoá các quy trình thủ tục hải quan để trên cơ sở đó thực hiện mục tiêu hài hoà các dữ liệu trong APEC. 10. Các quy định về phân loại trước khi hàng đến: Về hệ thống phân loại trước khi hàng đến, hiện nay Việt Nam chưa có quy định chính thức. Trong tương lai khi thực hiện công tác tự động hoá các quy trình thủ tục hải quan, Hải quan Việt Nam sẽ triển khai thực hiện quy định về loại trước khi hàng đến. 11. Quản lý rủi ro: Vấn đề quản lý rủi ro là một lĩnh vực quan trọng không chỉ trong hoạt động nghiệp vụ hải quan mà cả trong hoạt động quản lý, điều hành toàn bộ các hoạt động của Ngành. Trên thực tế ta còn thiếu kiến thức cơ bản và kinh nghiệm thực tế về vấn đề này. Đây là một trong những vấn đề cần được ưu tiên triển khai thực hiện không chỉ trong khuôn khổ CAP/APEC mà cả trong công cuộc cải cách hành chính của Việt Nam hiện nay. 12. Về thông quan hàng chuyển phát nhanh: Vấn đề thông quan hàng chuyển phát nhanh tuy chưa được quy định thành một quy trình chuẩn nhưng trên thực tế, Hải quan Việt Nam đã thực hiện các thủ tục cần thiết để thông quan các loại hàng hoá này. Cùng với việc tham gia Công ước Kyoto, việc cải tiến quy trình thủ tục hải quan và việc thực hiện tự động hoá hải Deleted: Page 2 quan trong tương lai ta sẽ xây dựng và thực hiện quy trình chuẩn về thông quan hàng chuyển phát nhanh. Ngoài 12 mục tiêu CAP trên đây, hiện nay SCCP đang xem xét đưa thêm vào CAP hai mục tiêu mới là Liêm chính Hải quan va Thương mại phi giấy tờ. Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) I. Tình hình hợp tác Hải quan trong ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam A (ASEAN) ra đời năm 1987. Trong giai đoạn trước 1992 ASEAN còn nặng về phối hợp chính trị. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã đặt ra những thách thức to lớn đối với ASEAN trong việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá ASEAN trên thị trường quốc tế và tính hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ IV tại Singapore ngày 28/1/1992, các Nguyên thủ quốc gia ASEAN đã có một quyết định quan trọng nhằm nâng cao hơn nữa mức độ hợp tác trong lĩnh vực thương mại, đó là thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) thông qua việc ký kết Hiệp định về Chương trình Thuế quan Ưu đãi hiệu lực chung (CEPT). Năm 1997 đã thông qua viễn cảnh hải quan 2020 với mục đích “Hợp tác hải quan theo những chuẩn mực quốc tế để đạt tính hiệu quả, tính chuyên nghiệp, tính thống nhất thông qua các thủ tục hài hoà nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư, bảo vệ hạnh phúc và sức khoẻ cho cộng đồng ASEAN”. Để hiện thực hoá viễn cảnh này, ASEAN đã đưa ra chương trình làm việc và thực hiện chính sách hải quan ASEAN (PIWP) gồm 15 lĩnh vực sau: Phân loại hàng hoá để tính thuế. Xác định trị giá Hải quan. Thủ tục đối với hàng hoá. Kiểm toán sau thông quan. Deleted: Page 2 Quá cảnh. Thủ tục đối với hàng tạm nhập tái xuất. Kiểm soát Hải quan. Hỗ trợ lẫn nhau. Tự động hoá. Kế hoạch chiến lược và quản lý. Tăng cường tính minh bạch. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Hỗ trợ kỹ thuật cho những thành viên mới của nhóm cụ thể là Campuchia, Lào, Myanma, Việt Nam. Diễn đàn Hải quan quốc tế. Mối quan hệ với cộng đồng các doanh nghiệp. Liên quan tới thực hiện AFTA có một số lĩnh vực sau: - Đơn giản và hài hoà hệ thống thủ tục hải quan: Trong tất cả các diễn đàn hợp tác đa phương, song phương đều coi trọng vấn đề này. Trên thực tế, thủ tục hải quan được xem như là hàng rào phi thuế cản trở tự do thương mại. Vì vậy, lẽ hiển nhiên là để thực hiện AFTA phải đẩy nhanh quá trình đơn giản hoá, hài hoà hoá thủ tục hải quan trong ASEAN. - Xác định Danh mục Biểu thuế Hài hoà ASEAN (AHTN) để bắt đầu thực hiện từ 1/1/2003, chậm nhất là 1/7/2003. - Thực hiện Hiệp định Trị giá GATT/WTO để tạo cơ sở cho việc thống nhất cách sử dụng trị giá giao dịch hoặc các phương pháp để xác định trị giá giao dịch trong tính thuế hải quan. Deleted: Page 2 - Kiểm tra sau thông quan là biện pháp vừa tạo thuận lợi vừa đảm bảo tính tuân thủ của doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. II. Tình hình hợp tác của Hải quan Việt Nam trong ASEAN: Để thực hiện đơn giản hoá, hài hoà hoá thủ tục hải quan, Hải quan Việt Nam đã có nhiều cải tiến các bước quy trình thủ tục, xây dựng tờ khai hải quan mới, qui định rõ và giảm bớt chứng từ hải quan, qui định các địa điểm làm thủ tục hải quan theo hướng thuận lợi cho thông quan và giảm chi phí cho doanh nghiệp, bước đầu áp dụng kỹ thuật Quản lý Rủi ro, áp dụng tin học vào một số khâu nghiệp vụ. Với AHTN, đã tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và hoàn thiện danh mục hiện đang chuẩn bị dự thảo nội dung các văn bản quy định triển khai. Chuẩn bị thực hiện trị giá GATT/WTO trước hết với các sản phẩm CEPT, sau đó sẽ thực hiện với tất cả các loại hàng hoá. Chính phủ Việt Nam đã ban hành NĐ60/2002/NĐ-CP ngày 2/6/2002 về thực hiện Hiệp định trị giá GATT/WTO. Chính phủ Việt Nam đã ban hành NĐ102/NĐ-CP/2001 ngày 31/12/2001về Thực hiện kiểm tra sau thông quan và Tổng cục Hải quan đã có quyết định 1558/2001/QĐ-TCHQ quy định tạm thời về Kiểm tra sau thông quan. Với tư cách là Điều phối viên của ASEAN trong vấn đề trợ giúp kỹ thuật cho các thành viên mới của ASEAN (Campuchia, Lào, Myanma, Việt Nam), Hải quan Việt Nam đã phối hợp với Ban Thư ký ASEAN và Hải quan một số nước, tổ chức các khoá đào tạo, hội thảo và đề xuất một số dự án trợ giúp kỹ thuật cho các nước này. Diễn đàn Hợp tác Kinh tế A - Âu (ASEM) Diễn đàn Hợp tác Kinh tế A - Âu (ASEM) ra đời dựa trên sáng kiến của ASEAN nhằm thúc đẩy mối quan hệ giữa Châu A và Châu Âu và cuộc Họp Deleted: Page 2 thượng đỉnh đầu tiên diễn ra tại Băng cốc, Thái lan vào tháng 3 năm 1996 gồm 7 nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn quốc và 15 quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu. I. Tình hình hợp tác của hải quan trong ASEM: i) Nhóm làm việc về thủ tục hải quan ASEM: Đây là cuộc họp diễn ra hàng năm trong khuôn khổ của hợp tác ASEM bàn chủ yếu về các vấn đề liên quan tới thủ tục hải quan như sau: Tăng cường sự liên kết và hài hoà danh mục biểu thuế theo tiêu chuẩn WCO. Thực hiện Hiệp định về trị giá WTO. Tăng cường tính minh bạch thông qua tiếp cận được các cơ sở dữ liệu của các thành viên ASEM về thuế, danh mục biểu thuế, chỉ dẫn về thuế, quy trình và thủ tục XNK, quy tắc xuất xứ, luật lệ hải quan. Hải quan ASEM đã xác định các rào cản vô hình: yêu cầu quá nhiều về chứng từ, chậm trễ về thủ tục, khó phán đoán và thiếu ổn định trong luật lệ thủ tục. Tổ chức hội thảo giữa hải quan và doanh nghiệp với sự tư vấn của Diễn đàn doanh nghiệp A - Âu bao gồm các vấn đề như: phân tích rủi ro, EDI, hệ thống chứng từ điện tử, giảm thời gian thông quan. Xem Công ước Kyoto là tiêu chuẩn để đơn giản, hài hoà hoá thủ tục hải quan. Cải thiện tính minh bạch qua việc phổ biến, làm rõ các quy trình thủ tục hải quan theo yêu cầu của doanh nghiệp tạo ra tiến bộ trong đàm phán thoả thuận với nhiều thương nhân về hợp tác hải quan và trợ giúp hành chính lẫn nhau (CCMA). Tăng cường tiêu chuẩn hoá, đơn giản hoá tài liệu chứng từ dựa trên tiêu chuẩn quốc tế và các cuộc thảo luận tại các diễn đàn quốc tế. Dữ liệu ít hơn 100 mục là phù hợp với mẫu EDIFACT.  Deleted: Page 2 Deleted: of 78 Khai thác các lợi thế chung của các thành viên ASEM trong WCO và WTO. Xem xét các nguồn tài trợ nhằm hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo về mặt nghiệp vụ, thủ tục hải quan, đóng góp kinh nghiệm cho ASEM. ii) Nhóm làm việc về kiểm soát hải quan ASEM: Xác định khuôn khổ hợp tác giữa hai khu vực: cần thiết phải xác định, thiết lập một cơ cấu hạt nhân cho hợp tác. Những khác biệt về luật pháp, kết cấu hạ tầng, trình độ phát triển, thủ tục hải quan, nghĩa vụ ràng buộc trong các tổ chức quốc tế mà các thành viên ASEM tham gia gây trở ngại cho tiến trình này. Vì vậy, Nhóm làm việc khuyến khích các thành viên ký kết các Hiệp định hỗ trợ hành chính song phương, đặc biệt giữa các thành viên EC và đối tác Châu A, nhấn mạnh đến Công ước Nairobi về tương trợ hành chính trong đấu tranh chống buôn lậu. Đề nghị lập danh sách những người có thẩm quyền và trách nhiệm cung cấp và tiếp nhận các thông tin về kiểm soát, đưa ra những quy định về phạm vi thông tin, mức độ bảo mật các thông tin được cung cấp. Hải quan Nhật đã mở cuộc thăm dò về thẩm quyền kiểm soát của hải quan nhằm tìm kiếm sự hợp tác hữu hiệu hơn trong ASEM về lĩnh vực này, qua đó, khẳng định việc trao đổi thông tin là rất cần thiết cho sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tìm ra những biện pháp tăng cường hợp tác. Thoả thuận về trợ giúp hành chính lẫn nhau liên quan tới các 2 Nhóm làm việc vì nó bao gồm cả một quá trình hợp tác (ví dụ Thoả thuận về hợp tác hải quan và trợ giúp hành chính giữa EC và Triều Tiên có hiệu lực từ 1/5/1997). Hợp tác trong lĩnh vực nghiệp vụ: thảo luận những vấn đề liên quan tới đấu tranh chống buôn lậu ma tuý và gian lận thương mại, buôn lậu vũ thoả thuận hợp tác về hải quan và hỗ trợ hành chính lẫn nhau giữa EC và các thành viên ASEM Châu A có quan tâm tới vấn đề này; thành lập cơ sở dữ liệu nằm trong khuôn khổ ASEM về kiểm soát hải quan; tăng cường trao đổi thông tin giữa hai cơ quan RILO (Văn phòng liên lạc tình báo khu vực) của 2 khu vực Âu - A. Tăng cường tổ chức các cuộc hội thảo đào tạo về nghiệp vụ kiểm soát hải quan, đánh giá rủi ro, chống gian lận về trị giá, buôn lậu vũ khí và rửa tiền. Nhóm làm việc nhận thấy cần phải đẩy mạnh hơn nữa hình thức này. Trao đổi kinh nghiệm, trình độ chuyên môn: các nước thành viên đã trình bày nhiều kinh nghiệm bổ ích trong công tác đấu tranh kiểm soát như chống gian lận thương mại, buôn lậu và vận chuyển trái phép ma tuý, rửa tiền, buôn lậu vũ khí, tăng cường sự hợp tác giữa hải quan và các cơ quan luật pháp khác của chính phủ. Trao đổi về việc áp dụng các kỹ thuật nghiệp vụ, sử dụng công nghệ tin học trong xử lý và trao đổi thông tin về kiểm soát. Cộng tác với khu vực tư nhân nhu ký thoả thuận hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong lĩnh vực tuân thủ pháp luật và tạo thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp chấp hành đúng. Hiện nay, Hải quan Pháp là nước chủ trì của Nhóm làm việc về kiểm soát ASEM. II. Tham gia của Hải quan Việt Nam trong diễn đàn hải quan ASEM: Hải quan Việt Nam tham gia các hội nghị cấp Tổng Cục trưởng và các cuộc họp của Nhóm làm việc về thủ tục hải quan và kiểm soát hải quan ASEM. Trong các diễn đàn này Hải quan Việt Nam tham gia tích cực các cuộc thảo luận, đưa ra đề nghị trợ giúp trong các lĩnh vực kỹ thuật và đào tạo về thủ tục hải quan và kiểm soát chống buôn lậu. Hải quan Việt Nam tích cực thực hiện các bước triển khai Kế hoạch hành động Thuận lợi hoá Thương mại như: đưa mã HS vào danh mục biểu  Deleted: Page 2 Deleted: of 78 thuế; tăng cường hướng dẫn, công khai hoá quy trình thủ tục hải quan; chuẩn bị cho việc thiết lập và cho phép khai thác cơ sở dữ liệu liên quan tới hải quan nhằm tăng cường tính minh bạch; đang nỗ lực tiến hành cải cách hành chính, đơn giản và tiêu chuẩn hoá thủ tục hồ sơ chứng từ phải xuất trình hoặc nộp cho hải quan... Hải quan Việt Nam đã đề xuất những yêu cầu trợ giúp về kỹ thuật và đào tạo của ASEM trong mấy vấn đề: sở hữu trí tuệ, hệ thống HS, quy tắc xuất xứ, kiểm tra sau thông quan, Công ước Kyoto, trị giá hải quan. 1.2. Vai trò của các điều ước quốc tế đối với vấn đề hiện đại hoá hải quan 1.2.1. Hiện đại hoá hải quan - một tất yếu khách quan: Ở bất cứ quốc gia nào Hải quan cũng là lực lượng đứng ở các cửa khẩu, các địa đầu biên giới. Hải quan không chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ thu thuế xuất nhập khẩu, mà còn là công cụ của Nhà nước để kiểm tra, kiểm soát xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, trực tiếp giám sát việc thực hiện các thoả thuận ưu đãi thương mại của Chính phủ với bên ngoài, qua đó phát hiện, ngăn chặn và chống buôn lậu, gian lận thương mại, góp phần bảo vệ xã hội và cộng đồng. Bởi vậy, Hải quan là lĩnh vực hoạt động rất nhạy cảm, gắn bó chặt chẽ với giao lưu kinh tế của đất nước. Mọi chính sách, thủ tục của hải quan đều có tác động trực tiếp, sâu sắc đến các hoạt động thương mại, đầu tư theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực và do đó có hiệu quả cụ thể đến sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Không chỉ ở trong nước, mà ngay trong phạm vi, khuôn khổ các tổ chức kinh tế quốc tế, vấn đề này cũng được thể hiện rất rõ. Trong mối quan hệ nhiều chiều, nhiều tầng nấc của thế giới hiện đại, hợp tác kinh tế quốc tế hiện nay biểu hiện ở nhiều hình thức và cấp độ: ưu đãi thương mại, thị trường tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung và liên kết đa diện như kiểu EU. Song hình thức, cấp độ nào cũng liên quan đến Hải quan, thậm chí có dạng thức lấy thuế quan làm trọng tâm (liên minh thuế quan). Ví dụ trong hợp tác ASEAN, một trong những mục tiêu chủ chốt là đẩy nhanh quá trình liên kết kinh tế khu vực thông qua việc thực hiện khu vực mậu dịch tự do AFTA. Điều đó không thể thực hiện được nếu không có thuận lợi hoá thương mại, giảm thiểu những cản trở do các hàng rào phi thuế quan và một số vấn đề khác gây ra. Công trình nghiên cứu "Tầm nhìn ASEAN 2020" ( Viện Kinh tế Thế giới - Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia) nêu lên 4 nội dung cơ bản của quá trình tạo thuận lợi cho thương mại ở nước ta trong khuôn khổ nói trên là: quan 1. Thống nhất các thủ tục Hải quan, thực hiện các nguyên tắc chung về Hải 2. Thống nhất các tiêu chuẩn sản phẩm, phương pháp tính giá hàng hoá để đánh thuế tại cửa khẩu phù hợp với những quy định chung của Tổ chức thương mại thế giới. 3. Xây dựng hệ thống thông tin thương mại đảm bảo trao đổi thông tin thị trường và chính sách thương mại của các nước thành viên. Tuân thủ tính minh bạch trong các thủ tục thương mại. khối1. 4. Tăng cường năng lực cơ sở hạ tầng cho hoạt động thương mại nội bộ Qua đây ta có thể thấy: hai nội dung đầu chủ yếu là thuộc lĩnh vực Hải quan, hai nội dung còn lại cũng đều có liên quan đến Hải quan. Thật vậy, nếu không thống nhất về thủ tục Hải quan thì hàng hoá nhập khẩu vào mỗi nước sẽ bị xử lý một cách khác nhau, làm chậm quá trình chu chuyển hàng hoá, gây ách tắc lãng phí. Nếu không thống nhất phương pháp tính giá hàng hoá để đánh thuế sẽ dẫn đến phân biệt đối xử, làm mất mục đích ưu đãi thương mại. Với mục tiêu bao quát nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hiện đại hoá Hải quan phải giải quyết một loạt vấn đề đặt ra, không chỉ cho ngành Hải quan mà cho cả Chính phủ. Đó là hoàn thiện hệ thống pháp lý phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế trong nhiều lĩnh vực: thủ tục Hải quan, danh mục hàng hoá HS, biểu thuế XNK, xác định trị giá Hải quan theo hướng đơn giản hoá, tiêu chuẩn hoá và thống nhất hoá, nâng cao năng lực và phẩm chất đội ngũ Hải quan ngang tầm với nhiệm vụ nhằm xây dựng Hải quan thành một lực lượng hiện đại, đáp ứng yêu cầu tự do hoá thương mại, hội nhập kinh tế quốc gia vào khu vực và thế giới. Chính vì thế, Luật hải quan, có hiệu lực từ 1/1/2002 chứa đựng nhiều chuẩn mực, qui định tại các công ước quốc tế có liên đến hải quan và thông lệ tiên tiến của hải quan thế giới như chuẩn mực của công ước Kyôtô sửa đổi về đơn giản hoá, hài hoà thủ tục hải quan, Hiệp định trị giá GATT/WTO, Công ước quốc tế về hài hoà việc mô tả và mã hoá hàng hoá ( công ước HS), nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan, kỹ thuật quản lý rủi ro,.. Tóm lại: Hoạt động của ngành hải quan nói chung và các qui định về thủ tục hải quan truyền thống trước đây không còn phù hợp và không đáp ứng được các yêu cầu của công cuộc đổi mới, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong điều kiện đất nước đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế khu vực và thế giơí. Để giải quyết vấn đề này, ngành hải quan cũng phải tích cực hiện đại hoá mà cụ thể là hội nhập về mặt kỹ thuật nghiệp vụ hải quan, với các nội dung cụ thể của nó được bao hàm trong một khái niệm gần đây của Tổ chức Hải quan Thế giới - đó là “ Cải cách và hiện đại hoá Hải quan” Trong xu thế đó, Tổng cục Hải quan đã xây dựng kế hoạch phát triển ngành Hải quan giai đoạn 2001-2005 với phương hướng và mục tiêu tổng quát là: Xây  Deleted: Page 2 dựng ngành hải quan thành lực lượng chuyên nghiệp, có chuyên môn sâu và hiện đại, hoạt động minh bạch, liêm chính và có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một trong những biện pháp để đạt mục tiêu là: ”Tiếp tục cải cách thủ tục, hiện đại hoá hoạt động hải quan gắn với quá trình thực hiện cải cách hành chính nói chung, tập trung triển khai đề án cải cách thủ tục hải quan cả về chiều rộng và chiều sâu, đặc biệt chú trọng đến các giải pháp sát với thực tiễn, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế". 1.2.2. Các nội dung hiện đại hoá hải quan: Bên cạnh các nội dung nghiệp vụ hiện đại đã được áp dụng từ lâu như áp dụng các chuẩn mực nghiệp vụ, khuyến nghị trong Công ước Kyoto để đơn giản hoá, hài hoà thủ tục hải quan; áp dụng hệ thống mô tả và mã hoá hàng hoá theo Công ước HS; áp dụng xác định trị giá hải quan theo Hiệp định thực hiện Điều 7 của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (Trị giá GATT/WTO); áp dụng sổ ATA cho hàng hoá XNK theo chế độ tạm quản, thì trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, của Khoa học kỹ thuật, đã hình thành các xu hướng phát triển nghiệp vụ mới chứa đựng trong nó những nội dung nghiệp vụ hải quan hiện đại như: Theo xu hướng phát triển của Hải quan quốc tế trong những năm gần đây với mục tiêu tiết kiệm nguồn lực ở mức cao nhất trong khi vẫn đảm bảo được hiệu quả quản lý hải quan đối với các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu và xuất cảnh, nhập cảnh đồng thời tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư phát triển với các giải pháp chủ đạo là áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại đi đôi với trang bị phương tiện kỹ thuật cần thiết và nâng cao trình độ nghiệp vụ của nhân viên hải quan. Những nội dung này nằm trong Công ước Kyoto với các chuyên đề nghiệp vụ hải quan cụ thể như: Tin học hoá qui trình thủ tục hải quan; Khai thuê hải quan; Xây dựng cơ sở dữ liệu tình báo hải quan; Đơn giản hoá thủ tục hải quan; Deleted: Page 2 Một trong những xu hướng đa số hải quan các nước hiện đang đi theo là xu hướng coi doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu là các đối tác cần cộng tác chặt chẽ hơn là các đối tác cần kiểm tra xử lý. Theo xu hướng này, cơ quan Hải quan phối hợp với doanh nghiệp trong việc tìm ra nguyên nhân của các sai sót, vi phạm để tìm biện pháp phòng ngừa hơn là chỉ tiến hành kiểm tra và xử lý vi phạm, đồng thời hải quan tạo ra cơ chế phối hợp với doanh nghiệp để phát hiện ra gian lận, thông qua việc ký kết chương trình Biên bản thoả thuận hợp tác (MOU). Theo đó đổi cho việc hợp tác giúp đỡ hải quan, doanh nghiệp được hưởng những ưu đãi nhất định của hải quan trong khi làm thủ tục. Để tạo th._.Hải quan cũng như tăng cường chỉ đạo, đầu tư của lãnh đạo ngành Hải quan, lãnh đạo Bộ Tài chính với công tác hiện đại hoá (cơ chế, chính sách, tổ chức - cán bộ, điều kiện hoạt động...). Tăng cường kết hợp giữa đẩy mạnh hợp tác song phương với hợp tác đa phương về Hải quan, xây dựng Hải quan Việt Nam trở thành một lực lượng Hải Deleted: Page 2 quan hiện đại, chuyên nghiệp ngang tầm với Hải quan các nước trong khu vực và thế giới, có khả năng quản lý tốt và trình độ phục vụ cao theo các chuẩn mực quốc tế. Nếu như hợp tác đa phương về Hải quan là điều kiện để Hải quan ta tiếp cận các chuẩn mực quốc tế chung và thực hiện các chuẩn mực đó theo lộ trình cam kết, thì hợp tác song phương về Hải quan sẽ tạo cơ hội để nghiên cứu, vận dụng các kinh nghiệm cụ thể của Hải quan các nước, học tập những kỹ thuật nghiệp vụ tiên tiến và tránh vấp phải những vấn đề Hải quan các nước đi trước đã phải "trả giá", rút ngắn được thời gian phát triển. Trong hợp tác song phương chú ý các tầng nấc: Hải quan các nước láng giềng và bạn bè truyền thống (thực hiện các ưu đãi thương mại, phối hợp chống buôn lậu qua biên giới, phối hợp bảo vệ an ninh chính trị - bảo vệ chế độ XHCN); Hải quan các nước trong khu vực (do trình độ phát triển không quá chênh lệch nên kinh nghiệm dễ vận dụng, hơn nữa cùng hoạt động trong ASEAN nên dễ hợp tác với nhau); Hải quan các nước công nghiệp phát triển (những kinh nghiệm "gốc" về Hải quan, có tiềm lực kinh tế và công nghệ nên có thể giúp đào tạo cán bộ, trang bị kỹ thuật). Nâng cao năng lực thực hiện các cam kết quốc tế về Hải quan để hội nhập quốc tế Hải quan thực sự có hiệu quả. Trong phạm vi quốc gia, đó là sự chỉ đạo của Nhà nước, sự phối hợp của các bộ, ngành, đối với ngành Hải quan để tạo điều kiện thực hiện tốt các nội dung hiện đại hoá Hải quan, là việc nhanh chóng nội luật hoá cam kết quốc tế. Trong phạm vi ngành Hải quan, đó là việc nhận thức đúng để tăng cường chỉ đạo và đầu tư đúng về cơ chế chính sách, tổ chức bộ máy, cán bộ, điều kiện hoạt động cho công tác quan hệ quốc tế, hội nhập quốc tế như là một trong những hoạt động nghiệp vụ quan trọng trong thời gian trước mắt. Tăng cường đầu tư cho đơn vị chuyên trách về hợp tác quốc tế của ngành để nắm bắt nhạy bén, tham mưu kịp thời về nội dung, bước đi hiện đại hoá, đồng thời chỉ đạo tốt việc triển  Deleted: Page 2 khai thực hiện đồng bộ các cam kết quốc tế ở các vụ, cục nghiệp vụ thuộc cơ quan Tổng cục, các cục Hải quan tỉnh, thành phố và đơn vị cơ sở. Làm cho các nội dung cam kết quốc tế của ngành thấm xuống cơ sở, thấm đến từng cán bộ chiến sĩ ở cửa khẩu để chuyển hoá vào công việc hàng ngày ở cửa khẩu và các đơn vị cơ sở. Suy cho cùng, thước đo chất lượng thực hiện các cam kết quốc tế của ngành là thể hiện ở công việc hàng ngày tại cửa khẩu. Tiếp tục chọn lọc tham gia một số Điều ước quốc tế đa phương với thời gian và bước đi thích hợp để làm cơ sở cho việc vừa mở rộng vừa phát triển theo chiều sâu hội nhập quốc tế về Hải quan trong thời gian tới. Trong số các Điều ước quốc tế đa phương nói trên có Điều ước do yêu cầu bắt buộc của các thể chế quốc tế (ví dụ: việc áp dụng trị giá WTO không chỉ do yêu cầu của WTO, đối với ta còn do các sức ép trong ASEAN, do tác động của Hiệp định thương mại ký với Mỹ có điều khoản liên quan). Tuy nhiên cũng có điều ước đa phương ta phải tính đến tham gia do yêu cầu phát triển khách quan, như Công ước ATA, Công ước Kyoto sửa đổi, Công ước Nairobi... Tham gia các Công ước này sẽ giúp ta nắm bắt được các tiêu chuẩn tiên tiến trong hoạt động Hải quan quốc tế để nhanh chóng hiện đại hoá Hải quan Việt Nam. Ngoài ra để thực hiện hiện đại hoá có rất nhiều việc cần phải làm nhưng do điều kiện, khả năng cụ thể, chúng ta cần tập trung vào một số khâu yếu nhất hoặc khâu có tính cấp bách nhất để chọn làm khâu đột phá, tuy nhiên khi vào giai đoạn hiện đại hoá vấn đề triển khai đồng bộ các giải pháp này cũng là một yêu cầu rất cấp bách. Xử lý thế nào để giải quyết được mâu thuẫn trên đang và sẽ còn là một vấn đề thu hút sự quan tâm của các cấp trong ngành hải quan. 3.2. Đề xuất kiến nghị I- Biện pháp thực hiện Công ước KYOTO: a) Ap dụng kỹ thuật quản lý rủi ro (Risk Management): Deleted: Page 2 Có thể nói trong ngành Hải quan hiện đang tồn tại một thách thức có tính chất nghịch lý thuộc về bản chất và ngành Hải quan không thể né tránh, từ chối mà phải đương đầu và phải giải quyết được. Đó là nghịch lý vừa phải đáp yêu cầu tạo thuận lợi cho thương mại vừa phải đáp ứng yêu cầu quản lý tốt. Hầu hết Hải quan các nước trên thế giới đều đã phải trải qua quá trình này, sự khác nhau ít nhiều là do ở các bối cảnh lịch sử khác nhau, trong các điều kiện phát triển kinh tế xã hội khác nhau, ... nhưng cho đến hiện nay có thể nói Hải quan rất nhiều nước đều đã giải quyết được vấn đề có tính nghịch lý nêu trên nhờ họ đã nghiên cứu chuẩn bị, và triển khai áp dụng thành công kỹ thuật quản lý rủi ro. Cụ thể trong các khâu thủ tục hải quan cần tập trung nghiên cứu những lĩnh vực trọng yếu nhất (như khâu đăng ký tờ khai; quyết định việc kiểm tra hải quan; phúc tập phục vụ kiểm tra sau thông quan Trên cơ sở đó sẽ điều chỉnh hoặc phân bổ lại nguồn lực để ngăn chặn khả năng và hậu quả của các loại rủi ro có thể xảy ra. Bên cạnh đó cần kiểm soát, nghiên cứu để xác định rõ những bất cập trong quy trình thủ tục để từ đó đánh giá được mức độ rủi ro có thể xảy ra. Rồi áp dụng các biện pháp điều chỉnh để loại bỏ hoặc giảm thiểu khả năng dẫn đến những tác động tiêu cực của nó. Nếu không được như vậy thì cũng cố gắng hạn chế các tác động xấu của nó. Từ thực tiễn áp dụng của hải quan các nước, qua quá trình khảo sát, đánh giá, hệ thống về mặt lý luận, kiểm chứng thực tiễn đã rút lại một số bước cơ bản của quá trình quản lý rủi ro, các bước này có tính hệ thống rất cao với mối quan hệ hữu cơ gắn bó. Đó là các bước: xác định bối cảnh, xác định rủi ro, phân tích rủi ro, đánh giá rủi ro, xử lý rủi ro và chỉ đạo và đánh giá. Trong xác định bối cảnh cần phải thu thập thông tin về môi trường bên trong, bên ngoài có liên quan đến thực tiễn hoạt động hải quan cụ thể tại cảng biển cùng với những người liên quan đến các hoạt động đó, từ đó xác định rõ gia. Tiếp đó cần xác định rõ các rủi ro thông qua các mối quan hệ quản lý, thương mại, những điều chỉnh pháp luật,... diễn ra giữa những người có liên quan trong cộng đồng, trong bối cảnh công việc... hay nói cách khác đây là công việc xác định những khả năng dẫn đến sai phạm và việc đó diễn ra như thế nào tại môi trường cảng biển. Từ đó chỉ ra nguồn gốc của rủi ro và những nguyên nhân có thể gây ra rủi ro. Cuối bước này cần chỉ ra danh mục các rủi ro phát sinh, các rủi ro khác đã được xác định, các lĩnh vực cụ thể chịu sự tác động của rủi ro, nêu chi tiết các rủi ro để chuyển sang bước tiếp theo là phân tích rủi ro với mục đích sàng lọc loại bỏ những rủi ro thấp, rủi ro có thể chấp nhận được để tập trung vào các rủi ro chính yếu, và cung cấp các dữ liệu hỗ trợ cho việc đánh giá và quản lý rủi ro. Khi đã có kết quả đánh giá rủi ro, việc tiếp theo cần làm là phải có cách xử lý chúng theo một chiến lược xác định. Đó là khi có thể được ta có thể tránh các rủi ro đó, hoặc chấp nhận chúng và chuẩn bị tinh thần, nguồn lực giải quyết hậu quả (mà một trong những biện pháp cụ thể được áp dụng là kiểm tra sau thông quan), hoặc giảm bớt các khả năng, hậu quả hoặc cả hai của rủi ro thông qua việc điều chỉnh ít nhiều các bước nghiệp vụ hải quan cảng, hoặc chuyển rủi ro cho một bên khác theo hình thức cộng đồng, san sẻ trách nhiệm (như việc xác định trách nhiệm khai báo đúng là của chủ hàng, Hải quan sẽ kiểm tra trong 5 năm sau đó), và cuối cùng là tìm ra các giải pháp xử lý rủi ro tốt nhất bằng cách xem nó giảm được rủi ro chừng nào, kết quả đem lại ra sao, gắn nó với các điều kiện tiên quyết như chi phí, thời gian, nguồn lực, sự phối hợp với chính sách của ngành và của chính phủ để ra được các giải pháp khả dĩ cuối cùng và xây dựng kế hoạch hành động của ngành, của từng địa bàn trên cơ sở các giải pháp đó. Bước sau rốt và cũng là bước có giá trị tiên quyết để kỹ thuật quản lý rủi ro sống được (tức là một hệ thống làm việc) là sau quá trình thực hiện, ta cần phải có nhìn nhận tổng thể và đánh giá cụ thể để thấy được những gì cần điều chỉnh, sửa đổi, kế thừa phát huy, những gì cần loại bỏ hoặc cần lưu ý theo dõi tiếp. Chỉ có như vậy và liên tục như vậy chúng ta mới có thể có được hệ thống đánh giá rủi ro đúng nghĩa của nó,  Deleted: Page 2 Deleted: of 78 phục vụ có hiệu quả cho công tác hải quan trong giai đoạn hiện nay, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành và cộng đồng. Cũng nhờ đó sẽ dần dần tạo nên được một tư duy làm việc mới để ngành có thể đáp ứng và phục vụ tốt, tạo đà cho những nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính nói chung và cải cách thủ tục hải quan nói riêng. b) Khai thuê Hải quan( Customs broker): Ở Hải quan các nước như Thái lan, Philipine, Trung quốc,... vai trò người khai thuê hải quan rất quan trọng vì xu thế ngày nay doamh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực trong khai báo thủ tục hải quan. Như Hải quan Hungary khai thuê hải quan làm tới 60% công việc của Hải quan, tính chuyên nghiệp hóa của họ rất cao. Hải quan một số nước coi việc khai hải quan qua dịch vụ khai thuê hải quan là một trong những tiêu chí quan trọng trong việc phân luồng hàng hóa Tại Việt Nam, theo quy định của Tổng cục Hải quan thì khi hành nghề một điều kiện tiên quyết là số người trực tiếp thực hiện việc khai thuê của doanh nghiệp phải qua một khóa huấn luyện, được cấp chứng chỉ. Quy định này rất phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn Hải quan các nước trên thế giới. Nhưng vừa triển khai thực hiện đã gặp phải khó khăn do rơi đúng vào thời điểm Chính phủ chỉ đạo xoá bỏ các loại giấy phép. Vì vậy qua hơn 4 năm thực hiện nhưng đến nay vẫn chưa hình thành đội ngũ khai thuê theo đúng nghĩa của nó. Trong thời gian tới cần hình thành, chuyên môn hóa đội ngũ khai thuê hải quan qua việc đào tạo, trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về thủ tục hải quan, về phân loại, áp mã, xác định trị giá hàng hoá theo những tiêu chí của hải quan hiện đại để tạo thúc đẩy quá trình thông quan của hải quan. Hải quan và các cơ quan có liên quan cần tạo điều điều kiện cho loại hình này phát triển và khuyến khích doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng dịch vụ này. c) Kiểm tra thực tế tại cửa khẩu( Physical Examination):  Deleted: Page 2 Deleted: of 78 Hiện tại có 3 hình thức kiểm tra: Miễn kiểm tra, Kiểm tra xác suất 10%, Kiểm tra 100% trong đó cần tạo cơ chế để có thể bảo vệ, giải trừ trách nhiệm cho công chức hải quan khi đã hành động một cách mẫn cán theo đúng chức trách đã quy định mà vẫn còn những sai sót xẩy ra ngoài mong muốn của mình. Để khắc phục hiện tượng này cần phải làm những việc như : + Cần có quy định cách thức kiểm tra thực tế hàng hóa tại cửa khẩu, xây dựng cơ sở khoa học để việc chọn mẫu kiểm tra của công chức hải quan đảm bảo tính khách quan cao. + Việc phân công cán bộ kiểm tra lô hàng nào, doanh nghiệp nào cũng phải đảm bảo tính ngẫu nhiên, tránh tình trạng móc nối trước để làm sai. Giải pháp đáp ứng các yêu cầu trên là phải tiêu chuẩn hóa, mã hóa các tiêu chí như Doanh nghiệp, mặt hàng, xuất sứ hàng hóa...và các thông tin khác để xây dựng phần mềm và giải bài toán đã nêu ở trên bằng cách áp dụng tin học . Lúc đó mọi quyết định phương thức kiểm tra đều thực hiện thông qua máy tính, không phải do ý chí chủ quan áp đặt của công chức hải quan nữa. Lúc đó Doanh nghiệp cũng không biết trước lô hàng của mình sẽ kiểm tra như thế nào, ở đâu? và mình phải kiểm tra lô hàng nào, của doanh nghiệp nào, cũng hoàn toàn thông qua máy định quyết định. Việc kiểm tra thực tế hàng hóa vận chuyển qua đường biển sẽ rất khó nếu chỉ thực hiện bằng phương pháp thủ công. những cảng lớn cần trang bị hệ thống máy soi container. Hệ thống này kết hợp với việc thu thập thông tin tình báo, phân tích, đánh giá rủi ro. Việc làm này sẽ khắc phục được tình trạng kiểm tra thủ công vừa tốn rất nhiều thời gian vừa đạt hiệu quả thấp, vừa có tác dụng răn đe, phòng ngừa các âm mưu gian lận. d) Kiểm tra sau thông quan( Post Clearence Audit): Deleted: Page 2 Deleted: of 78 Để triển khai áp dụng nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan (PCA) có thể còn phải làm nhiều việc nhưng trước mắt hải quan Việt Nam cần xúc tiến ngay một số công việc cụ thể như xây dựng môi trường pháp lý trong đó cần chú ý 3 nội dung cơ bản sau : Thừa nhận về mặt pháp lý ngành hải quan có quyền kiểm tra mọi chứng từ thương mại ,chứng từ sổ sách kế toán ... của chủ hàng .Ơ đây chỉ hạn định trong số các chứng từ có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến lô hàng cần kiểm tra . Mọi chủ hàng xuất nhập khẩu phải bảo quản lưu giữ mọi chứng từ xuất nhập khẩu của mình trong một khoảng thời gian nhất định (thường vào khoảng từ 3 đến 5 năm ) và trong thời gian lưu giữ theo quy định nếu cơ quan hải quan yêu cầu thì phải xuất trình ngay các chứng từ này phục vụ cho yêu cầu của các cuộc kiểm toán hải quan. Định rõ các chế tài xử phạt đối với những chủ hàng vi phạm các quy định về xuất nhập khẩu và các thủ tục thông quan , nhất là các chủ hàng cố ý khai báo gian lận để trốn thuế . Các yêu cầu, nội dung cơ bản của hoạt động kiểm tra sau thông quan đã được qui định tại Điều 32 của Luật Hải quan 2001 và đã được cụ thể hoá trong các văn bản dưới Luật như Nghi định 102/2001/ND ngày 30/12/2001. Điều cần phải tiếp tục làm trong lĩnh vực hoàn thiện môi trường pháp lý là chuẩn bị tốt về mặt tâm lý cho người được kiểm tra và xác định cụ thể hơn trách nhiệm cá nhân của các nhân viên hải quan làm việc trong bộ phận kiểm tra sau thông quan. Kiểm tra sau thông quan là một chuyên ngành hẹp được hình thành theo yêu cầu chống gian lận thương mại của ngành Hải quan và trên cơ sở ứng dụng các kiến thức cơ bản của nhiều chuyên ngành khác. Quá trình thực hiện một cuộc kiểm toán hải quan là quá trình vận dụng một cách sáng tạo nhuần nhuyễn và có hệ thống các kiến thức kế toán, kiểm toán, thương mại, luật pháp , điều tra ... Vì  Deleted: Page 2 Deleted: of 78 vậy cần đào tạo, trang bị các kiến thức chuyên ngành có liên quan để nhân viên kiểm tra sau thông quan có thể hoàn thành nhiệm vụ . II- Thực hiện Công ước HS a) Thành lập tổ chức chuyên gia: Từ khi Luật Hải quan có hiệu lực trách nhiệm phân loại và xác định trị giá đã chuyển sang cho Chủ hàng (trước đó khi làm thủ tục hải quan trách nhiệm phân loại và xác định trị giá tính thuế của lô hàng thuộc về cơ quan Hải quan, người khai hải quan chỉ phải mô tả chính xác hàng hóa cũng như trị giá tính thuế). Trong khi đó các Doanh nghiệp chưa có sự chuẩn bị kỹ càng, đặc biệt những người đi làm thủ tục hải quan cũng chưa được đào tạo kỹ về việc phân loại cũng như xác định trị giá (đây là những công việc rất khó và rất phức tạp đối với cả công chức Hải quan). Để tháo gỡ vấn đề này, theo kinh nghiệm các nước cần hình thành đội ngũ chuyên gia gọi là "Chuyên gia nhập khẩu" - là nhân viên hải quan chuyên về phân loại và xác định trị giá của một hàng hóa cụ thể. Trước mắt tại Cục hải quan các cảng biển lớn của thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng phải có các tổ chức chuyên gia có nhiệm vụ tư vấn giúp doanh nghiệp phân loại hàng hóa, áp giá và áp thuế suất trước khi XNK hàng hóa, đồng thời cũng phải có một văn bản của cấp có thẩm quyền quy định: Tiêu chuẩn, giá trị pháp lý, thẩm quyền cũng như trách nhiệm của chuyên gia này. b) Danh mục hàng hóa XNK, Danh mục Biểu thuế Bộ Tài chính cần đưa toàn bộ các thành phần của Danh mục hàng hoá theo Công ước HS vào Danh mục Biểu thuế Xuất nhập khẩu Việt Nam. Đồng thời cũng yêu cầu các Bộ, Ngành khác khi ban hành các danh mục hàng hóa theo yêu cầu quản lý chuyên ngành, ngoài việc mô tả tên hàng cũng phải có dẫn chiếu mã HS kèm theo. Chuẩn hoá dịch thuật trong phiên bản Danh mục HS tiếng Việt. Deleted: Page 2 Deleted: of 78 Danh mục Hàng hoá Xuất Nhập khẩu Việt Nam và Danh mục Biểu thuế Xuất khẩu, Nhập khẩu Việt Nam cần được tích hợp hoá thành văn kiện tra cứu duy nhất. III. Thực hiện Hiệp định trị giá GATT/WTO: a) Triển khai đồng bộ các biện pháp chống bán phá giá, trợ giá. Hiệp định trị giá GATT không nhằm vào mục đích chống bán phá giá, trợ giá. Và theo nguyên tắc của Hiệp định thì ngay cả trong trường hợp hàng nhập khẩu được bán phá giá, được trợ giá thì vẫn xem xét xác định trị giá theo trị giá giao dịch. Do vậy để bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh không lành mạnh và bảo đảm cho các nhà nhập khẩu được đối xử bình đẳng khi áp dụng các nguyên tắc xác định trị giá tính thuế GATT thì phải triển khai đồng bộ các biện pháp chống bán phá giá, trợ giá. b) Xây dựng chiến lược tự nguyện chấp hành của doanh nghiệp Cơ quan Hải quan và doanh nghiệp là bạn đồng hành. Mối quan hệ đó dựa trên các qui định của pháp luật và sự tin tưởng lẫn nhau trong quá trình thực thi pháp luật. Nếu như số đông doanh nghiệp luôn tìm cách trốn tránh các nghĩa vụ thực thi pháp luật hoặc cơ quan Hải quan thiếu tin tưởng vào sự tự giác chấp hành của doanh nghiệp thì cả hai trường hợp trên đây đều dẫn đến sự suy giảm hiệu quả quản lý của Hải quan và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và điều này tác động trực tiếp đến tốc độ thông quan khi thực hiện trị xác dịnh trị giá theo GATT. c) Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ công tác xác định trị giá Một yếu tố hết sức quan trọng phục vụ cho công tác xác định trị giá hải quan là xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin liên quan đến giá cả hàng hoá XNK. Những thông tin cần thiết này phải có sẵn ở cửa khẩu nơi tiến hành xác định trị giá. Đối giúp cho việc xác định trị giá tính thuế trong trường hợp không thể sử dụng phương pháp trị giá giao dịch mà còn là cơ sở cho các nghi vấn hải quan về trị giá và hỗ trợ công tác kiểm tra sau thông quan. Có thể nói rằng nếu không có hệ thống thông tin trị giá thích hợp, hải quan sẽ rất khó phát hiện ra các hiện tượng gian lận về giá hay đưa ra một quyết định chính xác liên quan đến trị giá. Do đó, hệ thống thông tin trị giá mạnh phải đáp ứng các yêu cầu về độ chính xác cao, cập nhật thường xuyên, bí mật và tiện dụng trong toàn ngành hải quan khi cần. Vấn đề đặt ra là cán bộ xác định trị giá phải am hiểu chuyên môn, nghiệp vụ, có kinh nghiệm thực tiễn để có thể biết được thông tin nào đáng tin cậy, thông tin nào sai lệch. Điều này đòi hỏi cơ quan Hải quan phải xây dựng được các cơ sở dữ liệu thông tin cần thiết hỗ trợ cho cán bộ Hải quan trong công tác, mặt khác có thể tổ chức những buổi hội thảo trao đổi thông tin, kinh nghiệm vận dụng giữa các cán bộ làm công tác xác định trị giá. d) Chú trọng đào tạo cán bộ, phổ biến, tuyên truyền pháp luật : Các phương pháp xác định trị giá của Hiệp định trị giá GATT có tính kỹ thuật nghiệp vụ cao và mới mẻ, do đó vấn đề đặc biệt quan trọng là phải nâng cao trình độ cán bộ về chuyên môn nghiệp vụ, về luật pháp, cũng như ngoại ngữ. Vì vậy công tác đào tạo cán bộ, tạo nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cho hiện tại cũng như trong thời gian tới cần được hết sức chú trọng. e) Tăng cường hợp tác quốc tế: Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, cần coi trọng và thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và Hải quan các nước trong việc cung cấp trang thiết bị phục vụ cho tự động hoá quy trình thủ tục hải quan, góp phần hỗ trợ cho việc triển khai áp dụng các phương pháp xác định trị giá hải quan theo GATT, tăng cường trao đổi thông tin thương mại quốc tế để tạo nguồn cơ sở dữ liệu nghiệp vụ, cũng như học tập và trao đổi kinh nghiệm qua các đợt công tác, tham dự hội thảo, tập huấn nghiệp vụ nâng cao  Deleted: Page 2 Deleted: of 78 trình độ và năng lực quản lý của Hải quan. Mặt khác tham gia tích cực vào hoạt động của các tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC, WCO... để ngày càng nâng cao vai trò và vị trí của Việt nam trên trường quốc tế. Việc đặt Đại diện Hải quan tại những quốc gia đóng vai trò trung tâm thương mại quốc tế, có giao dịch mua bán hàng hóa nhiều sẽ đem lại lợi ích rất đáng kể vì đây là đầu mối của những thông tin tình báo về giá thực của hàng hóa giao dịch trên thị trường nhà nhập khẩu Việt Nam đã trả hoặc sẽ phải trả cho nhà xuất khẩu ở nước ngoài. Những thông tin này giúp Hải quan có cơ sở yêu cầu chủ hàng phải khai đúng trị giá hàng hóa theo quy định, chống thất thu ngân sách của nhà nước. IV. Công nghệ thông tin: Ứng dụng tin học để tự động hoá quy trình thủ tục là một trong những nội dung quan trọng của Công ước Kyôtô và cũng là mục tiêu chiến lược hiện đại hoá ngành hải quan. Công nghệ thông tin (CNTT) là chìa khoá để giúp cho ngành hải quan thực hiện cải cách hành chính, đẩy nhanh thời gian thông quan, quản lý chặt chẽ nguồn thu cho ngân sách từ thuế XNK và các khoản thu khác, tạo môi trường thông thoáng cho hoạt động XNK, là một biện pháp hữu hiệu đấu tranh chống tiêu cực trong nội bộ ngành hải quan, nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy, góp phần tích cực vào tiến trình hiện đại hoá hải quan nói riêng và của đất nước nói chung. Để đạt được mục tiêu CNTT nói chung và tự động hoá quy trình thủ tục hải quan đến năm 2005, cần phải giải quyết đồng bộ các nhóm vấn đề sau : Nghiên cứu hoc tập kinh nghiệm các nước trong khu vực và thế giới để hình thành các khung pháp lý về trao đổi dữ liệu điện tử, chữ ký xác nhận điện tử. Thúc đẩy hình thành môi trường thanh toán tiền điện tử, giảm thiểu giấy tờ Thương mại, bảo vệ các dữ liệu điện tử, hộ trợ cho việc phát triển thương mại điện tử.  Deleted: Page 2 Deleted: of 78 Quy trình thủ tục hải quan tự động hoá theo chuẩn mực thủ tục hải quan hiện đại của thế giới Nâng cấp hệ thống viễn thông để trao đổi thông tin và dự liệu ở 2 mức: Mức vùng : Nâng cấp hệ thống viễn thông của một số đơn vị có lưu lượng hàng hoá lớn có liên quan tới nhiều địa phương khác như TP HCM, Vũng tàu, Đồng nai, Bình dương, Hải phòng, Hà nội. Việc nâng cấp hệ thống viễn thông ở mức vùng sẽ hộ trợ rất nhiều cho thủ tục hải quan trước mắt là vấn đề nợ thuế liên quan tới việc cuỡng chế hàng hoá XNK, vấn đề các thông tin vi phạm liên quan tới việc phân luồng hàng hoá, vấn đề đảm bảo thông tin về hàng hoá XNK cấp vùng lên Tổng cục và Chính phủ. Ngoài ra với hệ thống thông tin tập trung và liên thông tốt ở cấp vùng sẽ gúp cho việc cập nhật nhanh chóng các yêu cầu mới đối với chính sách hàng hoá XNK, chính sách thuế vv... Mức Liên vùng theo trục xương cá : Trước mắt là khu vực Hà nội _ TP HCM cho phép kết nối được với các Bộ, Ngành của Chính phủ để tiếp nhận các thông tin quan trọng về điêù hành XNK quốc gia. Mặt khác các Doanh nghiệp sẽ được kết nối với cơ quan Hải quan qua cột viễn thông Liên vùng để tìm hiểu thông tin trên trang ‘Web’ của Tổng cục Hải quan liên quan tới chính sách về hàng hoá XNK hoặc thực hiện các khai báo Điện tử mà Doanh nghiệp có thể làm được. Hình thành trung tâm xử lý dữ liệu tập trung Trung tâm này được trang bị đủ để có thể tiếp nhận và xử lý các giao dịch điện tử phát sinh trong quá trình thông quan hàng hoá. Đảm bảo hoạt động ổn định, liên tục 24/24, có cơ chế dự phòng sự cố, tính bảo mật chống xâm nhập trái phép. Toàn bộ dữ liệu trong quy trình làm thủ tục hải quan cho hàng hoá trên toàn quốc đều được tiếp nhận, xử lý tại Trung tâm này. Deleted: Page 2 Doanh nghiệp khai thuê hải quan, doanh nghiệp XNK có thể kết nối với Trung tâm tự động hoá để thực hiện khai báo điện tử. Hải quan cần được kết nối với Ngân hàng, kho bạc, hãng vận chuyển, hàng không, cảng vụ để thực hiện các giao dịch xác nhận việc nộp thuế, giám sát kho hàng, ... Tuỳ theo quy mô và sự sẵn sàng của các đơn vị liên quan mà mở rộng phạm vi kết nối. Tuy nhiên việc kết nối với Ngân hàng và kho bạc cùng với kỹ thuật thanh toán điện tử là điều kiện cần thiết để thực hiện một quy trình tự động hoá. Phần mềm tự động hoá được thiết kế phù hợp với hệ thống quy trình thủ tục hải quan Việt nam. Phần mềm tự động hoá phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau đây : Đáp ứng yêu cầu đa dạng của công tác quản lý hải quan trong quy trình thủ tục, có những chức năng phù hợp với các loại hình thủ tục cảng biển, hàng không, đường bộ... Được xây dựng trên nền công nghệ thông tin tiên tiến, có khả năng vận hành trên mạng diện rộng. Tính ổn định, thuận tiện trong việc thay đổi đối với sự thay đổi của chính sách điều hành. Được thiết kế đủ các chức năng cho các cơ quan có liên quan trong quy trình thủ tục hải quan như : Doanh nghiệp, khai thuê, hãng vận chuyển, ngân hàng, cảng ... Cần đào tạo đội ngũ chuyên sâu về công nghệ thông tin, có hiểu biết cơ bản về các lĩnh vực nghiệp vụ hải quan và quy trình thủ tục hải quan hiện đại. Đội ngũ này sẽ chịu trách nhiệm phối hợp với các đối tác trong và ngoài ngành thiết kế, xây dựng và triển khai các hệ thống ứng dụng, duy trì hoạt động ổn định của hệ thống, mở rộng và phát triển theo yêu cầu của nghiệp vụ. Deleted: Page 2 Đội ngũ chuyên gia nghiệp vụ hải quan được đào tạo sâu về các lĩnh vực quản lý hải quan và thủ tục hải quan hiện đại, có kinh nghiệm quản lý thực tiễn và có hiểu biết chung về CNTT. Đội ngũ này chịu trách nhiệm chính về thủ tục hải quan khi thiết kế xây dựng hệ thống tự động hoá. V- Thực hiện Hiệp định TRIPs: Luật Hải quan có qui định tại điều 57 trong đó:" Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ đã được bảo hộ theo qui định của pháp luật Việt nam có quyền đề nghị cơ quan hải quan tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu , xuất khẩu mà mình có căn cứ cho rằng có vi phạm là quyền sở hữu trí tuệ." Điều đó có nghĩa là Hải quan Việt nam thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong chừng mực có liên quan đến hàng hoá xuất nhập khẩu. Như vậy hải quan chỉ can thiệp đối với việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá vi phạm quyền sở hữu công nghiệp hoặc vi phạm bản quyền theo qui định của pháp luật trên cơ sở thẩm quyền được pháp luật qui định Thực tiễn triển khai các biện pháp kiểm soát biên giới của hải quan trong những năm qua chưa mang lại kết quả như mong muốn do các nguyên nhân như: nhận thức chung của toàn xã hội, của ngay một bộ phận cán bộ hải quan còn hạn chế; hải quan chưa có bộ phận chuyên trách ; còn thiếu thông tin; chưa có sự hợp tác hoặc quan hệ cần thiết giữa hải quan với chủ sở hữu quyền; phối hợp giữa các cơ quan, lực lượng chuyên ngành chưa chặt chẽ,... do đó, trong thời gian tới cần tập trung vào một số khâu sau: Xây dựng bộ phận chuyên trách về sở hữu trí tuệ tại cơ quan Tổng cục hải quan cũng như tại các Cục hải quan địa phương với trách nhiệm cụ thể và các thẩm qưuyền cần thiết. Trang bị các thiết bị thông tin đảm bảo thông tin nhanh chóng, kịp thời trong nội bộ cũng như với các cơ quan chuyên trách như Cục Sở hữu công nghiệp, Cục Bản quyền, các sở khoa học, công nghệ và môi trường cũng như sở Văn hoá Thông tin ở các tỉnh thành phố. Xây dựng cơ sở dữ liệu  Deleted: Page 2 đảm bảo cho việc theo dõi so sánh việc xuất nhập khẩu hàng hoá có nhãn hiệu hay bản quyền đã đăng ký và đã có yêu cầu hải quan bảo hộ. Đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao và nhận thức đúng đắn về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Thiết lập các quan hệ công tác chặt chẽ với các cơ quan khác trong hệ thống Sở hữu Trí tuệ, đặc biệt với cục Sở hữu công nghiệp, cục Bản quyền. Xây dựng có chế yêu cầu bảo hộ bao gồm cả bảo hộ theo yêu cầu dài hạn và yêu cầu đối với từng vụ việc cụ thể và thiết lập các quan hệ công tác thiết thực với các chủ sở hữu quyền sở hưũ trí tuệ giúp cho việc xây dựng và vận hành cơ quan chuyên trách về sở hữu trí tuệ cuả Hải quan có hiệu quả nhất. Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ được kinh nghiệm của hải quan các nước và sự hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc tế có liên quan trong vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Deleted: Page 2 KẾT LUẬN Hiện đại hóa là yêu cầu và nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, trong đó mỗi ngành, mỗi cấp phải tự đổi mới, hoàn thiện mình, tiến hành những bước đi thích hợp để trước hết là hiện đại hóa ngành mình và sau là đóng góp vào công cuộc hiện đại hóa chung vì sự phát triển của đất nước. Nhận thức rõ ý nghĩa và trách nhiệm của mình, ngành Hải quan Việt nam đã nhanh chóng triển khai nhiều biện pháp trên bình diện rộng, thực hiện cải cách đổi mới thủ tục hải quan và đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Luật Hải quan có hiệu lực từ 1/1/2002 là sản phẩm kết tinh các thành tựu đạt được trong suốt quá trình đổi mới và cải cách của ngành hải quan nói riêng và cả nước nói chung trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Là thành viên của Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), tham gia một số công ước quan trọng về hải quan, Hải quan Việt Nam đã có điều kiện tham khảo sâu hơn nhiều nội dung các công ước về hải quan hoặc liên quan đến hải quan, tạo thuận lợi cho ngành tham gia vào các hoạt động hải quan trong khu vực và trên thế giới. Những kết quả tích cực đạt được từ việc tham gia các công ước như Công ước Thành lập Hội đồng Hợp tác Hải quan, Công ước Kyoto, Công ước HS, Công ước về ma túy,.. đã khẳng định Hải quan Việt Nam đang đi đúng đường. Thông qua việc tham gia những công ước quốc tế về hải quan, Hải quan Việt nam đã xây dựng và mở rộng quan hệ quốc tế song phương và đa phương với nhiều nước và khu vực hải quan trên thế giới. Điều đó giúp cho Việt Nam thêm nhiều cơ hội có thể học hỏi và trao đổi kinh nghiệm với Hải quan các nước, đồng thời cũng là cơ hội để Hải quan Việt Nam chứng tỏ vị thế và vai trò tích cực của mình trong khu vực và trên diễn đàn quốc tế về Hải quan. Deleted: Page 2 Tuy nhiên, để thực sự hội nhập với cộng đồng Hải quan Thế giới, Hải quan Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm, mà nghiên cứu vai trò các điều ước quốc tế về hải quan hoặc liên quan đến hải quan là một trong những công việc cấp thiết, nhằm đưa ra được những đánh giá khách quan, đề xuất những bước đi thích hợp cho ngành trong việc tiếp tục, sẽ tham gia những công ước nào cho có lợi nhất, phù hợp với định hướng hiện đại hóa ngành Hải quan. Hy vọng với một số đề xuất trình bày trong bài viết sẽ góp một phần nhỏ bé vào công cuộc hiện đại hóa, xây dựng ngành Hải quan Việt nam trở thành một lực lượng chuuyên nghiệp, có chuyên môn sâu, hiện đại, có uy tín trên diễn đàn Hải quan khu vực và thế giới, góp phần vào công cuộc hiện đại hóa đất nước và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Deleted: Page 2 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8121.doc