Chương I. Tổng quan về Bảo hiểm và Môi giới Bảo hiểm xe cơ giới.
I. Tổng quan về Bảo hiểm
1. Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân:
- Các rủi ro do thiên nhiên gây ra như bão, lụt, hạn hán, động đất, sét, lốc, sương muối, dịch bệnh... làm ảnh hưởng đến sản xuất, đến đời sống và
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1489 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động môi giới bảo hiểm xe cơ giới tại Việt Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sức khoẻ con người;
- Các rủi ro do biến động của khoa học và công nghệ. Khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển làm tăng năng suất lao động thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống con người; nhưng mặt khác cũng gây nhiều tai nạn bất ngờ như tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tai nạn ô tô... và làm tăng nguy cơ mất việc làm của người lao động.
- Các rủi ro do môi trường xã hội. Những rủi ro này chịu tác động của nhiều yếu tố và ảnh hưởng trực tiếp đến mọi thành viên trong xã hội như ốm đau, dịch bệnh, mất việc làm, trộm cắp, hoả hoạn...
Bất kể nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường gây cho con người những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại nhiều tài sản làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân... và làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây ra. Hiện nay, theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi ro và hậu quả do rủi ro gây ra - đó là nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro và nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro.
- Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro.
+ Tránh né rủi ro là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong cuộc sống. Mỗi người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những biện pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra, tức loại trừ cơ hội dẫn đến tổn thất. Chẳng hạn, để tránh các tai nạn giao thông người ta hạn chế đi lại... để tránh tai nạn lao động người ta chọn những nghề không nguy hiểm... Tránh né rủi ro chỉ với những rủi ro có thể né tránh được. Nhưng cuộc sống có rất nhiều rủi ro bất ngờ không thể tránh né được.
+ Ngăn ngừa tổn thất - Các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đưa ra các hành động nhằm làm giảm tổn thất hoặc giảm mức độ thiệt hại do tổn thất gây ra. Ví dụ, để giảm thiểu các tai nạn lao động người ta tổ chức các khoá học nâng cao chất lượng các hoạt động đảm bảo an toàn lao động; để phòng chống hoả hoạn, người ta thực hiện tốt phòng cháy chữa cháy...
+ Giảm thiểu tổn thất - người ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua các biện pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất xảy ra. Ví dụ, như khi có hoả hoạn, để giảm thiểu tổn thất người ta cố gắng cứu những tài sản còn dùng được hay trong một vụ tai nạn giao thông, để giảm thiểu các thiệt hại về người và của người ta đưa ngay những người bị thương đến nơi cấp cứu và điều trị...
Mặc dù các biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn chặn hoặc giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể lường hết hậu quả.
- Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc phục hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có.
+ Chấp nhận rủi ro: Đây là hình thức mà người gặp phải tổn thất phải tự chấp nhận khoản tổn thất đó. Một trường hợp điển hình của chấp nhận rủi ro là tự bảo hiểm. Có rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận rủi ro, tuy nhiên có thể phân chia thành hai nhóm: Chấp nhận rủi ro thụ động và chấp nhận chủ động. Trong chấp nhận rủi ro thụ động, người ta gặp tổn thất không có sự chuẩn bị trước và có thể phải vay mượn để khắc phục hậu quả của tổn thất. Đối với chấp nhận rủi ro chủ động, người ta lập ra quỹ dự trữ dự phòng và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất do rủi ro gây ra. Tuy nhiên, việc này dẫn đến việc nguồn vốn không được sử dụng một cách tối ưu hoặc nếu đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia tăng về lãi suất...
+Bảo hiểm: Đây là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội, bảo hiểm không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Do nhu cầu của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày nay, sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng mở rộng.
Vì vậy, khái niệm "bảo hiểm" trở nên gần gũi, gắn bó với con người, với các đơn vị sản xuất kinh doanh. Có được quan hệ đó vì bảo hiểm đã mang lại những lợi ích kinh tế xã hội thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơn vị có tham gia bảo hiểm.
2. Bản chất và tác dụng của bảo hiểm
2.1 Bản chất của bảo hiểm
* Các định nghĩa về bảo hiểm
" Bảo hiểm là một phương pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền do những người có cùng khả năng gặp một loại rủi ro nào đó đóng góp tạo nên" Định nghĩa này chỉ mới đề cập đến phương pháp lập quỹ dự trữ bảo hiểm, mà chưa rõ phương thức sử dụng nó.
"Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm tham gia cam kết bồi thường ( theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong từng trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia bảo hiểm nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba". Điều này có nghĩa là người tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia gặp phải rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại trong phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm.
Đây là định nghĩa mang tính chung nhất của bảo hiểm. Có định nghĩa chỉ rõ đặc trưng riêng của một loại bảo hiểm. Chẳng hạn " Bảo hiểm xã hội la sự đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động và gia đình họ khi có nguy cơ mất an toàn về kinh tế do giảm hoặc mất khả năng lao động thông qua sử dụng nguồn quỹ huy động từ người tham gia và sự tài trợ của Nhà nước". Định nghĩa này chỉ rõ mục đích của bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ thông qua sử dụng quỹ huy động từ người tham gia )người sử dụng lao động và người lao động) và sự tài trợ của Nhà nước để trợ cấp cho người lao động bị giảm sức lao động (do ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp...) hoặc mất sức lao động (hết tuổi lao động...).
* Bản chất của bảo hiểm
Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định kinh tế cho người thạm gia từ đó khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống, đồng thời tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
Thực chất của bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm trong nước giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi tai nạn, rủi ro bất ngờ xảy ra gây tổn thất đối với người tham gia bảo hiểm.
Phân phối trong bảo hiểm là phân phối không đều, không bằng nhau, nghĩa là không phải ai tham gia cũng được phân phối và phân phối với số tiền như nhau. Phân phối trong bảo hiểm là phân phối cho số ít người tham gia bảo hiểm không may gặp rủi ro bất ngờ gây thiệt hại đến sản xuất và đời sống trên cơ sở mức thiệt hại thực tế và điều kiện bảo hiểm. Điều đó cũng có nghĩa, phân phối trong bảo hiểm không mang tính bồi hoàn, tức là dù có tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm nhưng không tổn thất thì cũng không được phân phối (trừ một số sản phẩm Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hưu trí).
Hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên tắc "Số đông bù số ít". Nguyên tắc này được quán triệt trong quá trình lập quỹ dự trù bảo hiểm cũng như trong quá trình phân phối bồi thường, quá trình phân tán rủi ro.
Hoạt động bảo hiểm còn liên kết, gắn bó các thành viên trong xã hội cùng vì lợi ích chung của cộng đồng, vì sự ổn định, sự phồn vinh của đất nước. Bảo hiểm với nguyên tắc "Số đông bù số ít" cũng thể hiện tính tương trợ, tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc của xã hội trước rủi ro của mỗi thành viên.
2.2 Tác dụng của Bảo hiểm
Bảo hiểm nói chung hay bảo hiểm xã hội , bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp hay bảo hiểm thương mại nói riêng đều mang lại những lợi ích kinh tế - xã hội thiết thực.
- Trước hết bảo hiểm góp phần ổn định tài chính cho người tham gia trước tổn thất do rủi ro gây ra.
Rủi ro do thiên tai hay tai nạn bất ngờ đều gây thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống, sản xuất kinh doanh của các cá nhân, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm, chưa kể có lúc gây thiệt hại về người. Tổn thất đó sẽ được bảo hiểm trợ cấp hoặc bồi thường về tài chính để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống, sản xuất kinh doanh. Từ đó, họ khôi phục và phát triển sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác một cách bình thường. Tác động này phù hợp với mục tiêu kinh tế nên thu hút được số đông người tham gia.
- Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp.
Khi tham gia bảo hiểm, cơ quan hoặc công ty bảo hiểm sẽ cùng với người tham gia thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất rủi ro đã xảy ra. Cơ quan, công ty bảo hiểm đóng góp tài chính một cách tích cực để thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro như tuyên truyền, hướng dẫn các biện pháp phòng tránh tai nạn, mua sắm thêm các dụng cụ phòng cháy chữa cháy; cùng ngành giao thông làm các biển báo, các đường lánh nạn...
- Bảo hiểm góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách Nhà nước.
Với quỹ bảo hiểm do các thành viên tham gia đóng góp, cơ quan, công ty bảo hiểm sẽ trợ cấp hoặc bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để họ khôi phục lại đời sống, sản xuất kinh doanh. Như vậy ngân sách Nhà nước không phải chi ra để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp rủi ro, tất nhiên trừ trường hợp tổn thất mang tính thảm hoạ, mang tính xã hội rộng lớn.
Mặt khác, hoạt động bảo hiểm nhất là bảo hiểm thương mại có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách thông qua các loại thuế, tức tăng thu cho ngân sách.
- Bảo hiểm còn là phương thức huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Dưới hình thức phí bảo hiểm, ngành bảo hiểm đã huy động được một số lượng vốn khá lớn từ các đối tượng tham gia. Số vốn đó ngoài việc chi trả trợ cấp hay bồi thường thiệt hại còn là nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Đặc biệt đối với bảo hiểm nhân thọ, nguồn vốn huy động được tích luỹ thời gian dài mới sử dụng để chi trả. Do đó, các công ty bảo hiểm có thể sử dụng kinh doanh bất động sản, mua trái phiếu...nghĩa là dùng đầu tư vào hoạt động kinh tế để sinh lời. Và như vậy góp phần tăng nguồn vốn cho nền kinh tế, làm cho hệ thống tài chíng sôi động hơn v.v...
-Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tái bảo hiểm.
Thị trường bảo hiểm nội địa và thị trường bảo hiểm quốc tế có mối quan hệ qua lại, thúc đẩy nhau phát triển thông qua hình thức phân tán rủi ro và chấp nhận rủi ro - hình thức tái bảo hiểm giữa các công ty của các nước. Như vậy bảo hiểm vừa góp phần phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước góp phần ổn định thu chi ngoại tệ cho ngân sách.
- Bảo hiểm thu hút số lượng lao động nhất định cho xã hội, góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội. Đồng thời hoạt động bảo hiểm cũng góp phần giải quyết đời sống cho bộ phận lao động làm việc trong ngành bảo hiểm; góp phần tạo ra một bộ phận tổng sản phẩm trong nước (GDP) của quốc gia.
-Cuối cùng, bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức kinh tế - xã hội; giúp họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt và trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bởi vì, với một giá khiêm tốn ( phí bảo hiểm), bảo hiểm có thể giúp đỡ các gia đình, các tổ chức khắc phục hậu quả những rủi ro khôn lường.
Chính vì vậy, ông Wiston Chuchill - một chính khách đã nói: " Nếu có thể, tôi sẽ viết từ "Bảo hểm" trong mỗi nhà và trên trán mỗi người. Càng ngày tôi càng tin chắc rằng, với một giá khiêm tốn bảo hiểm có thể giải phóng các gia đình ra khỏi thảm hoạ không lường trước được".
II Môi giới bảo hiểm
1. Sự cần thiết và vai trò của MGBH
* Sự cần thiết
Có thể nói bảo hiểm là một sản phẩm dịch vụ hết sức đặc biệt. Người mua bảo hiểm trả tiền để nhận được lời cam kết sẽ được chi trả bồi thường khi gặp rủi ro tổn thất. Còn trong trường hợp không gặp rủi ro tổn thất có nghĩa người mua bảo hiểm đã may mắn và không được nhận tiền bảo hiểm từ nhà bảo hiểm. Đặc tính này khiến việc tiếp cận các sản phẩm bảo hiểm đến khách hàng không dễ dàng. Chính vì vậy, sự ra đời của kênh phân phối môi giới bảo hiểm là cần thiết góp phần quan trọng vào sự phát triển của ngành bảo hiểm nói chung. Trong khi thị trường bảo hiểm ngày càng phát triển, số lượng người tham gia bảo hiểm ngày càng nhiều, có nhiều khách hàng do chưa hiểu hết hoặc vì một lý do nào đó mà chưa nghiên cứu kỹ về những điều kiện, điều khoản hoặc phân vân không biết phải lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp bảo hiểm nào. Môi giới ra đời nhằm giải quyết những vướng mắc đó, môi giới bảo hiểm là người đại diện cho quyền lợi của khách hàng cung cấp những thông tin cần thiết để người tham gia yên tâm khi ký kết hợp đồng bảo hiểm. Hoặc khi xảy ra những khiếu nại bồi thường, môi giới sẽ giúp cho khách hàng có được những quyền lợi chính đáng mà họ được hưởng. Chính vì thế, môi giới ra đời là một tất yếu khách quan làm cho môi trường bảo hiểm cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo những lợi ích cho khách hàng cũng như lợi ích của tất cả các bên tham gia bảo hiểm.
* Vai trò của MGBH
Môi giới bảo hiểm có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của ngành Bảo hiểm, bởi môi giới là cầu nối giữa khách hàng và các doanh nghiệp cung ứng những sản phẩm bảo hiểm, đứng về phía khách hàng và đảm bảo quyền lợi cho họ. Môi giới bảo hiểm làm cho sản phẩm dịch vụ bảo hiểm ngày càng đa dạng và hoàn hảo hơn.
- Nhờ có môi giới, người mua bảo hiểm không còn phải mất nhiều thời gian và công sức để tìm hiểu về các công ty bảo hiểm, nghiên cứu các điều khoản, điều kiện bảo hiểm,tỷ lệ phí, mức phí bảo hiểm...mà vẫn có được những thông tin chính xác có chất lượng cho quyết định mua bảo hiểm của mình. Nhờ thế lợi ích bảo hiểm thực sự được đảm bảo một cách tốt nhất.
a. Công ty môi giới bảo hiểm sẽ thay mặt người mua bảo hiểm trực tiếp xây dựng, đàm phán, thu xếp hợp đồng bảo hiểm (đơn bảo hiểm) với các công ty bảo hiểm gốc, sao cho có lợi nhất cho người mua bảo hiểm; Trong trường hợp bảo hiểm thông qua hình thức đấu thầu, Công ty môi giới bảo hiểm có thể tham gia vào quá trình chuẩn bị hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu giúp cho người mua bảo hiểm có được những hợp đồng bảo hiểm hoàn hảo nhất;
b. Không may có những thiệt hại do những rủi ro bất ngờ không lường trước được xảy ra, nếu được người mua bảo hiểm uỷ quyền, Công ty môi giới bảo hiểm sẽ là người tham gia thực hiện các thủ tục đòi bồi thường (giám định, lập hồ sơ khiếu nại, xác định mức bồi thường cao nhất...), thậm chí tham gia các thủ tục tố tụng pháp lý khi cần thiết để bảo vệ lợi ích cho người mua bảo hiểm;
c. Mọi dịch vụ môi giới bảo hiểm cung cấp dịch vụ khách hàng đều là miễn phí. Người mua bảo hiểm không phải trả bất kỳ một khoản nào cho công ty môi giới. Công ty môi giới được hưởng một khoản hoa hồng nhất định từ phí bảo hiểm mà Công ty bảo hiểm gốc thu được để đảm bảo cho hoạt động của mình;
d. Việc mua bảo hiểm thông qua công ty môi giới cũng là một nhân tố góp phần tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty bảo hiểm, lợi ích của người mua bảo hiểm được đề cao, từ đó thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển và góp phần phát triển kinh tế.
2.2 So sánh Đại lý bảo hiểm và Môi giới bảo hiểm
* Giống nhau:
- Đại lý và Môi giới bảo hiểm đều là những trung gian bảo hiểm, chịu trách nhiệm tư vấn, thu xếp và ký kết hợp đồng bảo hiểm.
- Đều được hưởng hoa hồng từ doanh nghiệp bảo hiểm theo phần trăm nhất định so với phí bảo hiểm thu được.
-Đại lý và Môi giới đều thực hiện thu phí bảo hiểm của khách hàng (nếu được sự cho phép của doanh nghiệp bảo hiểm)
- Đại lý và Môi giới đều phải được đào tạo về những kiến thức bảo hiểm, chịu trách nhiệm với nghề nghiệp của mình.
* Khác nhau:
- Đại lý đại diện cho quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm, hoạt động vì lợi ích chung của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Môi giới đại diện cho khách hàng, đứng về phía khách hàng, đảm bảo quyền lợi và dịch vụ bảo hiểm tốt nhất cho họ.
- Đại lý làm việc cho một doanh nghiệp nhất định trong khi đó Môi giới hoạt động độc lập, không phụ thuộc vào bất cứ doanh nghiệp bảo hiểm nào.
2.3 Phân loại Môi giới bảo hiểm
a) Môi giới bảo hiểm gốc:
Là tổ chức hoặc cá nhân đứng ra dàn xếp các vấn đề bảo hiểm giữa khách hàng và doanh nghiệp bảo hiểm.
Có những người cần mua bảo hiểm nhưng không biết phải mua như thế nào và mua ở đâu. MGBH gốc làm việc với khách hàng để xác định nhu cầu bảo hiểm, sau đó đàm phán thoả thuận với doanh nghiệp bảo hiểm để có được phạm vi bảo hiểm và phí bảo hiểm tốt nhất, thoả mãn nhu cầu của khách hàng. MGBH gốc thực hiện nhiều công việc cho DNBH và được nhận môi giới phí từ DNBH hoặc trực tiếp từ khách hàng.
Hoạt động MGBH gốc mang lại nhiều lợi ích:
- MGBH gốc tư vấn cho khách hàng về quản lý rủi ro một cách hiệu quả nhất. Đây là lĩnh vực chuyên môn của MGBH, trong khi khách hàng chỉ biết rõ nhất về công việc kinh doanh của họ. Điều này tiếc kiệm được thời gian và chi phí cho doanh nghiệp bảo hiểm. Đồng thời tư vấn về thủ tục khiếu nại để đảm bảo cho khách hàng có được mức bồi thường thoả đáng;
- Môi giới luôn thông báo cho khách hàng biết về những văn bản quy phạm pháp luật mới nhất về bảo hiểm và các lĩnh vực có liên quan, giúp khách hàng xem xét các vụ đã bồi thường để nhận biết những hạn chế và do đó có thể giảm bớt các vụ khiếu nại trong tương lai. Điều này cũng tiếc kiệm cho doanh nghiệp bảo hiểm;
-Môi giới giới thiệu khách hàng mới cho doanh nghiệp bảo hiểm; in các văn bản, hợp đồng bảo hiểm; chuyển giao những ý tưởng và mẫu HĐBH mới trên thị trường bảo hiểm thế giới cho các DNBH trong nước, giúp tăng cường khả năng cạnh tranh của bảo hiểm quốc gia trên trường quốc tế.
- Tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu các khoản thuế liên quan đến phí bảo hiểm...
b) Môi giới tái bảo hiểm:
Là người hỗ trợ,giúp đỡ các DNBH gốc làm việc với các doanh nghiệp tái bảo hiểm trong việc bảo hiểm cho chính các doanh nghiệp bảo hiểm gốc.
Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm trên thế giới đều yêu cầu môi giới tái bảo hiểm tư vấn, giúp đỡ khi các rủi ro được bảo hiểm quá lớn với khả năng tài chính của họ trong việc thanh toán bồi thường tổn thất nếu rủi ro xảy ra. Đối với các rủi ro tiềm ẩn lớn, môi giới tái bảo hiểm sẽ giúp DNBH phân tích phạm vi rủi ro để thu xếp tái bảo hiểm khi cần thiết.
Thông qua môi giới tái bảo hiểm, các DNBH sẽ có được sự an toàn về tài chính, do đó sẽ có khả năng bảo vệ khách hàng lớn hơn và đem lại sự ổn định cao hơn cho xã hội.
Hoạt động môi giới tái bảo hiểm mang lại nhiều lợi ích:
- Môi giới tái bảo hiểm thay mặt cho DNBH tiếp cận với nhiều doanh nghiệp tái bảo hiểm. Do có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tái bảo hiểm, giá bảo hiểm dành cho các doanh nghiệp bảo hiểm gốc được giảm xuống nên tiếc kiệm được ngoại tệ và tăng được lợi nhuận cho các doanh nghiệp bảo hiểm;
-Các DNBH gốc nhận được khối lượng dịch vụ lớn hơn, do đó khách hàng sẽ được đảm bảo tài chính tốt hơn;
- Môi giới tái bảo hiểm hỗ trợ các DNBH gốc lập kế hoạch đối phó với những tổn thất mang tính thảm hoạ như bão, lốc, động đất...xảy ra hàng năm.
MGBH là tổ chức trung gian, có nhiều kinh nghiệm và đại diện cho người mua bảo hiểm, vì vậy hoạt động MGBH là rất cần thiết. Nếu không có hoạt động MGBH trong nước, các DNBH và người tham gia bảo hiểm sẽ sử dụng MGBH nước ngoài, gây bất lợi cho nền kinh tế trong nước nói chung và hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói riêng.
Hoạt động MGBH còn mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia:
- Tạo thêm công ăn việc làm, hạn chế chảy máu ngoại tệ do giữ được dịch vụ trong nước, tăng nguồn thu từ thuế và góp phần đưa công nghệ cao vào đất nước.
- Tăng khả năng kiểm soát của Chính phủ đối với hoạt động của các DNBH có trụ sở nước ngoài.
- Tăng khả năng quản lý của Chính phủ đối với các nội dung chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm như: Nội dung hợp đồng bảo hiểm, quy định biểu phí bảo hiểm...
Như vậy, MGBH có vai trò rất lớn, thể hiện qua việc hỗ trợ Nhà nước tăng cường an toàn tài chính và sự ổn định.
3. Trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền lợi của MGBH
3.1 Trách nhiệm của MGBH
- Phải cung cấp thông tin trung thực trong quá trình tư vấn, môi giới cho khách hàng bảo hiểm. Đồng thời phải có trách nhiệm bảo mật thông tin cho khách hàng và cho các doanh nghiệp bảo hiểm.
- Khi tổn thất xảy ra, nếu được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền bồi thường thì MGBH có trách nhiệm thanh toán số tiền đó cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
- MGBH chịu trách nhiệm về uy tín của DNBH (doanh nghiệp tái bảo hiểm), nghĩa là giới thiệu cho khách hàng những DNBH (doanh nghiệp tái bảo hiểm) có uy tín chứ không chịu trách nhiệm về tài chính của DNBH (doanh nghiệp tái bảo hiểm). Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, nhất là trong môi giới tái bảo hiểm, môi giới phải chịu trách nhiệm nghề nghiệp về khoản thiệt hại do lỗi của họ gây ra nếu tư vấn sai. Để tránh bất trắc và bảo vệ mình trong những trường hợp tai nạn bất thường và cũng để khách hàng yên tâm, tin tưởng vào môi giới, hầu hết các MGBH đều mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Ở một vài quốc gia, việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp này bắt buộc.
Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định doanh nghiệp MGBH phải:
"a) Thực hiện môi giới trung thực;
b) Không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm;
c) Bồi thường thiệt hại cho bên mua bảo hiểm do hoạt động MGBH gây ra" (Khoản 2, điều 91, mục 2, chương IV).
Hơn nữa, "doanh nghiệp MGBH phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động MGBH tại DNBH hoạt động ơ Việt Nam" (Điều 92, mục2, chương IV).
Đồng thời MGBH không được thực hiện các hành vi sau đây:
- Ngăn cản bên mua bảo hiểm cung cấp các thông tin liên quan đến HĐBH hoặc xúi giục bên mua bảo hiểm không kê khai các chi tiết liên quan đến hợp đồng bảo hiểm;
- Khuyến mại khách hàng dưới hình thức hứa hẹn cung cấp các quyền lợi bất hợp pháp để xúi giục khách hàng giao kết hợp đồng bảo hiểm;
- Xúi giục bên mua bảo hiểm huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm hiện có để mua hợp đồng bảo hiểm mới.
3.2. Nhiệm vụ của MGBH
Một là, vận động, tuyên truyền và khai thác dịch vụ bảo hiểm. Cụ thể là xác định, phân tích và thẩm định các rủi ro khác nhau; thu thập các thông tin cần thiết và thoả thuận các điều kiện và điều khoản bảo hiểm với DNBH thích hợp nhất.
Hai là, hướng dẫn người tham gia bảo hiêm ký kết hợp đồng bảo hiểm mới hoặc thay đổi hợp đồng bảo hiểm cũ. Môi giới theo dõi việc thực hiện hợp đồng như khiếu nại đòi bồi thường và tiến hành các dịch vụ quản lý rủi ro gồm:
- Xác định và thẩm định khu vực rủi ro;
- Tư vấn về các biện pháp thích hợp để giảm nhẹ rủi ro;
- Lập các chương trình quản lý tốt rủi ro;
- Giúp đỡ lập kế hoạch chống thiên tai và kế hoạch trước tổn thất.
Nếu được DNBH uỷ quyền, MGBH phải thu phí bảo hiểm của khách hàng, sau đó thanh toán số phí bảo hiểm đó cho DNBH theo thời hạn đã thoả thuận. Nếu không có thoả thuận về thời gian thanh toán, MGBH phải thanh toán số phí bảo hiểm nói trên cho doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian sớm nhất, thường không quá 7 ngày kể từ ngày nhận được phí bảo hiểm.
Khi tổn thất xảy ra, MGBH giúp người tham gia bảo hiểm làm thủ tục đòi DNBH chi trả, bồi thường. Nếu DNBH uỷ quyền cho MGBH trả tiền thì MGBH phải thanh toán số tiền đó cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định: "Nội dung hoạt động của MGBH bao gồm:
1. Cung cấp thông tin về loại hình bảo hiểm, điều kiện, điều khoản,phí bảo hiểm, DNBH cho bên mua bảo hiểm;
2. Tư vấn cho bên mua bảo hiểm trong việc đánh giá rủi ro, lựa chọn loại hình bảo hiểm, điều khoản, biểu phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiêm;
3. Đàm phán, thu xếp giao kết hợp đồng bảo hiểm giữa DNBH và bên mua bảo hiểm;
4. Thực hiện các công việc khác có liên quan đến việc thực hiện HĐBH theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm " (Điều 90, mục 2, chương IV).
Ngoài ra, các doanh nghiệp MGBH nước ngoài có thể đặt văn phòng đại diện tại nước sở tại. Thời gian hoạt động của văn phòng này thường được giới hạn, hết thời hạn hoạt động được phép xin gia hạn. Nhiệm vụ của văn phòng đại diện thuộc doanh nghiệp MGBH nước ngoài là:
+ Làm văn phòng liên lạc, nghiên cứu thị trường, xúc tiến xây dựng các dự án đầu tư của doanh nghiệp MGBH nước ngoài, thúc đẩy và theo dõi việc thực hiện các dự án do doanh nghiệp MGBH nước ngoài tài trợ tại nước sở tại và các hoạt động khác phù hợp với pháp luật nước sở tại;
+ Văn phòng đại diện của doanh nghiệp MGBH nước ngoài không được thực hiện các hoạt động kinh doanh tại nước sở tại, phải báo cáo định kỳ hoạt động theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý cấp trên của nước sở tại;
+ Khi kết thúc hoạt động phải thực hiện đầy đủ thủ tục và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nước sở tại.
3.3 Quyền lợi của MGBH
MGBH được DNBH trả tiền hoạt động (gọi là hoa hồng môi giới bảo hiểm) và các khoản tiền khác.
MGBH được đào tạo về nghiệp vụ bảo hiểm.
MGBH được DNBH hỗ trợ các phương tiện hoạt động như phương tiện quản lý (máy vi tính,internet,...).
Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam, "doanh nghiệp MGBH được hưởng hoa hồng môi giới bảo hiểm. Hoa hồng MGBH được tính trong phí bảo hiểm" (Khoản 91, mục 2, chương IV).
Như vậy Môi giới bảo hiểm được đào tạo chuyên nghiệp về chuyên môn nghiệp vụ, ….
4. Kinh nghiệm quốc tế về hoạt động Môi giới bảo hiểm
Sản phẩm bảo hiểm được phân phối cho người tham gia bảo hiểm qua các kênh: doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp thực hiện, thông qua các trung gian bảo hiểm là môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm. Trên thế giới, môi giới bảo hiểm thu xếp đến 90% tổng lượng dịch vụ bảo hiểm, trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ xấp xỉ 100% dịch vụ bảo hiểm do đại lý phân phối.
Thực tế cho thấy, kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng của thị trường.
Môi giới bảo hiểm tư vấn giúp khách hàng đánh giá rủi ro cần phải bảo hiểm, lựa chọn các doanh nghiệp bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm phù hợp với mức phí bảo hiểm hợp lý, hỗ trợ việc giải quyết và thương lượng bồi thường, giúp cho cả doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng tiếc kiệm được thời gian và chi phí cho các giao dịch bảo hiểm, đồng thời tạo mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm.
Các nước có thị trường bảo hiểm phát triển thì hoạt động môi giới càng hoạt động mạnh mẽ, thể hiện đúng vai trò của nhà môi giới chuyên nghiệp, như các nước trong khu vực, hoạt động môi giới bảo hiểm cũng phát triển ngày càng mạnh.
Tại Singapore có 36 công ty môi giới bảo hiểm và 158 công ty bảo hiểm, tỷ lệ giữa môi giới bảo hiểm và công ty bảo hiểm là 1:5, tức cứ bình quân 5 công ty bảo hiểm ra đời sẽ có một công ty môi giới bảo hiểm.
Tại Malaysia có 63 công ty môi giới bảo hiểm và 53 công ty bảo hiểm, tỷ lệ này là 1:1, cứ có một công ty bảo hiểm thì sẽ xuất hiện hơn 1 công ty môi giới bảo hiểm, đây là con số khá cao so với thị trường bảo hiểm nói chung.
Tại Indonexia có 66 công ty môi giới bảo hiểm và 169 công ty môi giới. tỷ lệ này khoảng 1:3.
Trong khi ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có 7 công ty môi giới bảo hiểm và 30 doanh nghiệp bảo hiểm. Con số này thật nhỏ bé và khiêm tốn so với 82 triệu dân cư, lớn thứ hai trong khu vực Đông Nam Á, con số các công ty bảo hiểm lẫn công ty môi giới bảo hiểm đều là rất nhỏ bé và quá ít so với thị trường.
Cùng với sự phát triển đa dạng của các loại hình bảo hiểm, người dân cần có nhiều kênh phân phối thông tin để hiểu rõ về thị trường và đa dạng các trung gian bảo hiểm đã ra đời, trong đó môi giới bảo hiểm là một dạng trung gian được các gia đình và các cơ sở sản xuất kinh doanh tin dùng và sử dụng là nhà tư vấn cho mình. Người được bảo hiểm có thể nhận được từ sự tư vấn độc lập từ một người môi giới về một loạt các vấn đề bảo hiểm mà không phải trả chi phí trực tiếp cho người tư vấn, theo quan điểm của các công ty bảo hiểm, những cuộc đàm phán với môi giới dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn vì chỉ những điểm rắc rối hoặc những nhu cầu đặc biệt mới cần đàm phán chi tiết, nhờ vậy tiếc kiệm được thời gian và tiền bạc đối với những vấn đề thông thường. Ở hầu hết các thị trường phức tạp như Mỹ, Tây Âu, Trung Quốc, Nhật Bản…, phần lớn là bảo hiểm thương mại được thực hiện qua môi giới bảo hiểm. Các tổ chức môi giới lớn thường là các công ty xuyên quốc gia, một số tổ chức công nghiệp cũng là thành lập công ty môi giới riêng của họ, các công ty này đựơc xem như một công ty môi giới bảo hiểm nội bộ sẽ phụ trách thu xếp các loại hình bảo hiểm công nghiệp của công ty đó.
III. Môi giới bảo hiểm xe cơ giới.
1. Vai trò của Môi giới Bảo hiểm xe cơ giới.
1.1. Vai trò của Môi giới bảo hiểm xe cơ giới
Môi giới bảo hiểm xe cơ giới là một trong những nghiệp vụ của môi giới bảo hiểm nói chung, là cầu nối quan trọng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng có nhu cầu mua bảo hiểm xe cơ giới bảo vệ cho tài sản vật chất xe hoặc trách nhiệm có liên quan khi tham gia giao thông.
Hiện nay trên thị trường bảo hiểm, số lượng người tham gia bảo hiểm xe cơ giới ngày càng nhiều, nhu cầu của khách hàng về chất lượng dịch vụ bảo hiểm hoàn hảo là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm gốc cũng có lúc gặp phải những khó khăn trong vấn đề thu xếp, ký kết hợp đồng bảo hiểm, thủ tục khiếu nại bồi thường... Khách hàng cũng vậy, không phải ai cũng có thể lựa chọn được công ty bảo hiểm có dịch vụ tốt nhất, phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của mình. Để giải quyết những vấn đề đó, chỉ có những nhà môi giới chuyên nghiệp mới có thể cung cấp những thông tin cần thiết cho khách hàng về sản phẩm, chất lượng dịch vụ của các công ty bảo hiểm, đảm bảo lợi ._.ích cho khách hàng một cách tốt nhất, đồng thời vẫn đem lại lợi ích cho doanh nghiệp bảo hiểm và cho toàn xã hội. Cụ thể:
- Môi giới bảo hiểm xe cơ giới thu thập thông tin đánh giá rủi ro và xây dựng chương trình quản trị rủi ro hữu hiệu nhất cho người tham gia bảo hiểm ( chủ yếu là bảo hiểm cho đoàn xe lớn).
- Thu thập, cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường bảo hiểm Việt Nam và thị trường tái bảo hiểm trong nước và ngoài nước…
- Tư vấn cho người tham gia bảo hiểm về sản phẩm bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, phí bảo hiểm, giúp cho người tham gia bảo hiểm lựa chọn công ty bảo hiểm và dịch vụ bảo hiểm phù hợp với nhu cầu của mình.
- Đàm phán, thu xếp giao kết hợp dồng bảo hiểm giữa người tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm .
- Hỗ trợ lập hồ sơ khiếu nại, tham gia đàm phán giải quyết khiếu nại với công ty bảo hiểm để cho công tác giải quyết bồi thường diễn ra nhanh chóng, đảm bảo lợi ích của người tham gia bảo hiểm cũng như doanh nghiệp bảo hiểm.
1.2. Sơ lược về bảo hiểm xe cơ giới:
Sự ra đời của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới góp phần khắc phục một phần hậu quả do tai nạn giao thông gây ra, giúp cho chủ xe cơ giới cũng như người bị nạn nhanh chóng ổn định đời sống cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh. Các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới bao gồm các loại chính như: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3, bảo hiểm vật chất thân xe, bảo hiểm tai nạn lái, phụ và người ngồi trên xe.
1.2.1.Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Đối tượng bảo hiểm
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba có đối tượng bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh phải bồi thường khi xe cơ giới lưu hành gây thiệt hại cho người thứ ba. Trách nhiệm ở đây có thể là do sự bất cẩn trong quá trình điều khiển xe hoặc trách nhiệm đối với tài sản có nguồn nguy hiểm cao độ. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba bao gồm:
Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khoẻ của bên thứ ba
Chủ xe (lái xe) phải có hành vi trái pháp luật. Có thể vô tình hay cố ý mà lái xe vi phạm luật lệ giao thông đường bộ, hoặc vi phạm các quy định khác của nhà nước …
Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe (lái xe) với những thiệt hại của người thư ba.
Chủ xe(lái xe) phải có lỗi.
Chúng ta cũng cần chú ý rằng, bên thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là những người trực tiếp bị thiệt hại do hậu quả của tai nạn nhưng loại trừ:
Lái, phụ xe, người làm công cho chủ xe;
Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng, con cái…
Hành khách, những người có mặt trên xe;
Tài sản, tư trang, hành lý của những người nêu trên và các tài sản khác được cất dữ trên xe;
Hàng hoá chuyên chở trên xe.
Phạm vi bảo hiểm
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác chỉ nhận bảo hiểm cho các rủi ro bất ngờ xảy ra và gây thiệt hai cho người thứ ba, bao gồm:
Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba;
Thiệt hại tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc giảm thu nhập;
Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế thiệt hại; các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm(kể cả biện pháp không mang lại hiệu quả);
Những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của những người tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cưu và chăm sóc nạn nhân.
Các trường hợp loại trừ:
Hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại;
Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao thông theo qui định của điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ.
Chủ xe, lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông đường bộ.
Thiệt hại do chiến tranh bạo động
Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh.
Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, mất cắp trong tai nạn.
Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, trừ khi có thoả thuận khác.
Ngoài ra công ty bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với các tài sản đặc biệt như vàng, bạc, đá quí, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quíhiếm, thi hài, hài cốt …
Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm được tính cho đầu phương tiện đối với mỗi loại phương tiện(thường tính theo năm) là:
P = f + d
Trong đó :
P-Phí bảo hiểm trên đầu phương tiện
f-Phí thuần
d-Phụ phí
phí thuần được tính theo công thức :
f =
Trong đó :
Si: Số vụ tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe trong năm i.
Ti : Thiệt hại bình quân đối với mỗi vụ tai nạn trong năm i.
Ci : Số xe thực tế hoạt động trong năm i.
n : số năm thống kê, thường từ 3à5 năm, i = (1, n).
1.2.2 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách trên xe
Đây là loại hình bảo hiểm được áp dụng cho những chủ xe được cơ quan chức năng của Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh vận tải hành khách.
Đối tượng được bảo hiểm:
là tính mạng và tình trạng sức khoẻ của hành khách trên xe theo hợp đồng vận chuyển hành khách của doanh nghiêp.
Phạm vi bảo hiểm:
Tai nạn gây thiệt hại về tính mạng, tình trạng sức khỏe và tài sản của hành khách trên xe.
Chi phí cần thiết cấp cứu, chăm sóc nạn nhân.
Các trường hợp loại trừ:
Xe chở quá số người đã đăng ký.
Vi phạm các trường hợp loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Phí bảo hiểm
P = f + d
Trong đó :
P-Phí bảo hiểm
f-Phí thuần
d-Phụ phí
1.2.3.Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Đối tượng bảo hiểm
Là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia. Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất thân xe là để được bồi thường những thiệt hại về vật chất thân xe khi rủi ro xảy ra đối với xe của mình. Người bảo hiểm có thể bảo hiểm toàn bộ hoặc từng bộ phận của xe.
Phạm vi bảo hiểm
Các rủi ro được bảo hiểm bao gồm:
Tai nạn do đâm va, lật đổ;
Cháy, nổ, bão lụt, sét, mưa đá;
Mất cắp toàn bộ xe;
Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác.
Ngoài ra, nhà bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm:
Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe cơ giới xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm;
Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất;
Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm;
Các trường hợp loại trừ:
Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hỏng thêm do sửa chữa;
Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, săm lốp mà không do tai nạn gây ra;
Mất cắp bộ phận xe;
Vi phạm các trường hợp loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Phí bảo hiểm
Được tính theo công thức:
P = f + d
Trong đó :
P-Phí bảo hiểm trên đầu phương tiện
f-Phí thuần
d-Phụ phí
phí thuần được tính theo công thức :
f = (Với i = 1,2,…,n)
Trong đó :
Si: Số vụ tai nạn xảy ra trong năm i.
Ti : Thiệt hại bình quân đối với mỗi vụ tai nạn trong năm i.
Ci : Số xe hoạt động thực tế trong năm i.
1.2.4.Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá trên xe.
Đây là loại hình bảo hiểm áp dụng cho những xe cơ giới có giấy phép kinh doanh vận tải hàng hoá. Khi nhận hàng để chở, chủ xe phải có nghĩa vụ đưa hàng hoá đến địa điểm giao hàng cuối cùng một cách đầy đủ và nguyên vẹn vì thế chủ xe phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại của hàng hoá mà họ nhận chở xảy ra do lỗi của họ.
Đối tượng bảo hiểm
Là phần trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với chủ cửa hàng khi xe đang lưu hành gây thiệt hại về hàng hoá theo hợp đồng vận chuyển giữa chủ xe và chủ hàng. Hàng hoá ở đây là những hàng hoá thông thường, không thuộc nhóm hàng cấm kinh doanh, vận chuyển theo quy định của pháp luật.
Phạm vi bảo hiểm
Là trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với hàng hoá vận chuyển, là số tiền chủ xe phải chịu trách nhiệm bồi thường cho chủ hàng khi có tai nạn làm thiệt hại về hàng hoá vận chuyển trên xe theo “thể lệ vận chuyển hàng hoá bằng ô tô” ban hành kèm theo quyết định số 1690/QT-VT ngày 15/9/1990 của Bộ giao thông vận tải và Bưu điện.
Ngoài ra nhà bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe chi phí cần thiết, hợp lý nhằm:
Ngăn ngừa, giảm nhẹ tổn thất thêm cho hàng hoá;
Bảo quản, xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi hàng hoá trong quá trình vận chuyển do hậu quả của tai nạn;
Các trường hợp loại trừ:
Vi phạm các điểm loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba;
Hành hoá lưu thông trái phép;
Vàng bác đá quý (dạng nguyên thuỷ hoặc đã tinh chế);
Tiền, các loại ấn chỉ, hoá đơn có giá trị như tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm;
Thi hài, hài cốt;
Mất cắp, trộm cướp;
Tổn thất hàng hoá do sự bắt giữ của cơ quan chức năng nhà nước;
Tổn thất hàng hoá do bị xô lệch, va đập trong quá trình vận chuyển mà không phải do đâm va, lật đổ;
Phí bảo hiểm
P = f + d
Trong đó :
P-Phí bảo hiểm
f-Phí thuần
d-Phụ phí
1.2.5.Bảo hiểm tai nạn lái, phụ và người ngồi trên xe
Đối tượng bảo hiểm
Là lái xe, phụ xe, người áp tải, và những người khác được trở trên xe.
Phạm vi bảo hiểm
Những người này bị tai nạn khi đang ngồi trên xe, lên xuống xe, trong quá trình xe đang tham gia giao thông.
Các trường hợp loại trừ:
Đối tượng được bảo hiểm cố ý gây thiệt hại.
Vi phạm các trường hợp loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Phí bảo hiểm
P = f + d
Trong đó :
P-Phí bảo hiểm
f-Phí thuần
d-Phụ phí
Trong loại trên, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là loại hình bảo hiểm bắt buộc (được quy định tại Luật dân sự, Luật kinh doanh bảo hiểm và các nghị định của Chính phủ) mà đối tượng bảo hiểm là những thiệt hại về người và tài sản do người sử dụng xe gây ra cho người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Khắc phục hậu quả tai nạn hay bồi thường cho người tham gia bảo hiểm là khâu cuối cùng trong quá trình bán sản phẩm bảo hiểm. Đây là việc thực hiện cam kết bồi thường bảo hiểm của nhà bảo hiểm, thể hiện rõ tính chất xã hội và tính chất nhân đạo của bảo hiểm. Chỉ có ở đây người ta mới nhận thấy vai trò của bảo hiểm nói chung và các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới nói riêng.
Theo ông Phạm Ngọc giao, Phó phòng bảo hiểm xe cơ giới, Bảo Việt Việt Nam, thị trường bảo hiểm xe cơ giới tại Việt Nam vẫn đang tiếp tục tăng trưởng một cách nhanh chóng, và được dự báo là còn tiếp tục phát triển. Từ mức doanh thu phí của năm 2002 là 637,123 tỷ đồng đã tăng lên 969,39 tỷ đồng năm 2003, 1.355,972 tỷ đồng năm 2004, và đến năm 2005, doanh thu phí các nghiệp vụ xe cơ giới trên thị trường đạt 1.600 tỷ đồng, bằng 30% doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Trong khi số xe ô tô tham gia mua bảo hiểm chiếm tới 90% số ô tô hiện có thì xe máy chỉ đạt chưa tới 30%. Trong thời gian tới, được dự báo là số xe tham gia bảo hiểm ngày càng nhiều, vì vậy môi giới trong nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới càng có nhiều cơ hội để phát triển và thực hiện tốt vai trò của nhà môi giới chuyên nghiệp.
2. So sánh bán bảo hiểm xe cơ giới qua Đại lý và Môi giới
Đại lý và Môi giới bảo hiểm đều là những trung gian bảo hiểm, là cầu nối giữa khách hàng tham gia bảo hiểm và các doanh nghiệp bảo hiểm, đều được hưởng hoa hồng theo một tỷ lệ nhất định so với phí bảo hiểm thu được. Thực hiện việc thu phí của khách hàng nếu được sự cho phép của doanh nghiệp bảo hiểm, Đại lý và Môi giới bảo hiểm đều được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, cần phải phân biệt sự khác nhau giữa Đại lý và Môi giới trong việc bán bảo hiểm xe cơ giới.
Đại lý đại diện cho quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm, được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền để mời chào người tham gia bảo hiểm ký kết hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới, Đại lý có thể là tổ chức hoặc cá nhân đáp ứng đầy đủ những quy định của pháp luật. Nhưng Môi giới bảo hiểm lại là một tổ chức, doanh nghiệp hoạt động độc lập với doanh nghiệp bảo hiểm, đại diện cho quyền lợi và lợi ích cho khách hàng, thu thập thông tin về doanh nghiệp bảo hiểm, sản phẩm, biểu phí…, tư vấn cho khách hàng lựa chọn doanh nghiệp nào có phí bảo hiểm và dịch vụ phù hợp nhất.
- Nếu như Đại lý làm việc cho một doanh nghiệp bảo hiểm nhất định, chào bán những sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp đó, thì Môi giới bảo hiểm lại hoạt động độc lập, chào bán tất cả các sản phẩm và dịch vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm cho khách hàng lựa chọn. Đại lý bán bảo hiểm xe cơ giới rất nhiều, điều kiện để hoạt động đại lý đơn giản hơn hoạt động môi giới. Phần lớn Môi giới bảo hiểm trong nghiệp vụ xe cơ giới thường tư vấn cho những hợp đồng bảo hiểm có giá trị bảo hiểm cao, đặc biệt là xe ô tô và những đoàn xe lớn của các doanh nghiệp.
IV. Thực trạng hoạt động Môi giới bảo hiểm tại Việt Nam trong thời gian qua
1.Thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam đánh dấu sự hình thành bằng việc ra đời Công ty bảo hiểm Việt Nam (hiện nay là tổng công ty bảo hiểm Việt Nam- Bảo Việt) vào ngày 15/01/1965. Tuy nhiên bước ngoặt trong quá trình hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam là việc Chính phủ ban hành Nghị định 100/CP ngày 18/12/1965, Nghị định này đã tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, cho phép nhiều loại hình doanh nghiệp bảo hiểm tham gia vào thị trường: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Cùng với Luật Kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực từ 1/4/2001 và các văn bản hướng dẫn thi hành gồm Nghi định 42, 43 và Thông tư 71, 72; tiếp sau đó là Thông tư 98, 99 ngày 19/10/2004 sửa đổi Thông tư 71,72; Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003-2010 được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 175/QĐ-TTg; đã tạo hành lang pháp lý cao nhất cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thị trường bảo hiểm đã ra đời và phát triển mạnh mẽ, góp phần hình thành và từng bước đồng bộ hoá thị trường dịch vụ chất lượng cao trong cả nước.
Sau 40 năm kể từ khi bảo hiểm Việt Nam hình thành và hơn 20 năm thực hiện chính sách cải cách và mở cửa thúc đẩy hội nhập quốc tế thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như huy động nguồn nội lực trong nước, ngành bảo hiểm đã từng bước khẳng định được chỗ đứng của mình trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đã và đang đạt được những thành tựu đáng kể về chất lượng, thực sự trở thành tấm lá chắn giúp cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân an tâm sản xuất và sinh hoạt, ổn định tài chính khi có rủi ro xảy ra.
Để thực sự thấy được sự thay đổi và phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua có thể thấy qua một số chỉ tiêu:
Cơ cấu thị trường
Từ năm 1964 đến năm 1993 Việt Nam mới chỉ có một công ty bảo hiểm ở Việt Nam là Bảo Việt hoạt động.
Từ năm 1993 đến năm 2000 thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có tới 17 doanh nghiệp trong đó có 5 doanh nghiệp Nhà nước, 4 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, 3 doanh nghiệp cổ phần, 5 liên doanh.
Từ năm 2000 đến 2005 thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có tới 30 doanh nghiệp được phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm 3 doanh nghiệp Nhà nước, 10 công ty cổ phần, 6 doanh nghiệp liên doanh và 11 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Như vậy, sau 5 năm ( 2000-2005) vừa qua số lượng các doanh nghiệp trên thịt trường đã tăng gần gấp đôi so với giai đoạn trước trong đó chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần ( 5 doanh nghiệp mới thành lập) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( thêm 8 doanh nghiệp mới). hai doanh nghiệp Nhà nước là Bảo Minh và VINARE đã hoàn tất quá trình cổ phần hoá trong năm 2004 và hiện đang chuyển hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần; do đó số lượng doanh nghiệp Nhà nước hiện chỉ còn 3 doanh nghiệp.
b.Số lượng doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đã tăng nhanh trong giai đoạn này, nếu như năm 2000 chỉ có một doanh nghiệp môi giới bảo hiểm thì đến năm 2006 đã có tới 7 doanh nghiệp môi giới, trong đó có 4 doanh nghiệp cổ phần, 2 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được cấp giấy phép mới là Savoye va Marsh, riêng Aon chuyển từ giấy phép liên doanh sang 100% vốn nước ngoài. Năm 2005 tổng phí môi giới bảo hiểm thu xếp qua các công ty môi giới bảo hiểm đạt 908 tỷ đồng, tăng 57% so với năm 2004, chiếm 16,41% tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ toàn thị trường của năm. Đây là con số đáng khích lệ bởi môi giới bảo hiểm Việt Nam mới được hình thành và chủ yếu là môi giới bảo hiểm nước ngoài ( tổng số phí bảo hiểm thu xếp qua các công ty môi giới bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 83,77% tổng số phí bảo hiểm thu xếp), trong khi tổng phí bảo hiểm thu xếp được qua các công ty môi giới trong nước chiếm 16,23% tổng phí bảo hiểm thu xếp được qua môi giới ( tỷ trọng của năm 2004 chỉ đạt 12,2%)
Số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng gần gấp đôi trong năm 2005 đã có tới 17 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Bảo hiểm nhân thọ với tiềm năng được đánh giá cao và chưa được khai thác hết tiếp tục thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2005 đã có 3 giấy phép kinh doanh bảo hiểm nhân thọ được cấp cho Prevori Vie, ACE INA và New York life.
Xu hướng phát triển của thị trường đã phản ánh những định hướng lớn của Chính phủ đề ra trong Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam đến năm 2010 là sắp xếp lại và nâng cao năng lực tài chính cho các doanh nghiệp Nhà nước (cổ phần hoá Bảo Minh và VINARE); phát triển hoạt động môi giới bảo hiểm ( cho phép thành lập thêm các doanh nghiệp môi giới trong nước dưới hình thức công ty cổ phần và cấp giấy phép hoạt động cho doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài có đủ điều kiện; tiếp tục mở rộng thị trường bảo hiểm phù hợp với tiến trình hội nhập.
c.Quy mô thị trường
Tổng phí bảo hiểm của toàn thị trường đã tăng hơn 4 lần trong thời gian từ năm 2000 đến năm 2005, từ 3.075 tỷ đồng năm 2000 lên 13.547 tỷ đồng năm 2005. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn này la 42%, tuy nhiên đà tăng trưởng có xu hướng giảm dần trong 2 năm gần đây. Cơ cấu tỷ trọng doanh thu dịch vụ bảo hiểm trong GDP cũng tăng nhanh từ 0,57% năm 1999 lên 2,03% năm 2005.
Bảo hiểm phi nhân thọ có tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn này là 28%, cao hơn nhiều so với giai đoạn 1993-1994 với tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 10%. Sự tăng trưởng của bảo hiểm phi nhân thọ có một nguyên nhân khách quan là nhờ vào sự tăng trưởng của các hoạt động kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư phát triển xã hội liên tục tăng đều qua các năm, trung bình là 15%/năm. Song động lực chính của sự tăng trưởng là nhờ sự nỗ lực không ngừng của các doanh nghiệp bảo hiểm trong việc phát triển sản phẩm mới, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường tiếp cận khách hàng, cải cách công nghệ quản lý. Nhờ vậy mà thị trường bảo hiểm phi nhân thọ có tốc độ tăng trưởng khá ổn định ở mức cao trong 5 năm vừa qua. Tuy nhiên, tình hình cạnh tranh trên thị trường vẫn tiếp tục diễn ra khá gay gắt, biểu hiện ở tỷ lệ phí bảo hiểm trung bình cho các rủi ro thân tàu, hàng hoá tiếp tục giảm. Chất lượng khai thác bảo hiểm cũng có xu hướng giảm sút. Nhiều công ty vì chạy theo doanh thu đã chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng rủi ro được bảo hiểm, trong khi đó điều kiện, điều khoản đưa ra lại rất cạnh tranh, tỷ lệ phí và mức khấu trừ thấp.
Bảo hiểm nhân thọ có tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn này là 60%. Do thị trường bảo hiểm nhân thọ mới bắt đầu hoạt động từ năm 1997 nên tốc độ tăng trưởng của những năm đầu (1997-1999) rất cao, tới trên 200%. Các công ty bảo hiểm nhân thọ đã tích cực mở rộng thị trường, tăng cường các kênh phân phối và đội ngũ đại lý. Từ năm 2000 trở lại đây, tốc độ tăng trưởng của bảo hiểm nhân thọ vẫn duy trì ở mức cao, song chiều hướng giảm dần khi quy mô của thị trường đã đạt đến mức nhất định.
d. Những đóng góp cho nền kinh tế
Ngành bảo hiểm đã có những đóng góp thiết thực nhằm ổn định đời sống kinh tế xã hội. Với hơn 600 sản phẩm bảo hiểm hiện đang có mặt trên thị trường, các công ty bảo hiêm đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng góp phần nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, giải quyết bồi thường. Nhận thức của người dân về sự cần thiết của bảo hiểm cũng được cải thiện đáng kể.
Ngành bảo hiểm đã thực hiện tốt vai trò là kênh huy động vốn quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Tính đến cuối năm 2004, các doanh nghiệp bảo hiểm đã đầu tư hơn 23.000 tỷ đồng vào các khu vực khác nhau của nền kinh tế. Công tác đầu tư vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng được cải thiện và đi vào chiều sâu nhằm đảm bảo lựa chọn được các dự án đầu tư thích hợp, an toàn cho nguồn vốn và mang lại hiệu quả kinh tế cao như góp vốn liên doanh, tham gia thành lập công ty cổ phần,c ho vay, tham gia các dự án đầu tư, mua trái phiếu Chính phủ, mua cổ phiếu, gửi tiết kiệm ngân hàng. Hiệu quả và an toàn trong công tác đầu tư ngày càng được chú trọng.
Bên cạnh đó, ngành bảo hiểm cũng góp phần tạo nên nhiều việc làm cho xã hội. Riêng đội ngũ đại lý bảo hiểm đã lên tới 125.000 người với thu nhập ổn định.
e. Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm
Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường đã thực sự được tăng cường với sự ra đời của hiệp hội bảo hiểm Việt Nam ngày 24/12/1999. Đến nay, hiệp hội đã thực sự là ngôi nhà chung, mang tiếng nói chung, thể hiện sự hợp tác liên kết của các doanh nghiệp hội viên.
Trong thời gian qua, hiệp hội đã chủ động phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm xây dựng quy tắc biểu phí cho một số sản phẩm bảo hiểm bắt buộc và kiến nghị một số giải pháp về thuế đối với doanh nghiệp bảo hiểm và đại lý bảo hiểm để đảm bảo ổn định phát triển kinh doanh bảo hiểm.thông qua hoạt động của các ban không chuyên, hiệp hội đã đưa ra đề xuất để các doanh nghiệp có sự hợp tác song phương về một số nghiệp vụ bảo hiểm.
Bảng 1: Chỉ tiêu phát triển ngành bảo hiểm từ năm 1993-2005
Chỉ tiêu
Năm 1993
Năm 1996
Năm 1999
Năm 2002
Năm 2004
Năm 2005
1.Doanh thu phí bảo hiểm
- Bảo hiểm phi nhân thọ
- Bảo hiểm nhân thọ
700
700
1.264
1263
0,95
2.091
1.606
484
6.992
2.624
4.368
12.527
4.727
7.800
13.663
5.535
8.128
2. Tỷ trọng phí bảo hiểm/ GDP
0,37%
0,46%
0,52%
1,3%
2%
2,6%
3.Vốn kinh doanh
145
397
980
1.900
6.608
4. Bồi thường bảo hiểm
120
760
789
1.400
2.465
5. Dự phòng nghiệp vụ
-
149
705
3.549
5.630
23.696
( Nguồn: Chiến lược kinh doanh bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2001-2010)
Về kết cấu thị trường
Bảng 2: Kết cấu thị trường
Năm 1993
Năm 1996
Năm 1999
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
1. Tổng số DNBH
2
8
15
20
24
26
30
2. Doanh nghiệp bảo hiểm Phi nhân thọ
1
6
10
13
14
14
16
3. Doanh nghiệp tái bảo hiểm
1
1
1
1
1
1
4. Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
3
4
4
5
8
5. Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
1
1
1
2
.5
6
7
( Nguồn: Tổng kết thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2005)
2.Hoạt động môi giới bảo hiểm trong thời gian qua.
2.1.Vai trò của hoạt động môi giới đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam
Sự phát triển sôi động của các doanh nghiệp bảo hiểm đã kéo theo các hoạt động môi giới, tư vấn bảo hiểm cũng phát triển không kém. Hoạt động môi giới, tư vấn bảo hiểm hiện nay đã diễn ra chủ yếu dưới hịnh thức các trung gian bảo hiểm, gồm các đại lý và môi giới, tư vấn, hỗ trợ, cung cấp thông tin hai chiều cho khách hàng và doanh nghiệp bảo hiểm. Những dịch vụ môi giới, tư vấn bảo hiểm chủ yếu đang được cung cấp hiện nay bao gồm: thông tin về loại hình bảo hiểm, phí bảo hiểm và các thông tin có liên quan đến hoạt động bảo hiểm cho khách hàng; đàm phán, thu xếp việc ký kết hợp đồng với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp bảo hiểm và đối tượng có nhu cầu bảo hiểm; cung cấp cho khách hàng dịch vụ giám sát và quản lý rủi ro, nhằm đề phòng và hạn chế rủi ro cho tài sản, tính mạng và trách nhiệm được bảo hiểm; ngoài ra, môi giới bảo hiểm còn thực hiện tư vấn cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu bảo hiểm về các vấn đề có liên quan đến dịch vụ bảo hiểm.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công ban đầu ghi nhận về tốc độ và quy mô thị trường, thu hút đầu tư nước ngoài, hiện vẫn còn những tồn tại gây cản trở sự phát triển của ngành bảo hiểm, cụ thể là:
- Quy mô thị trường bảo hiểm còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò dịch vụ hỗ trợ sản xuất, kinh doanh nhằm đóng góp vào tốc độ tăng trưởng kinh tế chung; các nghiệp vụ bảo hiểm phát triển mới tập trung vào những loại hình bảo hiểm dễ thực hiện và không đòi hỏi nhiều kiến thức nghiệp vụ như là nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, tài sản và thiệt hại kinh doanh, bảo hiểm con người,…còn các nghiệp vụ đòi hỏi trình độ chuyên môn cao và nền kinh tế thị trường đang rất phát triển như là bảo hiểm hàng không, bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm tín dụng thương mại… thì dường như các công ty bảo hiểm chưa khai thác hết tiềm năng thị trường, đó cũng là một trong những nguyên nhân cho thấy sự cần thiết của hoạt động môi giới bảo hiểm.
- Môi trường thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn bị hạn chế trên một số mặt, môi giới bảo hiểm là lĩnh vực khá mới mẻ đối với thị trường, dẫn đến cơ chế pháp lý đối với hoạt động này là chưa chặt chẽ và chưa đầy đủ. Tập quán mua bảo hiểm đối với doanh nghiệp và người dân chưa trở thành thói quen, sự hiểu biết của người dân về loại hình bảo hiểm còn mơ hồ. Chính vì thế môi giới bảo hiểm ra đời là rất cần thiết, giúp cho thị trường bảo hiểm phát triển hơn.
- Mặc dù sự xuất hiện của môi giới trên thị trường vào thời gian này là muộn hơn so với các nước trên thế giới, nhưng là cần thiết và tất yếu, bởi nó cần thiết cho sự phát triển của một thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Các doanh nghiêp bảo hiểm thường hạ thấp phí bảo hiểm, tăng cường quảng cáo thu hút khách hàng…và nhiều khi mức phí hạ thấp hơn các công ty nhận tái, dẫn đến không ít các công ty bảo hiểm có tiềm năng nhỏ không thể có được các hợp đồng và đương nhiên với mức phí thấp như vậy các công ty nhận bảo hiểm sau khi nhận đựơc hợp đồng bảo hiểm sẽ thờ ơ và không thực sự quan tâm đến khách hàng. Để đảm bảo sự cân bằng cho vấn đề này, khách hàng sẽ được đảm bảo quyền lợi và giúp cho cạnh tranh công bằng hơn. Với chuyên môn và kinh nghiệm làm việc, nhà môi giới bảo hiểm sẽ đồng hành cùng khách hàng trong việc đánh giá và phân tích thị trường bảo hiểm một cách chính xác, tạo cơ hội cạnh tranh lành mạnh cho tất cả các công ty.
Tại chiến lược kinh doanh bảo hiểm của Chính phủ từ năm 2001-2010 đã cho thấy sự cần thiết của hoạt động môi giới bảo hiểm tại Việt Nam.
Sản phẩm bảo hiểm được phân phối cho người tham gia bảo hiểm qua các kênh: doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp thực hiện, thông qua trung gian bảo hiểm là môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm. Trên thế giới, môi giới bảo hiểm thu xếp đến 90% tổng lường dịch vụ bảo hiểm, trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ xấp xỉ 100% dịch vụ bảo hiểm do đại lý phân phối.
Thực tế cho thấy, kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng của thị trường. Một số giải pháp mà Bộ đưa ra nhằm phát triển thị trường môi giới bảo hiểm tại Việt Nam:
Môi giới bảo hiểm tư vấn giúp khách hàng đánh giá rủi ro cần phải bảo hiểm, lựa chọn các doanh nghiệp bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm phù hợp với mức phí bảo hiểm hợp lý, hỗ trợ việc giải quyết và thương lượng bồi thường, không chỉ giúp cho cả doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng tiếc kiệm đựơc thời gian và chi phí cho các giao dịch bảo hiểm, đồng thời tạo mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm.
Với lợi ích to lớn mà môi giới bảo hiểm mang lại, căn cứ tình hình thực tế của thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay, cần thiết cho phép thành lập thêm các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm theo nguyên tắc và điều kiện sau:
Các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm sẽ được thành lập và hoạt động theo hướng đa dạng hoá, bao gồm các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài, đảm bảo cơ cấu hài hoà giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thành lập thêm các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm trong nước là các công ty cổ phần, Nhà nước không đầu tư vốn trong các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh môi giới bảo hiểm.
Các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm muốn thành lập cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện của Bộ Tài chính, đặc biệt là các công ty môi giới của nước ngoài.
(Trích từ trang 24 đến trang 26, chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003-2010 của Bộ Tài chính).
Như vậy môi giới bảo hiểm rất cần thiết đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
2.2 Kết quả hoạt động môi giới bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Năm 1993, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã chính thức ghi nhận mô hình môi giới bảo hiểm bằng việc ra đời công ty môi giới bảo hiểm Aon Inchibrok, đây là công ty liên doanh giữa tập đoàn Aon toàn cầu và Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam ( Bảo Việt), Aon là một tập đoàn lớn đã có kinh nghiệm về hoạt động môi giới bảo hiểm, đồng thời là công ty có tiềm năng tài chính vững mạnh, cho nên hoạt động môi giới tại Việt Nam Aon nhanh chóng thể hiện khả năng làm việc và được thị trường ghi nhận. Tới năm 2001, thị trường bảo hiểm Việt Nam có thêm một công ty môi giới bảo hiểm trong nước là Việt Quốc, đến năm 2003 có thêm 3 công ty môi giới: Đại Việt, Á Đông và Marsh. Năm 2004, Sarvoy cũng đã được cấp phép hoạt động môi giới bảo hiểm tại Việt Nam. Năm 2005, công ty môi giới bảo hiểm Thái Bình Dương chính thức đi vào hoạt động. Tháng 4/ 2006 công ty môi giới bảo hiểm Cimeco được cấp phép đi vào hoạt động. Tính đến năm 2006 thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có 8 công ty môi giới bảo hiểm, trong đó có 3 công ty môi giới nước ngoài và 5 công ty môi giới trong nước.
Thời gian đầu, khi môi giới bảo hiểm mới tham gia vào thị trường, doanh thu phí môi giới bảo hiểm thu được vẫn còn thấp, chỉ tập trung vào Aon. Tuy nhiên, theo luật pháp Việt Nam quy định thì công ty môi giới bảo hiểm nước ngoài chỉ được thực hiện môi giới bảo hiểm cho các đơn vị sản xuất kinh doanh nước ngoài, dẫn đến một số hạn chế cho kết quả hoạt đông kinh doanh của công ty.
Tới thời điểm hiện tại, các công ty môi giới đang bắt đầu thể hiện tính chuyên nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình, doanh thu phí môi giới bảo hiểm vẫn tập trung vào công ty môi giới bảo hiểm nước ngoài. Các công ty môi giới b._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0018.doc