Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ ở Việt Nam & các điều kiện để kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu quả

Lời mở đầu Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng theo chủ nghĩa xã hội có sự quản lý của Nhà Nước, các doanh nghiệp ngày càng phát triển cả về qui mô và chất lượng. Nhu cầu tự kiểm soát doanh nghiệp ngày càng lớn và kiểm toán nội bộ càng trở nên cần thiết. Kiểm toán nội bộ cung cấp các căn cứ để lãnh đạo doanh nghiệp điều hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chiếm lĩnh được thị trường. Kiểm toán nội bộ là công cụ kiểm tra, đánh giá hoạt động doanh

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1431 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ ở Việt Nam & các điều kiện để kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp ở từng bộ phận, ở tất cả các giai đoạn trước,trong và sau quá trình kinh doanh. Kiểm toán nội bộ là công việc thường xuyên theo nhu cầu và chỉ đạo của lãnh đạo doanh nghiệp. Nếu không có kiểm soát nội bộ, doanh nghiệp sẽ không đánh giá được năng lực, hiệu quả quả của mình, không thể tự tiết kiệm nhuồn lực chi phí.Đối với các báo cáo tài chính nếu không được kiểm tra kịp thời thì khi lập báo cáo sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp. Khi hoạt động kinh tế mạnh và có uy tín thì các báo cáo của doanh nghiệp sẽ được tin tưởng hơn, giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc bạn hàng, nhà đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất xâm nhập thị trường. Do tất cả các nguyên nhân như vậy nên việc nghiên cứu và áp dụng kiểm toán nội bộ là rất cần thiết. Bài viết này không thể nêu hết được những vấn đề về kiểm toán nội bộ nhưng em hy vọng rằng đó là những vấn đề cơ bản về kiểm toán nội bộ và hiện trạng của nó tại Việt Nam. Do thời gian có hạn bài viết không thể tránh được những khiếm khuyết,em mong có sự chỉ bảo của thầy cô để bài viết dược hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Chương i quá trình phát triển và chức năng của kiểm toán nội bộ I-/ Khái niệm Kiểm toán nội bộ chỉ là một bộ phận kiểm soát trong một đơn vị, thực hiện chức năng kiểm tra của đơn vị này. Trong số các công việc thực hiện chủ yếu gồm kiểm tra, đánh giá và kiểm soát tính thích đáng và hiệu quả của các hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ. II-/ Quá trình phát triển của kiểm toán nội bộ Từ những năm 60 hoạt động kiểm toán nội bộ đã phát triển mạnh trên thế giới. Tổ chức về kiểm toán nội bộ (IIA ) đã thành lập năm 1941 tại New york Tổ chức này đã quy định bản chất, mục tiêu và phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ.Tổ chức kiểm toán nội bộ là thành viên củaIFAC và INTOSAL.Từ quan điểm thuần tuý về kế toán, nhằm phát hiện các sai sót và gian lận, kiểm toán nội bộ đã dần mở rộng phạm vi trên tất cả các hoạt động của đơn vị, hoặc của doanh nghiệp và hướng hoạt động kiểm soát nội bộ vào việc cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động, tăng cường sức mạnh cho hoạt động kiểm toán nội bộ. Như vậy quá trình phát triển của kiểm toán nội bộ là : ã Kiểm toán nội bộ như là một tổ chức. ã Kiểm toán nội bộ như là một chức năng. ã Kiểm toán nội bộ như là một nghề nghiệp III-/ Chức năng của kiểm toán nội bộ Đối tượng phục vụ chủ yếu của kiểm toán nội bộ là chủ doanh nghiệp, Ban quản lý doanh nghiệp (Tổng giám đốc, giám đốc,các bộ phận chức năng )và người lao động. Kiểm toán nội bộ thực hiện đồng thời ba chức năng : ã Chức năng kiểm tra ; ã Chức năng đánh giá ; ã Chức năng tư vấn ; IV-/ Phạm vi và mục tiêu của kiểm toán nội bộ Phạm vi và các mục tiêu của kiểm toán nội bộ rất đa dạng và tuỳ của ban giám đốc.Nói chung bộ phận kiểm toán nội bộ đảm nhận một hoặc nhiều hoạt động sau đây : ã Kiểm tra hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Việc thiết lập hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ hiệu quả thuộc chức năng của Ban giám đốc và cần có sự quan tâm thường xuyên. Thông thường Ban giám đốc uỷ thác cho bộ phận kiểm toán nội bộ đặc nhiệm kiểm tra các hệ thống này. ã Kiểm tra các thông tin tài chính và quản lý.Việc kiểm tra này có thể bao gồm việc phân tích các phương tiện được sử dụng để xác định,đo lường, phân loại và lưu giữ các thông tin đó và những công tác đặc thù trên một số nhân tố, chủ yếu là kiểm tra chi tiết nghiệp vụ,số dư và thủ tục. ã Đánh giá các gía phí, khả năng sinh lãi và hiệu quả của các nghiệp vụ trong đó bao gồm cả những công tác kiểm soát phi tài chính. ã Kiểm tra tính tuân thủ các văn bản pháp lý và các quy chế, các yêu cầu bên ngoài cũng như các chỉ thị và chính sách của Ban giám đốc và các yêu cầu khác bên trong đơn vị. V-/ Quyền hạn của kiểm toán nội bộ ã Được quyền yêu cầu cung cấp tài liệu và thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ; ã Độc lập về chuyên môn nghiệp vụ.Trường hợp cần thiết có quyền yêu cầu sự hỗ trợ về chuyên môn và nhân sự của bộ phận chức năng. ã Kiến nghị mang tính chất xây dựng đối với các cấp lãnh đạo, các bộ phận trong doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả các mặt hoạt động sản xuất, kinh doanh và công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp. ã Có quyền bảo lưu ý kiến có liên quan đến kết quả kiểm toán. VI-/ So sánh kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập Kiểm toán nội bộ Kiểm toán độc lập Phụ thuộc vào Ban giám đốc Độc lập vơí doanh nghiệp Dành cho Ban giám đốc Dành cho bên thứ ba Các mục tiêu có thể : Tính thích hợp và tính trung + Độ tin cậy của các thông tin thực của thông tin tài chính + Độ an toàn của các tài sản được công bố + Tính kinh tế + Hiệu năng + Hiệu quả Kiểm soát nội bộ =mục tiêu Kiểm soát nội bộ=phương tiện Trách nhiệm trong phạm vi Trách nhiệm pháp lý và nghề doanh nghiệp nghiệp Công việc thường xuyên Công việc định kỳ Chương II Tổ CHứC Bộ MáY KIểM TOáN NộI Bộ I-/ Những nhân tố cần để thiết lập bộ máy kiêmr toán nội bộ 1-/ Quy mô doanh nghiệp Quy mô doanh nghiệp là tiêu chuẩn tiên quyết. Trong thực tế thường chỉ có các doanh nghiệp lớn mới có điều kiện lập ra một bộ phận kiểm toán nội bộ còn rất ít các doanh nghiệp vừa và nhỏ có bộ phận này.Quy mô của doanh nghiệp thường được xác định dựa vào tiêu thức là số lượng công nhân viên. Bằng việc kiểm tra và đánh giá các thông tin,kiểm toán viên có thể làm giảm bớt các hiện tượng phân tán sai lệch thông tin truyền về Ban giám đốc,sự hiểu sai lệch các quyết định và chỉ thị của Ban giám đốc là những điều khó có thể tránh khỏi trong các doanh nghiệp lớn. 2-/ Phạm vi hoạt động Phạm vi hoạt động hay sự phân tán về mặt địa lý, nhiều doanh nghiệp có thể có trụ sở và nhiều đơn vị trực thuộc có văn phòng tại nhiều địa điểm trong nước.Các đơn vị trực thuộc đôi khi gặp khó khăn trong việc nắm bắt các thông tin chính xác do cách xa về địa lý,đồng thời các công ty văn phòng không phải bao giờ cũng nhận được việc cần cho sự hoạt động của họ.Các kiểm toán viên nội bộ sẽ góp phần giải quyết các vấn đề phân tán địa lý này. 3-/ Năng lực, trình độ của nhân viên Không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ đội ngũ cán bộ hội đủ những điều kiện cần thiết. Trình độ năng lực là thoả đáng tại một thời điểm nào đó, có thể không còn phù hợp với những đòi hỏi mới phát sinh từ sự phát triển của doanh nghiệp.Kiểm toán viên nội bộ có thể hạn chế sai sót do trình độ kém của nhân viên bằng cách đưa ra những khoá đào tạo khắc phục cho các nhân viên về sai sót mà kiểm toán viên phát hiện. 4-/ Các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp Các rủi ro, sai sót trong các thông tin kinh tế,tài chính chủ yếu tồn tại ở những doanh nghiệp có nhiều lĩnh vực hoạt động.Thưc vậy,vì muốn có các thủ tục quy tắc thống nhất cho tất cả các lĩnh vực hoạt động nên các thông tin nhận được có thể phản ánh không trung thực tình hình trong lĩmh vực này hay lĩnh vực khác. Những sai sót chủ yếu là ở các thông tin liên quan đến quá trình sản xuất,kinh doanh và việc xác định các tiêu chuẩn (định lượng và định tính). Kiểm toán viên nội bộ có thể và nên đưa ra các thủ tục,quy trình cung cấp thông tin riêng cho từng lĩnh vực hoạt động. Trên đây là các nhân tố chủ yếu cần xem xét nhưng không nên quá coi trọng khi thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ. Việc thiết lập phải xuất phát từ nhu cầu tự thân của các doanh nghiệp đó chứ không thể bị chi phối bởi bất kỳ một áp lực bên ngoài nào.Bộ phận kiểm toán nội bộ chỉ được thành lập khi Ban giám đốc thấy được sự cần thiết để tăng cường việc giám sát mtj cách độc lập các bộ phận chức năng,các đơn vị cấp dưới, các cá nhân trong doanh nghiệp. II-/ Cơ cấu bộ máy kiểm toán nộ bộ Bộ máy kiểm toán nội bộ gồm : +Trưởng phòng kiểm toán nội bộ +Phó trưởng phòng kiêmr toán nội bộ (nếu có) +Nhóm trưởng phòng kiểm toán nội bộ +Kiểm toán viên nội bộ Số lượng kiểm toán viên nội bộ phụ thuộc vào quy mô kinh doanh, địa bàn hoạt động, số lượng các đơn vị thành viên, tính chất phức tạp của công việc, yêu cầu quản lý kinh doanh và trình độ năng lực nghề nghiệp của kiểm toán viên. Bộ phận kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp phải được tổ chức độc lập tuỳ thuộc loại hình và tính chất sở hữu của doanh nghiệp ; chịu sự quản lý và lãnh đạo trực tiếp của (tổng )giám đốc doanh nghiệp. Kiểm toán nội bộ có quyền yêu cầu các bộ phận chức năng cung cấp tài liệu và thông tin, trong trường hợp cần thiết cũng có quyền yêu cầu sự hỗ trợ về chuyên môn và nhân sự của các bộ phận chức năng để có thể phân tích các hoạt động đầu tư, kinh doanh kiểm soát, đánh giá các chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp cung cấp các căn cứ cho Ban giám đốc điều hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chiếm lĩnh được thị trường. Kiểm toán nội bộ Kiểm toán Viên nội bộ Nhóm Trưởng Kiểm toán viên nội bộ Kiểm toán viên nội bộ Đứng đầu phòng (ban) kiểm toán nội bộ là trưởng phòng (hoặc trưởng ban) kiểm toán nội bộ doanh nghiệp.Trưởng phòng kiểm toán nội bộ là người ký,chịu trách nhiệm trước (tổng)giám đốc và trước pháp luật về báo cáo kiểm toán nội bộ. Đối với các doanh nghiệp thành viên trực thuộc, phụ thuộc tuỳ theo quy mô kinh doanh, địa bàn hoạt động mà có thể bổ nhiệm kiểm toán viên hoạt động trực tiếp tại đơn vị trực thuộc,phụ thuộc. Chương III kiểm toán viên nội bộ I-/ Khái niệm Kiểm toán viên là các chuyên gia kế toán có kỹ năng nghiệp vụ kiểm toán.Kiểm toán viên nội bộ là kiểm toán viên trong nội bộ doanh nghiệp.Theo IFAC –Liên đoàn quốc tế các nhà kiểm toán thì kiểm toán viên phải là người có kỹ năng và khả năng nghề nghiệp,phải chính trực,khách quan,độc lập và phải tôn trọng bí mật.Đó là những yêu cầu không thể thiếu đối với một kiểm toán viên. II-/ Tiêu chuẩn kiểm toán viên nội bộ Theo quy định của Nhà nước Việt Nam tại QĐ 832 TC_CĐ kiểm tra ngày 28-10-1997 của Bộ Tài Chính. Người được bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ làm kiểm toán viên nội bộ các doanh nghiệp Nhà nước phải có đủ các tiêu chuẩn sau đây : Đ Một là : Có phẩm chất trung thực, khách quan,chưa có tiền án và chưa bị kỷ luật từ mức cảnh cáo trở lên do sai phạm trong quản lý kinh tế, tài chính, kế toán. Đ Hai là : Đã tốt nghiệp đại học chuyên nghành kinh tế tài chính,kế toán hoặc quản trị kinh doanh. Đ Ba là : Đã công tác thực tế trong lĩnh vực quản lý tài chính,kế toán từ 5 năm trở lên trong đó có ít nhất 3năm làm việc tại doanh nghiệp nơi được giao nhiệm vị kế toán viên. Đ Bốn là: Đã huấn luyện về nghiệp vụ kiểm toán, kiểm toán nội bộ theo nội dung chương trình thống nhất của Bộ Tài Chính và được cấp chứng chỉ. Trong doanh nghiệp, Ban giám đốc có quyền đánh giá và lựa chọn kiểm toán viên nội bộ, các tiêu chuẩn để lựa chọn kiểm toán viên nội bộ được căn cứ trên phẩm chất năng lực chuyên môn lẫn phẩm chất đạo đức của các kiểm toán viên. Phẩm chất năng lực chuyên môn của kiểm toán viên phụ thuộc vào loại công việc thực hiện của bộ phận kiểm toán nội bộ : kiểm toán tài chính hay kiểm toán hoạt động. Nếu chủ yếu là kiểm toán báo cáo tài chính,doanh nghiệp đòi hỏi người phụ trách bộ phận kiểm toán nội bộ phải có : +Bằng đại học chuyên nghành kế toán và tài chính +Có chứng chỉ kiểm toán viên +Có 4dến 5 năm kinh nghiệm chuyên môn vơi tư cách là trợ lý trong một bộ phận kiểm toán hay với tư cách kiểm toán viên độc lập. +Ngoại ngữ (ít nhất 2ngoại ngữ,bắt buộc phải giỏi tiếng Anh hoặc tiếng Pháp) Nếu chủ yếu là kiểm toán hoạt động,các kiểm toán viên phải hiểu biết về kỹ thuật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Bộ phận kiểm toán nội bộ ở các công ty lớn cần có hai nhóm chuyên gia cho kiểm toán hoạt động và kiểm toán báo cáo tài chính Các phẩm chất cần phải có của người làm kiểm toán viên: * Tính cương nghị và biết ngoại giao * Kín đáo * Vô tư * Độc lập * Có khả năng giải quyết các tình huống một cách tế nhị * Linh động và có phản ứng nhanh Kiểm toán viên phải luôn xem xét hành động của mình như một sự trợ giúp đối với người được kiểm toán hơn là sự phê phán,chê trách III-/ Trách nhiệm của kiểm toán viên nội bộ Kiểm toán viên nội bộ phải có những trách nhiệm sau: ã Thứ nhất : Kiểm toán viên nội bộ thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch kiểm toán đã được Tổng giám đốc, giám đốc phê duyệt và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc, giám đốc về chất lượng,về tính trung thực, hợp lý của cá báo cáo kiểm toán và về những thông tin tài chính,kế toán đã được kiểm toán. ã Thứ hai: Trong quá trình thực hiện công việc,kiểm toán viên nội bộ phải tuân thủ luật pháp, tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực nghề nghiệp về kiểm toán,các chính sách chế độ hiện hành của Nhà nước. ã Thứ ba: Kiểm toán viên phải khách quan,đề cao tính độc lập trong hoạt động kiểm toán. Không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn,cập nhập kiến thức,giữ gìn đậo đức nghề nghiệp. ã Thứ tư: Tuân thủ nguyên tắc bảo mật các tài liệu đã được kiểm toán (trừ các trường hợp yêu cầu của toà án hoặc các nghĩa vụ liên quan đến tiêu chuẩn nghiệp vụ ). V-/ Quyền hạn của kiểm toán viên nội bộ Để thực hiện được trách nhiệm, nhiệm vụ của mình kiểm toán viên nội bộ phải có những quyền hạn nhất định.Những quyền hạn đó là: ă Được lập chuyên môn nghiệp vụ.Không bị chi phối hoặc can thiệp khi thực hiện hoạt động kiểm toán và trình bày ý kiến trong báo cáo kiểm toán. ă Có quyền yêu cầu các bộ phận cá nhân được kiểm toán và bộ phận có liên quan cung cấp thông tin dữ liệu phục vụ cho công tác kiểm toán. ă Được ký xác nhận trên báo cáo kiểm toán nội bộ do cá nhân tiến hành hoặc chịu trách nhiệm thực hiện thao nhiệm vụ kiểm toán được giao. ă Nêu các ý kiến đề xuất, các giải pháp kiến nghị,các ý kiến tư vấn cho việc cải tiến, hoàn thiện công tác quản lý, điều hành hoạt động,sản xuất kinh doanh, ngăn ngừa các sai sót, gian lận,các việc làm sai trái trong doanh nghiệp. ă Được bảo lưu các ý kiến đã trình bày trong các báo cáo kiểm toán nội bộ, được quyền đề nghị cơ quan của Nhà nước xem xét các quyết định của (Tổng) giám đốc về bãi nhiệm kiểm toán viên. Chương IV Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ ở Việt nam và các điều kiện để kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu quả i-/ đánh giá thực trạng về kiểm toán nội bộ ở việt nam Mặc dù hoạt động kiểm toán đối với nước ta là hoàn toàn mới mẻ,tuy nhiên vấn đề kiểm tra kế toán –tài chính đã được Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Điều này được thể hiện trong các pháp lệnh kế toán thống kê,điều lệ kế toán trưởng, luật Ngân sách và Nghị định 59/ CP của Chính phủ. Đặc biệt trong Nghị định 59/ CP đã đưa ra một loại hình mới về hoạt động kiểm tra Kế toán –tài chính sẽ có hiệu quả cao hơn,khách quan hơn so với trước đây.Đây là việc đổi mới có tính chất bước ngoặt của việc kiểm tra kế toán –tài chính để hoạt động kiểm tra phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay. Trên thực tế, các đơn vị hoạt động trong nền kinh tế chịu sự kiểm tra của nhiều lượng khác nhau.Theo cơ quan thống kê Nhà nước có ít nhất 7 lực lượng thường xuyên kiểm tra các đơn vị kinh tế.Theo các doanh nghiệp cho biết không ít hơn 10 lực lượng kiểm tra họ một cách thường xuyên. Góc độ pháp luật đã tạo ra lực lượng kiểm tra này, cũng như các quyền mà họ được thực hiện trong quá trình kiểm tra.Trong thực tế,cáclực lượng kiểm tra thường dồn vào kiểm tra đồng thời ở một số đơn vị nào đó.Tạo ra tình trạng đơn vị thì bị kiểm tra chồng chéo, đơn vị bị bỏ quên không kiểm tra –Trên toàn cục nền kinh tế,các thông tin kinh tế công khai vẫn chưa có một lực lượng kiểm tra nào chịu trách nhiệm đầy đủ nên chưa đáng tin cậy.Các quyết định quản lý vĩ mô đến vi mô vẫn chứa đầy rủi ro. Tình hình kinh tế vẫn khó kiểm soát được. Những đơn vị làm ăn có hiệu quả có thể suy giảm hiệu quả kinh tế vì sự kiểm tra triền miên của nhiều đoàn khác nhau. Để khắc phục tình hình trên kiểm toán độc lập ra đời theo Nghị định 07/CP của Chính phủ ngày 29/01/1994 và sự ra đời của kiểm Nhà nước theo Nghị định 70 / CP của Chính phủ ngày 11/07/1994.Sự ra đời của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế là tất yếu, tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay sự song trùng đồng thời các lực lượng kiểm tra được hình thành trước đây và cơ quan kiểm toán mới đã tạo ra mật độ kiểm tra dày đặc hơn.Trên thực tế theo góc độ pháp lý hoạt động kiểm tra đang gây ra nhiều khó khăn nhất định cho hoạt động của các đơn vị hiện nay. Trong hoạt động thực tế tại các đơn vị chưa có một văn bản pháp quy nào về mặt Nhà nước quy định sự kiểm tra,thẩm định các thông tin nội bộ của đơn vị đó để giúp các nhà quản trị có các thông tin đáng tin cậy để làm cơ sở cho việc ra quyết định quản trị kinh doanh. Quan hệ lãnh đạo giữa các bộ phận,đặc biệt bộ phận kế toán là quan hệ thông tin được tập hợp và báo cáo thẳng.Các nhà quản lý khi sử dụng thông tin để đề ra các quyết định quản lý hoặc là tin tưởng báo cáo của các cán bộ thuộc quyền hoặc là tự thẩm định các thông tin đó xem nó đáng tin cậy đến đâu.Điều này hạn chế rất lớn đến tính đúng đắn và hiệu quả của các quyết định quản lý.Mặt khác theo quy định của cơ chế kiểm tra,kiểm soát của cấp trên đặt tại đơn vị.Hai chức năng đối lập có tính chất chế ước lẫn nhau cùng được đặt vào một con người,cụ thể là kế toán trưởng đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc thao túng thông tin, lấp liếm và tẩy sạch các sai phạm.Các thông tin cung cấp cho các lãnh đạo các cấp từ đơn vị cơ sở không còn đúng đắn hợp lý, nó bị giọt giũa để che đậy các gian lận, sai sót.Điều này đã dẫn đến việc chứa đựng một nguy cơ rất lớn về sự đổ vỡ hàng loạt các đơn vị kinh tế, nhưng các cấp quản lý không biết hoặc có thông tin sai lệch về hoạt động của nó nên không có được các quyết định hợp lý, kịp thời. Điển hình như vụ máy dệt Nam Định, công ty Tamexco ở thành phố Hồ Chí Minh... Để chấn chỉnh kịp thời các sai phạm trên, ngày 28/10/1997,Bộ Tài Chính đã ra quyết định số 832/Tài Chính /QĐ/CĐKT về cơ chế ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ để thực hiện kiểm tra, xác nhận và đánh giá một cách độc lập các thông tin trong nội bộ các doanh nghiệp.Nhằm giúp việc thẩm định, kiểm tra kiểm soát các thông tin một cách có hiệu quả hơn. Thực trạng công tác kiểm tra kế toán và kiểm tra kiểm soát các hoạt động quản lý tại các đơn vị trong nền kinh tế nước ta hiện nay được thực hiện bởi nhiều lực lượng khác nhau. Tuy nhiên theo phương diện kế toán –tài chính,việc có nhiều lực lượng đồng thời tham gia kiểm tra,kiểm soát trong khi bản thân những người kiểm tra không có trình độ về chuyên môn nghề nghiệp, không bị chi phối hoặc ràng buộc trách nhiệm kinh tế, pháp lý về độ tin cậy thông tin kiểm tra thì các hoạt động kiểm tra trở nên giả hiệu, mang màu sắc dân chủ nhưng không có hiệu quả.Chỉ tạo thêm những rắc rối cho việc kiểm tra ,kiểm soát các thông tin mà thôi. Chính vì vậy điều bức xúc hiện nay là phải thay đổi cơ chế kiểm toán nội bộ.Cần phải có một hình thức kiểm tra độc lập được thực hiện bởi người có trình độ chuyên môn cao, có đạo đức cá nhân tốt và phải chịu trách nhiệm về thông tin mà mình kiểm tra.Về các nhà quản lý cần thay đổi thái độ và quan điểm hoạt động kiểm toán nội bộ.Các nhà quản lý phải tôn trọng nguyên tắc chỉ sử dụng những thông tin tin cậy để ra các quyết định quản lý. Loại bỏ cơ chế cung cấp thông tin thẳng từ các bộ phận đến nhà quản lý như hiện nay.Làm cho kiểm toán nội bộ trở thành nhu cầu thực sự và trong tương lai sẽ thay thế các lực lượng kiểm toán hiện tại. ii-/ các điều kiện để kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu quả Để hoạt động kiểm toán nội bộ có hiệu quả cần phải thực hiện các điều kiện sau: ã Kiểm toán nội bộ là một bộ phận của một đơn vị nhưng nó phải là bộ phận kiểm tra độc lập với các bộ phận khác trong đơn vị,và đặc biệt đối với các nhà lãnh đạo cấp cao trong đơn vị đó.Kiểm toán nội bộ cũng phải có sự độc lập tương đối nhất định .Bộ phận kiểm toán nội bộ phải được giao quyền hạn rộng rãi để có thể kiểm tra toàn bộ hoạt động của đơn vị. Trong mỗi một cuộc kiểm tra, kiểm toán nội bộ được hoàn toàn độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ, truy cập thông tin không giới hạn trong phạm vi đơn vị đó. ã Đối với kiểm toán viên nội bộ phải là người có kỹ năng chuyên môn cao đạt trình độ chuẩn mực về chuyên môn nghiệp vụ và có bằng kiểm toán viên . Kiểm toán viên là một nhân tố quan trọng của hoạt động kiểm toán. Chất lượng của kiểm toán viên quan hệ chặt chẽ với chất lượng kiểm toán.Kiểm toán viên phải là người thẳng thắn,trung thực,trong sáng, công minh,nhiệt tình với công việc, có tác phong làm việc thận trọng, có uy tín trong doanh nghiệp, được lãnh đạo và quần chúng tin tưởng. Chính điều kiện này đảm bảo rằng các cuộc điều tra được tiến hành bởi những người có trình độ chuyên môn cao. ã Để tạo môi trường cho hoạt động kiểm toán nội bộ, trong đơn vị cần có một hệ thống các văn bản về địa vị pháp lý, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm toán nội bộ.Trong các văn bản phải có các chuẩn mực kiểm toán nội bộ để giúp cho bộ phận này và các kiểm toán viên có căn cứ pháp lý và định hướng trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Mặt khác các nhà quản lý cũng dựa vào hệ thống chuẩn mực này để kiểm tra đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ và các kiểm toán viên. Ngoài những điều kiện trên để đảm bảo và tăng cường hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ cần phải có sự trợ giúp đầy đủ và đúng lúc của chính các nhà quản lý cấp cao cũng như sự hợp tác toàn diện của các bộ phận và cá nhân trong đơn vị. Hoạt động kiểm toán nội bộ trong các đơn vị của nền kinh tế không những tăng cường hiệu quả hoạt động của đơn vị đó mà còn tạo ra một sự ổn định và tính hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế.Nhà nước cần định hướng và tạo ra môi trường cần thiết cho loại hình kiểm tra này hoạt động và phát huy hiệu quả. kết luận Có thể nói kiểm toán nội bộ là một công cụ giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp phân tích các hoạt động đầu tư, kinh doanh,kiểm soát, đánh giá các chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp, các hành vi quản lý. Trong nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước như hiện nay thì kiểm toán nội bộ là một hoạt động cần thiết để có thể kiểm soát chất lượng hoạt động và chất lượng thông tin kinh tế – tài chính, đưa ra các quyết định đúng để tồn tại và phát triển, an toàn và chiến thắng trong kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Để kiểm toán nội bộ có thể phát triển đúng hướng cần phải có sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan Nhà nước, giúp các doanh nghiệp bằng cách tạo ra một môi trường pháp lý kinh doanh rõ ràng. Nhà nước sẽ ban hành các chuẩn mực kiểm toán, cách thức, phương pháp tiến hành để tạo ra một thiết chế độc lập về kiểm toán nội bộ giúp cho kiểm toán nội bộ trở thành nhu cầu thiết yếu của doanh nghiệp. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1257.doc
Tài liệu liên quan