Lời nói đầu
Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, ngành Ngân hàng luôn có một vị trí quan trọng, và vai trò của nó càng vô cùng to lớn hơn trong một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như ở nước ta hiện nay. Trong đó phải kể đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Bởi vì nước ta phải trải qua 2 cuộc kháng chiến, sau khi giành được thắng lợi, đất nước được độc lập lúc đó ta mới có điều kiện xây dựng kinh tế. Các doanh nghiệp phần lớn đều bước vào trường với kiến thức kinh doanh ít
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1674 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỏi, công nghệ nghèo nàn lạc hậu, hơn nữa đất nước ta duy trì chế độ bao cấp quá lâu càng khiến cho các doanh nghiệp hoạt động trì trệ kém hiệu quả. Điều đó đương nhiên cũng dẫn tới hiệu quả cho vay của ngân hàng là kém, gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước. Từ năm 1986 nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự bươn chải làm ăn, nền kinh tế phát triển hơn lên và hoạt động cho vay của ngân hàng thực sự phát huy được hiệu quả. Hoạt động cho vay của ngân hàng góp phần phát triển kinh tế đất nước, tạo ra những động lực mới cho cải cách kinh tế, dẫn đến sự hình thành và phát triển đa dạng nhiều loại ngành nghề, hình thức kinh doanh. Đặc biệt trong những năm gần đây theo chủ trương của Chính phủ, ngân hàng đã mạnh dạn cho vay các thành phần kinh tế mới như Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân... tạo điều kiện cho họ phát triển, giải quyết thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Các hình thức bảo đảm tiền vay đã đa dạng hơn xưa: người vay có thể bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3; kể cả bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Về phía ngân hàng bao giờ vấn đề hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay cũng phải được đưa lên hàng đầu. Có như thế ngân hàng mới thu hồi được vốn và có lãi, trang trải chi phí; rồi lại tiếp tục sử dụng vốn quay vòng phát huy được hiệu quả. Nhưng trong thực tế không phải lúc nào tiền vay cũng thu hồi lại được đầy đủ và có lãi, vì có rất nhiều nguyên nhân từ môi trường kinh tế, môi trường pháp lý của Nhà nước, … và một phần không nhỏ về phía cán bộ ngân hàng đã không xem xét thẩm định tốt dự án trước khi cho vay, vấn đề nắm bắt thông tin thị trường. Người đi vay nhiều khi khai báo không đúng sự thật, khai khống, làm nhiều hồ sơ giả để vay nhiều hơn, xem xét phương án kinh doanh của mình chưa kỹ càng …
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp là những ví dụ điển hình cho hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng. Ngày nay nó càng trở thành thời sự hơn trong giai đoạn phát triển kinh tế mạnh mẽ của đất nước. Mục đích của đề tài này người nghiên cứu muốn đề cập đến hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam, thực trạng và hiệu quả hoạt động này tại Sở đang diễn ra như thế nào, nghiên cứu và đề xuất khắc phục, nhằm nâng cao hiệu quả công tác này tại Sở nói riêng và hoạt động ngân hàng cả nước nói chung.
Chương I
Lý luận chung về bảo đảm tiền vay trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại:
Định nghĩa:
NHTMlà một tổ chức kinh doanh mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên của nó là nhận tiền gửi của khách hàng (không kỳ hạn, có kỳ hạn, phát hành séc), về trách nhiệm là phải hoàn trả số tiền đó và sử dụng số tiền đó để: đầu tư, cho vay, chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Các hoạt động chủ yếu của NHTM(hay còn gọi là nghiệp vụ):
Bao gồm 3 lĩnh vực nghiệp vụ: Nghiệp vụ nợ, nghiệp vụ có và nghiệp vụ môi giới trung gian. Đó là các nghiệp vụ nằm trong bảng tổng kết tài sản, ngoài ra còn có các dịch vụ khác không tổng kết trên bảng tài sản như bảo lãnh, cho thuê két sắt, tư vấn …
Ba nghiệp vụ trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau để hình thành hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế. Khi NHTM đi vào hoạt động ổn định, các nghiệp vụ được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động, tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
*Nghiệp vụ nợ (nghiệp vụ tạo lập vốn): Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự hoạt động của ngân hàng. Về sau khi NHTM đã ổn định các nghiệp vụ của nó được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động. Huy động các nguồn vốn khác nhau (tài sản nợ) trong hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM. Một ngân hàng không thể hình thành, lớn mạnh và phát triển mà lại không đặt vấn đề huy động vốn lên hàng đầu. NHTM là người đi vay, tài sản nợ bao gồm những khoản mà nhân dân gửi vào (ký thác) cho ngân hàng, hay ngân hàng đi vay các đối tượng trong nền kinh tế như ngân hàng trung ương(NHTW), các ngân hàng hay tổ chức tài chính khác, chính quyền, nước ngoài, các doanh nghiệp …
- Tài sản nợ của NHTM tập trung vào 5 nhóm phổ biến: 1) Vốn pháp định hay vốn điều lệ, 2) Tiền gửi không kỳ hạn, 3) Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm, 4) Các khoản vay trên thị trường tiền tệ, 5) Các khoản vay của các ngân hàng khác hoặc NHTW. Vốn pháp định là điều kiện bắt buộc ban đầu trước khi ngân hàng được phép khai trương (hay còn gọi là vốn điều lệ) và được ghi rõ trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng mức vốn pháp định do ngân hàng Nhà nước công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt động. Vốn điều lệ sẽ được bổ sung và tăng dần dưới các hình thức: huy động thêm vốn từ các cổ đông, ngân sách cấp lợi nhuận bổ sung … Vốn này chủ yếu được dùng để mua sắm bất động sản, động sản, trang thiết bị … cho hoạt động ngân hàng, ngoài ra còn được dùng để góp vốn liên doanh, cho vay, mua cổ phần của các Công ty khác. Không được dùng vốn điều lệ để chia lợi tức, lập quỹ phúc lợi khen thưởng. Như vậy đến khi hoạt động, vốn điều lệ của ngân hàng có thể đã nằm dưới dạng trụ sở, văn phòng, kho bãi, xe cộ, trang thiết bị, dự trữ hay ký quỹ tại NHTW, hoặc đã đầu tư vào một thương vụ nào đó.
ở Việt Nam để thành lập một NHTM trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của ngân hàng Nhà nước. Nguồn vốn pháp định của mỗi ngân hàng do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định, nghĩa là nguồn vốn này có thể do Nhà nước cấp hoặc có thể do huy động trong xã hội. Việt Nam ta quy định như sau:
* Nếu là NHTM thuộc sở hữu Nhà nước, vốn pháp định do ngân sách Nhà nước cấp 100% vốn ban đầu.
* Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định (vốn điều lệ) do sự đóng góp của các cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu.
* Nếu là NHTM liên doanh, vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần của các ngân hàng tham gia liên doanh.
Ngoài vốn pháp định (vốn điều lệ), NHTM còn có các quỹ dự trữ buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng: Quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi … Toàn bộ các nguồn vốn này được gọi vốn tự có của ngân hàng, nhưng nó lại vô cùng quan trọng vì qua đó mọi người có thể thấy được thực lực, quy mô của ngân hàng và vì nó lại là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng.
Theo đà phát triển, vốn này sẽ được gia tăng về số lượng tuyệt đối, song nó vẫn luôn luôn chiếm tỷ trọng nhỏ trong kết cấu nguồn vốn. Vốn tự có chỉ là điểm xuất phát để tổ chức hoạt động ngân hàng. Ngày nay các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng dựa trên cơ sở vốn vay mượn (nghiệp vụ kỹ thác, vay các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, phát hành các giấy tờ có giá …) tỷ lệ giữa vốn vay mượn và vốn tự có có thể từ 1/10 đến 1/100. Vốn tự có là điều kiện pháp lý cơ bản, đồng thời là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng. Chính vì vậy quy mô vốn là yếu tố quyết định quy mô huy động vốn và quy mô tài sản có. Vốn tự có càng lớn, sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi mà tình hình kinh tế và tình hình hoạt động ngân hàng trải qua giai đoạn khó khăn. Vốn tự có càng lớn, khả năng tạo lợi nhuận càng lớn vì có thể đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng có nhiều cơ hội làm ra tiền hơn. Vốn tự có có 3 chức năng: Chức năng bảo vệ (sự bảo đảm thanh toán cho người ký thác khi vỡ nợ, góp phần duy trì khả năng trả nợ, bằng cách cung cấp một khoản tài sản dự trữ để ngân hàng khỏi bị đe dọa bởi sự thua lỗ để có thể tiếp tục hoạt động); chức năng hoạt động (xây dựng trụ sở, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng); chức năng điều chỉnh (thoả mãn các cơ quan quản lý ngân hàng: xem xét cấp giấy phép hoạt động, thiết lập các chi nhánh, giới hạn tín dụng đầu tư và mua sắm tài sản của ngân hàng).
- Nghiệp vụ ký thác: Do khách hàng gửi vào và để lại trong tài khoản của họ tại ngân hàng; theo 2 mục đích: hưởng các lợi ích của các phương tiện mà ngân hàng có thể cung cấp cho họ, thứ hai là lấy lãi suất như các số tiền gửi vào sổ tiết kiệm hay vào các tài khoản định kỳ (trong trường hợp này thì khách hàng không còn quyền sử dụng các dịch vụ của ngân hàng như dùng séc để thanh toán chẳng hạn).
Ký thác của ngân hàng chủ yếu từ 2 nguồn: Từ doanh nhân và từ dân cư. Luật pháp quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của ngân hàng khi nhận ký thác và chính nghiệp vụ ký thác còn cung cấp một tiêu chuẩn để phân biệt giữa ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian khác. Về phương diện pháp lý, NHTM trở thành người bảo quản các số tiền gửi dưới bất kỳ hình thức nào và được quyền sử dụng các số tiền đó trong các nhu cầu hoạt động chuyên môn của mình, nhưng đồng thời cũng có trách nhiệm hoàn lại vốn trong các điều kiện đã được quy định.
Các khoản tiền ký thác được phân loại thành: Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn.
- Nghiệp vụ đi vay: Sau khi đã sử dụng hết vốn nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi của khách hàng, các NHTM có thể vay ở NHTW, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài … Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn vốn, nhưng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để bảo đảm cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường.
* Nghiệp vụ có: Huy động được vốn rồi thì NHTM phải tìm cách để hiệu quả hoá những tài sản này. Hầu như tất cả các khoản mục bên tài sản nợ của ngân hàng đều là vốn vay, nghĩa là ngân hàng phải trả lãi suất cho nó đến từng giờ. Do đó để khỏi bị thiệt hại, ngân hàng luôn luôn phải cho vay hoặc đầu tư ngay số tài sản ấy vào những dịch vụ sinh lời, có thu được lãi ngân hàng sẽ trả lãi cho vốn đã vay, thanh toán cho các chi phí trong hoạt động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của ngân hàng.
Tài sản có cho biết những khoản nợ mà thị trường nợ ngân hàng hoặc là những khoản mà ngân hàng cho thị trường vay. Ngân hàng là chủ nợ và các đối tượng vay tiền của nó là con nợ. Ngân hàng có rất nhiều cách để đầu tư tiền của nó. Sự khác nhau giữa các loại đầu tư này hình thành nên sự khác nhau trong tài sản có của NHTM và thường được quy về các nhóm sau:
- Dự trữ tiền mặt bao gồm tiền mặt tại kho của ngân hàng và tiền mặt ký gửi tại NHTW.
- Đầu tư vào chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu, hối phiếu)
- Cho vay
- Đầu tư vào các loại tài sản (như bất động sản, cơ sở hạ tầng trang thiết bị …)
* Nghiệp vụ môi giới trung gian: Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ ngân hàng theo đó cũng phát triển theo để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện nghiệp vụ trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho các ngân hàng những chứng khoản thu nhập khá quan trọng. Các dịch vụ ngân hàng sẽ giúp ngân hàng phát triển toàn diện. Hiện nay, để cạnh tranh với nhau các NHTM không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, cung cấp tiện nghi cho khách hàng, tạo thêm những hình thức dịch vụ mới, tạo sự phong phú đa dạng hoạt động kinh doanh.Dịch vụ ngân hàng càng phát triển thể hiện xã hội càng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển.
Nghiệp vụ trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ ngân hàng khác nhau, chủ yếu là các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt như sau:
- Dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này sang tài khoản khác cùng ở một ngân hàng hay ở 2 ngân hàng khác nhau, thông qua các công cụ như séc, lệnh chi, thẻ chi trả.
- Dịch vụ thu hộ và chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Việc chi hộ ngân hàng chỉ tiến hành khi có lệnh của chủ tài khoản.
- Dịch vụ trả lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Đến tháng doanh nghiệp chỉ cần gửi bảng lương qua ngân hàng, theo đó ngân hàng sẽ ghi nợ vào tài khoản doanh nghiệp đó và tiến hành chi lương cho những người có tên trong danh sách tiền lương.
- Dịch vụ chuyển tiền tự địa phương này sang địa phương khác.
- Dịch vụ khấu trừ tự động cũng là dịch vụ với khách hàng là cá nhân. Theo đó nếu khách hàng cho phép, ngân hàng sẽ tự động ghi nợ tài khoản của khách hàng để thanh toán các hoá đơn đòi tiền do các đơn vị dịch vụ gửi đến như: trả tiền điện, nước, điện thoại, thuê nhà … Đây là những khoản chi thường xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian và phiền toái khi đi thanh toán các khoản này.
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại:
Là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư. Kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các NHTM càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng đa dạng. ở các nước đang phát triển (cả Việt Nam) khi cho vay ngắn hạn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn.
Cho vay của NHTM, nói rộng ra là tín dụng của NHTM xét về mặt pháp lý có thể phân thành 3 loại:
+ Cho vay ứng trước (hay còn gọi là loại cho vay trực tiếp, cho vay tiền).
+ Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền.
+ Cho vay qua chữ ký (cho vay qua việc cam kết bằng chữ ký).
Mỗi loại cho vay có đặc thù riêng, thủ tục pháp lý khác nhau, mức độ an toàn khác nhau.
+ Cho vay tiền: Là nghiệp vụ tín dụng trong đó người cho vay cam kết giao cho người đi vay một khoản tiền và người đi vay cam kết sẽ hoàn trả theo thời hạn nhất định. Giá trị hoàn trả lớn hơn giá trị khoản vay, phần chênh lệch đó là lãi cho vay. Lãi cho vay tỷ lệ với số lượng tiền và thời hạn vay. Cho vay tiền cũng được gọi là loại cho vay ứng trước: thông qua sự thoả thuận giữa người đi vay và người cho vay, dựa trên các phương án kinh doanh người đi vay trình cho người cho vay; bên cạnh đó khoản vay còn được đảm bảo bằng tài sản của người đi vay. Loại cho vay này chứa đựng rủi ro cao vì thiếu cơ sở đảm bảo bằng những hành vi thương mại đã được thực hiện, nghĩa là khách hàng nhận tiền vay sau đó mới đưa tiền đó vào sử dụng. Khách hàng trong trường hợp này có thể sử dụng tiền trái mục đích ghi trên khế ước vay do đó tạo rủi ro cho ngân hàng (rủi ro đạo đức).
Loại cho vay này dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản:
- Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi: Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu. Và để thực hiện nguyên tắc này mỗi lần cho vay ngân hàng phải định kỳ hạn nợ phù hợp. Khi đến kì hạn nợ người đi vay phải lập giấy trả nợ cho ngân hàng, nếu không ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của người đi vay để thu hồi nợ. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ số dư thì chuyển nợ quá hạn. Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả nợ, ngân hàng sẽ phát mại tài sản đảm bảo. Nguyên tắc này hạn chế rủi ro về thanh khoản.
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích: Không những là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của ngân hàng. Hiệu quả của nó trước hết là đẩy nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều khối lượng sản phẩm, dịch vụ; đồng thời tạo ra nhiều tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Khi thực hiện nguyên tắc này ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay, bởi vì mục đích đó đã được ngân hàng thẩm định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn, nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn.
- Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo: Tài sản này có thể là hình thành từ vốn vay ngân hàng, là tài sản của người đi vay hoặc còn có thể là tín chấp hoặc bảo lãnh của người thứ 3.
Có các loại đảm bảo tín dụng:
* Đảm bảo đối nhân: Là sự cam kết của một hay nhiều người về việc phải trả nợ thay cho ngân hàng thay cho một khách hàng khi khách hàng này không hoàn trả được nợ cho ngân hàng. Người đứng ra bảo lãnh phải thoả mãn các điều kiện sau: có đủ năng lực pháp lý, đủ năng lực tài chính lành mạnh, có khả năng trả nợ thay cho người vay vốn, phải có tài sản thế chấp, cầm cố.
Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản pháp lý gọi là hợp đồng bảo lãnh. Hợp đồng đó phải có chứng nhận của cơ quan công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân quận, thị xã thuộc tỉnh, thành phố.
* Đảm bảo đối vật: Có 2 hình thức là thế chấp tài sản và cầm cố tài sản. Thế chấp tài sản là việc bên vay dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên cho vay. Bên đi vay vẫn tiếp tục sử dụng tài sản thế chấp và chỉ giao cho bên cho vay giấy chủ quyền của tài sản đó. Còn cầm cố tài sản là việc bên đi vay có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc quyền sở hữu cuả mình cho bên cho vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
+ Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền: Chủ yếu dựa trên cơ sở mua bán các công cụ tài chính (hối phiếu, lệnh phiếu, ký hoá phiếu …) tạo ra nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu của ngân hàng, tức là mua nợ tính trên khoảng thời gian còn lại cho đến lúc đáo hạn của thương phiếu. Ngân hàng không phải cho vay mà là được mua một trái phiếu về phương diện pháp lý, việc thu nợ có cơ sở vững chắc.
Chiết khấu thương phiếu đem lại lợi nhuận cao mà tương đối ít rủi ro so với cho vay ứng trước.
Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền là kết quả của việc thanh toán trước hạn một khoản trái quyền hay 1 chứng phiếu mà quyền sở hữu đã được chuyển giao cho ngân hàng, đó chủ yếu là hình thức chiết khấu thương phiếu và chuyển nhượng khoản cho vay nghề nghiệp.
+ Tín dụng qua chữ ký (cho vay qua cam kết bằng chữ ký). Ngân hàng không ứng tiền ra mà chỉ cam kết sẽ trả một khoản nợ của khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả được. Chính vì lý do bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình mà người ta gọi là hành vi cam kết bảo lãnh của ngân hàng là tín dụng qua chữ ký.
Bảo lãnh là đưa ra những cam kết của ngân hàng dưới hình thức cấp chứng thư và hạch toán theo dõi ở ngoài bảng, chứ thực tế là không (hoặc chưa) phải sử dụng ngay vốn để cho vay như các loại tín dụng thông thường. Có 2 loại: bảo lãnh ngân hàng và tín dụng chấp nhận. Bảo lãnh ngân hàng là hình thức rất quan trọng trong thực tiễn bởi vì nó là điều kiện rất hay phải có để một số người thụ trái được trả chậm hoặc không phải ký quỹ tiền đặt cọc. Chẳng hạn như cơ quan hải quan yêu cầu phải có sự bảo lãnh của ngân hàng để cho phép chậm trả, hoặc chính quyền các cấp đòi hỏi phải có bảo lãnh ngân hàng để giao phó đơn hàng. Còn tín dụng chấp nhận, ngân hàng chấp nhận một hối phiếu đòi tiền chính ngân hàng và ngay trước khi hối phiếu đến hạn, khách hàng phải nộp vào ngân hàng số tiền cần thiết để thanh toán. Như vậy ngân hàng không phải chi vốn ra về nguyên tắc. Việc chấp nhận này cho phép chủ nợ có được một chứng từ đảm bảo được thanh toán bởi khả năng thanh toán của ngân hàng đã đứng ra chấp nhận.
Ngoài 3 loại cho vay trên, NHTM còn có các loại cho vay khác như cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay cầm cố, hùn vốn kinh doanh, các nghiệp vụ liên kết tín dụng …
Các hình thức đảm bảo tiền vay; nguyên tắc bảo đảm tiền vay:
Hình thức đảm bảo tiền vay bằng tài sản:
Là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay.
+ Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay.
+ Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3.
+ Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Hình thức đảm bảo tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản:
+ TCTD chủ động lựa chọn khách hàng vay không có bảo đảm bằng tài sản.
+ TCTD Nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của chính phủ.
+ TCTD cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội.
Nguyên tắc bảo đảm tiền vay:
+ TCTD có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm, chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp TCTD Nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính phủ thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản cho vay này được chính phủ xử lý.
+ Khách hàng vay được TCTD lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay TCTD phát hiện khách hàng vay vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng thì TCTD có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn.
+ TCTD có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ khi khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
+ Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh vẫn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, thì khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
Quan niệm về hiệu quả bảo đảm tiền vay:
NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, mục tiêu hoạt động thì nhiều và hiệu quả bảo đảm tiền vay là một trong những mục tiêu quan trọng ngân hàng luôn hướng tới. Có thu hồi được nợ cho vay, có lãi; ngân hàng mới tiếp tục có vốn để tái sản xuất, không ngừng nâng cao uy tín và chất lượng của mình trên thương trường, tìm tòi ra những hình thức dịch vụ mới phục vụ khách hàng được tốt hơn; từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển chính là mục tiêu hoạt động ngay từ khi NHTM mới thành lập. Nhưng dù cho ngân hàng có thẩm định dự án vay vốn của khách hàng, đánh giá phương án sản xuất kinh doanh, phân tích tài chính khách hàng tốt đến đâu đi chăng nữa vẫn không thể nói là có sự hoàn hảo, ngoài ra còn kể đến những sự biến đổi thị hiếu, nhu cầu đột ngột của người tiêu dùng, ảnh hưởng thời tiết, những biến động kinh tế trong và ngoài nước chưa thể lường hết được. Bản thân khách hàng khi vay vốn ngân hàng họ không hề có ý định trốn tránh trách nhiệm trả nợ vay của mình đối với ngân hàng nhưng họ bị lâm vào những tình huống bất ngờ, mất khả năng trả nợ cho ngân hàng từ đó trốn tránh trách nhiệm trả nợ. Hiệu quả bảo đảm tiền vay tốt biểu hiện ngân hàng cẩn thận, có trách nhiệm cao trong hoạt động của mình, tất cả các khâu từ thẩm định, đánh giá, phân tích tài chính cho đến ước lượng trước được những biến động trong tương lai (chỉ là tương đối). Điều này cũng biểu hiện là ngân hàng hiểu khách hàng và công việc của họ có trách nhiệm với khoản cho vay của mình, chịu khó thâm nhập tìm hiểu kỹ thị trường. Thu hồi được nợ cho vay để tái cho vay, tránh được tình trạng thua lỗ, kể cả nguy cơ bị đổ vỡ, tránh gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế.
Và điều quan trọng nhất là hiệu quả đảm bảo tiền vay tốt thì ngân hàng mới có tiền để trả nợ trả lãi cho những người gửi tiền, cho những tổ chức, đoàn thể, cho các khoản vay từ NHTW và các TCTD khác. Từ đó mới có thể tiếp tục thu hút huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của mình không ngừng phát triển.
Đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố ,thế chấp là những biện pháp của ngân hàng nhằm thu hồi lại được nguồn vốn của mình ,vì phòng khi khách hàng vay không có khả năng hoàn trả lại món nợ vay thì lúc đó ngân hàng còn nắm giữ tài sản cầm cố, thế chấp của họ; ngân hàng có quyền được đem những tài sản đó ra phát mại thu hồi lại khoản đã cho vay. Biện pháp này giảm thiêủ rủi ro cho phía ngân hàng. Hiện nay ở Việt nam có xu hướng tất yếu đang diễn ra là sự phát triển nhanh của hệ thống các doanh nghiệp ngoài quốc doanh :nhiều doanh nghiệp này rất muốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nhưng họ lại thiếu vốn tiền mặt . Điều kiện duy nhất dể họ có thể vay vốn từ ngân hàng là phải có tài sản cầm cố, thế chấp.Những tài sản cầm cố, thế chấp này phần lớn thường là tài sản có giá trị sử dụng cao , hoặc nhà cửa , đất đai , nhà xưởng , dây chuyền sản xuất .Khi nhận những tài sản này ngân hàng cùng với khách hàng định giá chúng cho đến khi hai bên cùng thống nhât được giá trị đảm bảo của tài sản đó .Trước mắt thì ngân hàng rất yên tâm vì giá nhà đất, giá máy móc trên thị trường lúc đó đúng thực là thế ,và ngân hàng đã giảm thiểu tối đa rủi ro bằng cách chỉ cho vay một tỷ lệ phần trăm nhất định trên giá trị của tài sản đó. Nhưng những khó khăn về sau mới xuất hiện: đó là khi khách hàng không có khả năng trả nợ , hết hạn mà cũng vẫn chưa trả ngân hàng đem tài sản đó ra phát mại thì phần lớn thường vào lúc giá trị của chúng trên thị trường bị suy giảm. Như nhà đất chẳng hạn, giá cả loại bất động sản này lên xuống thất thường theo thời gian , theo thị trường ,theo quy hoạch; ngân hàng không thể nắm bắt và theo dõi sát sao được sự biến động này,dẫn đến phần lớn khi phát mại ngân hàng phải chấp nhận thu hồi chỉ được một phần nhỏ giá ngân hàng đưa ra ban đầu ; đó là chưa kể đến hàng loạt các chi phí khác ngân hàng phải bỏ ra như chi phí cưỡng chế thu hồi nhà đất trong trường hợp người vay liều lĩnh bất chấp không giao nhà cho ngân hàng, chi phí cho việc cung cấp tạm nơi cư trú cho họ , chi phí cho công chứng ,toà án ....
Còn đối với thiết bị máy móc dây chuyền sản xuất là tài sản cầm cố, thế chấp; giá trị của những tài sản này cứ bị hao mòn đi một cách vô hình theo sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ .Máy móc sau hiện đại hơn , tinh vi và hiệu quả hơn so với máy móc cũ và vô hình chung đẩy giá trị của máy cũ ngày càng giảm đi. Để đối phó lại các chủ doanh nghiệp phải tận dụng được máy móc từng ngày từng giờ , phát huy hết hiệu quả công suất của máy; đến khi ngân hàng nhận tài sản cầm cố thế chấp để phát mại thì ngay bản thân máy móc đó cũng đã quá sập xệ , hao mòn hữu hình rồi.
Đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thể chấp không phải chỉ có những khó khăn trên mà ngay trong thực tế còn nhiều vấn đề phát sinh nữa ngay từ trong những văn bản về hoạt động này .Các văn bản chồng chéo lên nhau giữa các Bộ, ngành, Chính phủ và cả Ngân hàng Nhà Nước; thậm chí có nơi xử ký theo kiêủ này, nơi kia xử ký theo kiểu khác vì sự hiểu và vận dụng khác nhau. Nhưng chung quy lại cái thiệt nhìn thấy rõ nhất vẫn là về phía ngân hàng .
Nâng cao hiệu quả đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp chính là việc tìm ra giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho các hoạt động này, tìm giải pháp bình ổn thị trường giá cả, tăng thêm quyền tự chủ hơn nữa cho các NHTM, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp qui trong hoạt động ngân hàng .Điều này càng thiết thực hơn trong giai đoạn hiện nay khi ngành ngân hàng đang nỗ lực để có một sự biến đổi vượt bậc , một bước cải cách trong toàn hệ thống nhằm nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta phát triển đi lên , hội nhập với khu vực và thế giới .
Chương II
Thực trạng hoạt động đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Giới thiệu về Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam:
Giới thiệu chung :
Có vị trí tại số 10 Lê Lai - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội, một địa điểm thuận tiện cho các hoạt động giao dịch kinh doanh, khu vực dân cư đông đúc, các dịch vụ thương mại phát triển mạnh, nhiều cơ quan lớn, nhiều văn phòng đại diện của các Công ty trong và ngoài nước, trung tâm của thủ đô. Từ nhiều năm qua hoạt động của Sở luôn chiếm một vị trí quan trọng trong toàn bộ hệ thống hoạt động Ngân hàng Công thương Việt Nam. Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản luôn đứng đầu toàn hệ thống: nguồn vốn luôn chiếm khoảng 20% trong hệ thống, dư nợ tín dụng, đầu tư luôn đứng một trong hai vị trí dẫn đầu, hạch toán nội bộ cũng luôn dẫn đầu (năm 2001 là 5%). Sở luôn được chọn làm nơi triển khai thí điểm các chương trình, sản phẩm dịch vụ mới của Ngân hàng Công thương Việt Nam, là đầu mối cho các chi nhánh Ngân hàng công thương trên địa bàn, triển khai các chương trình của NHCTVN với các đối tác và bạn hàng
Về tổ chức phòng ban tại Sở giao dịch I-NHCTVN
Ban lãnh đạo Sở gồm : 1 giám đốc, 3 phó giám đốc.
Các phòng: 9 phòng nghiệp vụ, 1 phòng giao dịch, 1 tổ nghiệp vụ bảo hiểm (phòng giao dịch và tổ nghiệp vụ bảo hiểm mới thành lập khoảng T4, T5 năm 2001). Tổng số cán bộ của Sở là 261 người.
*Phòng cân đối tổng hợp: Tổ chức huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và dân cư bằng VNĐ hoặc ngoại tệ theo hướng dẫn của Tổng giám đốc NHCTVN, trực tiếp điều hành lao động, tài sản tại các quỹ tiết kiệm của Sở, đảm bảo an toàn tuyệt đối tài sản, tiền bạc của cơ quan Nhà nước tại các quỹ tiết kiệm theo đúng chế độ hiện hành của Tổng giám đốc NHCTVN.
- Lập kế hoạch kinh doanh (hàng quý kết hợp với phòng kinh doanh, theo các chỉ tiêu của NHCTVN giao)
- Tổng hợp phân tích báo cáo mọi tình hình hoạt động của Sở theo yêu cầu của giám đốc Sở, giám đốc Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn, Tổng giám đốc NHCTVN.
- Tổng hợp báo cáo các vấn đề liên quan đến thi đua khen thưởng tại Sở theo đúng cơ chế hiện hành của Tổng giám đốc NHCTVN.
- Làm các việc khác do Giám đốc Sở giao.
*Phòng kinh doanh:
- Thực hiện cho vay, thu nợ ngắn hạn, trung dài hạn bằng VNĐ hoặc ngoại tệ, đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế theo đúng cơ chế tín dụng của ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của Tổng giám đốc NHCTVN.
- Thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp để tham gia dự thầu, thực hiện hợp đồng thanh toán mua hàng trả chậm theo đúng hướng dẫn của NHCTVN.
- Chiết khấu thương phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá theo quy định của Thống đốc ngân hàng Nhà nước và Tổng giám đốc NHCTVN.
- Nghiên cứu đề xuất biện pháp giải quyết vướng mắc trong hoạt động kinh doanh tại Sở, phản ánh kịp thời những vấn đề mới phát sinh để báo cáo Tổng giám đốc NHCTVN xem xét, giải quyết.
- Phân tích hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn tại Sở, cung cấp kịp thời có chất lượng các báo cáo, thông tin về công tác tín dụng cho lãnh đạo Sở và các cơ quan hữu quan theo đúng quy định của Tổng giám đốc NHCTVN.
- Làm một số công việc khác do giám đốc Sở giao.
*Phòng kế toán - tài chính:
- Thực hiện mở tài khoản và giao dịch với khách hàng theo đúng quy định của Thống đốc ngân hàng Nhà nước và Tổng giám đốc NHCTVN; hạch toán kịp thời, chính xác mọi biến động về vốn, tài sản của khách hàng và ngân hàng tại Sở.
- Thực hiện công tác thanh toán qua ngân hàng đối với các đơn vị tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng và cá nhân, đảm bảo kịp thời, chính xác.
- Tiếp nhận và xử lý hạch toán kế toán theo đúng quy định các hồ._. sơ vay vốn của khách hàng, phối hợp với phòng kinh doanh để thu nợ kịp thời, đúng chế độ, các món đã cho vay.
- Tính và thu lãi tiền vay, phí dịch vụ; trả lãi tiền gửi cho khách hàng đúng, đầy đủ kịp thời theo chế độ quy định, tổ chức hạch toán kế toán, mua bán ngoại tệ bằng VNĐ; kế toán quản lý tài sản cố định, công cụ lao động, kho ấn chỉ, chi tiêu nội bộ tại Sở theo đúng quy định của Nhà nước và hướng dẫn của Tổng giám đốc NHCTVN.
- Lập các báo biểu kế toán tài chính, cung cấp số liệu liên quan theo đúng quy định của ngân hàng Nhà nước và NHCTVN.
- Tham mưu cho giám đốc, trích lập, hạch toán sử dụng quỹ phúc lợi, khen thưởng tại Sở, phù hợp với chế độ của Nhà nước và của Tổng giám đốc NHCTVN.
- Một số công việc khác.
*Phòng kinh doanh đối ngoại:
- Xác định giá mua bán và thực hiện mua bán ngoại tệ với các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng, cá nhân theo quy định của Nhà nước và hướng dẫn của Tổng giám đốc NHCTVN.
- Hạch toán kịp thời, chính xác các nghiệp vụ thanh toán mua bán chuyển đổi các loại ngoại tệ phát sinh tại Sở bằng ngoại tệ.
- Tiếp nhận và xử lý hạch toán kế toán theo đúng quy định các hồ sơ vay vốn bằng ngoại tệ của khách hàng, phối hợp với phòng kinh doanh để thu lãi kịp thời.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế và làm các dịch vụ ngân hàng đối ngoại theo thông lệ quốc tế và hướng dẫn của TGDD NHCTVN.
- Lập các báo biểu kế toán, báo cáo nghiệp vụ và cung cấp số liệu liên quan theo yêu cầu của giám đốc Sở và TGĐ NHCTVN.
*Phòng tổ chức cán bộ, lao động và tiền lương:
- Nghiên cứu đề xuất với giám đốc Sở phương án sắp xếp bộ máy tổ chức của Sở, đảm bảo đúng quy chế kinh doanh có hiệu quả.
- Tuyển dụng lao động, điều động, bố trí cán bộ nhân viên vào các vị trí công tác phù hợp, phù hợp với năng lực, phẩm chất cán bộ và yêu cầu nhiệm vụ kinh doanh.
- Lập quy hoạch cán bộ lãnh đạo tại Sở, phối hợp với các phòng đào tạo bồi dưỡng cán bộ trong quy hoạch.
- Phối hợp với các phòng liên quan tham mưu cho giám đốc về kế hoạch và thực hiện quỹ tiền lương giải quyết kịp thời về tiền lương, quyền lợi (3 năm/lần), bảo hiểm xã hội và các chính sách khác cho cán bộ theo đúng quy định của Nhà nước và của ngành.
- Lưu trữ và quản lý an toàn hồ sơ cán bộ thuộc Sở quản lý.
*Phòng kiểm soát nội bộ :
- Thực hiện kiểm tra, kiểm toán toàn bộ các hoạt động kinh doanh tại Sở, báo cáo kết quả bằng văn bản với giám đốc Sở, TGDD NHCTVN, kiến nghị những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung về cơ chế.
- Làm đầu mối tiếp các đoàn kiểm tra, kiểm toán đến làm việc tại Sở.
- Giúp giám đốc giải quyết các đơn thư khiếu nại của khách hàng và cán bộ công nhân viên Sở theo đúng thẩm quyền và quy định của pháp luật.
- Thực hiện đầy đủ chế độ thông tin báo cáo do TGĐ NHCTVN quy định.
* Phòng ngân quỹ:
- Thực hiện thu chi tiền mặt, VNĐ hoặc ngoại tệ, ngân phiếu thanh toán kịp thời chính xác đúng chế độ.
- Tổ chức điều chuyển tiền giữa quỹ nghiệp vụ Sở và ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội an toàn, đúng chế độ trên cơ sở đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu chi trả tại Sở.
- Thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các quyết định về an toàn kho quỹ.
- Thực hiện bảo quản nhập xuất các loại ấn chỉ quan trọng và quản lý các hồ sơ, tài sản thế chấp, cầm cố theo đúng chế độ quy định.
- Thực hiện mua tiền mặt, thu đối séc du lịch, thanh toán visa.
- Thực hiện chi tiết quỹ, giao nhận tiền mặt, ngân phiếu thanh toán với các quỹ tiết kiệm an toàn.
* Phòng điện toán: Triển khai và phát triển các phần mềm ứng dụng của NHCTVN về khai thác thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh tại Sở.
- Cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho ban giám đốc và các phòng nghiệp vụ để điều hành kinh doanh có hiệu quả.
- Đảm bảo an toàn bí mật số liệu, thông tin về hợp đồng kinh doanh của Sở theo đúng quy định của ngân hàng Nhà nước,NHCTVN; thực hiện bảo trì, bảo dưỡng hệ thống máy tính, thiết bị tin học để phục vụ cho công tác quản lý không bị ách tắc.
* Phòng hành chính quản trị:
- Thực hiện mua sắm toàn bộ trang thiết bị, phương tiện làm việc phục vụ hoạt động kinh doanh, theo dõi quản lý, bảo dưỡng sửa chữa tài sản, công cụ lao động.
- Phối hợp với phòng kế toán tài chính lập kế hoạch mua sắm, sửa chữa tài sản và công cụ lao động hàng quý, hàng năm theo đúng quy định của Nhà nước và NHCTVN.
- Quản lý và điều hành xe ô tô, nội quy sử dụng điện và điện thoại của Sở.
- Tổ chức công tác văn thư, lưu trữ theo đúng quy định của Nhà nước và NHCTVN.
- Tổ chức công tác bảo vệ an toàn cơ quan, xây dựng nội quy bảo vệ cơ quan.
Một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh của Sở
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
I. Tổng vốn huy động
7.779.000
9.262.841
16.587.595
II. Tổng dư nợ cho vay
1.077.432
1.246.561
1.497.004
III. Nợ quá hạn
6,8%
4,8%
3,6%
Tổng thu
459.656
405.197
572.966
Tổng chi
339.446
280.512
458.256
Lãi
120.210
124.685
114.708
Hiện nay dư nợ tại Sở là 1500 tỷ, trong đó chủ yếu là trung dài hạn (chiếm 65 - 70%). Khách hàng chủ yếu là các tổng Công ty lớn, vay nhiều (như Tổng Công ty Bưu chính viễn thông vay 800 tỷ, Tổng Công ty điện lực vay 500 tỷ + đồng tài trợ 200 triệu USD của Sở, một số dự án nhỏ, ngắn hạn như Công ty thực phẩm miền bắc 130 - 140 tỷ, Công ty xuất nhập khẩu hoá chất 40 tỷ …). Nhìn chung khách hàng của Sở tập trung, không phân tán (kể cả cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cá thể, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần).
Nợ quá hạn (trong 1500 tỷ) tập trung nợ khó đòi 56 - 57 tỷ. Tổng nguồn vốn của Sở là 10.000 tỷ.
Thực trạng hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố và thế chấp tại sở gdi -NHCT vn
Thực trạng hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố
Theo quy định của thông tư số 06/2000/TT - Ngân hàng Nhà nước 1 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, TSCC gồm 8 loại:
+ Máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, đá quý.
+ Ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản tiền gửi tại tổ chức tín dụng bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ.
+ Trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, thương phiếu, các giấy tờ khác giá trị được bằng tiền, riêng đối với cổ phiếu của chính TCTD phát hành thì TCTD không được nhận làm TSCC.
+ Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác phát sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn cứ pháp lý khác.
+ Quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, kể cả trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên theo quy định của pháp luật.
+ Tàu biển theo quy định của Bộ luật Hàng Hải Việt Nam, tàu bay theo quy định của luật Hàng không Dân dụng Việt Nam trong trường hợp được cầm cố.
+ Các tài sản khác theo quy định của pháp luật.
Đối với loại hình doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo luật (như các Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã) khi vay vốn nhất thiết phải thực hiện một trong các hình thức đảm bảo nghĩa vụ trả tiền vay như sau:
+ Thế chấp
+ Cầm cố
+ Bảo lãnh của bên thứ 3.
Như vậy hoạt động cầm cố tại Sở thực chất là công việc giữa Sở với hệ thống các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay của Sở có bảo đảm bằng tài sản cầm cố là rất ít, Sở rất ngại trong loại hình cho vay này, vì phần lớn là rủi ro cao. Hiện nay Sở đang phát triển mạnh hoạt động cho vay có tài sản cầm cố bảo đảm là sổ tiết kiệm, đặc biệt là càng thích hợp hơn với những người kinh doanh, hộ kinh doanh, xí nghiệp kinh doanh vừa và nhỏ. Thủ tục giao dịch trong loại hình cho vay này rất thuận tiện, nhanh chóng về cả 2 phía: Sở và người vay. Ngân hàng không mất nhiều thời gian thẩm định dự án, xem xét kỹ càng phương án kinh doanh của khách hàng vì sổ tiết kiệm có tính bảo đảm cao, còn người vay có thể nhanh chóng có được một khoản tiền phục vụ kịp thời cho mục đích của mình. Nhìn chung là những khoản tiền người vay muốn vay có bảo đảm bằng sổ tiết kiệm là rất ít so với giá trị của Sở, Sở hoạt động linh hoạt hơn với loại hình này.
Ví dụ một cá nhân muốn vay một khoản tiền, Sở sẽ phải lập bộ hồ sơ gồm 3 giấy sau: Biên bản hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ, giấy đề nghị xác nhận và phong toả sổ tiết kiệm. Trong hợp đồng tín dụng khách hàng sẽ phải trình bày chứng minh thư, điện thoại của mình, số tiền mình muốn vay, trình bày mục đích sử dụng tiền của mình, thời hạn vay: thời hạn trả gốc và lãi; trị giá của sổ tiết kiệm. Trên cơ sở hợp đồng tín dụng, ngân hàng sẽ lập giấy nhận nợ (chủ yếu là xác nhận lại các thông tin trong hợp đồng tín dụng nhưng ngắn gọn hơn, ngoài ra người vay còn phải khai báo thêm có dư nợ tại Sở hay không. Quan trọng trong giấy nhận nợ là phải có đủ chữ ký của bên nhận nợ, của cán bộ tín dụng, của trưởng phòng kinh doanh và cả chữ ký của giám đốc Sở giao dịch. Cuối cùng ngân hàng sẽ gửi giấy đề nghị xác nhận và phong toả tới nơi đã phát hành sổ tiết kiệm, yêu cầu cơ quan đó phải xác nhận và phong toả sổ tiết kiệm của người vay tại Sở. Sau khi cơ quan này xác nhận và gửi lại giấy này thông báo cho Sở, lúc đó Sở mới tiến hành cầm cố sổ tiết kiệm và giao cho người vay số tiền vay.
Ví dụ cụ thể: Theo hợp đồng tín dụng số 01 ngày 7/2/2002 bà Lê Minh Ngọc, số chứng minh thư 141300062 do công an Hải Hưng cấp ngày 27/9/94, số điện thoại 0913007379 muốn vay số tiền là 30 triệu đồng cho mục đích tiêu dùng, thời giạn 3 tháng (từ 7/2/2002 đến 7/5/2002), lãi suất vay là 0,65% tháng (và bà Ngọc đã chấp nhận mức lãi suất này). Thời điểm trả gốcvà lãi sẽ vào ngày7/5/2002. Giá trị tài sản bảo đảm là sổ tiết kiệm trị giá 6000 USD, theo tỷ giá hôm đó 15.000 VNĐ/1USD. Sở đồng ý cho bà Ngọc vay và đông thời xác nhận trong giấy nhận nợ là trước đó bà Ngọc không có dư nợ tại Sở. Tiếp đó sở gửi giấy đề nghị xác nhận và phong toả tới quỹ tiết kiệm số 05 (là nơi bà Ngọc lập sổ tiết kiệm) thông báo bà Ngọc đã dùng sổ tiết kiệm vào mục đích vay tiền tại Sở, yêu cầu quỹ tiết kiệm 05 xác nhận và phong toả sổ tiết kiệm của bà Ngọc. Quỹ tiết kiệm số 05 đã xác nhận bà Ngọc lập sổ tiết kiệm tại đó và gửi lại giấy đề nghị, xác nhận và phong toả sổ, thông báo đã phong toả sổ tiết kiệm của bà Ngọc (số tài khoản của sổ tiết kiệm bà Ngọc là 11.1.0037300.06; số tiền 6000 USD, ngày gửi 7/1/2002 và số dư đến ngày 7/2/2002 vẫn còn là 6000 USD).
Các doanh nghiệp nhỏ như Công ty tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn nếu có tài sản bảo đảm là sổ tiết kiệm đứng tên chủ doanh nghiệp do Sở phát hành cũng có thể vay cầm cố sổ tiết kiệm tại Sở giống như trên, cũng với thủ tục đơn giản, gọn nhẹ, thuận lợi.
Nhìn chung hoạt động cầm cố sổ tiết kiệm của Sở đã tạo ra hướng kinh doanh linh hoạt hơn cho cả Sở và khách hàng, nhanh chóng kịp thời cho mục đích kích cầu đầu tư của cá nhân của doanh nghiệp, từ đó tạo ra thuận lợi cho kích cầu xã hội.
Thực trạng hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp.
Theo tinh thần của thông tư 06, TSTC bao gồm:
+ Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất.
+ Quyền sử dụng đất mà pháp luật về đất đai quy định được thế chấp.
+ Trường hợp thế chấp toàn bộ tài sản có vật phụ, thì vật phụ đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong trường hợp thế chấp một phần bất động sản có vật phụ, thì vật phụ chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu các bên có thoả thuận.
+ Tàu biển theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam. Tàu bay theo quy định của luật Hàng không Dân dụng Việt Nam trong trường hợp được thế chấp.
+ Các tài sản khác theo quy định của pháp luật.
Do đặc điểm về khu vực địa lý là trung tâm Hà Nội, nơi tập trung nhiều các doanh nghiệp nên đối tượng khách hàng của Sở vô cùng đa dạng bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, hợp tác xã và tổ sản xuất, Công ty liên doanh … Tuy nhiên hoạt động tín dụng của Sở giao dịch I thường tập trung chủ yếu vào khu vực kinh tế quốc doanh, chính là các doanh nghiệp Nhà nước. Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước này lớn, làm ăn có uy tín, có hiệu quả, hơn nữa cho vay họ ít rủi ro hơn so với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nơi mà sự phức tạp và rủi ro luôn tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy hình thức bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch I chủ yếu bằng tín chấp chiếm tới 86,99%, hình thức bảo lãnh chỉ là bảo lãnh bằng uy tín của người bảo lãnh mà không có tài sản đảm bảo và do vậy chiếm tỷ lệ không đáng kể. Hình thức cầm cố chủ yếu là cầm cố bằng sổ tiết kiệm tại chính Sở chiếm khoảng 10,31%. Còn hình thức thế chấp tài sản tuy chỉ chiếm tỷ trọng thấp khoảng 1,54% nhưng đây lại là hình thức hữu hiệu nhất để thu hồi vốn cho Sở khi xảy ra rủi ro.
Nhưng cái khó cho hoạt động thế chấp của Sở là nhiều khách hàng thế chấp, họ thuộc đủ mọi ngành nghề khác nhau dẫn tới lượng TSTC tại Sở vô cùng đa dạng phong phú về tính năng và hoạt động của từng loại gây khó khăn cho công tác phát mại TSTC tại Sở về sau này.
Các loại tài sản được thế chấp tại Sở chủ yếu bao gồm: nhà ở, quyền sử dụng đất, các tài sản liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh như dây chuyền máy móc thiết bị, hàng hoá … Các loại tài sản này đều có thị trường chuyên dụng để mua bán, giao dịch, mặt khác việc phát mại các tài sản thế chấp này ngày càng thuận lợi hơn do thẩm định và quản lý dễ dàng, nhu cầu của xã hội tăng, đáp ứng nhu cầu phát triển công nghệ. Một số tài sản khác được phép thế chấp theo quy định nhưng không thường được chấp nhận do khi phát mại gặp phải nhiều khó khăn về thủ tục và quy trình xử lý cũng như hạn chế về khả năng, trình độ của cán bộ thẩm định.
Bảng 1: Phân loại các loại hình bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam năm 2000.
Đơn vị: triệu đồng
Hình thức bảo đảm
Món vay
Doanh số
Số món
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
1, Thế chấp
50
11,48%
31.000
1,54%
2, Tín chấp
284
65,14%
721.000
86,99%
3, Bảo lãnh
21
4,8%
23.000
1,16%
4, Cầm cố
81
15,9%
204.000
10,31%
Tổng
436
100%
1.978.200
100%
(Nguồn: Sao kê tài khoản ngoại bảng SGDI – NHCTVN)
Các doanh nghiệp Nhà nước do sử dụng hình thức đảm bảo bằng uy tín nên không cần phải có TSTC. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động nếu Sở thấy doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, không có khả năng trả nợ cho Sở thì Sở buộc các doanh nghiệp phải thực hiện ký kết hợp đồng thế chấp để đảm bảo cho khoản vay. Các DNNQD bắt buộc phải sử dụng hình thức thế chấp hoặc cầm cố để đảm bảo cho khoản vay. Đối với các cá nhân vay vốn, TSTC là một điều kiện bắt buộc không thể thiếu để đảm bảo cho khoản vay. Sở trực tiếp nhận tài sản thế chấp bằng hiện vật hoặc giấy tờ sở hữu gốc.
Nhận thức được tầm quan trọng của TSTC khi có rủi ro xảy ra nên vấn đề thẩm định khả năng đảm bảo của TSTC luôn được Sở coi trọng và coi như là một điều kiện gần như bắt buộc đối với mỗi khoản cho vay đặc biệt là đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Việc thực hiện quy trình định giá TSTC được tiến hành đúng theo quy định của Nhà nước và cuả NHCTVN. Sở sẽ căn cứ vào từng món vay và giá trị TSTC mà sẽ đưa ra mức cấp tín dụng phù hợp, thường là 70% giá trị TSTC.
Tuy nhiên có lúc Sở có sự linh hoạt trong cho vay theo tính chất và đặc điểm của từng loại tài sản.
Công tác kiểm tra, đánh giá thực trạng TSTC của mỗi khoản vay được các cán bộ tín dụng thực hiện một cách thường xuyên nhằm tránh được các rủi ro đối với TSTC nếu phải phát mại để thu hồi nợ.
Bảng 2: Cơ cấu dư nợ cho vay từ 1999 - 2001
Chỉ tiêu
31/12/1999
31/12/2000
31/12/2001
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
2000 so với 1999
Số tiền
Tỷ trọng
2001 so với 2000
±st
±tỷ trọng
±st
±tỷ trọng
Tổng dư nợ cho vay
6
100%
1246,6
100
+139
+12,55%
1497
100%
+250
+20%
1, Tính theo thời hạn cho vay
- Ngắn hạn
378,35
34,1%
385,83
30,95%
+7,53
+1,99%
475
31,7%
+89
+23%
- Trung dài hạn
729,25
85,9%
860,72
69,05%
+131,4
+18,03%
1022
68,5%
+110
+12,7%
2, Phân tích thành phần kinh tế
- Quốc doanh
983,3
88,8%
1140,5
91,48%
+157,2
+15,99%
1355
90,5%
+215
+18,8%
- Ngoài quốc doanh
124,3
11,2%
106,1
8,52%
-18,2
-14,64%
142
9,5%
+36
33,3%
3, Phân tích theo ngành sx - kd
- Công nghiệp
83,1
7,5%
69,8
5,6%
-13,3
-16,0%
63,9
4,3%
-5,9
-8,5%
- Thương nghiệp,
Vật tư
230,9
20,8%
338,6
27,2%
+107,7
+46,6%
425,0
28,3%
+86,4
+25,7%
- GTVT Bưu điện
737,6
66,6%
812,6
65,2%
+75,0
+10,0%
950,0
63,4%
+137,4
16,9%
- Ngành khác
56,0
5,1%
25,6
2,0%
-30,4
-54,0%
58,1
4%
+32,5
26,9%
4, Phân theo biện pháp bảo đảm tiền vay
- Bằng tài sản (chủ yếu là cầm cố thế chấp)
69,699
5,6%
- Không có bảo đảm bằng tài sản
1176,901
94,4%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của Sở GD I- NHCTVN )
Ví dụ vay vốn tại Sở thế chấp bằng nhà:
Công ty trách nhiệm hữu hạn Tùng Nam địa chỉ 205 Khâm Thiên - Hà Nội chuyên kinh doanh xe máy, buôn bán tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, làm đại lý ký gửi mua bán hàng hoá. Đầu tháng 1/2002 Công ty có nhu cầu vay vốn để kinh doanh xe máy. Công ty đã lập bộ hồ sơ xin vay gửi đến Sở bao gồm phương án kinh doanh của Công ty, bảng cân đối kế toán mới nhất của Công ty (tháng 11/2001), bảng cân đối phát sinh 2001 của Công ty đến tháng 11/2001, bản hợp đồng tín dụng, giấy đề nghị vay vốn, giấy nhận nợ.
Công ty trách nhiệm hữu hạn Tùng Nam có tài khoản gửi Việt Nam đồng số 710A - 02206 tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam, được thành lập theo quyết định số 4631 ngày 23/9/1999 do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp, số đăng ký kinh doanh 073472 ngày 4/10/1999 do Sở kế hoạch đầu tư thành phố Hà Nội cấp. Công ty đã có mối quan hệ với Sở từ rất lâu, đã nhiều lần vay vốn tại Sở và hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi. Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty đến thời điểm vay vốn lần này là rất tốt. Năm 2000 tổng doanh thu đạt 42 tỷ 832 triệu đồng, lợi tức sau thuế là 12,488 triệu, năm 2001 doanh thu thuần đạt 90 tỷ, lợi tức trước thuế 100 triệu đồng, có các đối tác là các Công ty kinh doanh xe máy trong nước. Cho đến ngày vay vốn lần này tình hình tài chính của Công ty đáng tin cậy: nguồn vốn chủ sở hữu là 711.300.000đ, trong đó 600.000.000 là vốn lưu động, 111.300.000đ là vốn cố định, dư nợ tại sở là 1 tỷ 900 triệu đồng, hàng tồn kho 1 tỷ đồng, giá trị tài sản cố định còn lại là 111.300.000đ. Lợi thế của Công ty có mặt hàng kinh doanh chính là xe gắn máy, văn phòng lại đặt tại 205 Khâm Thiên - Hà Nội nơi đông dân cư đồng thời cũng là 1 trong những thị trường tiêu thụ xe gắn máy chủ yếu của Hà Nội. Nên từ khi thành lập đến nay Công ty làm ăn có hiệu quả, đảm bảo luôn có lãi và thực hiện đúng các nguyên tắc chế độ hạch toán kế toán do Nhà nước Việt Nam ban hành. Mục đích cụ thể của phương án kinh doanh lần này là mua và bán xe gắn máy. Các chi phí gồm:
+ Chi phí mua hàng hoá, thành phẩm: 6,5 tỷ
+ Chi phí khác 2,5 tỷ
Về tổ chức tiêu thụ: sẽ bán cho các đối tác thường xuyên của Công ty.
Hình thức thu tiền: Thu bằng tiền mặt, trị giá theo hoá đơn giá trị gia tăng cụ thể của từng đợt giao hàng.
Hiệu quả của phương án: Tổng thu nhập của phương án là chênh lệch giữa đầu vào và đầu ra của lô hàng, lợi nhuận ròng của phương án là 55 triệu đồng.
Nguồn tài chính để thực hiện phương án gồm: Nguồn vốn tự có 1 tỷ đồng, nguồn vốn tự huy động là không có, nhu cầu tài chính thiếu hụt cần phải vay ngân hàng là 4,4 tỷ đồng theo hình thức vay ngắn hạn, có thế chấp và đảm bảo tín dụng bằng thế chấp ngôi nhà số 79 Nguyễn Du - Hà Nội. Công ty đề nghị về nguồn và phương thức trả nợ như sau: Trả hết trong 3 tháng kể từ ngày vay, trả lần đầu sau ngày nhận tiền vay 2 tháng; dự kiến sẽ trả làm 4 lần, mỗi lần 1,1, tỷ. Trên cơ sở xem xét qua tình hình tài chính của Công ty, giấy đề nghị vay vốn và bảng cân đối kế toán của Công ty, xem xét kỹ lưỡng tài sản thế chấp và phương án kinh doanh, kế hoạch trả nợ của Công ty, Sở giao dịch đồng ý cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Tùng Nam vay vốn 4,4 tỷ đồng trong thời hạn 3 tháng (kể từ ngày lập hợp đồng tín dụng 11/1/2002 cho tới 11/4/2002, lãi suất cho vay 0,65%/tháng. Cho vay theo phương thức từng lần, lãi suất vào ngày 25 hàng tháng, gốc trả khi có nguồn thu bán hàng. Cán bộ tín dụng của Sở đã thẩm định và kết luận tình hình tài chính của Công ty là tốt, phương án kinh doanh khả thi, có lãi, tài sản thế chấp đủ là ngôi nhà số 79 Nguyễn Du - Hà Nội được định giá đúng đắn, được Sở địa chính, Uỷ ban nhân dân phường Nguyễn Du xác nhận; nhà mặt phố
Chủng loại đất
Diện tích
Đặc điểm kỹ thuật
Vị trí
Tỉ lệ % giá trị còn lại của tài sản
Đơn giá
Giá trị được định giá
Nhà
205,1m2
Loại I mức A
Đẹp, nơi trung tâm
205,1m2 x 30 triệuđ/m2 = 6153 triệu
189,9m2 x 1 triệuđ/m2 = 189,9 triệu
Tường gạch mái bằng
= 6342,9 triệu
Bảng cân đối kế toán tháng 11/2001
Tài sản
Mã số
Số đầu
Số cuối
A
TSCĐ và đầu tư ngắn hạn
100
I
Tiền
110
1
Tiền mặt tại quỹ
111
1,846.311
4,097.990
2
Tiền gửi ngân hàng
112
1,073.559
1,073.559
3
Đang chuyển
113
II
Các khoản đầu tư t/c ngắn hạn
120
1
Đầu tư CK ngắn hạn
121
2
Đầu tư ngắn hạn khác
128
3
Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn
129
III
Các khoản phải thu
130
1
Phải thu của khách hàng
131
2
Trả trước cho người bán
132
3
VAT được khấu trừ
133
230,406.435
293,027.393
4
Phải thu nội bộ
134
- VKD ở đơn vị trực thuộc
135
- Phải thu nội bộ khác
136
5
Các khoản phải thu khác
138
6
Dự phòng các khoản phải thu khó đòi
139
IV
Hàng tồn kho
140
1
Hàng mua đang đi trên đường
141
2
Nguyênliệu, vật liệu tồn kho
142
3
Công cụ, dụng cụ trong kho
143
4
Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
144
5
Thành phẩm tồn kho
145
6
Hàng tồn kho
146
1,700,256.000
2,368,480.247
7
Hàng gửi đi bán
147
8
Dự phòng giảm giá hàng tồn kho
149
V
Tài sản lưu động khác
150
1
Tạm ứng
151
2
Chi phí trả trước
152
3
Chi phí chờ kết chuyển
153
4
Tài sản thiếu chờ xử lý
154
5
Các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ, ngắn hạn
155
VI
Chi sự nghiệp
160
1
Chi sự nghiệp năm trước
161
2
Chi sự nghiệp năm nay
162
B
TSCĐ và đầu tư dài hạn
206
I
TSCĐ
210
1
TSCĐ hữu hình
211
-Nguyên giá
212
147,121.000
147,121.000
-Giá trị hao mòn luỹ kế
213
(35,821.000)
35,821.000)
2
TSCĐ thuê tài chính
214
- Nguyên giá
215
-Giá trị hao mòn luỹ kế
216
3
TSCĐ vô hình
217
- Nguyên giá
218
- Giá trị hao mòn luỹ kế
219
II
Các khoản đầu tư t/c dài hạn
22
1
Đầu tư chứng khoán dài hạn
221
2
Góp vốn liên doanh
222
3
Đầu tư dài hạn khác
229
III
Chi phí xây dựng cơ bản, dở dang
230
IV
Các khoản ký cược, ký quỹ dài hạn
240
Tổng cộng
250
2,044,882.305
2,777,979.189
Nguồn vốn
A
Nợ phải trả
300
I
Nợ ngắn hạn
310
1
Vay ngắn hạn
311
280,000.000
2,950,000.000
2
Nợ dài hạn đến hạn phải trả
312
3
Phải trả cho người bán
313
1,092,083.000
865,043.250
4
Người mua trả tiền trước
314
7,250.000
11,450.000
5
Thuế và các khoản phải nộp NN
315
6
Phải trả công nhân viên
316
7
Phải trả các đơn vị nội bộ
317
8
Các khoản phải trả, phải nộp khác
318
II
Nợ dài hạn
320
1
Vay dài hạn
321
2
Nợ dài hạn
322
III
Nợ khác
330
1
Chi phí phải trả
331
2
Tài sản thừa chờ xử lý
332
3
Nhận ký cược ký quỹ dài hạn
333
B
Nguồn vốn CSH
400
I
Nguồn vốn quỹ
410
1
Nguồn vốn kinh doanh
411
600,000.000
600,000.000
2
Chênh lệch định giá lại tài sản
412
3
Chênh lệch tỷ giá
413
4
Quỹ đầu tư phát triển
414
5
Quỹ dự phòng t/c
415
6
Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm
416
7
Lãi chưa phân phối
417
79,749.305
104,472.439
8
Quỹ khen thưởng phúc lợi
418
9
Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơbản
419
II
Nguồn kinh phí
420
1
Quỹ quản lý của cấp trên
421
2
Nguồn kinh phí sự nghiệp
422
- Nguồn kinh phí sự nghiệp năm trước
423
- Nguồn kinh phí sự nghiệp năm nay
424
3
Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ
425
Tổng cộng nguồn vốn
430
2,044,882.305
2,777,979.189
Bảng cân đối phát sinh 2001 Tùng Nam
Tháng 11 /2001
TK
Tên TK
Dư đầu kỳ
Số phát sinh
Dư cuối kỳ
Có
Nợ
Nợ
Có
Nợ
Có
111
Quỹ tiền mặt
1,846.311
19,527,601.000
19.522.051.074
4,097.996
112
Tìền ngân hàng
1,073.559
230,406.435
133
VAT đầu vào
1,483,311.958
1,420,691.000
293,027.393
138
Thu khác
1142
Cp trả trước
155
Hàng hoá, thành phẩm
1,700,256.000
14,825,980.000
14,156,854.000
2,368,480.247
211
Tài sản cố định
147,121.000
147,121.000
214
KH tài sản cố định
35,821.000
35,821,000
311
Vay ngắn hạn
280,000.000
1,230,000.000
3,900,000.000
2,950,000.000
331
Trả người bán
1,092,383.000
16,783,406.250
14,825,980.000
865,043.250
33300
Nợ ngân sách năm trước
01
VAT đầu ra năm nay
1,420,691.000
1,420,691.000
3334
Thuế TNDN
7,250.000
11,450.000
334
Lương công nhân
10,830.000
10,830.000
411
Vốn ban đầu cho kinh doanh
600,000.000
600,000.000
431.00
Lãi chưa p2 năm trước
79,749.305
421.01
Lãi chưa pp năm nay
24,723.134
104,472.439
511
Doanh thu bán hàng
14,206,910.000
14,204,910.000
531
Hàng bán trả lại
632
Giá vốn hàng bán
14,156,854.000
14,156,854.000
642
Chi phí kinh doanh
13,102.866
25,332.866
911
Kết quả hoạt động kinh doanh
14,206,910.000
14,206,910.000
1,400.000
10,830.000
2,087,953.305
2,087,953.305
97,877,827.074
97,877,827.074
2,825,250.189
2,825,250.189
Những kết quả đạt được trong hoạt động cầm cố, thế chấp:
Qua biểu 1 ta đã thấy loại hình bảo đảm tiền vay bằng TSCC tại Sở chiếm một tỷ lệ tương đối và xu hướng là sẽ tăng dần trong những năm tới do bản thân tích cực, tác dụng của loại hình này đối với cả người vay và về phía Sở giao dịch I, phù hợp với đặc điểm hoạt động và hướng phát triển trong tương lai loại hình này tại Sở . Chi phí của Sở bỏ ta ít tốn kém hơn vì đa phần là các dự án ngắn hạn, tài sản bảo đảm là sổ tiết kiệm mang tính an toàn, đỡ tốn kém thời gian thẩm định của Sở. Chính doanh số loại hình cho vay này đã chứng tỏ nhận định trên: 204.000 triệu đồng, chỉ đứng sau hình thức bảo đảm tiền vay bằng tín chấp.
Còn hoạt động bảo đảm tiền vay bằng TSTC kết quả thu được rất nhỏ bé cả về sồ món và tỷ trọng phàn trăm trong tổng thể các loại hình bảo lđẩm tiền vay tại Sở . Có điều này là vì Sở không chú trong phát triển loại hình này rộng hơn vì tính rủi ro của nó khá cao và trong thực tế còn nhiều điều bất cập ngay cả trong những văn bản của Nhà Nước , các ngành liên quan còn chồng chéo nhau, chưa đạt được sự thống nhất cao độ .
Những hạn chế trong hai hoạt động trên
A/Đối với hoạt động cầm cố
- Hạn chế thứ nhất : Tinh thần của công văn 869/CV-NHNNI dường như khác biệt với đặc trưng cơ bản của nghiệp vụ cấp tín dụng ( đối với hình thức cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn )
Trong quá trình triển khai thực hiện NĐ 178/1999/NĐ - CP về bảo đảm tiền vay của TCTD, đến ngày 7/9/2000 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có công văn số 869/CV - NHNN 1 "Về việc cầm cố giấy tờ có giá trị và dịch vụ cầm đồ" trong đó yêu cầu các TCTD chỉ được thực hiện cầm cố đồ như một biện pháp đảm bảo tiền vay theo cơ chế bảo đảm tiền vay và quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng. Việc này dường như khác biệt với đặc trưng cơ bản của nghiệp vụ cấp tín dụng dưới hình thức cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn, đó là: Khi thực hiện cấp tín dụng dưới hình thức này, các ngân hàng (cả Sở giao dịch I) không quan tâm hoặc quan tâm nhiều lắm đến khả năng tài chính của khách hàng mà chỉ tập trung đánh giá tình hình tài chính của các đơn vị phát hành, mặt khác phương thức xử lý tài sản các giấy tờ có giá này không phức tạp như xử lý TSCC đảm bảo khoản vay.
-Hạn chế thứ 2: Thời gian, thủ tục còn phiền hà
Khi khách hàng đang nắm giữ các giấy tờ có giá và có nhu cầu vốn tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh hay phục vụ đời sống (tiêu dùng) thì họ muốn được cấp tín dụng với thủ tục thuận tiện và nhanh chóng, đồng thời cũng sẽ không phải lập phương án hay dự án khả thi. Nhưng nếu các TCTD tiến hành thủ tục cho vay như bình thường thì rất phức tạp và Sở giao dịch I cũng không tránh khỏi ngoại lệ này: Thủ tục rườm rà, thời gian giải quyết chậm, bộ hồ sơ cho vay quá nhiêu khê, gây phiền hà cho khách hàng, đã làm cho sở mất đi không ít khách hàng có tiền gửi thường xuyên tại Sở. Vẫn biết rằng Sở phải tuân theo những quy định pháp luật thận trọng trong việc cho vay, đảm bảo an toàn nguồn vốn, nhưng đây thực sự là một điều bất cập và có lẽ không cần thiết bởi việc cho vay này có độ rủi ro thấp.
B/Đối với hoạt động thế chấp
Khó khăn lớn nhất mà Sở gặp phải đó là vấn đề xử lý TSTC. Các dây chuyền máy móc phải xử lý tại Sở thường không đồng bộ, hoạt động không hiệu quả do trình độ quản lý của doanh nghiệp kém nhu cầu của thị trường về sản phẩm là rất hạn chế. Ngoài ra do vướng mắc một số cơ chế, chính sách của chính phủ như: dây chuyền sản xuất hàng hoá theo hợp đồng bao tiêu sản phẩm của đối tác nhưng sản phẩm làm ra không đủ chất lượng nên doanh nghiệp bị cắt hợp đồng. Chính phủ thực hiện việc đóng cửa rừng khiến cho không có đủ nguyên vật liệu cung cấp cho dây chuyền hoạt động. Các dây chuyền không hoạt động được nên rất khó có khả năng bán trên thị trường. Mặc dù có giá trị cao nhưng thực ra chỉ là những "đống sắt vụn" do không phát huy được tác dụng khi phát mại thì giá bán quá thấp, chỉ khoảng 10% so với nguyên giá dẫn đến sự phản đối từ doanh nghiệp. Họ chủ yếu không muốn bán mà muốn trả máy (đối với những dây chuyền là tài sản hình thành từ vốn vay) hoặc gán nợ cho ngân hàng nhưng ngân hàng lại không thể nhận do việc bán tài sản trên thị trường là rất khó, ngoài ra việc bảo quản tài sản tại kho khiến ngân hàng tốn rất nhiều chi phí và có khi gây nên những hỏng hóc cho tài sản do không biết bảo dưỡng. Đối với TSTC là nhà cửa, đất đai việc báo cáo tài sản này gặp rất nhiều khó khăn về thủ tục, quy trình xử lý và do cả phía người vay khiến cho việc xử lý tiến hành chậm trễ. Sở giao dịch I vẫn chú ý đến tính nhân đạo trong phương thức xử lý của mình. Sở tiêu thụ được từ việc phát mại đầu tiên sẽ được trích để mua nhà đảm bảo nơi ăn chỗ ở cho khách hàng, số tiền còn lại mới được đưa vào để giảm nợ vay cho khách hàng. Khó khăn thường trực đối với Sở trong việc phát mại TSTC là nhà cửa, đất đai của doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp Nhà ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0058.doc