Thực trạng hoạt động & một số nguy cơ trong tương lai của công tác tín dụng trong Ngân hàng thương Mại

Mở đầu. Ngay từ những ngày đầu tiên khi nền công nghiệp ngân hàng ra đời và phát triển, tín dụng đã là một phần không thể thiếu, một chức năng đặc trưng, tiêu biểu trong hoạt động của nó. Một tổ chức kinh tế không thể được gọi là một ngân hàng nếu trong đó không phát sinh hoạt động tín dụng, nói cách khác là hoạt động đi vay và cho vay. Có lẽ, quan hệ tín dụng trong nền kinh tế đã tồn tại trước khi ngân hàng đầu tiên xuất hiện, nó có mục đích lớn nhất là phân phối các nguồn vốn trong nền kinh t

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động & một số nguy cơ trong tương lai của công tác tín dụng trong Ngân hàng thương Mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế theo cách hiệu quả nhất, chuyển những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đến những nơi thiếu hay cần vốn nhằm thu lợi cao hơn. Thế nhưng, hoạt động tín dụng sẽ mãi là nhỏ lẻ, không mang lại hiệu quả tối đa nếu nó cứ diễn ra giữa từng cá nhân hay thậm chí từng tổ chức. Sự xuất hiện của ngân hàng đã giải quyết được vấn đề này, ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính có khả năng huy động, tập trung các nguồn vốn trong nền kinh tế với qui mô lớn, đa dạng về chủng loại. Vì thế, giờ đây bên cạnh vay vốn dựa trên quan hệ cá nhân, trực tiếp giữa hai bên, người ta có thể vay tín dụng thông qua ngân hàng với qui mô và loại hình không hạn chế. Hơn thế nữa sự hình thành quan hệ tín dụng trong ngân hàng thương mại giúp giảm chi phí cho sự lưu thông vốn, khiến cung và cầu vốn tiếp xúc với nhau thuận tiện và dễ dàng hơn. Sự xuất hiện của ngân hàng chính là sự phát triển hoàn thiện của quan hệ tín dụng, nó đã khiến hoạt động tín dụng phát huy tối đa hiệu quả trong việc thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế. Và cũng vì lẽ đó, tín dụng luôn gắn chặt với lịch sử phát triển của ngân hàng, nó là yếu tố quyết định sự thành bại của một ngân hàng. Cùng với sự phát triển chung của ngành ngân hàng, hoạt động tín dụng trong ngân hàng cũng có những tiến bộ đáng kể, ngày càng có nhiều hình thức cho vay với qui mô và hình thức không hạn chế. Tuy không còn chiếm vai trò độc tôn trong ngân hàng như cách đây vài thập kỉ nhưng ngày nay, cho vay vẫn chiếm từ 1/2 đến 2/3 trên tổng tài sản của một ngân hàng, và vẫn là một nguồn thu nhập chủ yếu hết sức quan trọng đối với mọi ngân hàng. Không những thế, đứng trước những đòi hỏi mang tính thời đại, sự bùng nổ của khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin và sự phát triển chung của nền kinh tế toàn cầu theo hướng mở cửa hội nhập, việc quản lí hoạt động tín dụng, phát hiện và phòng chống rủi ro tín dụng là một nhiệm vụ cấp thiết, sống còn đối với công tác quản lí cũng như sự phát triển chung của ngân hàng thương mại. Với những nhận thức cơ bản đó, em tiến hành đề tài này theo ba phần như sau: Phần A: Rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại: phần này nhằm mục đích giới thiệu chung về hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại, đặc biệt là các hình thức cho vay mà ngân hàng thương mại đang tiến hành Phần B: Biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng : phần này trình bày một số biện pháp chủ yếu mà các ngân hàng hay sử dụng để phòng ngừa rủi ro tín dụng. Đó là các biện pháp như phòng ngừa trước và sau cho vay, công tác thẩm định dự án, phân tích tín dụng v.v sử dụng các biện pháp nghiệp vụ, như quản lí khe hở, sử dụng các công cụ tài chính phát sinh như hợp đồng tương lai, quyền chọn và giao dịch hoán đổi và một số yếu tố khác. Phần C: Đây là phần được dành để trình bày một số nhận định của bản thân về thực trạng hoạt động và một số nguy cơ trong tương lai của công tác tín dụng trong NHTM. Một số giải pháp chung được nêu lên có tính chất tham khảo. Trong quá trình trình bày đề án này, chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, có thể có những thiếu sót nghiêm trọng, song với tinh thần không ngại khó, em mong các thầy cô đọc và góp ý cho em về vấn đề mà em nghiên cứu. Em xin được cảm ơn các thầy cô. Phần A.Rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại. I.Hoạt động tín dụng trong ngân hàng thương mại: Tín dụng nhìn chung là để chỉ quan hệ vay mượn nói chung trong nền kinh tế, trong đó có những đặc điểm mang tính đặc thù như thời hạn, lãi suất, hình thức v.v Trong quan hệ tín dụng, có sự xuất hiện của hai bên là bên đi vay và bên cho vay. Tín dụng trong ngân hàng cũng vậy, chỉ có điều là ở đây có một bên đã được xác định, đó là một ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại(NHTM) với tư cách là một trung gian tài chính, một tổ chức kinh doanh độc lập, mục tiêu duy nhất và cao nhất là lợi nhuận, điều này khiến NHTM khác với ngân hàng nhà nước, khác với các doanh nghiệp và các thể chế tài chính khác. Cũng vì thế mà hoạt động tín dụng trong NHTM mang những đặc điểm riêng, một trong những đặc điểm đó chính là mức độ và ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Có lẽ không một thể chế tài chính nào lại có rủi ro tín dụng đa dạng, phức tạp và khó quản lí như NHTM( chúng ta sẽ nghiên cứu kĩ hơn ở phần sau). Nhưng khó không có nghĩa là chúng ta không hay không thể làm được, và chúng ta nên bắt đầu việc này bằng cách nhìn lại một cách tổng quát và có hệ thống về tín dụng trong ngân hàng thương mại. Nói đến quan hệ tín dụng nghĩa là nói đến đi vay và cho vay, NHTM có thể là bên đi vay khi nó nhận tiền gửi, phát hành trái phiếu(ở một số nước luật pháp không cho phép)v.v. Đó là một mảng hoạt động lớn của ngân hàng vì nó tạo ra “nguyên liệu” cho quá trình sản xuất kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên trong phạm vi của đề tài này, chúng ta sẽ dành sự chú ý đặc biệt vào ngân hàng khi họ đóng vai trò là người cho vay, vì đó chính là mặt chủ yếu thể hiện rõ nhất, bản chất nhất quan hệ tín dụng trong ngân hàng thương mại. Có thể nói, hiện nay, một ngân hàng thương mại có thể cung cấp rất nhiều hình thức cho vay đối với khách hàng, nói cách khác là có rất nhiều tiêu trí để phân biệt các loại hình cho vay khác nhau từ ngân hàng : theo đối tượng được vay vốn, theo qui mô vay vốn, theo mục đích vay, thời hạn vay v.v Tuy nhiên, để thuận tiện cho việc nghiên cứu rủi ro tín dụng đối với ngân hàng thương mại, có thể nêu ra các loại hình cho vay sau: 1.Cho vay thấu chi( Overdraft lending): Như chúng ta đã biết, thấu chi là chỉ hành động phát hành hay thanh toán quá số dư của tài khoản, đặc biệt là tài khoản vãng lai( curent account) mà khách hàng đã mở tại một ngân hàng. Tất nhiên chúng ta có thể cho rằng, ngân hàng sẽ chỉ cho phép khách hàng phát hành trong phạm vi số dư trên tài khoản. Tuy nhiên để làm được điều này không phải dễ dàng, việc khớp đúng số dư trên tài khoản và quá trình thanh toán đặc biệt là thanh toán séc có sự đảm bảo chi trả của ngân hàng không phải là hai quá trình luôn luôn song song và đồng thời, việc rút số dư của tài khoản chỉ thường được tiến hành định kì trong khi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trên tài khoản thì biến động liên tục trong kì. Hơn thế nữa để tạo thuận lợi cho khách hàng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, ngân hàng hoản toàn có thể đáp ứng những nhu cầu cấp bách và chính đáng của doanh nghiệp về tiền mặt, tiền thanh khoản, trong những khoảng thời gian thích hợp. Nghĩa là ngân hàng cũng không nên tìm cách để ngăn ngừa mọi hành động thấu chi. Để bù đắp cho những khoản thấu chi đó, ngân hàng có thể coi đó là một khoản vay được cung cấp cho khách hàng, cho vay thấu chi. Loại cho vay thấu chi này có đặc điểm là không tuân theo quá trình thẩm định cho vay thông thường, thường có thời hạn ngắn thậm chí rất ngắn, và nó có thể tiềm ẩn nguy cơ rủi ro tín dụng rất cao nếu không có biện pháp giám sát và quản lí chặt chẽ. Do vậy đây cũng thường là món vay có lãi suất tương đối cao, có khi còn có những khoản phạt, hậu quả của việc thấu chi. 2. Cho vay đối với doanh nghiệp: Thực sự đây là một hình thức cho vay vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế nói chung vì nó cung cấp vốn, nguồn lực không thể thiếu cho sự hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chính là những thành viên tích cực và hiệu quả nhất trong việc đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung của một quốc gia. Vì thế, việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp đồng nghĩa với việc tạo đà phát triển cho cả nền kinh tế nói chung và khi món vay đó mang lại hiệu quả thì cả ngân hàng, doanh nghiệp cũng như nền kinh tế nói chung đều có lợi. Bình thường, doanh nghiệp có thể có rất nhiều nguồn vốn khác nhau, do tự có, tài trợ, còn nếu là vay thì có thể vay từ ngân sách nhà nước, ngân hàng trung ương v.v Tuy nhiên do đối tượng nghiên cứu của chúng ta ở đây là ngân hàng thương mại(NHTM), nên với những đặc điểm riêng của mình NHTM thường cung cấp những khoản vay sau đối với doanh nghiệp. a, Cho vay dài hạn (term loans): Những khoản vay này thường nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu về máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất hay nhà xưởng cho doanh nghiệp. Do đây là những khoản vay có kì hạn dài và qui mô lớn nên nguy cơ rủi ro tín dụng cũng tương đối cao, thời gian càng dài thì sắc xuất của việc khả năng tài chính của doanh nghiệp xấu đi, và việc không thu hồi được vốn càng tăng. Để hạn chế bớt rủi ro này, ngân hàng thường có những chính sách cụ thể. Ngân hàng có thể sử dụng tài sản thế chấp, tuy nhiên đây có thể chưa phải giải pháp hiệu quả nhất khi mà thông thường giá trị giữa tài sản thế chấp và khoản cho vay có sự chênh lệch, đặc biệt là tính thanh khoản của nó. Ví dụ, sau khi vay ngân hàng, doanh nghiệp đã sớm nhận ra nguy cơ thua lỗ của dự án, họ có thể bán phân xưởng của mình để thanh toán toàn bộ nợ cho ngân hàng nhưng lại không thể được vì đây là tài sản thế chấp. Và để duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp, họ phải xoay sở để gánh chịu lãi suất của ngân hàng, khi sự việc vỡ lở, cái phân xưởng của họ không thể có giá trị như trong điều kiện bình thường, mặt khác gánh nặng nợ nần lại chồng chất thêm rất nhiều. Vì thế, để tránh cho doanh nghiệp rơi vào tình trạng này, ngân hàng thường áp dụng cho vay từng phần, theo từng giai đoạn đầu tư,cho vay theo hạng mục. Tài sản thế chấp có thể chính là những tài sản mà doanh nghiệp muốn đầu tư khoản vay của mình. Ngân hàng cũng đa dạng các hình thức thanh toán các khoản vay theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, có thể trả nhiều lần bao gồm cả gốc và lãi, hoặc trả lãi nhiều lần và trả gốc một lầnv.v Với những cải tiến trong phương thức và hình thức cho vay, ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro tín dụng cho những khoản vay này. Tuy nhiên để đạt được hiệu quả hơn nữa, ngân hàng cần thực hiện thật tốt khâu đánh giá, giám sát và thẩm định công trình. b, Cho vay hoạt động(factoring): Đây là hình thức cho vay thường nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu tiền mặt hoặc vốn lưu động cho doanh nghiệp. Loại vay này thường dựa trên những hoá đơn đã bán được hàng nhưng chưa thu được tiền của doanh nghiệp, từ đó ngân hàng có thể chiết khấu một phần hay tính lãi cho khoản vay khi doanh nghiệp thu được tiền từ hoạt động bán hàng của mình. Đôi khi ngân hàng có thể thu lãi trực tiếp từ các khách hàng của doanh nghiệp. Đây là loại vay mà ngân hàng và doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ với nhau trong việc gánh chịu rủi ro, nếu không thu được tiền từ khách hàng, mặt khác nó cũng có cơ sở là các khoản phải thu của doanh nghiệp nên mức độ rủi ro tín dụng được hạn chế phần nào. Ngoài hai hình thức cho vay chủ yếu trên, NHTM còn có thể cung cấp rất nhiều loại hình cho vay khác đối với doanh nghiệp như cho vay theo hình thức thẻ tín dụng( credit card loans), cho vay luân chuyển, hạn mức tín dụng … tuỳ thuộc vào đặc tính và nhu cầu của từng doanh nghiệp. Và tất cả các loại hình cho vay đó đều nhằm mục đích là tối đa hoá lợi nhuận cho ngành ngân hàng và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của doanh nghiệp. 3. Cho vay tiêu dùng(consumer loans): Đây là hình thức cho vay chủ yếu dành cho cá nhân hay các hộ cá thể. Tiền cho vay được nhằm vào mục đích mua sắm thiết bị đồ đạc như xe cộ đồ gia dụng, đi du lịch v.v Việc cho vay dựa vào khả năng thu nhập thường xuyên của cá nhân. Nó tạo điều kiện cho con người có khả năng tiêu thụ trước khi sản xuất, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mang tính thời điểm của mỗi cá nhân, do đó có tác động tích cực trong việc kích cầu, tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá cho nền kinh tế. Hình thức cho vay này ở một số nước đang phát triển còn rất hạn chế lí do là thiếu những bằng chứng pháp lí về thu nhập thường xuyên của cá nhân, không đủ điều kiện trình độ để tiến hành công khai và hợp pháp hoá thu nhập. 4. Vay mua bất động sản ( housing loans): Đối tượng của loại vay này thường là các cá nhân có thu nhập ổn định. Đây là loại vay dết hợp giữa cho vay tiêu dùng và cho vay dài hạn đối với doanh nghiệp. Lí do vay thường là để mua tài sản đáp ứng nhu cầu sử dụng của cá nhân nhưng giá trị tài sản thường lớn( nhà ở) và thời hạn thanh toán dài. Tuy nhiên, loại vay này thường có tỉ lệ rủi ro tương đối thấp vì ngân hàng thường cho vay dưới dạng tài sản, người vay không hoàn toàn có quyền sử dụng số tiền vay, thêm vào đó là khi đã quyết định vay những khoản vay loại này, người vay thường muốn có sự ổn định trong cuộc sống, và có đầy đủ các điều kiện về mặt quản lí hành chính như hộ khẩu cũng như khả năng tài chính. 5. Quan hệ tín dụng quốc tế : Đây là một mảng khá quan trọng và có những điểm khác với quan hệ tín dụng thông thường, nó liên quan đến sự vận chuyển vốn giữa các nền kinh tế và liên quan đến luật pháp quốc tế. Hình thức cho vay quốc tế khá đa dạng cho vay dưới dạng viện trợ, như IMF hay Wold Bank tiến hành và cũng có thể cho vay nhằm mục đích đầu tư kiểm lời. Do một số điều kiện nhất định, các công ti hay ngân hàng nước ngoài thường thường cho vay trong nước thông qua một ngân hàng thương mại trong nước. Ngân hàng trong nước đó chịu trách nhiệm quản lí thu hồi vốn cho phía nước ngoài, chịu trách nhiệm vời phía nước ngoài về món vay và hưởng chi phí hoa hồng nhất định. Đây là loại cho vay thường có khối lượng rất lớn, ảnh hưởng đến nhiều biến số kinh tế vĩ mô như lãi suất, tỉ giá, vì thế nó ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến rủi ro lãi suất và rủi ro tỉ giá. Ngoài ra, với mục đích chia sẻ và hạn chế rủi ro, các ngân hàng thương mại cũng tiến hành các nghiệp vụ cho vay khác như hợp tác cho vay, cho vay tập đoàn(syndication) hay cho vay tham dự (participation). Cho vay tập đoàn là khi nhiều ngân hàng kết hợp với nhau để cung cấp cho khách hàng một khoản vay thường là có qui mô rất lớn mà một ngân hàng đơn lẻ không thể đáp ứng được. Cho vay tham gia là việc các ngân hàng mua lại toàn bộ hay một phần khoản vay từ một ngân hàng khác, thu lợi nhuận từ chênh lệch giữa giá mua và lãi suất thu được. Các nghiệp vụ trên không những giúp các ngân hàng cho vay được vốn, tránh tình trạng ứ đọng vốn cho vay mà còn giúp các ngân hàng chia sẻ rủi ro, tạo lập các mối quan hệ chặt chẽ trong nội bộ ngân hàng, từ đó mà hoạt động hiêu quả hơn. II. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại: Rủi ro là một thực tế khách quan trong hoạt động của một ngân hàng, nó biểu hiện ở mọi hoạt động kinh doanh của một ngân hàng thương mại. Hơn thế nữa rủi ro trong hoạt động ngân hàng không chỉ đem lại thiệt hại cho bản thân ngân hàng đó, mà nó còn có thể gây ra những cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ gây hậu quả rất xấu cho toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như nền kinh tế nói chung. Rủi ro tín dụng chỉ là một bộ phận trong những rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt, tuy nhiên do tầm quan trọng đặc biệt của tín dụng đối với một ngân hàng thương mại, với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận, việc nhận biết và phòng ngừa rủi ro tín dụng là một trong những nhiệm vụ hàng đầu và mang tính chiến lược của ngân hàng. Xét về tổng thể, rủi ro tín dụng phát sinh do những khoản lỗ trong trường hợp ngân hàng không thể thu được cả gốc và lãi theo đúng kì hạn của khoản cho vay(nếu ngân hàng là người cho vay), hoặc không thể thanh toán đầy đủ đúng hạn những khoản nợ đến hạn(khi ngân hàng là người đi vay). Từ xuất phát điểm đó, rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại bao gồm các loại sau: - Rủi ro cơ bản: do sự phá sản của đối tác, khách hàng của ngân hàng - Rủi ro lãi suất: do sự biến động lãi suất trên thị trường - Rủi ro tỉ giá: do biến động trên thị trường ngoại hối - Rủi ro cấu trúc: do sự bất cập trong cơ cấu các tài sản nợ, tài sản có, giữa tài sản nợ và tài sản có về thời hạn, lãi suất,.. - Rủi ro nghiệp vụ: do ngân hàng không thể hoặc không tiến hành có hiệu quả các nghiệp vụ tín dụng - Rủi ro do yếu tố môi trường, thể chế: do luật pháp, tình hình chính trị, xã hội trong nước v.v có biến động. Trên đây là những rủi ro cơ bản mà chúng ta thường thấy ở một ngân hàng, tuy về mặt hình thức chúng được phân thành nhiều loại khác nhau nhưng bản chất, chúng có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời, yếu tố này ảnh hưởng đến yếu tố khác và ngược lại. Vì thế, để công tác quản lí và kiểm soát rủi ro được hiệu quả ngân hàng cần phải có một chiến lược tổng thể trong việc nghiên cứu, dự đoán và phòng ngừa rủi ro. Sau đây chúng ta cùng điểm qua các loại rủi ro để hiểu phần nào những đặc tính riêng của từng loại cũng như xây dựng một cách nhìn bao quát tổng thể về chúng. 1.Rủi ro cơ bản(principal risk): Đây là loại rủi ro trực tiếp và dễ nhận thấy nhất, nó là do sự phá sản, mất khả năng thanh toán từ phía đối tác, do đó ngân hàng không thể thu hồi vốn và lãi của khoản vay. Để giảm thiểu rủi ro này ngân hàng cần đặc biệt chú trọng khâu thẩm định tín dụng (creditworthy)đối với khách hàng, nói cách khách là xem xét tình trạng tài chính cũng như khả năng trả nợ của khách hàng. Thêm vào đó là các biện pháp như thế chấp, các điều khoản bồi thường ràng buộc v.v 2.Rủi ro lãi suất : Lãi suất là một biến số kinh tế vĩ mô, nó ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền, lạm phát,phản ánh mức độ sinh lời của nền kinh tế... do đó nó cũng tác động không nhỏ đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Trực tiếp nhất là sự ảnh hưởng của lãi suất đến giá trị thu nhập và thu nhập dự tính của khoản tín dụng. Ví dụ, lãi suất huy động vốn là 7%/năm, lãi suất đầu tư là 8%/năm như vậy lãi suất dự tính của hoạt động cho vay sẽ là 1%/năm, ngân hàng tiến hành cho vay 2 năm, năm đầu mọi việc diễn ra suôn sẻ, tuy nhiên sang năm thứ hai, lãi suất huy động vốn là 8%năm, do lãi suất đầu tư đã là 9,5%, tuy nhiên do hợp đồng đã kí nên ngân hàng vẫn phải cho khách hàng vay với lãi suất 8% mặc dù lúc này để cung cấp khoản cho vay đó ngân hàng cũng phải trả lãi ở mức 8%. Như vậy thu nhập mà ngân hàng thu được ở năm thứ 2 bằng 0, đấy là thu nhập ròng còn so sánh một cách tương đối ngân hàng đã chịu một khoản lỗ tương đối là 1,5%(so với các ngân hàng khác) vì ngân hàng chỉ được hưởng lãi 8% trong khi nó có thể cho vay với lãi suất 9,5% ở năm thứ 2. Trên một khía cạnh khác, như chúng ta đã biết, giá trị thị trường của tài sản có hay tài sản nợ là dựa trên giá trị hiện tại của chúng, nếu lãi suất tăng giá trị hiện tại của tài sản có và nợ giảm, ngược lại, nếu lãi suất giảm, giá trị hiện tại của tài sản tăng. Khi đó, nếu kì hạn của tài sản có và nợ không tương xứng thì sự biến đổi giá trị của tài sản có và nợ là không như nhau, do đó ẩn chứa những rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu(phần này liên quan đến rủi ro cấu trúc, mà ta sẽ xem xét ở phần sau). Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua ví dụ trên, ngân hàng sẽ yên tâm nếu ngay từ đầu họ cũng kí hợp đồng huy động vốn từ năm thứ nhất với thời hạn là 2 năm, khi đó sang năm thứ 2 họ cũng chỉ trả lãi là 7% năm. Nhưng vấn đề ở chỗ, điều gì sẽ xảy ra nếu năm thứ hai lãi suất huy động sẽ chỉ là 6,5%? Như vậy, do những giá trị tương lai chỉ mang tính dự đoán nên nó ẩn chứa những sai lầm, đó là một phần rất thú vị và hấp dẫn khi người ta tham gia thị trường tiền tệ. Một ngân hàng, cũng như bất kì một chủ thể khác tham gia vào thị trường tiền tệ cũng đều phải chấp nhận những rủi ro này, vấn đề là ở chỗ ai là người có chiến lược và cách nhìn đúng đắn hơn. Nói tóm lại, rủi ro lãi suất đối với hoạt động tín dụng xuất phát từ sự biến đổi của lãi suất chung trên thị trường tiền tệ, tác động đến bảng cân đối tài sản nợ(đi vay) và có (cho vay)của một ngân hàng khi cấu trúc thời hạn của các tài sản này không tương xứng và phù hợp. 3.Rủi ro ngoại hối: Khi đa phần nền kinh tế các nước đã phát triển theo hướng mở cửa hội nhập, toàn cầu hoá, hợp tác hóa thì thị trường tài chính giữa các nước nhất thiết phải có sự thông thương liên hệ với nhau. Các dòng vốn ra vào một quốc gia không tránh khỏi sự tác động của yếu tố tỉ giá. Do đó, khi ngân hàng tiến hành các nghiệp vụ tín dụng dựa trên nhiều đồng tiền khác nhau thì đó là lúc rủi ro ngoại hối xuất hiện. Rủi ro ngoại hối là do sự biến động của tỉ giá qua từng thời kì tác động lên bảng cân đối tài sản của ngân hàng trong hoạt động tín dụng khi kết cấu các tài sản có (cho vay) và nợ (đi vay) không tương thích ( cả về kì hạn và mệnh giá ). Như vậy cách ảnh hưởng của rủi ro tỉ giá đến hoạt động tín dụng cũng tương tự như rủi ro lãi suất nhưng nó liên quan trực tiếp đến thị trường tài chính quốc tế. Nhưng cần chú ý rằng rủi ro tỉ giá không chỉ xuất hiện khi ngân hàng tiến hành cho vay ra nước ngoài mà điều quan trọng nhất ở đây là ngân hàng có thể tiến hành hoạt động tín dụng bằng nhiều đồng tiền khác nhau( ví dụ cho vay bằng USD cho một doanh nghiệp trong nước). Để phòng ngừa loại rủi ro này, bên cạnh các giải pháp tương tự như đối với rủi ro lãi suất như cơ cấu lại, hợp đồng, thế chấp v.v thì trình độ công nghệ là yếu tố được quan tâm nhất. Thật vậy để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng trên nhiều loại tiền khác nhau trong khi tỉ giá giữa các đồng tiền là một biến số kinh tế vô cùng nhạy cảm, lên xuống liên tục từng ngày từng giờ thì yếu tố công nghệ và trình độ 4.Rủi ro cấu trúc : Đây là loại rủi ro xuất phát từ những yếu kém trong khâu quản lí tài sản của các ngân hàng, đó là những bất cập trong bảng kết cấu tài sản của một ngân hàng, trong tài sản nợ, trong tài sản có, giữa tài sản nợ và tài sản có. Do khả năng cập nhật thông tin về các luồng vốn trong ngân hàng có hạn cộng với sự yếu kém trong khâu quản lí, phân tích các yếu tố kinh tế, mặt khác, khi nền kinh tế phát triển mạnh, các điều kiện lại luôn luôn thay đổi, nếu các cán bộ tín dụng không kịp thời nhận ra những xu hướng mới của thời đại thì sẽ rất dễ khiến các ngân hàng lâm vào rủi ro mất vốn. Ví dụ, ở cuối một thời kì hưng thịnh, khi tốc độ đầu tư bắt đầu giảm, nhưng chưa giảm thực sự, lúc này tỉ lệ tăng trưởng bình quân của một số ngành bắt đầu chững lại và có chiều hướng đi xuống, do chưa nắm bắt kịp thời tình hình, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay dài hạn với khối lượng lớn đối với các ngành đó. Điều này sẽ làm tăng mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng, đó là do tài sản có của ngân hàng tăng lên ở qui mô lớn nhưng chủ yếu là dài hạn, trong khi tỉ suất đầu tư bình quân đang giảm, khả năng trả nợ của các con nợ cũng giảm theo, đây là những tín hiệu đáng lo mà chỉ trong những giai đoạn tiếp theo ngân hàng mới có thể thấy hết tác hại của nó.Hay như trong cuộc khủng hoảng nợ ở một số nước Nam Mĩ vừa qua, việc vay nợ nước ngoài với qui mô khổng lồ bằng ngoại tệ sau đó lại tiến hành cho vay trong nước bằng đồng nội tệ đã khiến cho cán cân vay giữa ngoại tệ và nội tệ mất cân bằng nghiêm trọng, kết quả là khi ngoại tệ lên giá, các ngân hàng này mất khả năng thanh toán, phá sản và đưa nền kinh tế các nước này lâm vào tình trạng khủng hoảng. Tất nhiên, có rất nhiều nguyên nhân để dẫn đến một cuộc khủng hoảng toàn diện như ở Nam mĩ và đông nam á như vừa qua, nhưng qua những nét khái quát trên em chỉ muốn minh chứng cho tầm quan trọng của việc cơ cấu tài sản ngân hàng sao cho hợp lí. Như vậy, nhìn chung rủi ro cấu trúc là loại rủi ro không trực tiếp hiện hữu trên từng hợp đồng tín dụng, nó chỉ bộc lộ khi nghiên cứu tổng thể cơ cấu vay và cho vay của ngân hàng, để phòng ngừa loại rủi ro này yêu cầu ngân hàng phải có những chiến lược ở tầm vĩ mô, và nâng cao khả năng phân tích kinh tế cũng như quản lí tài sản của mình. 5.Rủi ro ngiệp vụ hay rủi ro hoạt động: Loại rủi ro này là do ngân hàng không thể thực hiện các nghiệp vụ thu lãi như dự tính hoặc thực hiện các nghiệp vụ có sai sótv.v, ví dụ như rủi ro do ứ đọng vốn. Cụ thể hơn, ở thời kì trước, ngân hàng đã huy động được một lượng vốn với lãi suất là 7% nhưng không cho vay ngay được, đến thời kì sau, khi lãi suất cho vay chỉ là 6,7% như vậy ngân hàng chỉ có thể không cho vay hoặc cho vay thì chịu lỗ. Trong cả hai trường hợp ngân hàng đều phải gánh chịu những nguy cơ thua lỗ nhất định. Loại rủi ro này đòi hỏi các ngân hàng phải nâng cao trình độ cho nhân viên, phải có một đội ngũ nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn thành thạo, có khả năng nhận biết và sử lí các nghiệp vụ nhanh gọn chính xác. 6. Rủi ro từ môi trường và các yếu tố thể chế khác: Đây là loại rủi ro mà không chỉ tác động lên hoạt động tín dụng mà nó còn tác động lên mọi mặt hoạt động của ngân hàng. Đó là do sự biến đổi trong những qui định của pháp luật, do những thay đổi lớn về khoa học công nghệ. Đôi khi đó là do lạm phát, khủng hoảng kinh tế v.v. Như vậy, khả năng phòng chống các rủi ro này của một ngân hàng là khá hạn chế, để làm được việc đó, các ngân hàng phải có quan hệ hợp tác mật thiết lẫn nhau, cùng nhau tiến hành phân tích và đưa ra các biện pháp phòng ngừa thích hợp. Phần B. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng: Như trên đã đề cập, việc phân loại rủi ro tín dụng chỉ mang ý nghĩa tương đối vì giữa chúng có những mối liên hệ rất mật thiết, loại này tác động lên loại kia và ngược lại. Vì vậy, để công tác phòng ngừa rủi ro thực sự đạt hiệu quả chúng ta phải tiến hành các biện pháp một cách tổng hợp, khoa học và mang tính hệ thống cao. Việc phòng ngừa RRTD phải được tiến hành thường xuyên liên tục và triệt để, từ trước đến sau khi quan hệ tín dụng được phát sinh, từ tầm vi mô đến tầm vĩ mô, phải xác định đó là nhiệm vụ của mỗi nhân viên trong ngân hàng mà phòng tín dụng chỉ là biểu hiện tập trung của công tác đó. Để đạt được những yêu cầu đó, một ngân hàng thường tổ chức thực hiện các nghiệp vụ một cách có hệ thống có chiến lược và kế hoạch cụ thể bao gồm các nội dung sau: I. Phòng ngừa trước khi cho vay: Đây là một cách phòng ngừa rủi ro thực sự hiệu quả và cần được đề cao vì phòng bệnh bao giờ cũng hơn là chữa bệnh. Khi một quan hệ tín dụng chưa phát sinh, việc lường trước và đánh giá đúng rủi ro tiềm năng là một công việc rất có ích nhưng cũng đòi hỏi người làm công tác tín dụng phải có những nỗ lực đi đôi với những biện pháp và điều kiện khác như cơ sở kĩ thuật, trình độ ...ỏ mức độ cao.Phòng ngừa trước cho vay có thể bao gồm các nội dung sau: 1. Phân tích tín dụng: Đây là một công tác nghiệp vụ mang tính bắt buộc mà mọi ngân hàng phải thực hiện trước khi kí kết bất kì một hợp đồng tín dụng nào, nó giúp ngân hàng trong quá trình cho điểm tín dụng và đo lường rủi ro tín dụng trước cho vay. Việc phân tích tín dụng nhằm giải đáp những vấn đề sau: - Người xin vay có đáng tin cậy hay không? Vì sao? - Hợp đồng tín dụng có được cấu trúc hoàn chỉnh không - Quyền đối với tài sản thế chấp và các quyền khác của phía ngân hàng. 1.1.Múc độ tin cậy đối với khách hàng : Đây là vấn đề đánh giá khả năng thanh toán khoản vay đầy đủ, cả gốc và lãi, và đúng hạn của khách hàng, nó có tính quyết định trong việc phòng ngừa các rủi ro cơ bản khi quan hẹ tín dụng phát sinh. Để giải đáp vấn đề này ngân hàng cần căn cứ vào các yếu tố sau: - Tính cách( character) : Trách nhiệm, tính trung thực, mục đich vay vốn đúng đắn nghiêm túc, kế họch trả nợ cụ thể và hợp lí là những cơ sở để tạo nên tính cách hay uy tín của khách hàng trong mắt ngân hàng. Ngân hàng sẽ không khi nào cho vay khi họ nhận thấy những yếu tố thiếu trung thực, thiếu trách nhiêm trong việc quản lí sử dụng vốn cũng như tính khả thi của khoản vay vì nó sẽ dễ khiến ngân hàng phải gánh chịu những món nợ khó đòi. Tính cách và uy tín của khách hàng được ngân hàng đánh giá qua những tiêu trí sau quan hệ lâu nay giữa ngân hàng và khách hàng, tham khảo chủ nợ khác của khách hàng, bạn hàng, mục đích vay, tính khả thi của dự án… - Năng lực (capacity): năng lực ở đây có thể được hiểu là khả năng vay vốn, khả năng hoàn trả cũng như tư cách pháp lí của khách hàng trong việc kí kết hợp đồng tín dụng. Để hiểu về những vấn đề này, ngân hàng cũng có một hệ thống các chỉ tiêu cụ thể bao gồm: qui định pháp luật, năng lực người bảo lãnh, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh… - Dòng tiền mặt (cash flow): đây là yếu tố đánh giá khả năng thanh khoản của khách hàng, nghĩa là khả năng trả nợ trong những thời kì khác nhau, đặc biệt là trong ngắn hạn. Việc đánh giá chỉ tiêu này tập trung vào một số chỉ tiêu sau : dòng tiền mặt từ doanh thu bán hàng, thu nhập, dòng tiền mặt từ việc bán tài sản, huy động từ các công cụ nợ, chứng khoán v.v. đây cũng là nhân tố bộc lộ những khía cạnh khác của doanh nghiệp như sức mạnh thị trường, chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, trình độ quản lí, tiềm năng phát triển… - Tài sản thế chấp (collateral): Đây là vật đảm bảo cho sự vay nợ của khách hàng, giúp ngân hàng giảm bớt rủi ro mất vốn. Công tác thẩm định giá trị tài sản thế chấp do đó trở nên hết sức quan trọng. Trong việc đánh giá tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng thường đặt câu hỏi: người vay có sở hữu một tài sản nào có giá trị tương xứng với khoản vay hay không? đồng thời các cán bộ tín dụng phải đặc biệt nhạy cảm với những đặc điểm như: thời gian sử dụng, tình trạng hiện tại và mức độ chuyên môn hoá thể hiện ở tài sản của khách hàng. Trong đó, yếu tố công nghệ đóng một vai trò quan trọng. Nếu tài sản của khách hàng qua lỗi thời thì giá trị thế chấp của nó sẽ giảm xuống, lí do là vì ngân hàng sẻ gặp nhiều khó khăn trong việc bán lại tài sản đó nếu khoản vay không được hoàn trả( ta sẽ đề cập kĩ hơn ở phần sau ). - Các điều kiện về môi trường: ngân hàng phải luôn luôn nhận biết được những xu hướng tiến triển gần đây của hãng cũng như của ngành mà hãng hoạt động, hiểu được mức độ tác động của những thay đổi trong nền kinh tế đối với khoản cho vay. Một khoản cho vay có thể rất hiệu quả trên giấy tờ nhưng có thể giá trị của nó sẽ bị sụt giảm khi nền kinh tế lâm vào suy thoái hoặc lãi suất tăng cao do sức ép của lạm phát. Để làm tốt công tác này, ngân hàng phải có một hệ thống thu thập và lưu trữ thông tin thường xuyên liên tục với khối lượng lớn và phải tiến hành các nghiên cứu định kì về ngành và ngân hàng phục vụ. - Sự kiểm soát : Nhân tố cuối cùng để đánh giá độ đáng tin cậy của một khách hàng là sự kiểm soát, nó tập trung vào các cây hỏi như : những thay đổi về qui định có ảnh hưởng bất lợi đến người vay không và liệu khách hàng có đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng tín dụng mà các cơ quan quản lí của ngân hàng đặt ra không?v.v. 1.2. Cấu trúc của một hợp đồng tín dụng hoàn chỉnh: Khi niềm tin mà ngân hàng dành cho khách hàng đã được xác định, vấn đề tiếp theo là tạo nên một hợp đồng tín dụng hoàn chỉnh để có thể đáp ứng yêu của cả ngân hàng và khách hàng. Vấn đề này được thể hiện trên các điều khoản của một hợp đồng tín dụng về thời gian cấp phát, kế hoạch hoàn trả, lãi._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0699.doc
Tài liệu liên quan