Thực trạng hoạt động đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác chợ của Công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu - Tỉnh Bắc Giang

LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, đặc biệt là khi Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) thị trường nội địa liên tục phát triển với nhịp độ khá cao theo cả bề rộng và bề sâu; lưu thông thông thoáng hơn, thị trường nông thôn và miền núi ngày càng khởi sắc, thị trường thành thị chuyển biến tích cực theo hướng văn minh, hiện đại hơn, môi trường pháp lý từng bước được hoàn chỉnh, kết cấu hạ tầng thương mại đang được củng cố và xây dựng. Mạng lưới kinh doanh và ph

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1491 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác chợ của Công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu - Tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ương thức hoạt động thương mại có tiến bộ, hàng hoá phát triển đa dạng hơn và nhiều doanh nghiệp đang bắt đầu có sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường nội địa và quốc tế; nhu cầu trong quan hệ thương mại của người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi theo hướng văn minh hơn. Đồng thời với quá trình phát triển kinh tế trong cả nước, những năm qua nền kinh tế của Bắc Giang không ngừng tăng trưởng, đã tạo nên nhu cầu trao đổi mua bán đặc biệt là nhu cầu trao đổi, mua bán qua hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm thương mại ngày càng cao. Tuy nhiên, hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm thương mại trong tỉnh chưa phát triển tương xứng với sự phát triển của nhu cầu trao đổi, mua bán, giao lưu hàng hoá. Ngoài một số ít chợ được đầu tư cải tạo, nâng cấp còn đa số các chợ chỉ được xây dựng tạm, không đủ sức chứa so với dung lượng hàng hoá lưu thông và người đến chợ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến ATGT, ANTT, VSATTP, cảnh quan đô thị, PCCC, văn minh thương mại. Những vấn đề nêu trên đang đặt ra yêu cầu đối với việc phát triển hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm thương mại trong thời điểm hiện nay là hết sức cấp bách. Bên cạnh đó, việc huy động các nguồn vốn cho hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạng tầng xã hội nói chung và hoạt động đầu tư xây dựng chợ nói riêng là một trong những điều kiện tiên quyết đến quá trình phát triển của mạng lưới chợ, siêu thị, trung tâm thương mại trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới. Công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu cùng với mô hình: “Đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác chợ (không chuyển giao)” là một hình thức đầu tư mới theo Nghị định số 02/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ. Công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu đã mạnh dạn, quyết tâm bám sát chủ trương “xã hội hoá” đầu tư của nhà nước. Công ty bỏ 100% kinh phí thuê đất của nhà nước trực tiếp đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác (không chuyển giao). Mô hình “Đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác chợ” của công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu không chỉ giải quyết vấn thiếu vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng xã hội nói chung, đầu tư phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng mà còn đem lại lợi ích lớn cho toàn xã hội. Như vậy mà việc nghiên cứu chuyên đề: “Thực trạng hoạt động đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác chợ của công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” là hết sức cần thiết. Việc tìm hiểu, nghiên cứu kỹ lưỡng mô hình “Đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác chợ” của công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu sẽ góp phần nhân rộng mô hình, thúc đẩy phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cũng như trên phạm vi toàn quốc./. Chương 1: Giới thiệu tổng quan về hệ thống chợ truyền thống tỉnh Bắc Giang 1. Khái quát về điều kiện kính tế - xã hội của tỉnh Bắc Giang Bắc Giang là tỉnh miền núi có nhiều tiềm năng về đất đai, tài nguyên khoáng sản. Địa lý lãnh thổ Bắc Giang là tỉnh miền núi có nhiều tiềm năng về đất đai, tài nguyên khoáng sản. Địa lý lãnh thổ không những có nhiều vùng núi cao, mà còn có nhiều vùng đất trung du trải rộng xen kẽ với các vùng đồng bằng phì nhiêu. Hồ Khuân Thần (Lục Ngạn) 1.1. Vị trí địa lý Bắc Giang nằm ở tọa độ địa lý từ 21 độ 07 phút đến 21 độ 37 phút vĩ độ bắc; từ 105 độ 53 phút đến 107 độ 02 phút kinh độ đông; Bắc Giang là tỉnh miền núi, nằm cách Thủ đô Hà Nội 50 km về phía Bắc, cách cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị 110 km về phía Nam, cách cảng Hải Phòng hơn 100 km về phía Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía tây và Tây Bắc giáp Hà Nội, Thái Nguyên, phía Nam và Đông nam giáp tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Ninh. Đến nay tỉnh Bắc Giang có 9 huyện và 1 thành phố. Trong đó có 6 huyện miền núi và 1 huyện vùng cao (Sơn Động); 229 xã, phường, thị trấn. Suối Mỡ (Lục Nam) 1.2. Đặc điểm địa hình Địa hình Bắc Giang gồm 2 tiểu vùng miền núi và trung du có đồng bằng xen kẽ. Vùng trung du bao gồm 2 huyện Hiệp Hòa, Việt Yên và TP- Bắc Giang. Vùng miền núi bao gồm 7 huyện : Sơn Động, Lục Nam, Lục Ngạn, Yên Thế, Tân Yên, Yên Dũng, Lạng Giang. Trong đó 1 phần các huyện Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế và Sơn Động là vùng núi cao. Đặc điểm chủ yếu của địa hình miền núi (chiếm 72% diện tích toàn tỉnh) là chia cắt mạnh, phức tạp chênh lệch về độ cao lớn. Nhiều vùng đất đai còn tốt, đặc biệt ở khu vực còn rừng tự nhiên. Vùng đồi núi thấp có thể trồng được nhiều cây ăn quả, cây công nghiệp như vải thiều, cam, chanh, na, hồng, đậu tương, chè...; chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm, thuỷ sản. Đặc điểm chủ yếu của địa hình miền trung du (chiếm 28% diện tích toàn tỉnh) là đất gò, đồi xen lẫn đồng bằng rộng, hẹp tùy theo từng khu vực. Vùng trung du có khả năng trồng nhiều loại cây lương thực, thực phẩm, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm, cá và nhiều loại thuỷ sản khác. 1.3. Khí hậu Bắc Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng Đông bắc. Một năm có bốn mùa rõ rệt. Mùa đông lạnh, mùa hè nóng ẩm, mùa xuân, thu khí hậu ôn hòa. Nhiệt độ trung bình 22 - 23oC, độ ẩm dao động lớn, từ 73 - 87%. Lượng mưa hàng năm đủ đáp ứng nhu cầu nước cho sản xuất và đời sống. Nắng trung bình hàng năm từ 1.500 - 1.700 giờ, thuận lợi cho phát triển các cây trồng nhiệt đới, á nhiệt đới. 1.4. Tài nguyên thiên nhiên * Tài nguyên đất Bắc Giang có 382.200 ha đất tự nhiên, bao gồm 123 nghìn ha đất nông nghiệp, 110 nghìn ha đất lâm nghiệp, 66,5 nghìn ha đất đô thị, đất chuyên dùng và đất ở, còn lại là các loại đất khác. Nhìn chung, tỉnh Bắc Giang có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản. Quốc lộ 1A mới hoàn thành tạo ra quỹ đất lớn có nhiều lợi thế cho phát triển công nghiệp - dịch vụ. Đất nông nghiệp của tỉnh, ngoài thâm canh lúa còn thích hợp để phát triển rau, củ, quả cung cấp cho Thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận. Tỉnh đã có kế hoạch chuyển hàng chục nghìn ha trồng lúa sang phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản có giá trị kinh tế cao. Hơn 20 nghìn ha đất đồi núi chưa sử dụng là một tiềm năng lớn cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư doanh, liên kết trồng rừng, chế biến lâm sản và nuôi trồng thuỷ sản. * Tài nguyên rừng Đến hết năm 2005 Bắc Giang có 129.164 ha đất lâm nghiệp đã có rừng, và gần 30.000 ha đất núi đồi có thể phát triển lâm nghiệp. Trữ lượng gỗ có khoảng 3,5 triệu m3, tre nứa khoảng gần 500 triệu cây. Ngoài tác dụng tàn che, cung cấp gỗ, củi, dược liệu, nguồn sinh thuỷ, rừng Bắc Giang còn có nhiều sông, suối, hồ đập, cây rừng nguyên sinh phong phú... tạo cảnh quan, môi sinh đẹp và hấp dẫn. * Tài nguyên khoáng sản Đến hết năm 2005 Bắc Giang đã phát hiện và đăng ký được 63 mỏ với 15 loại khoáng sản khác nhau bao gồm : than, kim loại, khoáng chất công nghiệp, khoáng sản, vật liệu xây dựng. Phần lớn các khoáng sản này đã được đánh giá trữ lượng hoặc xác định tiềm năng dự báo. Tuy không có nhiều mỏ khoáng sản lớn nhưng lại có một số loại là nguồn nguyên liệu quan trọng để phát triển công nghiệp của tỉnh như mỏ than đá ở Yên Thế, Lục Ngạn, Sơn Động có trữ lượng khoảng hơn 114 triệu tấn, gồm các loại than: antraxit, than gầy, than bùn. Trong đó mỏ than Đồng Rì có trữ lượng lớn (107,3 triệu tấn) phục vụ phát triển quy mô công nghiệp trung ương. Quặng sắt ước khoảng 0,5 triệu tấn ở Yên Thế. Ngoài ra gần 100 nghìn tấn quặng đồng ở Lục Ngạn, Sơn Động; 3 triệu tấn cao lanh ở Yên Dũng. Khoáng sản sét cũng có tiềm năng lớn, sử dụng làm gạch ngói, với 16 mỏ và điểm mỏ, tổng trữ lượng khoảng 360 triệu m3, chủ yếu ở các huyện: Việt Yên, Lạng Giang, Lục Nam, Yên Thế, Hiệp Hoà. Trong đó có 100 m3 sét làm gạch chịu lửa ở Tân Yên, Việt Yên; sỏi, cuội kết ở Hiệp Hoà, Lục Nam. * Tài nguyên nước Trên lãnh thổ Bắc Giang có 3 con sông lớn chảy qua, với tổng chiều dai 347 km, lưu lượng lớn và có nước quanh năm. Ngoài ra còn có hệ thống ao ,hồ, đầm, mạch nước ngầm. Lượng nước mặt, nước mưa, nước ngầm đủ khả năng cung cấp nước cho các ngành kinh tế và sinh hoạt. 2. Sự cần thiết phải cải tạo, xây dựng mạng lưới chợ tỉnh Bắc Giang trong xu hướng phát triển của nền kinh tế. 2.1. Đặc điểm hình thành chợ tỉnh Bắc Giang Cho đến nay, chợ thuộc địa bàn tỉnh Bắc Giang hầu hết được hình thành một cách tự nhiên, loại trừ một số chợ được xây dựng theo quy hoạch. Chợ thường được hình thành ở những địa điểm gần các trục giao thông, các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, điều kiện giao thông thuận tiện cho thương nhân và người tiêu dùng mua bán, vận chuyển hàng hóa. Hệ thống chợ được hình thành gắn liền với quá trình hình thành các cụm dân cư hoặc các tụ điểm dân cư trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt là chợ xã, chợ huyện được hình thành từ những vùng đất giầu tiềm năng phát triển sản xuất nông nghiệp, các làng nghề truyền thống. Bước đầu chợ còn mang nặng tính chất tự cung, tự cấp, tự túc, người bán hàng chủ yếu cũng là người sản xuất trực tiếp. Cùng với quá trình phát triển sản xuất hàng hóa, cụm dân cư ngày một đông đúc thúc đẩy phát triển nhu cầu trao đổi, mua bán hàng hóa. Tầng lớp thương nhân ngày càng phát triển, tính chất tự cấp, tự túc giảm dần và bán kính phục vụ cũng như khả năng lưu hông hàng hóa của chợ cũng ngày càng được mở rộng. Đồng thời, quy mô các khu vực dân cư càng lớn, sản phẩm hàng hóa của địa phương càng dồi dào, kinh doanh càng hiệu quả thì sức hấp dẫn đối với thương nhân vào kinh doanh trong chợ sẽ không ngừng tăng lên. Quá trình hình thành hệ thống chợ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cũng gắn liền với quá trình đô thị hóa và quá trình thực hiện quy hoạch các khu dân cư, các cụm công nghiệp, cụm thương mại, dịch vụ và các trung tâm cụm, xã. Với khả năng về vốn hoạt động và khả năng nhạy bén trong kinh doanh, thông qua hoạt động tổ chức thu mua, chế biến vận chuyển và tiêu thụ hàng hóa, tầng lớp thương nhân đã thiết thực góp phần thúc đẩy hình thành các tụ điểm thương mại tại các thị trấn, thị tứ và tại những nơi hoạt động mua bán thuận lợi, những nơi có điều kiện về giao thông vận tại, nơi tập trung đông dân cư. 2.2. Đặc điểm trao đổi hàng hóa qua hệ thống chợ tỉnh Bắc Giang Các sản phẩm hàng hóa chủ yếu được sản xuất và đưa ra trao đổi qua hệ thống chợ là các sản phẩm nông, lâm, thủy sản, công nghiệp, thủ công mỹ nghệ, tiểu thủ công nghiệp của địa phương. Ngoài ra, còn có những hàng hóa mà địa phương không tự sản xuất được, đó là kênh hàng hóa từ nơi khác đưa đến trao đổi gồm các mặt hàng phục vụ trực tiếp cho nhu cầu tiêu dùng của dân cư như hàng công nghệ phẩm, hàng lương thực thực phẩm, kể cả thực phẩm tươi sống, thịt gia súc, gia cầm, thủy hải sản, vật dụng gia đình, vải vóc, quần áo, bán kẹo hoa quả, dầu lửa, muối và một số hàng hóa thiết yếu khác phục vụ quá trình sản xuất như: xăng dầu, xi măng, than, phân bón, thuốc trừ sâu… Quy mô và phạm vi trao đổi hàng hóa không chỉ giới hạn trong phạm vi nội tỉnh, mà còn có vai trò phát luồng đến các thị trường tiêu thụ ngoại tỉnh khác. Các đối tượng tham gia vào hoạt động trao đổi hàng hóa ở các chợ gồm những người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm, các thương nhân của Bắc Giang, các thương nhân từ nơi khác tới và người tiêu dùng. 2.3. Thực trạng mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang Bảng 1.1: Số lượng và quy mô chợ tỉnh Bắc Giang VỊ TRÍ Loại I Loại II Loại III Tổng số Thành Phố Bắc Giang 02 08 07 17 Huyện Lục Ngạn 02 06 14 22 Huyện Lục Nam 1 6 16 23 Huyện Sơn Động 1 9 10 Huyện Yên Thế 1 10 11 Huyện Hiệp Hoà 1 5 12 18 Huyện Lạng Giang 1 16 17 Huyện Tân Yên 1 9 6 16 Huyện Yên Dũng 3 9 12 Huyện Việt Yên 1 1 14 16 (Nguồn: Quy hoạch tỉnh Bắc Giang phát triển kinh tế - xã hội đến 2010) Hiện nay, hầu hết các chợ được đặt ở vị trí hợp lý, phục vụ cư dân trong vùng thuận tiện. Tuy nhiên có một số chợ nằm kề sát đường giao thông, cản trở việc đi lại của nhân dân và làm mất trật tự, mỹ quan đường phố ảnh hưởng an toàn giao thông như chợ Hà Vị, chợ Cầu Chui. Vị trí của chợ trên địa bàn tỉnh thường gắn với các trục đường giao thông đầu mối giao thống chính. Do vậy, khi có sự gia tăng về số lượng người, phương tiện giao thông và hàng hóa đến chợ thì vấn đề mất an toàn giao thông ở khu vực chợ cũng rất bức xúc. Thực tế cho thấy nhiều chợ đã quá tải, diện tích mặt bằng chợ chật hẹp, đường nội bộ không đủ diện tích để xe cứu hỏa ra vào khi cần thiết. Cho đến nay, số lượng chợ trên địa bàn tỉnh được đầu tư xây bê tông, mái tôn còn tương đối hạn chế. Hầu hết các chợ đều vẫn là lều quán, tranh, tre, nứa và chợ họp ngoài trời, nền chợ chưa được bê tông hóa (nền đất) đặc biệt là các xã, cụm xã, chợ nông thôn miền núi. Chính vì vậy mà nguy cơ tiềm ẩn gây cháy nổ tại các chợ này là rất lớn, và khi xảy ra hỏa hoạn, cháy nổ thì thiệt hại do nó gây ra là không lường hết được. Cũng chính sự mất an toàn giao thông trên khu vực chợ đã ảnh hưởng trực tiếp đến yêu cầu đảm bảo sự thuận tiện cho quá trình giao lưu, trao đổi hàng hóa qua chợ. Đây là mâu thuẫn tồn tại khá phổ biến của hệ thống chợ ở tỉnh Bắc Giang nói riêng và của cả nước Việt Nam nói chung. Đặc biệt còn một số chợ hệ thống cống rãnh thoát nước không đảm bảo gây ngập úng, gây mất an toàn vệ sinh thực phẩm, nhất là trong thời kỳ các loại dịch bệnh đang hoành hành như hiện nay. Phần lớn các chợ hệ thống cấp thoát nước chưa đảm bảo, chưa có nước dẫn đến các quầy hàng thực phẩm, cống thoát nước kích thước nhỏ, không thoát nước kịp khi có mưa lớn gây úng ngập, ô nhiễm môi trường. Hệ thống nhà vệ sinh trong chợ chưa đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, nhiều chợ chưa có công trình vệ sinh. Các chợ hầu hết thiếu hoặc không có hệ thống chiếu sáng. Tình hình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là chợ xã chủ yếu họp ngoài trời hoặc lều quán tạm. Còn thiếu vắng mô hình chợ đầu mối, chợ chuyên doanh, chợ đồ cũ…Các đầu mối thu gom hàng xuất khẩu tại địa phương hầu như nằm ngoài chợ. Đây là mô hình hết sức cần thiết, đặc biệt đối với tỉnh Bắc Giang, một tỉnh nông nghiệp có các làng nghề truyền thống. Xét cơ cấu nguồn vốn đầu tư xây dựng chợ thực tế cho thấy các hộ kinh doanh trong chợ đóng góp chiếm tỷ lệ khá lớn. Một số chợ tỷ lệ vốn góp của các hộ kinh doanh rất cao trong tổng số vốn đầu tư. Điều đó cho thấy nhu cầu cần có diện tích kinh doanh trong chợ của các hộ kinh doanh là khá lớn và lợi ích mà các hộ kinh doanh thu được nhờ có diện tích kinh doanh trong chợ chính là động lực bên trong của nhu cầu đó. Hiện nay chợ được xem là một trong những yếu tố cơ bản về hạ tầng cơ sở, nhất là đối với vùng nông thôn, miền núi. Mặc dù nhà nước có chủ trương dùng vốn ngân sách để đầu tư xây dựng chợ nhưng thực tế do ngân sách địa phương còn hạn chế nên các địa phương chú trọng đến các lĩnh vực quan trọng hơn như y tế, giáo dục, giao thông. Mặt khác, do việc phân cấp ngân sách, UBND xã trực tiếp quản lý các chợ trong khi khả năng ngân sách xã thường eo hẹp, vì vậy ngân sách địa phương đầu tư phát triển chợ tăng lên không đáng kể. 2.4. Sự cần thiết phải cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới hệ thống chợ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang - Một số huyện, mật độ chợ hiện nay chưa hợp lý cả về khoảng cách, bán kính phục vụ và quy mô dân số, tính chất kinh doanh. Nếu xem xét từ các khía cạnh về yêu cầu đảm bảo an toàn giao thông, về quy mô diện tích chợ, về yêu cầu nâng cao chất lượng phục vụ của chợ thì vấn đề đặt ra là cần có sự điều chỉnh, di chuyển vị trí của một số chợ cũng như bố trí những chợ mới ở những vị trí thích hợp. - Loại hình chợ còn đơn điệu, hầu hết là chợ kinh doanh tổng hợp. Trên địa bàn tỉnh còn thiếu vắng các chợ đầu mối trung chuyển hàng hóa, thiếu vắng các chợ chuyên doanh…. - Cơ sở vật chất chợ còn yếu kém, xuống cấp không đảm bảo an toàn, vệ sinh và bộ mặt văn minh của chợ. - Trong những năm qua thu nhập và đời sống dân cư trên địa bàn đã được cải thiện làm tăng không chỉ quy mô nhu cầu tiêu dùng của dân cư, mà còn tăng nhu cầu tiêu thụ nhiều chủng loại hàng hóa khác. Tuy nhiên, thực tế phát triển các hộ kinh doanh theo ngành hàng tên chợ cho thấy số hộ kinh doanh vẫn tập trung chủ yếu vào các mặt hàng tươi sống, tạp hóa, may mặc, dịch vụ ăn uống… - Nguồn vốn đầu tư xây dựng chợ bao gồm: Nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn từ các hộ tư thương tham gia kinh doanh trên chợ và các nguồn vốn xã hội khác. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất chợ, đặc biệt là vốn ngân sách nhà nước còn hạn chế, đầu tư của nhà nước đối với hệ thống chợ chưa tương xứng với vị trí, vai trò của chợ trong việc thực hiện chức năng mua, bán hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư. Nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa của dân cư ngày càng tăng lên, yêu cầu chợ ngày càng văn minh hơn, hiện đại hơn, trong khi đó có rất nhiều chợ chưa được đầu tư phát triển hoặc chỉ ở mức độ thấp. Chính vì vậy, trong giai đoạn tới Bắc Giang cần chú trọng đầu tư phát triển cơ sở vật chất chợ hơn nữa. Vấn đề đặt ra là cần phải xử lý những mâu thuẫn giữa giá trị công trình và hiệu suất sử dụng của công trình; giữa chợ và các loại hình thương nghiệp bán lẻ khác. - Cùng với sự gia tăng lưu lượng người và hàng hóa qua hệ thống chợ và quá trình phát triển hệ thống giao thông đường bộ đã và đang gây nên tình trạng mất an toàn giao thông trên nhiều tuyến giao thông và điểm họp chợ. Đây là vấn đề đặt ra hết sức cấp thiết cho việc xây dựng quy hoạch phát triển chợ trong thời kỳ tới. Vấn đề này đặt ra không chỉ vì sự an toàn cho người và phương tiện vận chuyển, mà còn để đảm bảo tính hiệu quả hay khả năng tăng cường khối lượng hàng hóa, phương tiện lưu thông và lưu lượng người đến chợ theo công suất thiết kế của bản thân các công trình giao thông và công trình chợ. - Thực trạng công tác tổ chức và quản lý chợ trên địa bàn tỉnh cho thấy, phần lớn các chợ do UBND xã trực tiếp quản lý và theo phương thức giao khoán hay khoán thầu là chính. Các nội dung quản lý bị buông lỏng dẫn đến thất thoát nguồn thu, không khuyến khích khai thác cơ sở vật chất chợ cũng như khai thác nguồn vốn phát triển chợ. Cơ chế quản lý chợ, nhất là cơ chế tài chính chưa được quy định thống nhất và đầy đủ, hạn chế động lực tài chính trong việc huy động nguồn vốn đầu tư cũng như tăng cường khai thác cơ sở vật chất chợ. Nhìn chung công tác tổ chức quản lý chợ còn thiếu sự quan tâm, nên vừa thiếu tính thống nhất trong cả hệ thống chợ vừa thiếu cách nhìn toàn diện về vị trí, vai trò và yêu cầu phát triển chợ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là cần phải có sự chỉ đạo thống nhất trong quá trình phát triển chợ trên cơ sở cách nhìn nhận về vị trí và vai trò của chợ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. - Việc xây dựng chợ chưa được tiêu chuẩn hóa nên khâu bố trí không gian kiến trúc, yêu cầu diện tích mặt bằng của hệ thống chợ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang không thống nhất chưa thể hiện được nền văn hóa, tính truyền thống của vùng. Vì vậy trong giai đoạn tới cần có sự quan tâm nhiều hơn, toàn diện hơn đến sự phát triển của hệ thống chợ, không chỉ chú trọng đến sắc thái riêng của từng chợ mà còn phải đảm bảo tính hài hoà của cả hệ thống, trên cơ sở đưa ra nhưng quy định tối thiểu mặt bằng, về xử lý không gian kiến trúc, qui mô về đầu tư… - Thiếu đội ngũ nhân lực có trình độ và kỹ năng quản lý chợ cả ở những cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị quản lý trực tiếp nên làm hạn chế khai thác và phát huy tác dụng cũng như phát triển hệ thống chợ trên địa bàn. Chính từ những thực trạng phát triển của mạng lưới chợ, siêu thị, trung tâm thương mại trên địa bàn tỉnh Bắc Giang mà việc đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm thương mại nhằm đáp ứng cho kịp thời cho sự phát triển kinh tế của Bắc Giang nói riêng và của Việt Nam nói chung trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. 3. Vai trò của nguồn vốn tư nhân trong hoạt động đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác chợ. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do tích luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt … nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Như chúng ta đã biết, bất cứ một hoạt động đầu tư nào muốn tiến hành đều phải có vốn. Đặc biệt là hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong đó có đầu tư xây dựng mạng lưới chợ, siêu thị, trung tâm thương mại thì khối lượng vốn cần cho nó lại càng lớn. Nhận biết được tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở hạ tầng nói chung và đầu tư xây dựng mạng lưới chợ nói riêng nên Đảng và nhà nước ta đã dành những khoản đầu tư không nhỏ cho hoạt động đầu tư này. Chính vì dành nhiều nguồn lực cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội nên nguồn vốn dành cho các mục tiêu phát triển khác đã bị hạn chế. Vấn đề đặt ra ở đây là tìm những nguồn tài trợ mới tiếp sức cho ngân sách nhà nước thực hiện đầu tư vào lĩnh vực này. Để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong 20 năm đầu của thế kỷ 21, Việt Nam phải hoàn tất củng cố hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập, hòa chung cùng với nền kinh tế thế giới. Điều này yêu cầu một nguồn vốn khổng lồ, bao gồm quỹ Nhà nước và vốn từ các cá nhân cả trong nước và nước ngoài, cũng như sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước và cá nhân trong việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia nói chung và cơ sở hạ tầng giao thông, mạng lưới chợ, siêu thị, trung tâm thương mại nói riêng. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng xã hội là lĩnh vực khó thu hồi vốn, quá trình thực hiện một dự án cơ sở hạ tầng lại phức tạp vô cùng. Chẳng hạn như khi quy hoạch tuyến đường giao thông được công bố, sẽ có một số nhà đầu tư khác "ăn theo", hay chuyện có nhiều người đổ xô mua đất dọc theo tuyến đường, gây khó khăn trong việc giải tỏa đền bù, làm nản lòng nhà đầu tư. Ngoài nguồn vốn qua các kênh nhà nước như ngân sách, thu phí cầu đường, phụ thu xăng dầu, cần quan tâm thu hút nguồn vốn từ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước, bằng các hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu công trình, trái phiếu chính phủ, các hình thức đầu tư như BOT, BTO, BT; huy động tiền tiết kiệm và tích luỹ nội bộ trong nước để đầu tư xây dựng các tuyến đường bộ thông qua ngân hàng; nguồn vốn từ đổi đất lấy công trình hoặc sử dụng một phần vốn trong các dự án của các ngành để xây dựng các tuyến đường trong khu công nghiệp, chế xuất. Kêu gọi và thu hút nguồn vốn ODA... Nguồn vốn nước ngoài cho hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng ở nước ta ngày càng có chiều hướng gia tăng. Đó là một thành công trong công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Đảng và nhà nước. Nhưng cũng chính Đảng và nhà nước cũng nhận định nguồn vốn này là chưa đủ cho đầu tư phát triển nói chung và cho đầu tư cơ sở hạ tầng nói riêng đặc biệt khi chúng ta sử dụng nó một cách không hợp lý. Sử dụng một cách không hiệu quả nguồn vốn này không những bị thất thoát, lãng phí các nguồn lực mà còn để lại những khoản nợ khổng lồ cho những nền kinh tế, mà người gánh chịu không ai khác chính là các thế hệ nối tiếp của đất nước. Do đó cần tập trung khai thác, thu hút các nguồn vốn trong nước, đặc biệt là nguồn vốn từ khu vực tư nhân để đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Thành phần tư nhân tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng sẽ giải phóng được một nguồn lực đáng kể để Nhà nước có đủ khả năng tập trung vào những lĩnh vực ưu tiên khác nhằm duy trì sự tăng trưởng kinh tế nói chung. Thu hút thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nói chung, và đầu tư phát triển hệ mạng lưới chợ, siêu thị, trung tâm thương mại nói riêng sẽ góp phần quan trọng trong việc quản lý hiệu quả nguồn vốn của các dự án đầu tư, hạn chế tối đa việc không đáp ứng được nhu cầu đầu tư của ngân sách Nhà nước, đồng thời hạn chế được nạn tham nhũng, quan liêu, thất thoát, lãng phí trong hoạt động đầu tư. Khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân thường có quy mô vừa và nhỏ. Với ưu thế hoạt động một cách linh hoạt, nhạy bén với sự biến động của môi trường xung quanh. Mặt khác, do vốn đầu tư là do chính cá nhân hay tổ chức mình bỏ ra đầu tư nên họ sẽ kiểm soát và sử dụng đồng vốn một cách hiệu quả hơn nhiều lần so với các doanh nghiệp quốc doanh. Không có một nước nào, nhất là các nước chậm phát triển, ngân sách quốc gia có thể đáp ứng đủ để phát triển hạ tầng theo kịp sự phát triển kinh tế. Mô hình hợp tác nhà nước - tư nhân (PPP) đã ra đời và nhiều nước ứng dụng thành công trong hơn 20 năm qua. Việt Nam là một nước thiếu vốn trầm trọng cho phát triển hạ tầng thì việc áp dụng cơ chế này càng trở nên cần thiết. Các hình thức đầu tư trực tiếp nên khuyến khích nhằm huy động nguồn vốn tư nhân: Hợp tác nhà nước - tư nhân (PPP - Public Private Partnerships) là việc nhà nước và tư nhân cùng thực hiện một dự án lợi ích công thông qua một thỏa thuận nhằm chia sẻ nhiệm vụ và rủi ro. Theo thỏa thuận này, nhà nước thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ, còn tư nhân được khuyến khích thực hiện các dịch vụ này bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ. PPP cũng góp phần khắc phục những nhược điểm về đầu tư của Chính phủ như thiếu minh bạch trong đấu thầu, quá trình thực hiện dự án thường bị kéo dài, bảo dưỡng công trình không chuyên nghiệp, thiếu kinh phí dẫn đến mau xuống cấp, hiệu quả sử dụng thấp gây lãng phí cho ngân sách... Trong khi đó, khi tham gia dự án, nhà đầu tư tư nhân sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn từ khâu thiết kế đến xây dựng, vận hành, bảo dưỡng công trình, đảm bảo việc sử dụng hiệu quả nhất. Hết hạn hợp đồng, công trình vẫn phải đảm bảo chất lượng tốt theo các điều khoản đã ký trước khi giao lại cho Chính phủ. Chúng ta cũng nên khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân thông qua hình thức đầu tư BOT (Build – Operate – Tranfer) (Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao) hoặc góp vốn trực tiếp. Với các nhà đầu tư tư nhân có năng lực tài chính nhỏ hơn có thể đầu tư vào hạ tầng cơ sở nông thôn. Việc đầu tư này cần quy hoạch cụ thể và mang tính dài hạn của nhà nước cũng như từng địa phương. Đây là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất dịnh; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Hợp đồng BTO (Build – Tranfer – Operate) (Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh). Đây là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ giành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận. Hợp đồng BT (Build – Tranfer)(Hợp đồng kinh doanh - chuyển giao). Đây là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong hợp đồng BT. Bảng 1.2: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển kinh tễ- xã hội của Bắc Giang (Nguồn: Quy hoạch tỉnh Bắc Giang phát triển kinh tế - xã hội đến 2010) Năm 2000 2001 - 2005 2006 - 2010 Tổng giá trị (tỷ đồng) 598 4158 7711 Trong đó: 1. Ngân sách 138 846 1501 2. Vốn chương trình mục tiêu 26 157 255 3. Tín dụng ưu đãi 60 237 520 4. Vốn DN và tư nhân 105 986 2730 5. Đầu tư qua bộ, ngành 249 1814 2520 6. Vốn huy động khác 20 118 185 Hiện nay các công trình kết cấu hạ tầng của VN chủ yếu sử dụng vốn từ ngân sách tập trung của nhà nước, các nguồn vốn ODA, trái phiếu chính phủ, và trái phiếu công trình có bảo lãnh của nhà nước. Trong khi đó nhu cầu về nguồn vốn cho các công trình là rất lớn. Nếu như không có sự tham gia của thành phần kinh tế tư nhân thì sẽ rất khó khăn. Điểm nổi bật trong mô hình “Đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác chợ” của công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu là: “Doanh nghiệp bỏ 100% vốn ra đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác không chuyển giao”. Áp dụng mô hình này, nhà nước sẽ không phải bỏ bất cứ một khoản vốn nào cho hoạt động đầu tư, xây dựng mà chỉ phải bỏ thời gian, chi phí giải phóng mặt bằng cho doanh nghiệp. Trong khi đó, những dự án thực hiện theo mô hình này sẽ góp phần cải thiện hệ thống hạ tầng xã hội, vệ sinh môi trường, cảnh quan đô thị nơi thực hiện dự án, góp phần giải quyết việc làm cho hàng ngàn người lao động, đồng thời nó cũng đóng góp một phần không nhỏ vào tổng thu nhập cho địa phương. Chính vì vậy, việc khuyến khích, nhân rộng mô hình đầu tư trên của công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu là hết sức cần thiết và phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của nhà nước, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập như hiện nay. ----------------------------------------- Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác chợ của công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu trên địa bàn tỉnh Bắc Giang 1. Giới thiệu tổng quan về công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu Công ty TNHH xây dựng Hải Âu quá trình hình thành và phát triển từ một xí nghiệp tập thể cổ phần được UBND huyện Tân Yên ra quyết định thành lập số 322-CT ngày 26/10/1995. Năm 2000 chuyển đổi thành Công ty TNHH xây dựng Hải Âu được Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Tỉnh Bắc Giang cấp giấy chứng nhận ĐKKD số: 2002000017, ngày 07 tháng 09 năm 2000, gồm 3 thành viên sáng lập và góp vốn, với tổng vốn pháp định được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hiện nay là 100 tỷ đồng. Hiện công ty có trụ sở chính đặt tại Thành phố Bắc Giang – một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc, Việt Nam có vị giao thông thuận lợi (cách thủ đô Hà Nội 50km, biên giới Việt – Trung 100km, sân bay Nội Bài 50km, cảng Hải Phòng 80km). Công ty bao gồm 7 chi nhánh, hoạt động trên 17 ngành nghề khác nhau, trong đó trọng tâm là kinh doanh thi công xây dựng cơ bản, đặc biệt là các dự án chợ trung tâm tại các thành phố lớn. Hiện ._.tại, công ty đang đầu tư, khai thác và quản lý nhiều dự án chợ trung tâm với số vốn lên tới hàng trăm tỷ đồng, hàng năm đóng góp nhiều tỷ đồng vào ngân sách của địa phương, giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động. Các sáng lập viên của Công ty đã được đào tạo cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ và trưởng thành qua thực tế thi công từ những năm 1975 cho đến nay. Với tinh thần yêu ngành, yêu nghề, tích cực hăng say lao động có kỷ luật, có chất lượng, kỹ, mỹ thuật, lấy công việc hoàn thành làm niềm vui và phần thưởng cho mình, vì lẽ đó mà các sáng lập viên của Công ty đã lãnh đạo và đưa Công ty phát triển không ngừng đứng vững trên thị trường . Công ty TNHH xây dựng Hải Âu với đội ngũ cán bộ gọn nhẹ giàu kinh nghiệm trong SX cũng như trong kinh doanh, các sáng lập viên cùng Ban lãnh đạo Công ty vững vàng trong quản lý, tiến hành, quan hệ mở rộng trên tinh thần đoàn kết nhất trí một lòng, đồng tâm hợp lực xây dựng Công ty ngày một lớn mạnh. Qua nhiều năm thi công các công trình được các cơ quan quản lý Nhà nước và các chủ đầu tư đánh giá cao về tiến độ thi công chất lượng kỹ, mỹ thuật công trình, vệ sinh an toàn lao động. Công ty hiện có chi bộ Đảng, chi đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, công đoàn cơ sở, là điểm tựa tinh thần đảm bảo cho hoạt động của Công ty phát triển bền vững. Công ty còn quan tâm đến công tác thăm hỏi, giúp đỡ những gia đình có hoàn cảnh kho khăn, chú trọng trang bị bảo hộ lao động cho công nhân, luôn quan tâm và xác định công tác an toàn lao động trong sản xuất cũng như trong kinh doanh là chỉ tiêu thi đua, từ chỉ tiêu đó mọi cán bộ công nhân đều có trách nhiệm thực hiện. . Công ty là thành viên của hội XD Tỉnh Bắc Giang, đơn vị thành viên của Liên Minh HTX Tỉnh Bắc Giang. Trong những năm qua hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty liên tục phát triển năm qua cao hơn năm trước. Công ty đã đước các cấp, các ngành, các tổ chức tặng nhiều bằng khen và phần thưởng, nhất là ba năm gần đây. Năm 2006: Được UBND tỉnh Bắc Giang tặng bằng khen và thành tích xây dựng chợ; Chủ tịch Liên Minh HTX Việt Nam tặng bằng khen về các hoạt động SXKD và đóng góp cho phong trào Hợp tác xã. Năm 2007: Được UBND tỉnh Bắc Giang tặng bằng khen về đầu tư, phát triển chợ; Trung tâm văn hoá doanh nhân Việt Nam tặng biểu tượng Vàng vì sự nghiệp phát triển văn hoá doanh nhân. Năm 2008: Được Bộ trưởng Bộ Công Thương tặng bằng khen về đầu tư xây dựng chợ. - Trung tâm Văn Hoá Doanh Nhân Việt Nam tặng biểu tượng Vàng vì sự nghiệp phát triển Văn Hoá Doanh Nhân Việt Nam lần thứ 02. Cá nhân Tổng Giám Đốc được tặng Cúp Vàng về doanh nhân văn hoá. - UBND Tỉnh Bắc Ninh tặng bằng khen về đầu tư phát triển chợ. - Hội Đồng thi đua khen thưởng Tỉnh Bắc Giang đề nghị Thủ Tưởng Chính Phủ tặng bằng khen về thành tích Kinh Doanh năm 2007 - 2008. - Đạt danh hiệu “Doanh Nghiệp phát triển bền vững sau 2 năm Việt Nam gia nhập WTO” - Qua việc công ty đã thực hiện thành công hàng loạt các dự án đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác chợ nên thương hiệu Công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu đã được nâng lên một cách đáng kể. Cho đến nay, Công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu là một trong những công ty hoạt động hiệu quả, uy tín, có vị thế đứng đầu hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản nói chung và đầu tư xây dựng chợ nói riêng. - Cũng qua việc thực hiện thành công các dự án đó mà Cty đã góp phần tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ thương nhân có địa điểm khang trang, thuận tiện để giao lưu mua bán hàng hoá. Và đồng thời góp phần cải thiện cảnh quan đô thị cho những nơi có dự án, thúc đẩy kinh tế của địa phương đó tăng trưởng một cách rõ rệt. Chính vì vậy, hoạt động đầu tư của công ty vừa mang lại lợi nhuận cao cho chính bản thân công ty, vừa mang lại lợi ích toàn xã hội. Do đó, hình thức đầu tư của công ty được các cơ quan chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước cũng như đông đảo quần chúng hết sức ủng hộ. - Công ty đã tạo ra việc làm cho hàng nghìn người lao động thường xuyên cũng như lao động theo hợp đồng, mùa vụ. - Công ty đã đóng góp vào ngân sách cho Nhà nước: Năm 2005: 74.520.000đ Năm 2006: 74.520.000đ Năm 2007: 92.792.836đ Năm 2008: 116.983.700đ - Ngoài ra Công ty còn tích cực tham gia đóng góp các hoạt động xã hội như: Quỹ khuyến học, bà mẹ Việt Nam anh hùng, ủng hộ quỹ chất độc da cam, ủng hộ đồng bào bão lụt hàng năm hàng trăm triệu đồng. THÔNG TIN CHUNG Tên công ty: CÔNG TY TNHH XÂY DỰNG HẢI ÂU Địa chỉ trụ sở chính : Ngã 5 - Chợ Hà Vị - P. Trần Nguyên Hãn – TP Bắc Giang. Địa chỉ CN Bắc Ninh: Số 589 - Đường Ngô Gia Tự - Ninh Xá I – TP Bắc Ninh. Điện thoại: 02403. 551.553 Fax: 02403.522.111 DĐ: 0912.393.740 Địa chỉ đăng ký: Sở kế hoạch và đầu tư Bắc Giang Năm thành lập:07/09/2000 NGÀNH NGHỀ KINH DOANH Xây dựng các công trình dân dụng Xây dựng các công trình công nghiệp Xây dựng các công trình giao thông Xây dựng các công trình thủy lợi Xây dựng các công trình đường điện từ 35Kv trở xuống Mua bán, chế biến lâm sản, mộc dân dụng, công nghiệp, mỹ nghệ xuất khẩu Đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác chợ Thi công san lấp mặt bằng Mua bán hàng nông sản, thực phẩm Kinh doanh xăng dầu, khí đốt Kinh doanh thiết bị phụ tùng, xe cơ giới Kinh doanh nhà hàng, nhà nghỉ, vật lý trị liệu Dịch vụ vui chơi giải trí Sản xuất, mua bán vật liệu xây dựng Mua bán văn phòng phẩm Dịch vụ photocopy Tư vấn đầu tư, thiết kế kiến trúc và trang trí nội ngoại thất các công trình dân dụng và công nghiệp đến cấp I. Thiết kế quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị dưới 200 ha. Thiết kế quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn quy mô dưới 100 ha. Thiết kế công trình xây dựng giao thông đường bộ đến cấp III. Thiết kế công trình cấp thoát nước đến cấp II, kênh mương đến cấp III, đường bộ đến cấp III. Thi công, lập hồ sơ đấu thầu, quyết toán, kiểm toán công trình. CÁC ĐƠN VỊ THÀNH VIÊN CHI NHÁNH CTY TNHH XÂY DỰNG HẢI ÂU – CHỢ TRUNG TÂM THỊ TRẤN GIA BÌNH Địa chỉ: Trung tâm thị trấn Gia Bình, huỵện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh CHI NHÁNH CTY TNHH XÂY DỰNG HẢI ÂU – CHỢ TRUNG TÂM THỊ TRẤN LƯƠNG TÀI Địa chỉ: Thôn Đông Hương, thị trấn Lương Tài, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh CHI NHÁNH CTY TNHH XÂY DỰNG HẢI ÂU – CHỢ TRUNG TÂM THỊ TRẤN PHỐ MỚI Địa chỉ: Khu I, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. CHI NHÁNH CTY TNHH HẢI ÂU – CÔNG VIÊN TRUNG TÂM THÀNH PHỐ BẮC GIANG Địa chỉ: Công viên trung tâm, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang CHI NHÁNH CTY TNHH HẢI ÂU – CHỢ HÀ VỊ Địa chỉ: Ngã 5, Chợ Hà Vị, phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang CHI NHÁNH CTY TNHH XÂY DỰNG HẢI ÂU – CHỢ SONG MAI Địa chỉ: thôn Phúc Hạ, xã Song Mai, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang CHI NHÁNH CTY TNHH XÂY DỰNG HẢI ÂU – CHỢ DĨNH TRÌ Địa chỉ: phố Cốc, xã Dĩnh Trì, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang Cùng với sự tăng trưởng và phát triển không ngừng của công ty thì vốn điều lệ của công ty cũng ngày càng được bổ sung một cách tích cực nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triển của công ty. Dưới đây là quá trình bổ sung vốn điều lệ theo quá trình phát triển của công ty: Năm 1995 750.000.000VNĐ Vốn cố định 400.000.000VNĐ Vốn lưu động 350.000.000VNĐ Năm 2000 1.250.000.000VNĐ Vốn cố định 900.000.000VNĐ Vốn lưu động 350.000.000VNĐ Năm 2001 2.250.000.000VNĐ Vốn cố định 900.000.000VNĐ Vốn lưu động 1.350.000.000VNĐ Năm 2003 5.250.000.000VNĐ Vốn cố định 2.250.000.000VNĐ Vốn lưu động 3.000.000.000VNĐ Năm 2006 8.250.000.000VNĐ Vốn cố định 2.000.000.000VNĐ Vốn lưu động 6.250.000.000VNĐ Năm 2007 100.000.000.000VNĐ Vốn cố định 85.000.000.000VNĐ Vốn lưu động 15.000.000.000VNĐ SƠ ĐỒ BỘ MÁY TỔ CHỨC CÔNG TY HỘI ĐỒNG THÀNH VIÊN Phó Chủ tịch HĐTV Phó Chủ tịch HĐTV Chủ tịch HĐTV Tổng giám đốc Phó Tổng Giám Đốc Phó tổng Giám Đốc Phòng an ninh bảo vệ Phòng thanh tra Phòng tổ chức hành chính Chi nhánh Bắc Ninh Phòng kế hoạch vật tư Phòng kỹ thuật vật tư Nhà hàng vật lý trị liệu Phòng kinh doanh và marketing Phòng kế toán tài vụ Đội xây lắp I Đội xây lắp II Đội xây lắp III Ban quản lý chợ IV Ban quản lý chợ III Ban quản lý chợ II Đội xây lắp IV Ban quản lý chợ I BẢNG 2.1: DANH MỤC CÁC HỢP ĐỒNG ĐÃ THỰC HIỆN TÊN HỢP ĐỒNG GIÁ TRỊ HỢP ĐỒNG THỜI GIAN THỰC HIỆN TÊN CƠ QUAN KÝ HỢP ĐỒNG - Đường giao thông nông thôn Bất Phí 4.115.000.000 06/2004 UBND xã Nhân Hoà - Quế Võ - Bắc Ninh - Dự án đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác chợ Hà Vị - Phường Trần Nguyên Hãn – TP. Bắc Giang 25.000.000.000 08/2005 Công ty TNHH xây dựng Hải Âu - Dự án đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác chợ trung tâm huyện Gia Bình 22.000.000.000 07/2006 Công ty TNHH xây dựng Hải Âu - Dự án đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác chợ Thị trấn Thứa - huyện Lương Tài 43.000.000.000 04/2007 Công ty TNHH xây dựng Hải Âu - Dự án đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác chợ trung tâm Thị trấn Phố Mới - Quế Võ - Bắc Ninh 64.000.000.000 05/2007 Công ty TNHH xây dựng Hải Âu - Dự án đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác chợ Ngụ - Xã Nhân Thắng - Huyện Gia Bình – Tỉnh Bắc Ninh 40.000.000.000 06/2007 Công ty TNHH xây Dựng Hải Âu - Dự án xây dựng khu vui chơi giải trí kết hợp dịch vụ tổng hợp (theo đúng quy hoạch chi tiết công viên trung tâm TP. Bắc Giang 63.428.000.000 01/2008 Công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu 2. Thực trạng hoạt động đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác chợ của công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu trong thời gian qua. 2.1. Một số quy định chung về chợ Chợ: Chợ là một loại hình thương mại mang tính truyền thống, là một bộ phận của thị trường xã hội, là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua, bán hàng hóa của các thành phần kinh tế mà đa phần là kinh tế cá thể, với những mặt hàng tiêu dùng hàng ngày là chủ yếu và đối tượng phục vụ là toàn thể các hộ dân cư trên địa bàn, tại những điểm được chính quyền lựa chọn, quy định và cho phép hoạt động theo từng mức độ khác nhau tùy theo sự phát triển của nền kinh tế xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Căn cứ vào Nghị Định 02/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của chính phủ về phát triển và quản lý chợ, thì các chợ nói chung được phân loại như sau: * Phân theo quy mô: a) Chợ loại 1: - Là chợ có trên 400 điểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố, hiện đại theo quy hoạch; - Được đặt ở các vị trí trung tâm kinh tế thương mại quan trọng của tỉnh, thành phố hoặc là chợ đầu mối của ngành hàng, của khu vực kinh tế và được tổ chức họp thường xuyên; - Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ chức đầy đủ các dịch vụ tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hóa, kho bảo quản hàng hóa, dịch vụ đo lường, dịch vụ kiểm tra chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm và các dịch vụ khác. b) Chợ loại 2: - Là chợ có trên 200 điểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố theo quy hoạch. - Được đặt ở trung tâm giao lưu kinh tế của khu vực và được tổ chức họp thường xuyên hay không thường xuyên; - Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động chợ và tổ chức các dịch vụ tối thiểu tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hóa, kho bảo quản hàng hóa, dịch vụ đo lường c) Chợ loại 3: - Là các chợ có dưới 200 điểm kinh doanh hoặc các chợ chưa được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố. - Chủ yếu phục vụ nhu cầu mua bán hàng hóa của nhân dân trong xã, phường và địa bàn phụ cận. * Phân loại theo loại hình: Chợ đầu mối: Là chợ có vai trò chủ yếu thu hút, tập trung lượng hàng hóa lớn từ nguồn sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế hoặc của ngành hàng để liên tục phân phối tới các chợ và kênh lưu thông khác (cung cấp nguyên liệu cho các xí nghiệp, nhà máy chế biến và cung cấp hàng hóa cho các đơn vị xuất khẩu) , cung cấp các thông tin thị trường theo yêu cầu của thương nhân. Chợ trung tâm: Là chợ có vị trí khởi đầu mua bán nông sản, kết thúc buôn bán vật tư và hàng tiêu dùng, góp phần mở rộng các quan hệ trao đổi hàng hóa, kích thích kinh tế hàng hóa phát triển, phục vụ sản xuất và đời sống của dân cư trong phạm vi liên xã, liên huyện. Chợ khu vực: (Chợ nông thôn): Là nơi tập kết, xuất phát điểm của hàng nông lâm sản, thực phẩm để đi về các đô thị và người lại cũng là giai đoạn cuối của quá trình lưu thông hàng hóa công nghiệp tiêu dùng. Gắn với hệ thống chợ là trung tâm thương mại, trung tâm giao dịch và giới thiệu sản phẩm nhằm hỗ trợ và định hướng cho hoạt động của chợ theo mục tiêu của quy hoạch phát triển thương mại – du lịch. Chợ chuyên doanh: (Chợ nông sản, chợ hoa quả, chợ gia súc, chợ truyền thống, chợ đồ cũ…). Là chợ mới được hình thành và phát triển, hoặc phát triển trong tương lai, nó rất cần khi đô thị hóa và kinh tế xã hội ngày càng phát triển. 2.2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư xây dựng chợ. Các công trình xây dựng chợ của Công ty TNHH xây dựng Hải Âu nói riêng và các công trình xây dựng chợ trên phạm vi cả nước nói chung thường có những đặc điểm cơ bản sau: - Về mặt kiến trúc: Các công trình xây dựng chợ không giống như các công trình siêu thị, trung tâm thương mại, vấn đề trang trí nội ngoại thất hết sức đơn giản, không cầu kỳ. Thường các công trình chợ chỉ cao từ 2 đến 3 tầng, kiến trúc đơn giản, giống nhau đối với các dẫy kiốt, quầy hàng. - Về mặt thiết kế, kết cấu: Chính vì đặc thù các công trình chợ mang tính đồng loạt, các dãy kiốt tương đối giống nhau nên công tác thiết kế kỹ thuật, bản vẽ thi công, tổng dự toán cũng hết sức đơn giản. Hầu hết các dãy kiốt, quầy hàng của chợ đều có chiều cao từ 2-3 tầng nền kết cấu của công trình cũng hết sức đơn giản (Từ kết cấu móng cho đến kết cấu của sàn, dầm, xà, giằng...). Chính vì vậy mà chi phí cho nguyên vật liệu để xây dựng chợ không cao như các công trình xây dựng cao tầng, mức vốn đầu tư cho hoạt động xây dựng chợ cũng không quá lớn. Cũng chính vì sự đồng loạt, giống nhau giữa các hạng mục trong công trình chợ nên tiến độ xây dựng chợ cũng nhanh hơn công tác xây dựng các công trình khác rất nhiều. Đây cũng là một trong những ưu thế của hoạt động đầu tư, xây dựng chợ. 2.3. Thực trạng hoạt động chuẩn bị đầu tư Có thể nói, hoạt động đầu tư là hoạt động xuyên suốt trong toàn bộ quá trình từ lúc công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu đưa ra được ý tưởng đến giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, và cuối cùng là giai đoạn vận hành, khai thác một dự án “Đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác chợ”. Để đưa ra được ý tưởng đầu tư dự án như vậy lãnh đạo công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu đã phải không ngừng học hỏi, tìm hiểu, nắm bắt những cơ chế, chính sách của nhà nước cũng như của các cơ quan, ban, ngành của địa phương. Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, Công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu đã xác định được vai trò quan trọng, tiên quyết của giai đoạn này, thành bại của cả công cuộc đầu tư là phụ thuộc vào công tác chuẩn bị đầu tư. Chính vì vậy, công tác lập và thẩm định dự án “Đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác chợ” của công ty luôn luôn được đưa lên hàng đầu và được triển khai hết sức thận trọng, đạt chất lượng tương đối cao. Việc khảo sát cũng như việc thăm dò thị trường địa điểm thực hiện dự án có vai trò hết sức quan trọng. Chất lượng của hai công tác này có tốt thì mới cung cấp được đầy đủ thông tin, dữ liệu cho chủ đầu từ để làm căn cứ xác định phương án đầu tư, nên đưa ra tổng mức đầu tư cao hay thấp, đầu tư một giai đoạn hay chia nhỏ ra làm nhiều giai đoạn. Đồng thời, công tác khảo sát địa điểm thực hiện đầu tư sẽ cho chủ đầu tư biết được quy mô, diện tích, địa hình, địa chất khu đất thực hiện dự án, để từ đó chủ đầu tư có thể đưa ra được phương án bố trí, định vị các công trình thuộc dự án. Đối với mỗi một dự án “Đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác chợ”, khi kết thúc giai đoạn chuẩn bị đầu tư công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu đều đã lập và thẩm định được dự án đầu tư (Một dự án đầu tư bao gồm có TMDAvà TKCS). Với việc đầu tư thời gian, kinh phí cho công tác lập dự án nên chất lượng của những dự án do công ty lập lên tương đối chặt chẽ, hợp lý và mang tính khả thi cao và điều này đã được khẳng định trên thực tế là các dự án công ty đã lập được các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thẩm định trong thời gian tương đối nhanh. Nói chung, công tác chuẩn bị đầu tư của công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu hiện nay đã được hết sức chú trọng. Tuy nhiên, để đạt được chất lượng cao trong công tác chuẩn bị đầu tư thì công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu cần phải đầu tư hơn nữa về thời gian và kinh phí cho công tác này. Bởi lẽ, công tác chuẩn bị đầu tư có đảm bảo chất lượng thì những giai đoạn tiếp theo mới có thể đảm bảo chất lượng. Hoạt động đầu tư trong giai đoạn quản lý và khai thác chợ của công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu là đầu tư cho lĩnh vực quảng cáo, quảng bá thương hiệu của công ty cũng như về từng dự án. Công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu đã ý thức được việc nâng cao được thương hiệu, uy tín trên thị trường có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển vững mạnh của doanh nghiệp. Những năm gần đây Công ty đã chú trọng đầu tư cho lĩnh vực quảng cáo bán hàng, quảng bá thương hiệu bằng các hình thức như: Đăng tin quảng cáo trên báo chí, trên truyền hình địa phương, in ấn hàng nghìn tập hồ sơ quảng cáo về công ty, về các dự án mà công ty đã thực hiện (Đặc biệt là về các dự án đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác chợ). Hoạt động đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác các dự án chợ của công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu mang đậm tính chất địa phương. Chính vì vậy phương thức thực hiện đầu tư, quản lý dự án của mỗi dự án cũng mang tính chất cục bộ, đặc thù. Tại các địa điểm thực hiện các dự án, công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu đã thực hiện nhiều các hoạt động công ích như: Xây nhà tình nghĩa, đến thăm và tặng quà các gia đình thương binh liệt sỹ, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, quyên góp vào quỹ khuyến học…Những hoạt động này của công ty cũng góp một phần nhỏ vào việc giúp đỡ các hộ gia đình vượt qua nhưng hoàn cảnh khó khăn, và đồng thời cũng tạo được niềm tin yêu, tin tưởng của người dân đối với công ty. Chính vì hình thức đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác chợ của công ty còn khá mới mẻ, nên công ty đã nhận thấy được vai trò của quảng cáo, quảng bá thương hiệu nhằm giúp khách hàng, các doanh nghiệp, các thương nhân hợp tác với công ty hiểu rõ được hình thức đầu tư này. Công ty có giải thích được cho khách hàng hiểu rõ được hình thức hoạt động, đầu tư của mình thì mới tạo được niềm tin trong khách hàng, nhờ đó mà công ty mới có thể bán được các sản phẩm của mình, góp phần gia tăng doanh thu, tạo lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. 2.4. Thực trạng hoạt động xây dựng chợ của công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu Trong giai đoạn thực hiện đầu tư, các dự án đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác chợ của công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu đã đầu tư hoàn thiện các thủ tục pháp lý để có thể tiến hành thực hiện đầu tư xây dựng công trình từ khâu lập và thẩm định hồ sơ thiết kế kỹ thuật thi công - Tổng dự toán đến khâu thi công xây dựng công trình. Trong giai đoạn này công ty cũng đã đầu tư máy móc, thiết bị tương đối hiện đại phục vụ cho công tác thi công xây dựng công trình. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ quản lý cũng như công nhân trực tiếp thi công công trình cũng đã được công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu tuyển chọn, đào tạo một cách kỹ lưỡng, chuyên nghiệp. Công ty đã tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn về công tác tổ chức thi công, công tác an toàn vệ sinh lao động cho toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty. * Về phương án xây dựng chợ Đối với một dự án đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác chợ mà công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu đã và đang thực hiện, công ty đã đưa ra phương án xây dựng các hạng mục, cách bố trí, sắp xếp các hạng mục một cách cụ thể. Qua quá trình đầu tư, xây dựng nhiều dự án chợ, công ty đã rút ra được rất nhiều kinh nghiệm về mọi mặt. Trong đó, về mảng xây dựng, công ty cũng đã nhận thấy được nhiểu điểm bất hợp lý trong phương án đã đưa ra và cũng đã thay đổi, bổ sung đối với những dự án sau. Nhưng xét một cách tổng thể thì mỗi một dự án đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác chợ của công ty thường bao gồm các hạng mục, công trình phụ trợ như: + Các dãy nhà kiốt 2 đến 3 tầng phục vụ cho các hộ mua (thuê) làm địa điểm kinh doanh hàng tạp hoá, tạp phẩm, quần áo, đồ gia dụng... Tại các dãy kiốt 2 tầng Diện tích sử dụng khoảng: 100m2 (bao gồm 2tầng + một gác xép), được trang bị đầy đủ các thiết bị điện, nước, thiết bị vệ sinh. Tầng 1 được dùng để bán hàng. Tầng 2 có thể dùng làm kho chứa hàng hoặc có thể dùng cho 1 hộ gia đình ở, sinh hoạt bình thường. + Các nhà dịch vụ để bán (cho thuê) làm địa điểm kinh doanh hàng ăn uống, bia hơi - nước giải khát...các nhà dịch vụ này cũng có thể kết hợp ăn, ở, ngủ, nghỉ, tiện lợi cho hoạt động kinh doanh. + Các nhà cầu chợ có mái che và phân thành từng lô với diện tích 2m x 2m để cho các hộ kinh doanh hàng tươi sống mua, thuê. + Bãi để xe dành cho người kinh doanh cũng như khách đến mua hàng tại chợ. + Xây bể nước cứu hoả, bể nước lọc đảm bảo cho cung cấp đủ nước sinh hoạt cho các hộ kinh doanh tại chợ và đảm bảo công tác phòng chống cháy nổ. + Lắp đặt thiết bị cứu hoả đồng bộ, đạt tiêu chuẩn. + Xây dựng trạm biến áp điện hạ thế 180 KW/h cung cấp điện cho các hộ kinh doanh tại chợ. + Xây dựng hệ thống cấp thoát nước ngầm nước mặt nằm trong công trình đường nội bộ có kinh doanh. + Xây dựng công trình hạ tầng đô thị bao gồm : Vỉa hè + cây xanh + đường nội bộ không kinh doanh. Đảm bảo được mật độ cây xanh đúng theo quy định của các cơ quan quản lý nhà nước, đảm bảo cảnh quan đô thị, an toàn PCCC, an toàn giao thông trong và ngoài khu vực chợ. Các công trình, hạng mục trong và ngoài phạm vi chợ được bố trí, sắp xếp như đã trình bày ở trên và phải đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản như: Giải quyết bố trí tốt các luồng giao thông ra vào chợ cho người và phương tiện, trong và ngoài chợ thông thoáng tiện cho việc tiếp cận giữa người tiêu dùng và người bán. Hai bên các tuyến giao thông là các dãy kiốt để người mua, người bán có thể dễ dàng tiếp xúc với nhau và các phương tiện cứu hoả, cứu nạn dễ dàng vào ra khi có sự cố. Các công trình trong chợ phải được phân chia rõ ràng, có khoảng cách cần thiết về cự ly. Nhà chợ chính cần thiết kế sao cho có nhiều cửa ra vào để tiện cho việc trưng bày và mua bán hàng hoá. Các kiốt được bố trí quanh chợ tạo cho chợ cảnh buôn bán nhộn nhịp. Các công trình phụ cần đặt cuối gió, góc chợ nhưng phải gần đường giao thông để cho tiện thu gom và vận chuyển rác không ảnh hưởng đến môi trường trong và ngoài chợ. * Về phương thức tổ chức thi công công trình Đối với hoạt động xây dựng nói chung và đối với hoạt động xây dựng chợ nói riêng thì công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu đã có một số kinh nghiệm đáng kể. Tuy không phải là một công ty hoạt động lâu năm trong lĩnh vực xây dựng nhưng công ty cũng đã có một số năm hoạt động trong các lĩnh vực như bảng sau: BẢNG 2.2: TỔNG SỐ NĂM KINH NGHIỆM XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH Loại hình công trình Số năm kinh nghiệm 1. Xây dựng dân dụng 08 năm 2. Xây dựng công trình thuỷ lợi 08 năm 3. Xây dựng công trình công nghiệp 08 năm 4. Xây dựng công trình giao thông 08 năm 5. San lấp mặt bằng 08 năm 6. Xây dựng hạ tầng kỹ thuật 08 năm 7. Kinh doanh bất động sản 08 năm Hiện nay, công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu đã tự thực hiện được toàn bộ các công việc về mảng xây dựng có trong dự án xây dựng chợ từ khâu san lấp mặt bằng, thi công xây dựng phân thô các hạng mục đến khâu hoàn thiện nội, ngoại thất đưa công trình vào khai thác, sử dụng. Công ty có đầy đủ các đội thi công để thực hiện các công việc như: - Đội thi công cơ giới - Đội thi công xây dựng - Đội thi công điện nước - Đội trang trí nội, ngoại thất - Đội thi công nhôm, kính, mộc dân dụng... Các đội thi công của công ty phối kết hợp với nhau để cùng thực hiện các hạng mục của dự án. Đội thi công cơ giới kết hợp với đội thi công xây dựng để thực hiện thi công phần móng các công trình và các hạng mục cần đến máy móc, thiết bị của đội thi công cơ giới; Đội thi công xây dựng kết hợp với đội thi công điện, nước, trang trí nội ngoại thất...Chính nhờ sự kết hợp được giữa các đội thi công như vậy mà công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu đã tránh được những khoản lãng phí do thi công không ăn khớp, thi công nhầm lẫn. Đồng thời cũng chính sự kết hợp ăn ý giữa các đội thi công của công ty đã góp phần đấy nhanh tiến độ thực hiện dự án. Mà như chúng ta đã biết trong giai đoạn thực hiện đầu tư thì vấn đề về tiến độ thực hiện dự án là quan trọng nhất. 2.5. Thực trạng hoạt động quản lý & khai thác chợ của công ty TNHH xây dựng Hải Âu Thực hiện theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính phủ về việc phát triển và quản lý chợ, Công ty TNHH xây dựng Hải Âu kết hợp với các Ban ngành liên quan để xây dựng nội quy chợ, các quy ước cần thiết, phổ biến tập chung cho ban quản lý chợ và các hộ kinh doanh trong chợ. Phương án tổ chức quản lý và khai thác chợ của công ty TNHH xây dựng Hải Âu gồm những điểm chính sau đây: Phương án tổ chức quản lý Cũng giống như các dự án đầu tư khác, để thuận lợi cho quá trình quản lý và khai thác, với mỗi một dự án đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác chợ, công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu đều thành lập một ban quản lý dự án ngay khi có quyết định phê duyệt TKKT-BVTC-TDT, lên phương án, bố trí, sắp xếp cán bộ quản lý phù hợp cho từng dự án. Chức năng nhiệm vụ ban quản lý chợ Ban quản lý chợ sẽ điều hành tổ chức việc cho thuê địa điểm và phương tiện kinh doanh phục vụ cho việc mua bán hàng hoá và dịch vụ. - Ban quản lý có nhiệm vụ trông nom bảo quản tài sản của chợ, bảo quản hàng hoá cho người kinh doanh và người mua. - Ban quản lý có nhiệm vụ tổ chức trật tự an toàn trong phạm vi chợ. - Ban quản lý dự án dự kiến bố trí sắp xếp kinh doanh theo từng nguồn hàng: Sắp xếp các mặt hàng gia dụng, may mặc, điện - điện tử, tạp hoá trong chợ chính; Các mặt hàng rau quả, thực phẩm, lương thực bố trí tại các khu chợ phụ và ngoài trời. - Tổ chức các hoạt động duy tu, bảo dưỡng công trình. Ngoài việc cho thuê Kiốt trong và ngoài chợ, ban quản lý chợ còn thu được tiền lệ phí chợ từ khu vực cầu chợ và các khoản phí, lệ phí khác như: Phí dịch vụ trông giữ xe, thu thuế của các hộ kinh doanh trong khu vực chợ để đảm bảo hoạt động của ban quản lý chợ cũng như để nộp vào ngân sách nhà nước. Phương án khai thác Trước khi đưa dự án vào khai thác, sử dụng, công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu phải lập ra phương án bố trí sắp xếp các ngành nghề kinh doanh cho phù hợp và trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống cháy nổ... Trong phương án bố trí, sắp xếp ngành nghề kinh doanh công ty phải chỉ ra cụ thể vị trí được phép bán hàng của từng loại mặt hàng cụ thể. Sau khi được các cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án bố trí, sắp xếp ngành nghề kinh doanh, công ty lập ra kế hoạch huy động vốn và phương án giá cho bán và cho thuê các kiốt, điểm kinh doanh, thông báo rộng rãi trên toàn bộ địa bàn nhằm thu hút các hộ thương nhân đến hợp tác, mua, thuê các điểm kinh doanh. Công ty có kế hoạch bán và cho thuê các điểm kinh doanh như sau: + Khi các hộ thương nhân mua các kiốt làm địa điểm kinh doanh thì phần tài sản trên đất (các kiốt) thuộc quyền sở hữu của các hộ thương nhân (vĩnh viễn). Sau 50 năm, khi hết thời gian thuê đất, các hộ thương nhân cũng như công ty có thể tiếp tục gia hạn thuê đất với cơ quan quản lý nhà nước, còn phần tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của thương nhân. Nhà nước chỉ có thể trưng dụng, trưng mua tài sản của các hộ thương nhân khi xảy ra chiến tranh, hoặc sử dụng đất cho mục tiêu an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia nhưng nhà nước phải bồi thường cho các hộ thương nhân. Mức giá mua bán là do công ty và các hộ thương nhân thoả thuận, và khi công ty đã bán cho các hộ tiểu thương thì việc biến động giá cả trên thị trường không còn ảnh hưởng đến giá mua bán giữa hai bên. Công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu có trách nhiệm hoàn tất các thủ tục pháp lý có liên quan cho các hộ thương nhân, giao cho các hộ thương nhân những giấy tờ như: Giấy biên nhận, phiếu thu, hợp đồng mua bán, hoá đơn GTGT,.... Công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu có cam kết với các hộ thương nhân đến hợp tác là sẽ mua lại kiốt, điểm kinh doanh với giá đúng bằng giá bán cho các hộ thương nhân trong vòng từ 1 đến 40 năm, công ty sẽ hoàn trả lại tiền cho các hộ thương nhân trả lại kiốt trong thời gian không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn xin trả lại kiốt, điểm kinh doanh đó. Ngoài ra, công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu còn hợp tác với Ngân Hàng Đông Á lập lên chương trình tín dụng tiểu thương nhằm hỗ trợ các hộ thương nhân có nhu cầu kinh doanh nhưng chưa có đủ vốn để mua, hoặc các hộ đã mua nhưng thiếu vốn kinh doanh. Cụ thể cho dự án đầu tư, xây dựng, quản lý và khai thác chợ TT.TT Phố Mới như sau: Theo thể lệ trên của Ngân Hàng Đông Á thì các hộ thương nhân muốn mua kiốt, điêm kinh doanh chỉ cần có 1/3 giá trị của kiốt, điểm kinh doanh là có thể mua được kiốt, điểm kinh doanh đó. Áp dụng hình thức này các bên đều có lợi và đều đảm bảo được tính chắc chắn, an toàn cho nhà đầu tư: Về phía Công ty TNHH Xây Dựng Hải Âu: Công ty sẽ thu hồi được 100% giá trị từ việc bán các địa điểm kinh doanh cho các hộ tiểu thương (trong đó 1/3 là do hộ tiểu thương tự trả, 2/3 là do ngân hàng cho các hộ vay để trả công ty). Nhờ đó mà công ty thu hồi được vốn một cách nhanh chóng, tạo nguồn lực tài chính dồi dào để tiếp tục đầu tư các dự án khác. Về phía ngân hàng thương mại: Ngân Hàng sẽ được thừa hưởng phần lãi suất do khoản tiền cho các hộ tiểu thương vay đem lại. Khi thực hiện mô hình này, hệ số rủi ro tín dụng của ngân hàng là rất thấp, vì khi không thu hồi được khoản tiền đã cho các hộ thương nhân vay thì họ có thể tịch thu tài sản là các địa điểm kinh doanh của các chợ, và nếu ngân hàng không bán được địa điểm đó với mức giá cao thì công ty TNHH xây dựng Hải Âu cam kết sẽ mua lại các địa điểm kinh doanh đó với mức giá như ban đầu. Về phía các hộ tiểu thương: Các hộ tiểu thương được lợi là có được địa điểm kinh doanh như ý muốn mặc dù không có đủ tiền để mua điểm kinh doanh đó, và nếu như các hộ có đủ tiền để mua thì các hộ tiểu thương cũng có thể thế chấp quyền sử dụng địa điểm kinh doanh để vay vốn ngân hàng phục vụ cho việc kinh doanh tại chợ. Chính nhờ áp dụng chương trình tín dụng tiểu thương này mà công ty có được uy tín đối với khách hàng, các ngân hàng thương mại, giúp cho hoạt động._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21687.doc