Chương I
Khái quát về ngành công nghiệp sản xuất xi măng
I Khái niệm, đặc điểm, vai trò của ngành công nghiệp sản xuất xi măng
1. Khái niệm
1.1. Những khái niệm cơ bản
Chất kết dính là một loại vật liệu hay dạng vật chất dùng để liên kết các vật liệu khác vào nhau thành khối bền chắc. Có hai loại chất kết dính: chất kết dính vô cơ và chất kết dính hữu cơ.
+ Chất kết dính vô cơ: là sản phẩm được chế tạo từ những hợp chất hữu cơ như từ công nghệ chế biến chưng cất dầu mỏ hay từ công nghệ ch
65 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1446 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động đầu tư phát triển của ngành công nghiệp sản xuất xi măng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế biến than đá, than nâu cho ta sản phẩm như nhựa đường, bi tum, hắc ín,… ngoài ra còn có keo dán, nhựa dán.
+ Chất kết dính vô cơ: là một dạng vật chất nghiền mịn, trộn với nước cho ta dạng hồ dẻo, sau một thời gian cứng lại như đá ví dụ như xi măng, các loại vôi…
Sản phẩm của ngành công nghiệp sản xuất xi măng bao gồm rất nhiều chủng loại, nhưng có ba chủng loại chính luôn được người tiêu dùng Việt Nam biết đến, đó là:
Clinker xi măng Porland: là sản phẩm được nung đến kết khối của hỗn hợp nguyên liệu đã được nghiền mịn và đồng nhất bao gồm:
Thành phần đá vôi: 75 – 80%
Thành phần đất sét: 20 – 25%
Thành phần các loại phụ gia khác (có thể có có thể không)
Xi măng Porland (PC): là chất kết dính bền nước, được sản xuất bằng cách nghiền mịn clinker xi măng Porland với một lượng thạch cao cần thiết.
Xi măng Porland hỗn hợp (PCB): là chất kết dính bền nước được sản xuất bằng cách nghiền mịn clinker xi măng Porland với một lượng thạch cao cần thiết và phụ gia không quá 40% (phụ gia lười không quá 20%, phụ gia công nghiệp không quá 1%)
Phụ gia công nghệ gồm các chất cải thiện quá trình nghiền, vận chuyển, đóng bao hoặc phụ gia bảo quản nhưng không làm ảnh hưởng xấu tới tính chất của xi măng, vữa, bê tông.
1.2. Yêu cầu kỹ thuật
Xi măng Porland được sản xuất theo các mác sau: PC30; PC40; PC50 trong đó:
-PC: là ký hiệu cho quy ước xi măng Porland
Các trị số 30; 40; 50 là cường độ chịu nén của mẫu vữa chuẩn sau 28 ngày đóng rắn tính bằng N/mm2 (MPa), xác định theo TCVN 6016: 1995 (ISO 679: 1989)
Các chỉ tiêu chất lượng của xi măng được quy định ở bảng sau:
Bảng 1: Chất lượng của xi măng
STT
Tên chỉ tiêu
Mức
PC30
PC40
PC50
1.
Cường độ chịu nén, N/mm2 (MPa), không nhỏ hơn
3 ngày 45 phút
28 ngày 8 giờ
16
30
21
40
31
50
2.
Thời gian đông kết, phút
Bắt đầu, không nhỏ hơn
Kết thúc, không lớn hơn
45
375
3.
Độ nghiền mịn, xác định theo: 15
-Phần còn lại trên sàng 0,08mm %, 2700
không lớn hơn
- Bề mặt riêng, phương pháp Blaine, 12
cm2/g, không nhỏ hơn
4.
Độ ổn định thể tích xác định theo phương pháp Le Chatelier, mm, không lớn hơn
10
5.
Hàm lượng anhyđric sunphuric (SO3), %, không lớn hơn
3,5
6.
Hàm lượng magiê ôxyt (MgO), %, không lớn hơn
5,0
7.
Hàm lượng mất khi nung (MKN),% không lớn hơn
5,0
8.
Hàm lượng cặn không tan (CKT), %, không lớn hơn
1,5
(Nguồn: Giáo trình công nghệ sản xuất xi măng)
2. Đặc điểm của ngành công nghiệp sản xuất xi măng
Ngành công nghiệp sản xuất xi măng là ngành công nghiệp nặng mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao. Hầu hết các nước mà nó xuất hiện như các nước đang phát triển, mà một xí dụ điển hình là Việt Nam, trong quá trình hoạt động của mình nó đã đóng góp vào ngân sách nhà nước một tỷ trọng lớn khoảng từ 8 – 10 triệu USD cho mỗi triệu tấn xi măng. Và cũng chính vì vậy ngành công nghiệp xi măng đã, đang và sẽ đóng góp vào sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) với tỷ trọng ngày càng lớn. Những số liệu kinh tế thống kê cho trong bảng cho thấy tỷ trọng đóng góp GDP (%) của ngành công nghiệp sản xuất xi măng Việt Nam chiếm tới 9 – 11% trong tổng GDP của khối kinh tế công nghiệp và đã tăng từ 8,23% năm 1991 lên 11% đến 11,46% ở các năm 1994; 1995 và duy trì ở mức 10,32% ở các năm 1994; 1995 và duy trì ở mức 10,32% ở năm 1996, 1997. Tỷ trọng này có tính ổn định cao do ngành công nghiệp xi măng ngày càng thể hiện được tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân và ngày càng tăng trưởng. Đặc biệt là từ 2000 dến 2005 do sản lượng xi măng ngày một tăng từ 18 – 20 triệu tấn vào năm 2000 và vào khoảng 27 triệu tấn vào năm 2005. Điều đó càng khẳng định ngành công nghiệp xi măng đã, đang và sẽ là một ngành kinh tế công nghiệp mạnh đóng góp nâng cao hiệu quả kinh tế cho các nước đang phát triển như Việt Nam.
Bảng 2:Tổng sản phẩm quốc nội của toàn khối kinh tế công nghiệp và của ngành công nghiệp xi măng Việt Nam
STT
GDP theo ngành kinh tế
Giai đoạn 1991 – 1996 (Theo giá hiện hành, tỷ đồng)
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1
GDP của khối kinh tế công nghiệp
15.193
23.956
29.371
37.535
50.912
61.409
2
GDP của ngành xi măng
1.251
1.960
3.141
4.109
5.834
6.339
3
Tỷ trọng (%)GDP của ngành CNXMVN trong khối kinh tế công nghiệp
8,23
8,18
10,69
11
11,46
10,32
4
Sản lượng xi măng (Tr.t)
2,99
3,86
4,22
4,62
5,24
6,00
5
Nộp doanh thu
192
504,7
804
858
1.047
940
(Nguồn: Bộ công nghiệp)
Không chỉ đóng góp nâng cao hiệu quả kinh tế mà nó còn góp phần mạnh mẽ vào nâng cao hiệu quả xã hội. Cùng với quá trình hoạt động, phát triển ngành công nghiệp sản xuất xi măng đã giải quyết rất nhiều công ăn việc làm cho người dân tại các địa bàn mà nhà máy xi măng được xây dựng. Bên cạnh đó nhờ các chính sách phúc lợi của các nhà máy xi măng trong ngành mà các trường học, bệnh viện, nói chung là hệ thống y tế, giáo dục được quan tâm hơn rất nhiều. Điều kiện học hành không chỉ của con em cán bộ công nhân viên trong ngành được quan tâm mà ngay cả con em của những người dân bản địa cũng được hưởng những điều đó. Khi những nhà máy sản xuất xi măng được xây dựng cũng kéo theo đó là ánh sáng văn minh, đô thị được đem đến cho những người dân bản địa.
Nhưng để có những kết quả đó thì ngành công nghiệp xi măng cũng phải bỏ ra một chi phí lớn cho quá trình đầu tư phát triển: đó là quá trình đầu tư vào xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị, đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, đầu tư cho hoạt động Marketing cũng như đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ. Đầu tư phát triển cho ngành công nghiệp sản xuất xi măng không chỉ đòi hỏi nguồn vốn lớn mà thời gian đầu tư còn rất dài: để xây dựng một nhà máy sản xuất xi măng từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư cho đến khi nhà máy đó cho ra sản phẩm trung bình là 10 năm. Vì nguồn vốn cho hoạt động đầu tư lớn, thời gian cho hoạt động đầu tư dài nên nó mang nhiều yếu tố rủi ro chịu ảnh hưởng lớn từ nền kinh tế - xã hội của vùng, của đất nước. Nhưng đồng thời quá trình vận hành các kết quả đầu tư nó cũng có tác động đến kinh tế - xã hội của vùng, miền, của đất nước. Mặt khác, quá trình đầu tư phát triển của ngành công nghiệp sản xuất xi măng còn cần một lượng đầu vào cho quá trình sản xuất là rất lớn đó là: diện tích xây dựng, lượng vận tải đầu vào, đầu ra lớn, nhu cầu nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất là rất cao. Chính vì những đặc điểm trên đầu tư phát triển ngành công nghiệp sản xuất xi măng đòi hỏi sự phối hợp liên ngành như: ngành giao thông, cơ khí, thiết bị, điện, than…
3. Vai trò của ngành công nghiệp sản xuất xi măng
Khi cả thế giới đều bước vào hội nhập kinh tế quốc tế đê phát triển kinh tế quốc tế thì nền kinh tế nào cũng đòi hỏi một cơ sở hạ tầng và một kiến trúc thượng tầng vững chắc. Đó là nền tảng cho sự phát triển nền kinh tế xã hội của mỗi nước. Tất cả những điều đó nói nên rằng nhu cầu xây dựng của các nước, kể cả những nước đang phát triển cũng như các nước phát triển đều rất cao. Trong khi đó xi măng vẫn là loại vật liệu xây dựng cơ bản và thông dụng nhất, nó vẫn đang được sử dụng rộng rãi với khối lượng lớn trong xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong quá trình hội nhập và phát triển của mỗi nước, nhu cầu cho xây dựng cơ bản càng cao thì nhu cầu xi măng trên thị trường càng lớn. Hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới đều có ngành công nghiệp sản xuất xi măng phát triển. Trong giai đoạn đầu phát triển ở các nước, ngành công nghiệp xi măng đều giữ vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn, tạo điều kiện cho việc tích tụ và tập trung tư bản, tạo nguồn vật liệu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng của mỗi quốc gia. Phát triển ngành công nghiệp xi măng kéo theo nhiều ngành nghề sản xuất và dịch vụ khác phát trển như xây lắp, thiết bị và phụ tùng, vật liệu chịu lửa, bê tông, vật liệu bảo ôn, cách âm, cách nhiệt, sản xuất bao bì và các dịch vụ tư vấn khảo sát thiết kế, thăm dò, đánh gía chất lượng, trữ lượng nguyên liệu, dịch vụ bán hàng… Vì vậy cứ 1000 lao động trực tiếp sản xuất xi măng có thể kéo theo và tạo việc làm cho hàng ngàn lao động khác. Nơi nào có nhà máy xi măng công suất lớn thì nới đó các thị trấn, thì xã, đô thị mới đựơc hình thành. Từ những điều đó có thể khẳng định ngành công nghiệp xi măng là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân.
Nước ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, nó đã phá huỷ không chỉ những công trình kiến trúc đẹp của đất nước mà nó còn tàn phá đi cơ sở hạ tầng là điều kiện để phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Từ ngày nước nhà dành được độc lập, thống nhất cho tới nay thì xi măng luôn là vật liệu xây dựng chủ yếu để khôi phục mọi ngành kinh tế, văn hoá, giáo dục, bảo vệ quốc phòng và cải thiện đời sống nhân dân. Và đặc biệt trong giai đoạn này khi nước ta đang trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá để đưa nước ta sánh vai với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới thì xi măng càng thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong quá trình phát triển của nền kinh tế. Hiện nay, để phục vụ cho nhu cầu phát triển nứơc ta đang thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc tiên tiến và hiện đại, phù hợp với nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Cùng với đó, theo đà phát triểncủa đất nước thì cuộc sống của người dân cũng tăng và kéo theo đó là nhu cầu xây dựng của người dân cũng tăng. Chính vì vậy mà nhu cầu xi măng của toàn xã hội tại Việt Nam hiện nay là rất cao. Nhu cầu xi măng này không chỉ yểu cầu về số lưọng mà còn đòi hỏi về chất lượng.
II. Một số nhận xét chung về quá trình hoạt động và trưởng thành của ngành công nghiệp sản xuất xi măng tại Việt Nam
Ngành công nghiệp xi măng đựoc hình thành muộn và phát triển chậm, nó có lịch sử phát triển trên 100 năm, khởi đầu là nhà máy xi măng Hải Phòng. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân xâm lược do cả nứơc có chiến tranh, nên nhu cầu tiêu thụ xi măng cho xây dựng rất hạn chế, thậm chí ngay cả sau thời kỳ thống nhất đất nước (1975) nhu cầu xi măng cho xây dựng cũng chỉ ở mức rất kiêm tốn, do nền kinh tế còn quá nhiều khó khăn. Từ năm 1924 đến năm 1980 mới chỉ có 9 lò quay được xây dựng phục vụ cho việc sản xuất xi măng. Đến năm 1990 tổng công suất cá nhà máy xi măng trong toàn quốc đạt 3,6 triệu tấn nếu phân theo phương pháp sản xuất sẽ có:
Bảng 3: Công nghệ xi măng theo phương pháp sản xuất
Phương pháp sản xuất
Công suất (triệu tấn)
Tỷ lệ(%)
Phương pháp ướt
1,9
52,8
Phương pháp khô
1,1
30,5
Phương pháp bán khô
0,6
16,7
Tổng
3,6
100
(Nguồn: Phòng công nghệ - Công ty tư vấn đầu tư phát triển xi măng)
Trình độ công nghệ các nhà máy trong thời kỳ này thuộc loại lạc hậu, phương pháp ướt chiếm tỷ lệ lớn tới 52,8% tương ứng với 1,9 triệu tấn xi măn, phương pháp khô chỉ chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn chỉ chiếm khoảng 30,5% tương ứng với 0,6 triệu tấn xi măng một năm.
Từ năm 1980 – 1994, tất cả các nhà máy xi măng dều thuộc sự quản lý của Liên hiệp các xi nghiệp Xi măng. Ngày 14/11/1994 Chính phủ quyết định chuyển Liên hiệp Xi măng Việt Nam thành Tổng công ty xi măng Việt Nam với vai trò và nhiệm vụ mới phát triển hơn.Trong những năm đầu thập kỷ 90 với kết quả đạt được khi thực hiện chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển hơn, đời sống của nhân dân đã được nâng lên, nhu cầu xi măng cho xây dựng cơ sở hạ tầng của xã hội và của nhân dân tăng cao, trong khi đó năng lực sản xuất xi măng trong nước còn ít, không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Hàng năm, Nhà nước phải bỏ ra một lượng ngoại tệ lớn để nhập xi măng, do vậy Chính phủ đã tập trung chỉ đạo đầu tư xây dựng mới một số nhà máy xi măng lò quay lớn có công nghệ hiện đại trong thời gian này. Đồng thời cải tạo các nhà máy xi măng lò đứng theo công nghệ Trung Quốc. Các nhà máy được đầu tư trong giai đoạn 1990 đến nay bao gồm: Dây chuyền 2 xi măng Hoàng Thạch công suất 1,04 triệu tấn clinker/ một năm tương ứng với 1,2 triệu tấn xi măng/một năm, bắt đầu đi vào hoạt động năm1996. Dây chuyền 2 xi măn Hà Tiên 2 công suất 0,945 triệu tấn clinker tương ứng với 1,1 triệu tấn xi măng/ một năm, bắt đầu hoạt động từ năm 1991. Xi măng Vân Xá có công suất là 0,369 triệu tấn clinker, tương ứng với 0,5 triệu tấn sản phẩm/ một năm, bắt đầu hoạt động năm 1997. Xi măng Bút Sơn có công suất 1,26 triệu tấn clinker tương ứng với 1,4 triệu tấn xi măng một năm, bắt đầu đi vào hoạt động năm 1998. Xi măng Sao Mai với công suất là 1,26 triệu tấn clinker tương ứng với 1,76 triệu tấn xi măng một năm, đi vào hoạt động năm 1998. Xi măng Nghi Sơn bắt đầu đi vào hoạt động năm 2000, với công suất là 1,827 triệu tấn tương ứng với 2,15 triệu tấn xi măng. Cùng năm đó xi măng Hoàng Mai cũng đi vào hoạt động, với công suất là 1,4 triệu tấn xi măng một năm.
Hiện nay, trong quá trình đầu tư chủ đầu tư và sở hữu các dự án xi măng và các nhà máy xi măng tương đối đa dạng bao gồm: các doanh nghiệp nhà nước cùng góp vốn thành lập công ty cổ phần, công ty liên doanh giữa một bên là pháp nhân Việt Nam, một bên là pháp nhân nước ngoài, các công ty xi măng đã trả hết vốn vay, đang hướng tới cải tạo mở rộng, chuyển đổi công nghệ từ sản xuất lò đứng sang lò quay với công suất nhỏ.
Với quá trình phát triển trên 100 năm, lịch sử của ngành công nghiệp xi măng Việt Nam được đánh dấu bằng những đổi mới và phát triển rất nhanh cả về quy mô đầu tư, phương thức đầu tư cũng như trình độ công nghệ sản xuất. Cũng trong tiến trình phát triển này, việc ứng dụng về công nghệ sản xuất, tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường cũng như việc đào tạo nguồn nhân lực có đủ trình độ công nghệ cao, nhanh chóng phát huy hết công suất thiết kế… nên đã góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế chung của đất nước.
III. Đôi nét về Tổng công ty xi măng Việt Nam (VNCC) – Các sản phẩm của Tổng công ty xi măng Việt Nam
1.Đôi nét về Tổng công ty xi măng Việt Nam
Hơn hai mươi năm trôi qua, kể từ ngày 7/9/1979 , Hội đồng Chính phủ ban hành quyết định số 308/CP thành lập Liên hiệp các xí nghiệp Xi măng Việt Nam. Sự kiện này đã trở thành dấu ấn quan trọng trong lịch sử hơn một thế kỷ xây dựng và phát triển của ngành công nghiệp xi măng. Và ngày 14/11/4994, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập Tổng công ty xi măng Việt Nam, một lần nữa ghi nhận sự phát triển vượt bậc cả về thế và lực của ngành công nghiệp quan trọng này
Trong quá trình hoạt động của mình, Tổng công ty xi măng đã đạt được những thành công đáng mừng đầu tiên: Vừa giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, còn biết bao công việc bộn bề, Đảng và Chính phủ đã có chủ trương đầu tư xây dựng hai nhà máy xi măng Bỉm Sơn và Hoàng Thạch để kịp thời phục vụ công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh. Khi ấy, miền Bắc mới chỉ có nhà máy xi măng Hải Phòng và một vài nhà máy xi măng lò đứng, đội ngũ kỹ sư, công nhân chuyên ngành xi măng còn rất nhỏ bé, nhưng sau gần bốn năm thi công, ngày 28/12/1981 với sự giúp đỡ kỹ thuật của chuyên gia Liên Xô, lò nung số 1 của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đã cho ra đời những tấn clinker đầu tiên, ngày 27/11/1983 những tấn clinker đầu tiên của nhà máy xi măng Hoàng Thạch cũng ra lò.
Cùng với hai nhà máy mới, đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật của Liên hiệp trưởng thành nhanh chón trong lĩnh vực sản xuất x măng hiện đại, tiên tiến. Họ dã đủ sức điều khiển, vận hành dây chuyền sản xuất xi măng có trình độ tự động hoá cao. Liên hiệp cũng có những bước chuyển biến quan trọng trong quản lý, điều hành sản xuất, quan tâm nhiều hơn đến kỹ thuật, an toàn và chất lượng sản phẩm. Nhờ sớm định hướng đầu tư theo chiều sâu, hơn 10 năm qua, Tổng công ty xi măng Việt Nam không chỉ sản xuất kinh doanh hiệu quả mà còn hoàn thành suất sắc nhiệm vụ bình ổn thị trường góp phàn giữ ổn định cho nền kinh tế.
Với vai trò vừa là đơn vị sản xuất kinh tế, vừa là đơn vị công ích, trong thời gian qua Tổng công ty xi măng Việt Nam nỗ lực vượt khó để thực hiện vai trò bình ổn giá cả. Những năm qua, các loại vật tư, thiết bị, than, xăng, dầu, bao bì, ngoại tê, clinker… đều liên tục tăng giá. Trong khi đó để góp phần ổn định cho nền kinh tế, chính phủ yêu cầu Tổng công ty không được tăng giá xi măng. Nghĩa là, Tổng công ty xi măng sản xuất ngày càng nhiều xi măng nhưng lợi nhuận không tăn theo sản lượng mà thậm chí còn giảm đi. Bên cạnh đó các nhà máy mới đi vào hoạt động như xi măng Hoàng Mai, xi măng Tam Điệp đang trong giai đoạn trả nợ, lãi vay rất lớn, nên lợi nhuận của Tổng công ty đạt được không cao. Khó khăn chồng chất khó khăn, nhưng lãnh đạo VNCC đã tìm mọi biện pháp để hạ giá thành sản phẩm khắc phục khó khăn, duy trì sản xuất để có đủ xi măng cung ứng trên thị trường với giá ổn định
2. Các sản phẩm của Tổng công ty
Xi măng Hải Phòng được sản xuất tại Công ty xi măng Hải Phòng số 1 đường Hà Nội - Quận Hồng Bàng – TP. Hải Phòng. Sản xuất và tiêu thụ hơn 400.000 tấn xi măng / năm, gồm các loại sản phẩm xi măng thông dụng PCB30; PC40, xi măng Poolăng bền sunphát và xi măng trắng mang nhãn hiệu con rồng xanh với chất lượng cao. Công ty đã đựoc cấp chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001 – 2000. Xi măng con rồng xanh được lưu thông trên cả nước thông qua chi nhánh của Công ty và các Công ty kinh doanh xi măng ở khắp 3 miền đất nước.
Xi măng Hoàng Thạch, với nhãn hiệu con sư tử và với khẩu hiệu biểu tượng của sự bền vững. Xi măng Hoàng Thạch được sản xuất tại Công ty xi măng Hoàng Thạch xã Minh Tân - huỵện Kinh Môn - tỉnh Hải Dương, hoạt động nhiều năm trong ngành xi măng đã tạo nên thương hiệu nổi tiếng, có uy tín trong lòng người tiêu dùng vì chất lượng sản phẩm luôn bảo đảm. Công ty cho ra đời những chủng loại xi măng thông dụng như PCB30; PC40; BS12 – 71 và BS12 – 78, ngoài ra Công ty còn sản xuất các loại xi măng đặc chủng như xi măng dùng trong các giếng khoan giàu, xi măng bền sunphát… Với dây chuyền hiện đại, tiên tiến do Đan Mạch cung cấp, công ty đã sả xuất và tiêu thụ hơn 3 triệu tấn xi măng/ năm. Với những thành công như vậy xi măng Hoàng Thạch đã được cấp chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 14000.
Xi măng Bút Sơn, sản xuất các chủng loại xi măng thông dụng PCB30; PC40. Mang nhãn hiệu quả địa cầu, xi măng Bút Sơn được sản xuất tại Công ty xi măng Bút Sơn tại xã Thanh Sơn – huyện Kim Bảng - tỉnh Hà Nam. Được sản xuất trên dây chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại do cộng hoà Pháp cung cấp với công suất 1,4 triệu tấn/ năm. Công ty đáp ứng mọi nhu cầu của quý khách hàng với chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn Việt Nam và đã được cấp chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001 – 2000. Xi măng Bút Sơn được tiêu thụ trong cả nước thông qua hệ thống chi nhánh của Công ty, các Công ty kinh doanh của Tổng công ty xi măng Việt Nam. Hiện nay, Công ty đang tiến hành đầu tư một dây chuyền mới. Khi hoàn thành sẽ đưa công suất nhà máy lên 2,8 triệu tấn/ năm.
Xi măng Bỉm Sơn, với dây chuyền được cải tạo bằng công nghệ Nhật Bản, được sản xuất tại Công ty xi măng Bỉm Sơn Thị xã Bỉm Sơn - Tỉnh Thanh Hoá. Hàng năm Công ty sản xuất và tiêu thụ hơn 2 triệu tấn sản phẩm, bao gồm các chủng loại xi măng thông dụng như PCB30; PCB40; PC40 mang nhãn hiệu con voi được người tiêu dùng ưa thích, tín nhiệm. Công ty đã được cấp chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001 – 2000. Xi măng Bỉm Sơn được lưu thông qua hệ thống các chi nhánh của Công ty và các Công ty kinh doanh thuộc Tổng công ty. Hiện nay, Công ty đang tiến hành đầu tư một dây chuyền mới đưa công suất toàn nhà máy đạt hơn 3 triệu tấn/ năm - sẽ là một trong những nhà máy lớn nhất Việt Nam.
Xi măng Hoàng Mai, với dây chuyền hiện đại, công nghệ tiên tiến do hãng FCB - Cộng hoà Pháp thiết kế và cung cấp. Hàng năm, Công ty sản xuất và tiêu thụ được 1,4 triệu tấn/ năm. Xi măng Hoàng Mai đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng trên cả nước thông qua hệ thông phân phối của mình.
Xi măng Hà Tiên I được sản xuất tại Công ty xi măng Hà Tiên I với khẩu hiệu lớn mành vì bạn. Sản xuất và tiêu thụ gần 2 triệu tấn xi măng/ năm, bao gồm các chủng loại xi măng thông dụng PCB40 mang nhãn hiệu cong kỳ lân, Công ty còn sản xuất xi ăng ít toả nhiệt, xi măng mác cao PC50… xi măng bền sunphát và các tiêu chuẩn cơ lý để thử nghiệm cơ lý xi măng. Công ty được cấp chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001 – 2000. Với uy tín và chất lượng cao, sản phẩm của Công ty được người tiêu dùng phía Nam rất ưa chuộng. Xi măng Hà Tiên I được lưu thông khắp các tỉnh miền Nam thông qua các Nhà phân phối trên địa bàn.
Xi măng Hà Tiên II được sản xuất tại Công ty xi măng Hà Tiên II tại thị trấn Kiên Lương - huyện Hà Tiên - tỉnh Kiên Giang. Hàng năm, Công ty sản xuất 1,2 triệu tấn clinker, 900.000 tấn xi măng, với các chủng loại xi măng thông dụng PCB40, ngoài ra công ty còn sản xuất một số các sản phẩm xi măng đặc biệt như xi măng poolăng bền sunphát sử dụng cho các công trình ở nơi nhiễm mặn, phèn. Sản phẩm của Công ty được sản xuất trên dây chuyền thiết bị hiện đại của Cộng hoà Pháp có chất lượng cao, được người tiêu dùng lựa chọn cho việc xây dựng các công trình bền vững. Công ty đã được cấp chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001 – 2000.
Xi măng Tam Điệp, được sản xuất tại Công ty xi măng Tam Điệp, với khẩu hiệu vì lợi ích khách hàng và chất lượng công trình. Cuối năm 2004 Công ty xi măng Tam Điệp với dây chuyền sản xuất xi măng tiên tiến hiện đại do Đan Mạch cung cấp mới chính thức đi vào hoạt động, cung ứng cho thị trường 1,4 triệu tấn xi măng chất lượng cao.
Chương II
Thực trạng hoạt động đầu tư phát triển của ngành công nghiệp sản xuất xi măng
I.Tình hình huy động và sử dụng vốn củangành công nghiệp sản xuất xi măng
1.Tình hình huy động vốn của ngành
Một trong những đặc điểm của ngành công nghiẹp xi măng là lượng vốn đầu tư ban đầu rất lớn do phải đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm máy móc thiết bị, thực hiện chuyển giao công nghệ… Và nhu cầu vốn đầu tư cho ngành công nghiệp xi măng ngày một tăng cao do nhu cầu vốn đầu tư thị trường về xi măng trên thị trường tăng, nên rất nhiều nhà máy sản xuất xi măng đã và đang trong quá trình thực hiện đầu tư. Cùng với đó để phục vụ cho nhu cầu xi măng không ngừng tăng lên của thị trường trong nước và thị trường thế giới trong tương lai có rất nhiều dự án xây dựng nhà máy xi măng đang trong giai đoạn viết báo cáo nghiên cứu khả thi và báo cáo đầu tư để được quyết định đầu tư trong giai đoạn tới. Theo quyết định số 164/2002/QĐ – TTG thì nguồn vốn đầu cho các dự án xây dựng các nhà máy sản xuất xi măng bao gồm: Huy động tối đa các nguồn vốn trong nước; đa dạng hoá các hình thức huy động vốn huy động và hình thức đầu tư để các thành phần kinh tế có cơ hội tham gia đầu tư vào lĩnh vực xi măng. Cùng với đó, nhà nước cũng hỗ trợ vốn xây dựng một số hạng mục công trình hạ tầng ngoài hàng rào nhà máy đối với các dự án đầu tư ở địa bàn khó khăn. Đồng thời để ưu tiên phát triển ngành công nghiệp xi măng thì các dự án xây dựng nhà máy sản xuất xi măng cũng được vay vốn để sản xuất các phụ tùng, máy móc, thiết bị, được gia công, chế tạo trong nứơc…
Ngoài các cơ sở hiện có, chúng ta vẫn đang triển khai đầu tư xây dựng các nhà máy xi măng lò quay, mỗi nhà máy có công suất tên 1 triệu tấn/ năm như xi măng Tam Điệp, Hải Phòng mới, xi măng Sông Gianh, Phúc Sơn, Hoàng Thạch 3… Thủ tướng còn cho phép đầu tư tiếp một số dự án như xi măng Yên Bình (Yên Bái), Hùng Vương (Phú Thọ), Bỉm Sơn mở rộng … Nhìn lại quá trình triển khai đầu tư các nhà máy xi măng trên đây có thể thấy mỗi dự án cần từ 100 đến 300 triệu USD; tổng vốn cho các dự án trong quá trình đầu tư khoảng 3.164 triệu USD. Trong khi đó khả năng huy động vốn cho phát triển ngành công nghiệp xi măng đang nằm trong tình trạng khó khăn chung về huy động vốn của các ngành kinh tế. Trên thực tế, để phát triển ngành công nghiệp xi măng đã khai thác, huy động mọi nguồn vốn như vốn tích luỹ của ngành, vốn vay tín dụng trong và ngoài nước, vốn huy động cổ phần, cổ phiếu…
Bảng 4: Nhu cầu vốn đầu tư của ngành công nghiệp xi măng phân theo vùng
(Tính đến năm 2005 – Đơn vị: Triệu USD)
STT
Vùng
Tổng vốn đầu tư
1
Tây Bắc
236
2
Đông Bắc
1.611
3
Đồng Bằng Sông Hồng
1.126,2
4
Bắc Trung Bộ
1.127
5
Nam Trung Bộ
226
6
Tây Nguyên
28
7
Đông Nam Bộ
471
8
Đồng Bằng Sông Cửu Long
251
9
Tổng của toàn ngành
5.076,4
(Nguồn: Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp xi măng Việt Nam 2010)
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên ta có thể thấy rõ hơn hu cầu huy động vốn của ngành trong thời gian qua. Lượng vốn đầu tư của ngành cho hoạt động đầu tư phát triển là rất lớn, lên tới 5.076,4 triệu USD, trong đó lượng vốn đầu tư cho các tỉnh thuộc Đông Bắc Bộ như Phú Thọ, Lạng Sơn, Bắc Kạn là nhiều hơn cả do các tỉnh này có nhiều tiềm năng phát triển ngành công nghiệp xi măng. Trong thời gian tới giai đoạn 2005 – 2010 thì nhu cầu vốn đầu tư của ngành công nghiệp xi măng là rất lớn, tổng số vốn của toàn ngành là 5.583,88 triệu USD trong đó nhu cầu vốn đầu tư của Tông công ty Xi măng Việt Nam, một đơn vị đóng vai trò điều tiết cho toàn ngành xi măng, có nhu cầu vốn là 1.401,8 triệu USD. Điều đó được thể hiện cụ thể ở bảng sau
Bảng 5: Nhu cầu vốn đầu tư của Tổng công ty xi măng Việt Nam
giai đoạn 2005 - 2010
(Đơn vị: triệu USD)
STT
Tên nhà máy
Vốn đầu tư
I
Đầu tư chuyển tiếp 1999 – 2002
669,68
1
Xi măng Bỉm Sơn
240
2
Xi măng Tam Điệp
229
3
Xi măng Hải Phòng mới
200,68
II
Đầu tư giai đoạn 2001 – 2005
572
1
Xi măng Hoàng Thạch 3
96
2
Xi măng Bút Sơn 2
120
3
Xi măng Hà Tiên 2
96
4
Xi măng Bình Phước
260
III
Đầu tư giai đoạn 2006 – 2010
160
1
Xi măng Bình Phước
160
IV
Tổng
1.401,68
(Nguồn: Phòng đầu tư - Tổng công ty xi măng Việt Nam)
Lượng vốn đã và đang được sử dụng cho quá trình đầu tư được huy động từ các nguồn sau: nguồn vốn tự có, nguồn vốn tín dụng, nguồn vốn ngân sách Nhà nước, nguồn vốn từ cổ phần cổ phiếu, và nguồn vốn từ nhân dân…
Nguồn vốn tự có: Chủ yếu là khấu hao từ tài sản cố định, phần lợi nhuận sau khi đã làm nghĩa vụ với Nhà nước. Đối với phàn lớn các dự án, nguồn vốn tự có của chủ đầu tư chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng mức đầu tư của dự án, không vượt qua ngưỡng 10% tổng mức đầu tư, và thường chỉ chiếm 3 – 5%. Trong khi đó để hạn chế rủi ro thì vốn tự có của chủ đầu tư phải đạt trên 30% trong tổng mức đầu tư. Trên thực tế ngay cả đối với Tổng công ty Xi măng Việt Nam thì lượng vốn tự có cũng chỉ đạt từ 18 – 20% của tổng nhu cầu vốn đầu tư. Trong giai đoạn 1996 – 2000 lượng vốn tự có huy động được của toàn ngành đạt 300 triệu USD và sang đến giai đoạn 2001 – 2005 cũng chỉ huy động được gấp rưỡi so với giai đoạn trước, tức là vào khoảng 450 triệu USD.
Nguồn vốn tín dụng. Trong nguồn vốn này bao gồm hai mảng đó là nguồn vốn tín dụng ưu đãi và nguồn vốn tín dụng thương mại.
Nguồn vốn tín dụng ưu đãi được thực hiện trước khi có nghị định 106/2004/NĐ – CP ngày 1/4/2004 của Chính phủ. Mỗi dự án đầu tư chỉ có thể được vay từ 20 – 30% tổng mức đầu tư, nhưng có những dự án cá biệt có thể vay từ nguồn này đến 45% tổng mức đầu tư như dự án xi măng Sông Gianh, xi măng Thái Nguyên.. Các dự án được vay từ nguồn vốn tín dụng ưu đãi này hầu hết là các dự án xây dựng các dự án xi măng của Nhà nước. Nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước thường đi kèm theo các chính sách kinh tế vĩ mô của từng thời kỳ, ưu đãi được phân theo danh mục ngành nghề, theo vùng khó khăn và có nhiều mức lãi suất, thông thường là 5,4%/năm, chương trình trọng điểm là 3%/năm và từ ngày 15/5/2004 thì lãi suất cho các dự án vay vốn tín dụng ưu đãi thống nhất là 6,6%/năm. Và theo nghị định số 106/2004/NĐ – CP có hiệu lực ngày 1/4/0/2004 thì các dự án xây dựng các nhà máy xi măng không thuộc đối tượng vay ưu đãi nữa mà phải thực hiện vay tín dụng thương mại. Nguồn vốn tín dụng ưu đãi của ngành công nghiệp xi măng huy động được trong thời gian qua được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 6: Vốn tín dụng ưu đãi của ngành công nghiệp xi măng qua các giai đoạn
Giai đoạn
1991 - 1995
1996 - 2000
2001 - 2004
Lượng huy động
600
600
300
(Đơn vị: Tỷ đồng)
(Nguồn: Phòng kinh tế - Công ty tư vấn đầi tư phát triển xi măng)
Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy trong các giai đoạn từ 1991 cho đến những năm 2000 thì Nhà nước ta vẫn ưu tiên cho phát triển ngành công nghiệp xi măng nên hàng năm đều có lượng vốn tín dụng ưu đãi nhất định dành cho ngành xi măng, lượng vốn tín dụng ưu đãi huy động trong những giai đoạn này cũng lên tới 600 tỷ VNĐ. nhưng sang đến giai đoạn 2001 – 2004 cùng với tác dụng của Nghị định 106/2004/NĐ –CP thì lượng vốn chỉ bằng một nửa, tức là 300 tỷ VNĐ.
Về nguồn vốn tín dụng thương mại. Trong các dự án xây dựng các nhà máy xi măng nguồn vốn tín dụng thương mại chiếm khoảng từ 70 – 90% tổng mức đầu tư tuỳ theo khả năng vân động của chủ đầu tư. Nguồn vốn này vay ở các ngân hàng thương mại trong nước và các tổ chức tín dụng nhà nước hoặc các tổ chức tài chính quốc tế với sự bảo lãnh của Nhà nước, trong đó phải kể cả đến lượng vốn ODA. Việc vay vốn tín dụng thương mại lại bị điều tiết bởi luật của các tổ chức tín dụng, các chủ đầu tư phải vận động được một tổ chức tín dụng làm đầu mối huy động vốn vay từ các ngân hàng thương mại mới có nguồn để vay. Lãi suất tín dụng thương mại trongnướcthường cao thông thường từ 8,5 – 9,65%/năm, có những dự án phải vay với mức lãi suất 10%/năm. Còn vốn vay tín dụng nước ngoài chủ yếu để nhập thiết bị, công nghệ của dự án. Nguồn vốn này đa số người cho vay đòi hỏi phải có điều kiện bảo lãnh của Chính phủ thì mới đồng ý cho chủ đầu tư vay. Hiện nay, Chính phủ mà trực tiếp là Bộ tài chính, chỉ bảo lãnh cho cho những khoản vay của các dự án thuộc Nhà nước còn ngoài ra các doanh nghiệp vẫn phải do các tổ chức tín dụng cấp bảo lãnh. Nguồn vốn này trong các giai đoạn 1996 – 2000; 2001 – 2005 đạt trên 50%.
Nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước chỉ hỗ trợ cho những hạng mục hạ tầng ngoài hàng rào nhà máy. Nguồn vốn mang tính chất hỗ trợ này cũng chỉ thực hiện đầu tư tại các vùng được coi là địa bàn khó khăn như làm cầu, làm đường, khu nhà tái định cư… chứ không huy động cho đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất xi măng. Nguồn vốn này dùng cho vay cũng rất hạn chế.
Huy động từ cổ phần, cổ phiếu._. của các Doanh nghiệp Nhà nước, huy động từ các tầng lớp dân cư. Trong các dự án thực hiện theo hình thức công ty cổ phần thì tổng công ty xi măng Việt Nam, đại diện cho nguồn vốn của Nhà nước tại các công ty cổ phần vẫn giữ cổ phần chi phối khoảng trên 51% tổng số vốn của doanh nghiệp. Thông qua các hình thức bán cổ phần của doanh nghiệp cho các tầng lớp nhân dân trong thời gian qua cũng đã huy động được một lượng vốn trong dân.
Trong thời gian tới, nếuđược Nhà nước cho phép để lại toàn bộ lợi nhuận của các Công ty xi măng thì có thể dự tính nguồn vốn này vào khoảng từ 2,5 – 3 triệu USD cho mỗi triệu tấn xi măng mỗi năm. Như vậy, nếu trừ đi nguồn vốn vay tín dụng trong nước, ngoài nước và vốn huy động từ cổ phần, cổ phiếu của nhân dân và nếu được Chính phủ có cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư trong nước đối với ngành công nghiệp xi măng, thì vốn tự tích luỹ của cả ngành công nghiệp xi măng có thể đáp ứng từ 18 – 20% tổng nhu cầu vốn đầu tư. Với khả năng tích luỹ như vậy thì từ hai năm rưỡi đến ba năm có thể tự đầu tư được một nhà máy với công suất từ 1,4 – 1,5 triệu tấn/ năm.
2. Tình hình sử dụng vốn của ngành
Tất cả các nguồn vốn được huu động kể trên hầu hết được sử dụng cho đầu tư phát triển ngành theo phương thức đầu tư các dự án xây dựng nhà máy sản xuất xi măng. Việc đầu tư vào các dự án xây dựng các nhà máy sản xuất xi măng bao gồm: đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị, thực hiện chuyển giao công nghệ sản xuất cho các dây chuyền sản xuất trong nhà máy… Trong đó nguồn vốn đầu tư cho tài sản hữu hình trong các dự án thường chiếm tới 50% tổng số vốn đầu tư, còn vốn để thực hiện chuyển giao công nghệ chiếm từ 30 – 50%. Ngoài ra trong các dự án xây dựng các nhà máy sản xuất xi măng có thể bao gồm cả chi phí đào tạo nhân công, nhân lực cho hoạt động của nhà máy sau này. Nhưng nhìn chung, việc đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực là do ngành thực hiện mà cụ thể là do Tổng công ty Xi măng Việt Nam thực hiện nhiệm vụ đào tạo cán bộ công nhân viên cho các nhà máy. Chi phí cho hoạt động này của ngành hàng năm cũng vào khoảng 3 tỷ VNĐ.
Tóm lại: trên đây là tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển chung của toàn ngành công nghiệp xi măng được xem xét một cách tổng quát. Tất cả các vấn đề về sử dụng vốn của ngành vào hoạt động đầu tư phát triển sẽ được xem xét một cách kỹ luỡng hơn trong mục sau.
II. Nội dung hoạt động đầu tư phát triển của ngành công nghiệp xi măng
Đầu tư vào tài sản cố định hữu hình
Đầu tư cho hoạt động xây dựng cơ bản
Vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản: Đầu tư xây dựng cơ bản có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của các ngành kinh tế nói chung và ngành công nghiệp xi măng nói riêng. Đối với ngành sản xuất xi măng, duy trì sản xuất và tiêu thụ sản phẩm luôn là một nhiệm vụ sống còn, nhưng công tác đầu tư xây dựng cơ bản đóng vai trò cũng không kém phần quan trọng. Đầu tư của ngành công nghiệp sản xuất xi măng là đầu tư lớn không chỉ tính bằng trăm, nghìn tỷ đồng mà nó còn có ảnh hưởng lớn đến xã hội và môi trường sống. Vì thế nếu không có các số liệu, báo cáo đầu tư chính xác và ra những quyết định đúng đắn trong đầu tư thì con số thiệt hại sẽ vô cùng to lớn, thiệt hại sẽ không chỉ về khía cạnh tài chính, mà nó còn làm giảm uy tín của doanh nghiệp, dẫn đến giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Như vậy ta có thể thấy rõ vai trò của công tác đầu tư xây dựng, công tác đầu tư xây dựng cơ bản là một trong những nhiệm vụ trọng tâm bên cạnh nhiệmvụ sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu phát triển ngành, đáp ứng kịp thời nhu cầu xi măng của đất nước, góp phần phát triển ngành công nghiệp xi măng cho xứng đáng với tầm vóc của một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Nội dung chính của xây dựng cơ bản là đầ tư xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình sản xuất xi măng và đầu tư vào trang thiết bị và hiện đại hoá máy móc thiết bị. Trong quá trình phát triển của đất nước, nhu cầu cho xây dựng ngày một tăng nhanh kéo theo đó nhu cầu các nguyên vật liệu xây dựng cũng tăng theo, đặc biệt là xi măng, một trong những vật liệu xây dựng quan trọng trong xây dựng. Điều đó được thể hiện qua bảng số liệu và biểu đồ sau:
Bảng 7: Tình hình tiêu thụ xi măng tại Việt Nam
(Đơn vị: Triệu tấn)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
Tổng
6,81
8,11
9,3
9,99
11
13,91
16,38
20,55
24,38
26,4
Tốc độ tăng(%)
9,6
19,1
14,8
7,4
10,1
26,5
17,8
25,4
18,63
8,5
(Nguồn: Theo quy hoạch phát triển ngành công nghiệp xi măng đến năm 2010)
Theo thống kê mức độ tiêu thụ xi măng từ năm 1990 đến nay thấy lượng tiêu thụ xi măng ở Việt Nam luôn tăng, kể cả trong những năm xảy ra khủng hoảng kinh tế trong khu vực các nước Asean. Nguồn xi măng cung cấp cho thị trường Việt Nam hiện nay từ các nguồn sau: nguồn xi măng cung cấp cho thị trường Việt Nam, các nhà máy xi măng địa phương, các công ty liên doanh. Mặc dù nguồn cung cấp rất đa dạng như vậy nhưng có những thời điểm chúng ta phải nhập thêm xi măng và clinker từ nước ngoài nhưng cũng chưa đáp ứng được nhu cầu xi măng trong nước. Trong khi đó điều kiện để phát triển ngành xi măng trong nước vẫn có, chính vì nhu cầu xi măng tăng nhanh như vậy nên nhu cầu đầu tư cho xây dựng cơ bản của ngành công nghiệp xi măng cũng ngày một tăng qua các năm.
Bảng 8: Vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản
(Đơn vị: 1000 Tỷ đồng)
Năm
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Vốn Đầu tư XDCB
1,424
1,555
1,8
1,834
1,921
1,583
1,112
1,003
Tốc độ phát triển (%)
-
109,2
115,76
101,88
104,74
82,38
70,24
82,38
(Nguồn: Phòng kinh tế - Công ty đầu tư vấn đầu tư phát triển xi măng)
Nhìn vào bảng và biểu đồ ta có thể thấy lượng vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản giai đoạn từ năm 1998 cho đến năm 2005 chiếm một tỷ trọng rất đáng kể. Nếu năm 1998 vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản chỉ là 1.424,62 tỷ đồng thì năm 2002 là 679,06 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn là 54,065%, và đây cũng là năm lượng vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản chiếm một con số cao nhất trong thời gian qua, nguyên nhân vì có nhiều dự án đi vào giai đoạn thực hiện trong giai đoạn này. Nhưng sang đến các năm 2003; 2004; 2005 thì lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản giảm mạnh do rất nhiều dự án xây dựng mới các nhà máy sản xuất cũng như các dự án mở rộng sản xuất đã được hoàn thiện, và đi vào giai đoạn vận hành các kết quả dầu tư như nhà máy xi măng Tam Điệp, xi măng Hoàng Mai, xi măng Phúc Sơn.
Qua bảng số liệu và đồ thị trên ta cũng có thể thấy vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản của toàn ngành xi măng hàng năm đều tăng lên, tuy nhiên tốc độ tăng không đều. Bắt đầu từ năm 2003 thực hiện chỉ thị của Chính phủ để thực hiện “Quy hoạch phát triển tổng thể ngành công nghiệp xi măng đến năm 2010” hầu hết các doanh nghiệp xi măng kể cả các xi măng do địa phương quản lý đều quan tâm đên công việc đầu tư cải tạo, mở rộng hoặc xây dựng các cơ sở hạ tầng mới phục vụ cho quá trình sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu xi măng trong những năm sắp tới. Cùng với việc xây dựng các cơ sở hạ tầng, đầu tư mở rộng thì cũng có rất nhiều doanh nghiệp nhận thức được hiệu quả của việc dầu tư chiều sâu, được thể hiện bằng việc đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất cho doanh nghiệp. Các dây chuyền công nghệ hiện đại cùng với máy móc thiết bị hiện đại là một trong những biện pháp giảm chi phí trong sản xuất và là một biện pháp hữu hiệu để chống thất thoát của đầu tư xây dựng. Lượng vốn đầu tư cho dây chuyền máy móc thiết bị chiếm trung bình trên 50% tổng số vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản.
Bảng 9: Cơ cấu vốn đầu tư của đầu tư xây dựng cơ bản
(đơn vị: Tỷ đồng)
Năm
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
VĐT XDCB
1.424,62
1.555,68
1.800,8
1.834,68
1.921,68
1.583,17
1.112,02
1.003,71
Xây lắp
600,55
700,2
800,15
1200,14
271,68
651,63
353,32
432,81
Thiết bị
783,6
805,16
920,2
567,33
1.522,9
802,57
626,7
453,18
KTCB khác
40,47
50,32
80,45
67,21
127,1
128,97
132
117,25
% Vốn thiết bị trong tổng VĐT XDCB
55
51,76
51,1
30,92
79,25
50,69
67,7
56,9
(Nguồn: Phòng kinh tế - Công ty tư vấn đầu tư phát triển xi măng)
Từ những số liệu trên ta có thể thấy lượng vốn đầu tư cho máy móc thiết bị luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản: Đặc biệt năm 2002 tỷ lệ này gần 80%, nguyên nhân do nhiều nhà máy đi vào giai đoạn hoàn thiện trong thời điểm này, nhiều máy móc thiết bị được mua về phục vụ cho khâu hoàn thiện dự án. Nhưng năm 2001 vốn cho thiết bị thấp nó chỉ chiếm 30,29% so với tổng vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản. Lượng vốn đầu tư cho máy móc thiết bị chiếm một tỷ cao như vậy do những nguyên nhân sau: Như chúng ta đã biết đặc điểm của ngành công nghiệp xi măng là cần có lượng máy móc thiết bị lớn, công nghệ hiện đại.
Trong khi đó ngành cơ khí nước ta chưa thực sự phát triển nên không có đủ năng lực phục vụ cho sự phát triển của ngành công nghiệp xi măng, do vậy để đầu tư cho các nhà máy sản xuất xi măng hiện đại công suất lớn chúng ta phải nhập máy móc, thiết bị từ nước ngoài là chủ yếu. Nguyên nhân nữa là do trong những năm qua ngành công nghiệp xi măng chủ trương đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá trang thiết bị, máy móc những nhà máy hiện có, đặc biệt là các nhà máy sử dụng công nghệ lò đứng của Trung Quốc. Điều đó làm cho vốn đầu tư xây dựng chiếm tỷ trọng thấp còn vốn đầu tư cho máy móc thiết bị lại chiếm một tỷ trọng cao.
Do xác định rõ được vị trí của công tác đầu tư xây dựng cơ bản nên bên cạnh nhiệm vụ sản xuất kinh doanh để phục vụ cho các mục tiêu phát triển của ngành, đáp ứng nhu cầu xi măng cho thị trường thì ngành công nghiệp xi măng luôn chú trọng đầu tư xây dựng cơ bản.
1.2.Mua sắm hàng tồn trữ
Bất kỳ một doanh nghiệp hay ngành nào, là doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp kinh doanh thương mại cũng đều phải thực hiện mua sắm hàng tồn trữ. Nội dung của mua sắm hàng tồn trữ bao gồm:
Tuyển chọn và chuẩn bị lực lượng lao động là nhiệm vụ của bộ phận nhân sự
Tạo nguồn phương tiện tổ chức thuộc nhiệm vụ của bộ phận tổ chức, nếu là doanh nghiệp nhỏ thì do lãnh đạo trực tiếp đảm nhiệm.
Việc mua sắm nguyên vật liêu (nguyên liệu, vật liệu…), công cụ, dụng cụ hàng hoá diễn ra nhờ bộ phận cung ứng của doanh nghiệp.
Và ở đây chúng ta chỉ xét đến khía cạnh thứ ba của mua sắm hàng hoá, đó là việc mua sắm nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất của ngành công nghiệp xi măng. Nói chung tất cả mọi nguyên liệu và hàng hoá được mua sắm về doanh nghiệp thì đều phải được vận chuyển đến doanh nghiệp và tạm thời lưu trữ tại kho bãi doanh nghiệp. Nếu lượng hàng hoá, nguyên vật liệu mua sắm về được đưa vào sản xuất ngay, tức là việc mua sắm được thực hiện đồng bộ với việc sản xuất thì việc dự trữ trở nên không cần thiết. Nhưng có những trường hợp để phục vụ cho quá trình sản xuất và nắm bắt được cơ hội dinh doanh, doanh nghiệp phải mua một lượng hàng trước để dự trữ, và trường hợp này thường xuyên xảy ra tại các doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp sản xuất xi măng thì việc mua sắm hàng tồn trữ cũng diễn ra tương tự và chi phí cho việc mua sắm hàng tồn trữ đó chính là vốn lưu động của ngành. Trong những năm qua, cùng với sự tăng lên của nhu cầu xi măng trên thị trường, thì các nhà máy sản xuất xi măng cũng không ngừng gia tăng, mở rộng quy mô sản xuất. Chính vì lý do đó mà lượng vốn lưu động phục vụ cho quá trình sản xuất tăng lên không ngừng. Lượng vốn lưu động qua các năm 2000 cho đến 2005 đều tăng qua các năm, nhưng lượng tăng không đều, từ năm 2005 đến năm 2000 lượng vốn lưu động tăng210,58 tỷ đồng, bằng 1.5 lần so với năm 2000.
Bảng 10: Vốn lưu động hàng năm của ngành công nghiệp sản xuất xi măng
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Vốn Lưu động
313,35
345,1
449,42
480,28
570
660
(Nguồn: phòng kinh tế - Công ty tư vấn đầu tư phát triển)
2.Đầu tư tài sản vô hình
Đầu tư nguồn nhân lực
Ngành công nghiệp xi măng là một ngành luôn có ứng dụng công nhệ tiên tiến với máy móc, trang thiết bị hiện đại mức độ tự động hoá cao. Chính vì vậy những con người làm chủ hệ thống máy móc thiết bị ấy phải là những người giỏi về chuyên môn và giàu về kinh nghiệm. Tức là cán bộ công nhân viên trong ngành phải là những người ó trình độ tay nghề cao và tích luỹ kinh nghiệm.
Hiện nay, đánh giá cả về số lượng và chất lượng thì đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật có tay nghề cao vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của toàn ngành. Lượng công nhân có tay ngfhề cao để tiếp cận, quản lý và khai thác làm chủ công nghệ, thiết bị tiên tiến va hiện đại còn thiết so với thực tế rất nhiều, cụ thể là:
Về số lượng: Đội ngũ cán bộ công nhân viên được đào tạo chính quy theo chuyên ngành còn thiếu nghiêm trọng. Số cán bộ có trình độ cao đẳng trở lên chỉ chiếm 10% chủ yếu phục vụ trong các khâu quản lý, điểu hành, công nhân thợ bậc 5 trở lên chỉ chiếm 16%, một tỷ lệ rất thấp so với yêu cầu đòi hỏi cấp bậc công việc, ngành nghề đặc biệt là đối với một loạt các nhà máy xi măng đã và đang được thực hiện cải tạo đầu tư trong thời gian tới. Đội ngũ công nhân kỹ thuật có được chủ yếu thông qua hình thức đào tạo, kèm cặp tại chỗ. Và nếu cứ theo hình thức đào tạo không có bài bản này thì tình hình thiếu hụt cán bộ, công nhân kỹ thuật có trình độ và tay nghề vẫn chưa thể được khắc phục.
Về chất lượng: Chất lượng và trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật sản xuất, vận hành của cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề nhìn chung đã đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh nhưng còn chưa bắt kịp với sự phát triển của công nghệ tiên tiến, hiện đại. Số lượng cán bộ quản lý co trình độ trung cấp, công nhân kỹ thuật chưa được đào tạo chiếm tỷ lệ khá lớn, năng lực chuyên môn cũng như khả năng quản lý còn hạn chế. Lượng cán bộ đã qua đào tạo đại học thì chủ yếu được đào tạo từ các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, các trường đại học Bách Khoa Hà Nội, đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh, Bách Khoa Đà Nẵng, Xây Dựng Hà Nội ngoài ra còn một số trường đại học khác như đại học Khoa Học Tự Nhiên thuộc đại học Quốc Gia Hà Nội, đại học Việt Bắc… Nhưng đã được đào tạo từ giai đoạn trước từ những năm 1980 trở về trước nên trình độ chuyên môn chưa thể bắt kịp với công nghệ hiện đại.
Để khắc phục tình trạng trên ngành công nghiệp xi măng đã đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành. Hàng năm lượng cán bộ được thực hiện đào tạo lại để tăng thêm kiến thức chuyên môn, nắm bắt được công nghệ mới là rất nhiều. Ngoài việc thực hiện đào tạo một cách tập chung thì họ còn được cử đi tham gia các hội thảo chuyên ngành để nắm được những kiến thức mới. Đối với các công nhân thực hiện sản xuất trực tiếp hàng năm các nhà máy của ngành đều tổ chức các lớp học nâng cao tay nghề và có thực hiện tổ chức thi nâng bậc. Việc tổ chức học và thi nâng bậc vừa có tác dụng nâng cao tay ngề cho công nhân vừa có tác dụng khuyến khích họ tự giác học tập vì thợ bậc cao gắn liền với bậc lương cao. Cùng với việc tổ chức cho công nhân học và thi thì các nhà máy còn cử công nhân đi tham quan các dây chuyền công nghệ hiện đại ở các nhà máy khác trong ngành để có thể thực hành sản xuất.
Đi đôi với việc thực hiện đào tạo lài ngành còn thu hút những thợ bậc cao hay lượng kỹ sư mới ra trường, đặc biệt là các tân kỹ sư được đào tạo từ các trường với chuyên ngành phù hợp như trường đại học Bách khoa, đại học Xây Dựng… Việc tuyển dụng thợ bậc cao hay các kỹ sư mới ra trường này với mục đích vừa tinh giảm vừa nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành, đồng thời chi phí cho việc tuyển dụng này lại thấp hơn so với việc thực hiện đào tạo lại nên có thể tiết kiệm được một nguồn kinh phí.
Tuyển dụng mới để tạo ra nguồn nhân lực trẻ với những kiến thức mới cùng với đó là khả năng ham học hỏi của sức trẻ. Thực hiện đào tạo lại để tận dụng kinh nghiệm đã trải qua của những công nhân lâu năm trong ngành việc kết hợp ấy bước đầu đã mang lại những kết quả khả quan cho ngành công nghiệp xi măng. Tuy vậy, nguồn nhân lực cho ngành xi măng trong thời gian qua vẫn bị thiếu, nguồn nhân lực có được do đào tạo lại và tuyển dụng không phục vụ kịp thời so với nhu cầu của ngành. Để khắc phục tình trạng trên, để có được nguồn nhân lực với chất lượng cao phục vụ kịp thời cho nhu cầu sản xuất thời kỳ mới ngành còn tự thành lập lên các trung tâm đào tạo xi măng trực thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam và trường công nhân kỹ thuật xi măng. Việc thành lập nên các trường hay trung tâm kể trên làm cho ngành chủ động hơn trong việc có được đội ngũ nguồn nhân lực mới bổ sung cho ngành với trình độ tay nghề cao đáp ứng được nhu cầu sản xuất của ngành. Sự ra đời của các trung tâm đào tạo xi măng đã thực hiện bồi dưỡng tham quan học tập trao đổi kinh nghiệm cho 41 khoá về công tác quản lý, 39 khoá bồi dưỡng đào tạo tại chỗ với 2.519 l lượt học viên. Ngoài ra trung tâm còn đào tạo tại chỗ cho 107 công nhân kỹ thuật vận hành thiết bị xi măng trên cơ sở chuyển đổi chuyên môn các ngành nghề khác, 77 công nhân sản xuất vỏ bao xi măng… Việc ra đời các địa chỉ đào tạo này còn là một địa điểm tin cậy để ngành thực hiện đào tạo lại cho các cán bộ công nhân của ngành, điều đó được thể hiện ở các con số sau: 116 học viên là chánh phó giám đốc, 968 học viên là trưởng, phó các phòng ban xưởng sản xuất và 170 lượng học viên là kỹ sư và công nhân.
Cùng với việc đầu tư cho đào tạo thì ngành công nghiệp xi măng mà cụ thể là các nhà máy sản xuất xi măng còn đầu tư để nâng cao năng suất lao động của người công nhân bằng việc thựuc hiện chính sách lương thưởng rất rõ ràng và kịp thời. Mức lương dành cho công nhân của ngành bình quân là 2,5 triệu đồng/tháng, còn mức lương này dành cho các cán bộ, các kỹ sư có trình độ là 3,5 triệu đồng/tháng. Mức lương dành cho các cán bộ công nhân của ngành được đánh giá là cao so với cán bộ công nhân thuộc các ngành kinh tế khác. Cùng với chế độ lương ngành còn thực hiện các mức thưởng kịp thời cho các sáng kiến, cho những lao động có năng suất cao, đồng thời có mức phạt và hình phạt thích đáng đối với những sai phạm của người lao động dẫn đến giảm năng suất lao động chung hoặc ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của máy móc thiết bị.
Bảng 11: Bảng thu nhập bình quân qua các năm của cán bộ công nhân ngành xi măng
(Đơn vị:Triệu đồng/người/tháng)
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Tiền lương
2,033
2,423
2,8
3,00
3,24
(Nguồn: Tạp chí xây dựng số 10/2005)
Bên cạnh chính sách lương thưởng hợp lý các nhà máy xi măng còn quan tâm đến đời sống của cán bộ công nhân viên cũng như cuộc sống của gia đình họ. Bản thân người lao động đang tham gia công tác tại doanh nghiệp đều được thăm khám sức khoẻ định kỳ bởi các y bác sỹ tại các bệnh viện uy tín trên cả nước để phát hiện ra các căn bệnh một cách kịp thời cứu chữa, nếu sức khoẻ của người lao động quá yếu do phải lao động căng thẳng trong thời gian dài họ sẽ được hưởng chế độ nghỉ dưỡng bệnh tại những nơi có không khí trong lành, phong cảnh đẹp với chế độ chăm sóc tận tình chu đáo. Nếu họ không thể phục hồi sau khi điều dưỡng họ sẽ được bố trí công việc phù hợp với sức lao động hoặc có các chính sách hỗ trợ khác. Còn đối với những người đã về hưu đã từng tham gia công tác sản xuất tại doanh nghiệp cũng được chăm sóc sức khoẻ, hàng năm họ còn được tặng quà vào các dịp lễ, tết, những ngày kỷ niệm của ngành. Ngoài ra đối với những lao động không tham gia công tác tại doanh nghiệp vì lý do tai nạn, bệnh dịch đều được quan tâm chăm sóc và được hưởng chế độ lương thưởng, mặc dù họ không tham gia lao động, điều đó giúp gia đình họ giảm một phần gánh nặng tài chính, giúp họ có ý trí nghị lực để chiến thắng bệnh tật. Còn đối với con em cán bộ trong ngành cũng được quan tâm hết sức kịp thời bởi những phần quà có giá trị đối với những em có thành tích học tập cuối năm, đồng thời đã có rất nhiều doanh nghiệp thực hiện trích quỹ phúc lợi của doanh nghiệp để hỗ trợ xây dựng trường lớp cho các em học sinh, tạo điều kiện cho con em của cán bộ công nhân viên có điều kiện học tập tốt nhất để họ yên tâm công tác sản xuất. Đặc biệt là chính sách đào tạo con em trong ngành trở thành những lớp công nhân kế tiếp các bậc phụ huynh trở thành những công nhân tốt phục vụ cho ngành.
Chính vì những chính sách đầu tư phát triển nguồn nhân lực như vậy mà hiện nay với trên 16.000 cán bộ kỹ sư và công nhân lành nghề ngành công nghiệp xi măng hoàn toàn có quyền tự hào có thể thực hiện được “Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp xi măng đến năm 2010 định hướng đến năm 2020” mà Chính phủ đã xét duyệt.
Đầu tư phát triển cho nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ
Xi măng Việt Nam hiện nay đang có ưu thế hơn hẳn ở các nước Asean là nhu cầu tiêu thụ của thị trường nội địa rất lớn và có xu hướng ngày một gia tăng. Theo quyết định số 115/2001/ QĐ – TTg ngày 1 tháng 8 năm 2001 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2010 thì nhu cầu xi măng năm 2010 theo dự báo sẽ là 37 triệu tấn/năm trong khi đó công suất thiết kế của toàn bộ ngành xi măng Việt Nam năm 2000 cũng mới chỉ đạt đến 19,87 triệu tấn/ năm, năm 2005 là 27 triệu tấn/ năm. Do vậy, công nghiệp xi măng Việt Nam đang có nhu cầu cấp thiết cho đầu tư phát triển. Nếu không thực hiện kịp thời các dự án xi măng ngay từ bây giờ thì hàng năm chúng ta sẽ phải nhập khẩu một lượng xi măng lớn. Về công nghệ sản xuất, trong quy hoạch tổng thể cũng chỉ rõ cần phải nhanh chóng tiếp thu công nghệ, thiết bị tiên tiến hiện đại của thế giới và kết hợp với công nghệ, thiết bị sản xuất trong nước để sớm có được nền công nghiệp hiện đại, tự động hoá ở mức cao, bảo đảm tiêu chuẩn về chất lượng và môi trường.
Để đạt được những yêu cầu về công nghệ như quy hoạch tổng thể đề ra thì chúng ta sẽ đi tìm hiểu về công nghệ xi măng được ứng dụng tại Việt Nam hiện nay. Hiện nay, tại Việt Nam tồn tại ba phương pháp sản xuất: phương pháp ướt, phương pháp khô và phương pháp bán khô. Về trình độ công nghệ giữa các phương pháp là khác nhau, không những khác nhau giữa các phương pháp công nghệ (công nghệ của phương pháp khô tiên tiến hơn công nghệ của phương pháp bán khô, công nghệ phương pháp bán khô tiên tiến hơn công nghệ tiên tiến hơn công nghệ phương pháp ướt), mà trên thực tế các nhà máy còn áp dụng các phương pháp khác nhau trong cùng một nhà máy sản xuất (nhà máy xi măng Hoàng Thạch dây chuyền 2 tiên tiến hơn dây chuyền 1).Đặc trưng cho trình độ tiên tiến về công nghệ trong sản xuất xi măng là các chỉ tiêu tiêu hao về vật tư và năng lượng, các chỉ tiêu bảo vệ môi trường, mức độ hoàn thiện cơ khí hoá và tự động hoá trong quá trình sản xuất. Việc tông tại cả ba phương pháp sản xuất trong ngành công nghiệp xi măng tại Việt Nam phản ánh mức độ phát triển nền kinh tế công nghiệp truyền thống đối với một nước vừa mới thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế và đang vươn lên trong phát triển. Đây cũng là quy luật chung của các nước đang trong quá trình phát triển.
Và cùng với các phương pháp sản xuất thì hiện nay ở Việt Nam tồn tại hai loại hình dây chuyền sản xuất:
Dây chuyền sản xuất xi măng lò quay, sản xuất theo phương pháp khô và ướt, các thiết kế và thiết bị chính của dây chuyền này đều do nước ngoài ung cấp.
-Dây chuyền công nghệ phương pháp ướt: Các nhà máy sản xuất băng lò quay phương pháp ướt có các chỉ tiêu tiêu hao về năng lượng lớn, đặc biệt là gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường sinh thái. Các dây chuyền công nghệ này hiện nay không còn phù hợp với sự phát triển chung của công nghệ sản xuất xi măng trên thế giới hiện nay.
- Dây chuyền công nghệ phương pháp khô: Hầu hết các dây chuyền loại này đạt được trình độ tiên tiến của thế giới, đều được trang bị hệ thống máy nghiền đứng để nghiền liệu, nghiền than, lò nung có tháp trao đổi nhiệt và buồng phân huỷ clienker cùng với thiết bị làm lạnh hiện đại, nghiền xi măng theo chu trình kín có phân ly, dây chuyền được trang bị hệ thống điều khiển tự động và kiểm tra đo lường với mức độ tiên tiến so với thế giới hiện nay.
Dây chuyền xi măng với phương pháp bán khô: Thiết bị chính của dây chuyền này được nhập từ Trung Quốc, Việt Nam đã thiết kế một số nhà máy và sản xuất một phần thiết bị chính trong dây chuyền.
Bảng 12: Tỷ lệ dây chuyền công nghệ được áp dụng vào sản xuất xi măng tại Việt Nam
Công nghệ sản xuất
Số lượng nhà máy
Công suất (tấn/ngày)
Tỷ lệ (%)
Xi măng lò đứng phương pháp bán khô
55
240
83,3
Xi măng lò quay phương pháp ướt
2
1.750
3,03
Xi măng lò quay phương pháp khô
9
5.800
13,67
(Nguồn: Phòng công nghệ - Công ty tư vấn đầu tư phát triển xi măng)
Sản xuất theo phương pháp khô là công nghệ tiên tiến nhất và dược áp dụng đầu tiên ở Việt Nam tại nhà máy xi măng Hoàng Thạch (1984). Với công nghệ này đạt được chất lượng clinker ở mức cao nhất, các chỉ tiêu về tiêu hao năng lượng như nhiệt năng và điện năng, nồng độ bụi, khí thải đều ở mức thấp, mức độ tự động hoá cao. Chính vì những điểm lợi trên trong công nghệ sản xuất các dây chuyền công nghệ sản xuất theo phương pháp khô thường có công suất cao, vốn đầu tư cho công nghệ lớn. Mặt khác, ở nước ta trữ lượng than đá còn rất nhiều phù hợp với nhu cầu nung luyện clinker trong hệ thống lò quay này. Tuy đây là phương pháp sản xuất tiên tiến nhưng tỷ lệ các nhà máy áp dụng công nghệ này là rất thấp chỉ đạt 13,67% và các nhà máy áp dụng công nghệ hiện đại này lại chủ yếu là các nhà máy trực thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam vì vốn đầu tư cho công nghệ này là rất nhiều. Tổng công ty xi măng Việt Nam với các nhà máy đã tồn tại lâu đời, nó là các doanh nghiệp Nhà nước và là các đơn vị mang trong mình trọng trách nặng lề là bình ổn giá cả cho thị trường xi măng là những đơn vị hạt nhân của ngành xi măng, chính vì những nguyên nhân trên mà các đơn vị trực thuộc Tổng công ty đã mạnh dạn đầu tư lớn cho công nghệ.Còn sản xuất xi măng quay theo phương pháp ướt như đã nói ở trên nó tiêu hao năng lượng và đặc biệt có tác dụng ngược chiều rất lớn đến môi trường, nên hiện nay đã có sự hạn chế, chỉ còn có hai nhà máy còn áp dụng phương pháp này chiếm một tỷ lệ rất nhỏ 3,03%. Đối với công nghệ sản xuất xi măng lò đứng theo phương pháp bán khô là một công nghệ mang tính chất trung gian nó là công nghệ không có tính tối ưu về kinh tế. Nó cho ra sản phẩm clinker có chất lượng không cao, gây mất an toàn lao động cho người công nhân, trên thực tế đã xảy ra rất nhiều vụ tai nạn lao động trong các nhà máy xi măng lò đứng, đồng thời tác động xâu đến môi trường xung quanh. Nhưng bù lại vốn đầu tư cho loại hình công nghệ này rất ít nên các nhà máy xi măng địa phương thường áp dụng loại hình công nghệ này trong quá trình sản xuất của mình. Chính vì vốn đầu tư cho công nghệ ít nên kéo theo tổng vốn đầu tư ban đầu cũng ít nên tỷ lệ của nó chiếm một tỷ lệ rất lớn tới 83,3%.
Để nâng cao trình độ công nghệ, ngành công nghiệp xi măng đã và đang chuẩn bị các dự án cải tạo chuyển đổi các dây chuyền phương pháp ướt thành các dây chuyền sản xuất theo phương pháp khô hiện đại, đầu tư chiều sâu nâng cấp mức độ tự động hoá điều kiện sản xuất và các chỉ tiêu bảo vệ môi trường của các dây chuyền phương pháp khô đã sản xuất từ trước năm 1990, đồng thời thực hiện nâng cấp các nhà máy xi măng lò đứng phương pháp bán khô. Thưc hiện được các mục tiêu về công nghệ đã đề ra ở trên, ngành công nghiệp xi măng đã đầu tư rất nhiều cho công tác nghiên cứu ứng dụng công nghệ, vì việc đầu tư cho hoạt động này sẽ không chỉ nâng cao được chất lượng xi măng của ngành mà còn giúp giảm chi phí trong quá trình sản xuất, giảm các tác động ngược chiều đến môi trường. Chính nhận thức được tầm quan trọng của nó mà trong thời gian qua ngành công nghiệp xi măng luôn dành cho hoạt động đầu tư nghiên cứu và ứng dụng công nghệ nhiều kinh phícũng như sự quan tâm đúng đắn với vai trò của nó, để nâng cao được chất lượng của sản phẩm và đóng góp cho sự phát triển của ngành.
Để có được các công trình khoa học công nghệ và các ứng dụng từ nó thì vốn đầu tư mà ngành dành cho việc nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ từ 30 – 50% giá trì làm lợi của công trình đó. Việc đầu tư như vậy có tác dụng đảm bảo tính hiệu quả của các công trình nghiên cứu có tính thiết thực hơn, việc thực hiện quá trình nghiên cứu nghiêm túc hơn vì vậy kết quả sẽ cao hơn, vì lượng vốn đầu tư được lấy từ chính kết quả đạt được của nó. Chính sự đầu tư đúng đắn này cho việc nghiên cứu của ngành mà hàng loạt các đề tài thuộc các cấp Tổng công ty, hay do Bộ xây dựng khởi xướng đã được thực hiện như các đề tài cải tiến phối liệu để nâng cao chất lượng của clinker, hay nghiên cứu và sử dụng các loại phụ gia mới… Và các đề tài này có tính ứng dụng rất cao trong thực tế,những đề tài này đang thực hiện những bước thử nghiệm cuối cùng để ứng dụng vào thực tế. Đông thời việc ứng dụng những đề tài trên không chỉ nâng cao được chất lượng của sản phâm mà còn có tác dụng giảm chi phí đầu vào cho quá trình sản xuất, làm lợi cho ngành mỗi năm hàng trăm tỷ đồng, cái được từ những nghiên cứu này lớn hơn so với chi phí bỏ ra rất nhiều. Cùng với đó là việc cho ra các sản phẩm xi măng phù hợp nhu cầu thị trường, các sản phẩm xi măng mác cao như nhà máy xi măng Chinfon - Hải Phòng đã tạo ra sản phẩm xi măng sản xuất bê tông chụi nhiệt đang rất được ưa chuộng trên thị trường, điều đó cho thấy việc đầu tư này là một bước đi đúng đắn của ngành công nghiệp xi măng Việt Nam.
Trong những năm gần đây, có thể lấy mốc thời gian là từ năm 2000 trở lại đây thì thị trường xi măng và clinker tại Việt Nam có nhiều biến động ngoài dự kiến. Nhu cầu xi măng trên thị trường vẫn thiếu, nhưng cung vẫn không đáp ứng đủ cầu. Việc cung không đủ cầu không phải do nguyên nhân thiếu xi măng cung cấp trên thị trường, mà nguyên nhân chính là không có đủ xi măng chất lượng cao, đảm bảo để cung cấp cho thị trường. Do xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu đối với các công trình xây dựng cũng được quan tâm hơn, yêu cầu đối với các vật liệu xây dựng cũng cần nâng cao hơn nữa trong đó có xi măng và chất lượng xi măng không đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Nhận thức được vấn đề tồn tại trên ngành đã thực hiện việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 và tiến tới cấp chứng chỉ phổ biến chúng cho các nhà máy sản xuất xi măng của ngành, mà đi đầu trong công tác xây dựng tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000 chính là Tổng công ty xi măng Việt Nam, là đơn vị thực ._.1999, sau cuộc khủng hoảng kinh tế các nước tron khu vực, đên nay. Trong 5 năm này mức tăng bình quân mỗi năm khoảng 7,1 tấn/ 1 tỷ đồng vốn đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên, năm 2003 so với 2002 thì mức tăng hầu như không đáng kể, sang đến các năm 2004 và 2005 mức tăng so với năm 2003 tăng cũng không đáng là bao, nên dự báo trong giai đoạn 2006 – 2010 mức tiêu thụ xi măng trên 1 tỷ đồng vốn đầu tư toàn xã hội sẽ tăng lên 120 -130 tấn và giai đoạn 2011 – 2020 sẽ tăng lên là 140 – 150 tấn.
Dự báo xi măng theo tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ. Dự báo này căn cứ vào tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ xi măng ở giai đoạn 1995 – 2005 để dự báo tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ xi măng trong giai đoạn đến năm 2015 và lượng xi măng tiêu thụ ở năm gốc năm 2005 để tính.
Bảng 17: Tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ xi măng
Năm
Tiêu thụ xi măng (triệu tấn)
Tốc độ tăng trong tiêu thụ (%)
1990
2,75
-
1991
3,2
19,36
1992
3,9
21,87
1993
4,9
25,64
1994
6,2
26,53
1995
6,8
9,6
1996
8,1
19,1
1997
9,3
14,8
1998
9,99
7,4
1999
11
10,1
2000
13,91
26,45
2001
16,38
17,75
2002
20,55
25,4
2003
24,38
18,63
2004
24,6
0,9
2005
27,9
13,41
(Nguồn: phòng kinh tế - Công ty tư vấn đầu tư phát triển xi măng)
Qua bảng trên ta thấy tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ xi măng luôn ở mức cao, trừ những năm 1997 – 1999 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế trong khu vực nên nhiều công trình bị giãn tiến độ, tiêu thụ xi măng đã giảm xuống đột ngột. Bình quân chung trong 15 năm qua từ 1990 – 2005 đạt 22,2%; năm 1996 – 2000 đạt 15,5%. Từ năm 2000 đến nay, mức tăng trong tiêu thụ năm sau so với năm trước như sau: năm 2000 so với 1999 tăng 2,91 triệu tấn, 2001 so với 2000 tăng 2,47 triệu tấn, năm 2002 so với 2001 tăng 4,17 triệu tấn, năm 2003 so với nằm 2002 tăng 3,83 triệu tấn; bình quân trong 4 năm gần đây nhu cầu xi măng tăng hàng năm khoảng 3,3 triệu tấn. Nếu giữ mức tăng này thì tiêu thụ xi măng giai đoạn 2006 – 2010 thì mức độ tăng trong tiêu thụ xi măng ở nước ta vào khoảng 9 – 10% và trong giai đoạn 2011 – 2015 vào khoảng 4 – 5%.
Bảng 18: Dự báo nhu cầu xi măng theo tốc tiêu thụ
(Đơn vị: Triệu tấn)
Năm
2006
2007
2008
2009
2020
Sản lượng
33,74
36,78
40,09
43,7
47,63
Tốc độ tăng
34,05
37,46
41,2
45,32
49,86
(Nguồn: Phòng kinh tế - Công ty tư vấn đầu tư phát triển xi măng)
Dự báo nhu cầu xi măng theo thu nhập bình quân đầu người. Dự báo này căn cứ vào mức tiêu thụ xi măng bình quân đầu người ở nước ta trong giai đoạn 1990 – 2003 để dự báo nhu cầu tiêu thụ xi măng bình quân đầu người trong giai đoạn 2005 – 2010 và căn cứ vào dự báo dân số nước ta đến 2010 để tính toán.
Bảng 19: Tiêu thụ xi măng bình quân đầu người ở nước ta trong giai đoạn
1990 – 2003
Năm
Dân số (Triệu người)
Tiêu thụ xi măng cả nước (triệu tấn)
Tiêu thụ XM bình quân (Kg/ người)
1990
66,016
2,75
41,65
1991
67,242
3,2
47,5
1992
68,450
3,9
56,97
1993
69,644
4,9
70,35
1994
70,824
6,2
87,54
1995
71,995
6,8
103,89
1996
73,156
8,1
112,08
1997
74,306
9,3
125,16
1998
75,456
9,99
133,85
1999
76,596
11
144,91
2000
77,685
13,91
175,32
2001
78,827
16,38
207,79
2002
79,727
20,55
257,7
2003
80,76
24,38
301,88
(Nguồn: Phòng kinh tế - Công ty tư vấn đầu tư xi măng)
Như vậy tiêu thụ xi măng bình quân đầu người ở nước ta trong giai đoạn vừa qua liên tục tăng, đặc biệt từ năm 2000 đến nay mức độ tăng đạt được khá cao: năm 2000 so với năm 1999 tăng 30,47 kg, năm 2002 so với năm 2001 tăng 49,91 kg và năm 2003 so với 2002 tăng tăng 44,18 kg. Như vậy mức tăng trong tiêu thụ xi măng bình quân đầu người trong 4 năm gần đây khoảng 40 Kg. Nếu giữ mức tăng bình quân trong khoảng 35 – 40 Kg/ người thì dự báo đến năm 2005 – 2010 khoảng 450 – 530 kg.
II. Tiềm năng và các nguồn lực để phát triển ngành công nghiệp xi măng tại Việt Nam
1.Nguồn nguyên liệu để sản xúât xi măng
Nguồn nguyên liệu dùng trong sản xuất xi măng bao gồm các nguồn chính như sau: đá vôi, đất sét, phụ gia khoáng ho xi măng, thạch cao…
Đá vôi: là một trong những thành phần, nguyên liệu chính để sản xuất xi măng, trong thành phần phối liệu đá vôi chiếm tỷ trọng khoảng 80%. Theo báo cáo kết quả kinh của dự án điều tra lập hệ thống dữ liệu tài nguyên khoáng sản làm nguyên liệu sản xuất xi măng và các dự án quy hoạch vật liệu xây dựng trên các vùng của cả nước, trong tổng số 190 mỏ đá vôi đã được khảo sát thì trữ lượng dự báo khoảng 22,2 tỷ tấn. Trong các mỏ được thăm dò, khảo sát thì có 28 mỏ đá vôi có quy mô lớn(trữ lượng lớn hơn 100 triệu tấn), 19 mỏ có quy mô vừa (trữ lượng từ 20 – 100 triệu tấn) và còn lại là các mỏ có quy mô nhỏ. Đối với các nhà máy xi măng lớn quy mô trữ lượng mỏ đá vôi phải đảm bảo cung cấp cho sản xuất ít nhất là 30 năm và đối với các cơ sở sản xuất nhỏ thì trữ lượng này ít nhất phải đảm bảo cho nhà máy hoạt động trong vòng 20 năm. Nguồn đá vối để sản xuất xi măng ở nước ta có chất lượng khá tốt, các mỏ đều đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật của nguyên liệu trong sản xuất như các chỉ tiêu về thành phần hoá, hàm lượng sét, độ cứng… Chất lượng đá vôi các vùng có khác nhau, trong số các mỏ đá vôi trên vùng Đông Nam vộ và Tây Nguyên có chất lượng kém hơn cả. Qua công tác điều tra, khảo sát thăm dò các mỏ đá vôi sản xuất xi măng ch thấy, đại đa số các mỏ đều nằm độc lập, lộ thiên và khá thuận lợi cho công tác khai thác, sử dụng. Hiện nay, công nghệ khai thác đá vôi để sản xuất xi măng phần lớn là theo phương pháp cắt tầng, phương pháp này phù hợp với các mỏ lộ thiên và chi phí thấp. Tuy vậy, còn có rất nhiều mỏ nằm ở các vùng sâu, vùng xa so với các trung tâm kinh tế, các khu công nghiệp, điều kiện giao thông vận tải còn nhiều khó khăn nên việc đưa các mở này vào khai thác và sử dụng còn nhiều hạn chế. Đồng thời một số mở có chất lượng tốt, điều kiện khai thác thuận lợi nhưng không được khai thác để đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo vệ cảnh quản thiên nhiên, di tích lịch sử văn hoá… Mặc dầu vậy nguồn đá vôi ở nước ta vẫn đảm bảo cho ngành xi măng phát triển lâu dài.
Đất sét, ngoài đá vôi đất sét cũng là loại nguyên liệu chính tron sản xuất xi măng; trong thành phân phối liệu, đất sét chiếm tỷ trọng khoảng 20%. Theo báo cáo kết quả điều tra củ dự án lập hệ thống dữ liệu tài nguyên khoáng sản làm nguyên liệu cho sản xuất xi măng, trong những năm qua đã có 102 mỏ sét xi măng được khảo sát thăm do với tổng trữ lượng dự báo khoảng 2,923 tỷ tấn. Các mở sét phân bố trên cả 8 vùng kinh tế của nước ta, nhưng cũng giống như các mỏ vôi các mỏ sét này tập trung chủ yếu ở vùng Bắc trung bộ, Đông bắc và Đồng bằng sông Hồng… Với trữ lượng lớn nhất vào khoảng 40,4%.
Phụ gia khoáng cho xi măng gồm phụ gia hoạt tính và phụ gia đầy. Sản xuất xi măng ở nước ta thường dùng loại phụ gia Puzolan, bazan phún trào, xỉ lò cao, xỉ nhiệt điện… Chất lượng của các loại phụ gia nói trên được quy định theo thiêu chuẩn TCVN 6882 – 2001 dưới đây:
Bảng 20: Các chỉ tiêu chất lượng của phụ gia xi măng
STT
Tên chỉ tiêu
Mức
Phụ gia hoạt tính
Phụ gia đầy
1
Chỉ số hoạt tính cường độ đối với xi măng Portland sau 28 ngày so với mẫu đối chứng
75%
-
2
Thời gian kết thúc đông kết của vữa vôi - Phụ gia
96%
-
3
Độ bền nước của vữa vôi - Phụ gia
Đạt yêu cầu
-
4
Hàm lượng tạp chất bụi và sét
-
3%
5
Hàm lượng SO3
4
4
6
Hàm lượng kiềm có hại của phụ gia sau 28 ngày
1,5%
1,5%
(Nguồn: Quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng đến năm 2010)
Theo tài liệu của Cục địa chất, đến nay có 123 mỏ phụ gia khoáng cho xi măng đã được điều tra khảo sát với tổng trữ lượng 1.129,5 triệu tấn và phân bố trên tất cả các vùng kinh tế của cả nước trừ Đồng bằng sông Cửu Long.
Thạch cao là phụ gia điều chỉnh thời gian đông kết của xi măng. Nhưng chưa phát hiện được mỏ thạch cao naò,Thái Lan, Lào, Trung Quốc là các nước có nhiều thạch cao nên việc nhập khẩu thạch cao của ta có thuận lợi.
Nguồn nguyên liệu sản xuất xi măng ở nước ta rất đa dạng và phông phú, trữ lượng khá tốt là điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp xi măng.
2.Nguồn năng lượng khác
Nguồn nước mặt của nước ta khá phong phú, tổn lưu lượng nước trong phạm vi lãnh thổ khoảng 328 tỷ m3/ năm, trong đó tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc trung bộ chiếm tới 38,6%. Nguồn nước ngầm ở nước ta chưa được thăm dò đánh giá đầy đủ; theo kết quả nghiên cứu ban đầu, nguồn nước ngầm chứa trong các thành tạo cách mặt đất 10 – 100 m và trữ lượng nước dưới đất ở một số khu vực rất khác nhau, biến động từ 16 – 100m3 và trữ lượng ở mỗi vùng là khác nhau. hiện nay khả năng cấp nước của cả nước đạt 3.213.680 m3/ngày – đêm (theo thiết kế), nhu cầu nước cho saả xuất xi măng theo định mức mỗi năm khoảng 1 triệu m3 nước/ 1 triệu tấn công suất, như vậy với khả năng cung cấp nước hiện nay của ngành cung cấp nước và nhu cầu của ngành công nghiệp xi măng thì lượng nước mà ngành xi măng cần trong thời gian tới hoàn toàn nằm trong khả năng đáp ứng của ngành cung cấp nước.
Năng lực ngành cơ khí chế tạo. Ngành cơ khí chế tạo nói chung và cơ khí xây dựng nói riêng trong giai đoạn vừa qua phát triển chưa mạnh và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành công nghiệp xi măng ở nước ta. Trong những năm qua, ngành cơ khí chế tạo đã saả xuất được một số thiết bị, phụ tùng thay thế cho dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng; sản xuất bi đạn, tấm lót cho máy nghiền; gia công một số kết cấu thép phi tiêu chuẩn cho một số công trình xi măng… Điều đó đã đánh dấu những bước phát triển đáng kể của ngành công nghiệp cơ khí chế tạo đối với sự phát triển ngành công nghiệp sản xuất xi măng.
Năng lực sản xuất vật liệu chụi lửa. một trong những loại vật tư kỹ thuật quan trọng của ngành sản xuất xi măng là các loại vật liệu chịu lửa. Để đáp ứng nhu cầu vật liệu chịu lửa cho công nghiệp xi măng trong thời gian tới, nhà máy gạch chụi lửa kiềm tính công suất 16.500 tấn năm ở Từ Sơn - Bắc Ninh và dây chuyền sản xuất gạch nhôm công suất 6.000 tấm/ năm ở nhà máy gạch chịu lửa Cầu Đuống – Hà nội đã được đầu tư xây dựng và đưa vào sản xuất. Ngoài ra còn có rất nhiều nhà máy gạch chịu lửa khác đã và đang được thực hiện đầu tư ở Thái Nguyên, Đồng Nai… Tuy nhiên, để đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vật liệu chịu lửa cần phải đầu tư nâng cao chất lượng, chế tạo thêm các chủng loại sản phẩm và hạ giá thành để cạnh tranh với hàng ngoại nhập.
Năng lực ngành giao thông vận tải. Hiện nay năng lực vận tải hàng hoá của ngành giao thông vận tải nước ta có cơ cấu như sau: đường bộ 63,2%; đường biển 9,3%; đường sắt 5,6%. Đối với ngành công nghiệp sản xuất xi măng, hình thức vận tải chủ yếu và kinh tế là vận tải bằng đường thuỷ, song tuỳ theo từng khu vực để lựa chọn phương thức vận chuyển hợp lý như vận tải đường bộ hoặc đường sắt… Trong thời gian qua nước ta đã xây dựng, cải tạo hệ thống tuyến đường quốc lộ, điều này sẽ tăng năng lực phục vụ của ngành giao thông vận tải cho các ngành kinh tế trong đó có ngành công nghiệp xi măng.
III. Mục tiêu và quan điểm phát triển
1.Mục tiêu phát triển
Mục tiêu phát triển là: Đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng xi măng (cả về số lượng và chủng loại) cho nhu cầu trong nước; dành một phần cho xuất khẩu và nhanh chóng đưa ngành xi măng Việt Nam thaàn một ngành công nghiệp có thế mạnh, có công nghệ hiện đại, đủ sức cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của nước ngoài, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu này là hoàn toàn đúng đắn và nó vẫn đang được thực hiện bởi cán bộ công nhân viên ngành công nghiệp xi măng.
Quan điểm phát triển
Trong quy hoạch phát triển ngành công nghiệp xi măng có nêu 6 quan điểm phát triển về vấn đề: đầu tư, công nghệ, quy mô công suất, huy động nguồn vốn, bố trí quy hoạch phối hợp liên ngành. Đây là những quan điểm cơ bản của Chính phủ đối với sự phát triển của ngành công nghiệp xi măng Việt Nam. Về tổng thể các quản điểm này là đúng đắn và tiến bộ.
Tuy nhiên, nội dung cụ thể của 6 quan điểm lớn trên cần phải bổ sung chỉnh sửa cho phù hợp với tình hình phát triển trong giai đoạn mới. Những vấn đề cần xem xét bổ sung gồm:
+ Về đầu tư: làm rõ hơn các loại dự án được ưu tiên đầu tư như các dự án mở rộng các dự án nằm ở miền Trung… các loại dự án không được đầu tư như các dự án xi măng lò đứng, trạm nghiền không có clinker…
+ Về công nghệ: tận dụng ưu thế của công nghiệp xi măng để sử lý một số loại phế thải của các ngành công nghiệp khác, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Ưu tiên và tăng tỷ lệ xi măng chất lượng cao, kết hợp việc lựa chọn công nghệ hiện đại với năng lực chế tạo thiết bị trong nước.
+ Về quy mô công suất: khẳng định việc chuyển đổi công nghệ sản xuất từ lò đứng sang lò quay, phân định hợp lý các quy mô công suất lớn, vừa và nhỏ.
+ Về huy động nguồn vốn: Tiếp tục huy động các nguồn vốn đã và đang huy động một cách có hiệu quả hơn.
+ Về bố trí quy hoạch: làm rõ hơn mối quan hệ cân đối cung - cầu giữa các vùng, miền, kết hợp với việc phát triển kinh tế - xã hội theo các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
IV. Giải pháp phát triển ngành công nghiệp xi măng
1.Những giải pháp về phía ngành
1.1. Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển
Xi măng là một trong những vật liệu chính cho xây dựng cơ bản. Theo dự báo nếu đầu tư nhà máy theo tiến độ đã đặt ra thì đến năm 2008, Việt Nam mới không phải nhập khẩu clinker. Để thực hiện được tiến độ đó, vốn là một yếu tố cơ bản quan trọng cần được quan tâm theo đúng hướng.
Những dự án xây dựng các nhà máy sản xuất xi măng đã đựơc chính phủ cho phép vay vốn tien dụng ưu đãi, trước nghị định 106/ 2004/ NĐ – CP được tiếp tục vay vốn.
Những dự án đầu tư xây dựng nhà máy cơ khí chế tạo hoặc mua sắm trang thiết bị phục vụ cơ khí chế tạo trong nước nhằm chế tạo các thiết bị cho nhà máy xi măng thay thế một phần thiết bị nhập khẩu được vay vốn ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển.
Những dự án xi măng nhằm sản xuất clinker để phục vụ các trạm nghiền khác được vay vốn ưu đãi từ quỹ phát triển.
Đề nghị các ngân hàng thương mại quan tâm hỗ trợ cho các dự án xi măng bằng biện pháp: trực tiếp cho vay vốn; làm đầu mối huy động vốn theo từng dự án giúp chủ đầu tư; giảm bớt các thủ tục trong quá trình đàm phán cho vây vốn.
Đề nghị Chính phủ giao Bộ tài chính bảo lãnh phần vay vốn nước ngoài cho các dự án xi măng, cần có cơ chế chung, không phải xin phép chính phủ từng dự án; vốn vay nước ngoài không chỉ để mua thiết bị công nghệ, mà còn bao gồm cả vốn cho chi phí xây lắp trong nước, điều đó là tuỳ từng dự án.
Về phía chủ đầu tư: Chủ động tìm nguồn vốn trước khi triển khai thực hiện lập dự án.Phải tính toán hiệu quả và thời gian hoàn vốn cho dự án một cách nghiêm túc, sát với thực tế, có phương án sử dụng vốn tiết kiệm để thuyết phục người vay. Mạnh dạn phát hành trái phiếu công trình hoặc bán cổ phần rộng rãi cho nhân dân, kể cả bán cho người nước ngoài.
Kiến nghị với chính phủ có chính sách ưu tiên cho các nhà thầu nếu thu xếp được vốn cho dự án
Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các nhà máy xi măng hiện có, phần vốn thu được từ cổ phần hoá đề nghị được sử dụng đầu tư trực tiếp cho các dự án xi măng mới.
Đối với sử dụng vốn đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư phát triển là: không đầu tư tràn lan ồ ạt, gây lãng phí vốn mà hiệu quả đầu tư không cao. Phải đầu tư theo nhu cầu, theo sự phát triển của thị trường va theo quy hoạch phát triển ngành. Cùng với đó là việc chú trọng hơn trong công tác đầu tư xây dựng cơ bản của ngành. Cần phải kiểm soát chặt chẽ lượng vốn dùng để đầu tư cho xây dựng cơ bản, và kiểm soát tiến độ thi của những nhà máy đang xây dựng, nhanh chóng đi vào hoạt động, tận dụng những cơ hội kinh doanh trên thị trường.
1.2.Đầu tư tài sản cố định vô hình
1.2.1. Đầu tư xây dựng cơ bản
Đầu tư xây dựng cơ bản trong bất kỳ ngành kinh tế nào cũng đều đóng vai trò quan trọng, vì nó tạo nên cơ sở hạ tầng cho các ngành kinh tế phát triển, và đối với ngành công nghiệp sản xuất xi măng cũng vậy. Nhưng muốn tạo được cơ sở hạ tầng vững chắc cho phát triển sau này thì ngành công nghiệp xi măng cần thực hiện một số biện pháp sau để có thể hạn chế những tồn tại hiện nay trong khâu đầu tư xây dựng cơ bản của ngành.
Trong việc đầu tư xây dựng cơ bản tạo nên cơ sở hạ tầng vững chắc cho ngành công nghiệp xi măng phải thực hiện đầu tư một cách đồng bộ, từ việc đầu tư cho nhà xưởng cho đến vấn đề khai thác nguyên liệu. Không vì tiết kiệm một vài đồng chi phí mà dẫn tới hậu quả khôn lường. Cần thực hiện vấn đề khảo sát địa hình địa chất một cách kỹ lưỡng rồi mới đưa ra những kết luận để đưa vào thực hiện, không sẽ dẫn đến tình trạng phải đưa ra những giải pháp sửa chữa, những giải pháp này không chỉ tốn kém về thời gian mà còn tốn rất nhiều chi phí về mặt thời gian.
Như đã nói ở trên, nước ta có một nguồn nguyên liệu cho sản xuất xi măng hết sức dồi dào, chính vì vậy các nhà máy sản xuất xi măng của ngành công nghiệp xi măng hiện nay khôn nên chỉ đầu tư cho công đoạn nghiền xi măng rồi nhập clinker về nghiền, không đảm bảo tính ổn định lâu dài, đồng thời lãng phí những lợi thế của đất nước, không phát huy được những nội lực dồi dào trong nước về tài nguyên, lao động để phục vụ cho quá trình phát triển. Để tận dụng hơn nữa lợi thế về tài nguyên và lao động chúng ta cần đầu tư một cách đồng bộ từ khâu khai thác nguyên liệu đến khâu sản xuất ra xi măng.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng của các sản phẩm xi măng của ngành công nghiệp xi măng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư cho các dây chuyền máy móc thiết bị phải đạt được mức độ tiên tiến, hiện đại tương xứng với trình độ công nghệ của thế giới nhưng đồng thời cũng phải phù hợp với các điều kiện của Việt Nam, đảm bảo hao phí nguyên nhiên, vật liệu ít, mức độ tự động hoá cao. Để thực hiện được điều đó cần phải thực hiện chuyển đổi các dây chuyền theo các phương pháp sản xuất cũ kỹ, lạc hậu như phương pháp sản xuất ướt và bán khô sang các công nghệ sản xuất hiện đại hơn đó là phương pháp sản xuất khô.
Về quy mô công suất, trong điều kiện hiện nay để phát huy hết khả năng của ngành công nghiệp xi măng cần phải biết kết hợp các loại quy mô công suất các dây chuyền sản xuất, như việc kết hợp các dây chuyền công nghệ quy mô lớn với quy mô vừa, quy mô nhỏ với quy mô vừa hoặc quy mô lớn với quy mô nhỏ để đạt được hiệu quả về đầu tư đồng thời vẫn tạo được hiệu quả sản xuất như mong muốn.
Những nơi có vùng nguyên liệu phong phú, điều kiện giao thông vận tải cần đầu tư mở rộng thêm các dây chuyền sản xuất mới. Việc đầu tư thêm các dây chuyền sản xuất mới này sẽ tranh thủ được cơ sở hạ tầng vốn có của nhà máy và điều kiện giao thông vận tải thuận lợi, đồng thời vẫn có đủ nguồn nguyên liệu cung cấp cho hoạt động của các dây chuyền. Những nơi không có điều kiện thuận lợi trên thì nên mạnh dạn đầu tư vào các dây chuyền lớn, công nghệ cao vì việc đầu tư cho các dây chuyền nhỏ công nghệ lạc hậu sẽ làm cho chất lượng sản phẩm không cao, mà lượng tiêu hao nguyên, nhiên vật liệu rất lớn, hiệu quả sản xuất kinh doanh thu được không đáng là bao nhiêu, không thể đứng vững trong quá trình cạnh tranh.
Lựa chọn địa điểm xây dựng nhà máy, quy mô công suất nhà máy phải phù hợp với khả năng tiêu thụ của thị trường, trữ lượng các mỏ nguyên liệu, có điều kiện hạ tầng đảm bảo, nhất là giao thông phải phù hợp với khả năng tiêu thụ của thị trường, trữ lượng các mỏ nguyên liệu, có điều kiện hạ tầng đảm bảo, nhất là giao thông vận tải để vận chuyển vật tư đầu vào và xuất sản phẩm đầu ra. Ưu tiên đầu tư mở rộng các nhà máy xi măng đã có nhằm tận dụng điều kiện cơ sở hạ tầng, đội ngũ cán bộ, công nhân hiện có và phát huy lợi thế về thương hiệu.
Đồng thời thực hiện đầu tư ngành xi măng phải đi đôi với việc nâng cao năng lực ngành cơ khí chế tạo, phát triển hệ thống giao thông. Tức là cần có sự phát triển liên ngành để có thể phục vụ lẫn nhau của các ngành, tránh trường hợp phải nhập khẩu máy móc thiết bị, lãng phí ngoại tệ.
1.2.2. Mua sắm hàng tồn kho
Để phục vụ cho nhu cầu sản xuất, có rất nhiều các loại nguyên vật liệu được mua về, với số lượng lớn, theo đó chi phí cho kho bãi, bảo quản là rất lớn. Khắc phục tình trạng trên các doanh nghiệp khi xây dựng nhu cầu sản xuất trong năm cần chú ý hơn đến khâu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, tính toán một cách chuẩn xác nhất để không rơi vào tình trạng nhu cầu nguyên vật liệu vượt quá cả nhu cầu sản xuất. Đồng thời khi ký kết các hợp đồng mua sắm nguyên vật liệu với nhà cung cấp thoả thuận với họ cung cấp kịp thời với nhu cầu sản xuất. Những biện pháp đó sẽ giúp giảm chi phí kho bãi, bảo quản, từ đó cũng giảm được đáng kể lượng vốn lưu động phải chi của doanh nghiệp.
1.2.Đầu tư tài sản hữu hình
1.2.1. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Để phát triển ngành công nghiệp xi măng phát triển ổn định, bền vững, với trình độ công nghệ tiên tiến mà không phải phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ nước ngoài, có đủ khả năng cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thì vấn đề đặt ra là chúng ta cần có một đội ngũ cán bộ tư vấn thiết kế có có năng lực và giàu kinh nghiệm, đội ngũ kỹ sư, cán bộ quản lý cùng đội ngũ công nhân kỹ thuật tham gia lao động trực tiếp tại các phân xưởng có khả năng hơn nữa trong việc thực hiện các nhiệm vụ của mình.
Muốn vậy ngành xi măng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo đội ngũ kỹ sư, cán bộ quản lý, tư vấn thiết kế, công nhân kỹ thuật và cán bộ trên đại học cho ngành xi măng. Tăng cường năng lực đào tạo cho các trường công nhân kỹ thuật xi măng và trung tâm đào tạo hiện có của ngành để có thể nâng cao hơn nữa chất lượng và số lượng của các học viên được đào tạo tại trường. Bên cạnh việc đào tạo mới phải hết sức quan tâm đến việc đào tạo lại, cập nhất kiến thức mới phù hợp với tình hình phát triển của công nghệ sản xuất xi măng và khoa học quản lý. Cùng với việc đào tạo trong nước, ngành xi măng phải đẩy mạnh đào tạo ở nước ngoài, cả về kỹ thuật công nghệ và quản lý, điều hành dự án, tư vấn thiết kế và quản lý sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Nhưng để có nguồn vốn thực hiện các công tác đào tạo đã đề xướng ở trên thì vấn đề đặt ra là nguồn vốn cho công tác đầu tư phát triển nguồn nhân lực còn ít. Lượng vốn dành cho đào tạo cán bộ tại nước ngoài thì càng không có, lượng vốn dùng cho đào tạo trong nước thì manh mún, không theo một nguồn vốn cụ thể nào cả, khi có thì chi cho đào tạo còn khi thiếu vốn thì chương trình đào tạo bị dừng lại, hoặc kinh phí bị giảm xuống làm cho chất lượng đào tạo không cao. Khắc phục tình trạng trên ngành công nghiệp xi măng cần lập một quỹ đào tạo, quỹ này có thể trích từ quỹ phát triển để sản xuất, quỹ này sẽ để chi dùng cho công tác đào tạo của ngành như: mua sắm thiết bị, dụng cụ học tập, phương tiện và tài liệu giảng dạy, tiền lương cho các thầy và hỗ trợ học bổng cho trò, ngoài ra có thể thực hiện xây dựng thêm trường lớp cho ngành.
1.2.2. Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ
Đẩy mạnh các hoạt động khoa học công nghệ và khao học quản lý, tiếp tục đầu tư nghiên cứu để làm chủ công nghệ, phát huy hiệu quả năng lực của thiết bị, nâng cao công suất, chất lượng sản phẩm, trong đó chú trọng việc đa dạng hoá sản phẩm, tăng tỷ lệ clinker chất lượng cao. Nghiên cứu xử lý tốt nguyên liệu đầu vào, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng, đa dạng hoá chủng loại sản phẩm. Tiếp thu, ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến của thế giới, nâng cao năng lực và trang thiết bị của các cơ sở nghiên cứu, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ; ứng dụng công nghệ tận dụng nhiệt khí thải để sản xuất điện trong các nhà máy xi măng; nghiên cứu ứng dụng công nghệ xử lý và sử dùng phế thải làm nguyên, nghiên liệu phụ gia cho xi măng. Nghiên cứu giảm chi phí vật chất, tăng năng suất lao động, kéo dài thời gian hoạt động của trang thiết bị và nghiên cứu các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đẩy mạnh việc đầu tư thiết bị phân tích kiểm nghiệm có độ chính xác cao, thời gian phân tích ngắn. Cùng với việc nghiên cứu khoa học công nghệ tiếp tục nghiên cứu cải tiến phương pháp quản lý điều hành sản xuất và quản lý môi trường.
Muốn có các nghiên cứu ứng dụng trong ngành như vậy, thì ngành công nghiệp xi măng phải tăng cường công tác khuyến khích nghiên cứu khoa học nâng cao hiệu quả sản xuất trong ngành. Khi lập các báo cáo nghiên cứu cần cụ thể hơn nữa các bước thực hiện trong quá trình nghiên cứu, thể hiện được hàm lượng trí tuệ trong các công trình nghiên cứu để tránh tình trạng đi cóp nhặt các kiến thức ở các công trình khác để biến thành của mình. Đồng thời các công trình nghiên cứu cần gắn hơn nữa với thực tiễn đời sống sản xuất không thể chạy theo thành tích. Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi giữa các đơn vị trong nghành cũng như hội thảo với các chuyên gia đầu ngành để có thêm kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn.
1.2.3. Đầu tư cho hoạt động Marketing
Nhóm giải pháp về tổ chức, sắp xếp lại sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ năm 1995 trở về trước, xi măng được xếp vào loại sản phẩm độc quyền. Những năm gần đây khi mà xi măng liên doanh, và xi măng địa phương ra đời rất nhiều, cung cầu được cân đối, có những thời điểm cung vượt quá cầu nên tính độc quyền đang được dần xoá bỏ, tuy nhiên sự bảo trợ của Nhà nước vẫn còn khá mạnh. Ngành xi măng cần mạnh dạn và quyết tâm sắp xếp, tổ chức lại hệ thống phân phối lưu thông, loại bỏ các khâu trung gian để giảm chi phí lưu thông đến mức thấp nhất. Cần có biện pháp đổi mới công nghệ, tiếp tục chuyển từ dùng dầu MFO sang dùng than để sản xuất clinker như ở nhà máy xi măng Hà Tiên II và các nhà máy xi măng được xây dựng giai đoạn sau này, đồng thời thực hiện cải tiến pối liệu, nâng cao năng suất thiết bị để nâng sản lượng.
Về thị trường: Cần nghiên cứu khả năng mở rộng thị trường sang các nước láng giềng và các nước trong khu vực, đó là tiền đề để thực hiện xuất khẩu xi măng của Việt Nam, trong đó chú trọng các loại xi măng đặc biệt, đặc chủng có giá trị cao. Song song với việc mở rộng thị trường tiêu thụ, cần có biện pháp hữu hiệu để ngăn cản việc nhập lậu xi măng, trốn thuế và đưa hàng chất lượng thấp vào thị trường Việt Nam.
Về giá cả: Một trong những nguyên nhân chủ yếu của việc giá đầu vào cao là do độc quyền sản xuất và kinh doanh làm cho giá tăng kéo theo giá của các ngành sản xuất khác cũng bị ảnh hưởng rất nhiều, trong đó có ngành xi măng. Do đó nhà nước cần kiểm soát việc tình hình giá của các sản phẩm độc quyền, tránh hạch toán chi phí không hợp lý, không sát với thực tế, nhưng vẫn tính vào giá thành. Ngoài ra chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chiếm từ 55 – 70% giá thành sản xuất xi măng, trong đó trừ một số mặt hàng thuộc sản phẩm độc quyền theo giá quy định của Nhà nước, còn một số mặt hàng khác thì mua theo giá thị trường. Phần mua bán vật tư loại này cũng nẩy sinh khôn ít tiêu cực (gửi giá, khuyến mại, thưởng người mua) nếu kiểm soát chặt chẽ, công khai sẽ góp phần giảm đáng kể giá thành sản xuất.
Cùng với việc thực hiện các biện pháp giảm giá thành sản xuất, thì ngành xi măng cũng cần xây dựng lộ trình hợp lý về giá bán xi măng để chủ động hội nhập và đảm bảo nguồn trả nợ các khoản vay đầu tư phát triển công nghiệp xi măng. Mặt khác, phải luôn nắm bắt thông tin khu vực, thế giới về lĩnh vực đầu tư sản xuất, thị trường xi măng và các chính sách giá cả để điều chỉnh các kế hoạch chính sách của mình cho phù hợp với tình hình. Tham gia tích cực chủ động cới các hiệp hội xi măng, hiệp hội tư vấn của khu vực và quốc tế để vừa học tập vừa trao đổi kinh nghiệm để cùng đề xuất các cơ chế chính sách, các biện pháp hợp tác, phối hợp thị trường khu vực và các vấn đề liên quan khác.
2. Những giải pháp về phía Nhà nước
Để phát triển hơn nữa ngành xi măng, một trong những ngành mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội cao, hàng năm đóng góp nhiều cho ngân sách Nhà nước cũng như tổng sản phẩm quốc nội của nền kinh tế thì nhà nước nên có những biện pháp hỗ trợ cho ngành, như:
Chính phủ cần thực hiện xem xét và phê duyệt các quy hoạch điều chỉnh để các dự án xây dựng các nhà máy xi măng có cơ sở để triển khai thực hiện, không bị rơi vào tình trạng lúng túng trong quá trình thực hiện vì lo ngại đi sai với chủ trương, chính sách của Nhà nước. Sau khi các quy hoạch được phê duyệt, việc đầu tư phát triển xi măng phải được thống nhất quản lý theo quy hoạch, để tránh tình trạng quản lý trồng chéo, dẫn đến tệ quan liêu trong hành chính.
Cần có chính sách đặc thù riêng cho đầu tư phát triển ngành công nghiệp xi măng, cho phép các dự án xi măng được chọn và chỉ định các tổ hợp nhà thầu đối với từng dự án cụ thể như đã áp dụng đối với các dự án thuỷ điện.
Về vốn cho các dự án: Cho phép các dự án xi măng bao gồm đầu tư mới, chuyển đổi công nghệ từ lò đứng sang lò quay và trực tiếp sản xuất clinker ở những địa bàn khó khăn như miền núi phía bắc, trung du, tây Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Tây Ninh, Bình Phước… được vay vốn ưu đãi từ quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước đến 30% tổng mức đầu tư. Nhà nước hỗ trợ đủ vốn từ ngân sách để xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng bên ngoài nhà máy như tuyến điện cao thế, đường bộ, đường sắt… Cho phép chủ đầu tư các sự án xây dựng nhà máy sản xuất xi măng được vay vượt 15% vốn tự có của các ngân hàng thương mại. Giao cho bộ tài chính phát hành trái phiếu hoặc bảo lãnh phát hành trái phiếu cho các dự án đầu tư.
Đồng thời chính phủ cần phải sớm giao cho bộ giao thông vận tải sớm hoàn thiện quy hoạch đầu tư hệ thống giao thông đường sông và đường bộ ở khu vực từ Hà Tây đến bắc Nghệ An va Quảng Bình dọc theo quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh. Giao cho Tổng công ty đường sắt Việt Nam có phương án hợp lý về kế hoạch chạy tàu và giá cước, tính toán lại để tạo điều kiện cho ngành xi măng tổ chức vận chuyển trên tuyến đường sắt Bắc – Nam một phần sản lượng của các nhà máy trong ngành đã và sẽ xây dựng. Giành vị trí để đầu tư xây dựng trạm tiếp nhận trung huyển phân phối xi măng, chinker và vật tư khác phụ vụ công nghiệp sản xuất xi măng.
Thủ tướng chính phủ cần đề nghị bộ Tài nguyên môi trường nghiên cứu rút ngắn các thủ tục về cấp phép thăm dò, khảo sát và cấp phép khai thác khoáng sản. Có kế hoạch bố trí các nhiệm vụ điều tra, đánh giá nguyên liệu xi măng tại các khu vực dự kiến xây dựng các nhà máy xi măng theo quy hoạch.
MỤC LỤC
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32380.doc