LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại hiện nay, với các sản phẩm, dịch vụ ngày càng đa dạng và không ngừng được hoàn thiện, ngân hàng đang giữ một vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp và tiềm ẩn rủi ro cao của cac hoạt động nghiệp vụ, ngân hàng là một tổ chức dễ bị “tổn thương”, chấn động, gây nguy cơ đổ vỡ hàng hoạt cho hệ thống, ảnh hưởng đến nền kinh tế, thậm chí có thể gây nên những cuộc khủng hoảng trầm trọng, (cuộc khủng hoảng tài chính ti
107 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1502 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động của Công ty quản lý nợ & khai thác tài sản Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền tệ Châu Á 1997 là một ví dụ điển hình). Một trong những nguyên nhân quan trọng của sự suy yếu của ngân hàng chính là tình trạng nợ xấu tồn đọng quá cao, lại trong một thời gian dài, mà không được xử lý, khiến tình hình tài chính của ngân hàng rơi vào khó khăn, nhiều ngân hàng mất khả năng thanh toán và đi đến chỗ phá sản. Vì vậy, vấn đề nợ đọng đang được nhiều quốc gia quan tâm, đặc biệt là những nước có tỷ lệ nợ đọng quá cao so với mức giới hạn an toàn, và những nước nằm trong vùng ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á vừa diễn ra. Trong số các biện pháp xử lý nợ đọng, thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được coi là cách hiệu quả nhất, tiết kiệm chi phí nhất, thời gian xử lý lại ngắn nhất
Ở nước ta, trước yêu cầu cơ cấu lại ngân hàng, lành mạnh hoá tình hình tài chính nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh cho hệ thống ngân hàng, công tác xử lý nợ tồ đọng của các ngân hàng thương mại đang được gấp rút triển khai.Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản cũng đang là một trong những lựa chọn của Chính phủ để giải quyết vấn đề này. Để có thể phát huy được tối đa các ưu điểm của phương thức này, công tác nghiên cứu, xem xét, đánh gía kỹ lưỡng về mô hình tổ chức cũng như những hoạt động nghiệp vụ của công ty, từ đó xây dựng, đưa ra một mô hình phù hợp và có thể phát huy hiệu quả hoạt động cao nhất trong điều kiện nước ta hiện nay là điều vô cùng cấp thiết, cần làm ngay.
Trước yêu cầu đó của thực tế, đề tài mong muốn được đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu, tìm hiểu về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản nói chung, đưa ra những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện hơn nữa mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đang được sử dụng ở các ngân hàng thương mại. Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm hệ thống và làm sáng tỏ các mặt lý thuyết của vấn đề nghiên cứu, tức là về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Sau đó, dựa trên những lý luận đã có, đề tài sẽ đi vào phân tích, đạnh giá thực trạng của vấn đề nghiên cứu tại một đơn vị cụ thể, là công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, chỉ rõ những tồn tại, và nguyên nhân của tồn tại trong hoạt động của công ty này. Cuối cùng sẽ là hệ thống những giải pháp, kiến nghị để giải toả những khó khăn, tạo đà phát triển cho công ty trong thời gian tới, và những kinh nghiệm tổ chức công ty quản lý nợ và khai thác tài sản tại một số quốc gia trên thế giới như Trung Quốc, Thái Lan.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã sử dụng một số phương pháp như: thống kê, phân tích, so sánh... để tiếp cận và làm rõ vấn đề nghiên cứu.
Kết cấu của đề tài được chia thành 3 chương:
Chương I là những vấn đề mang tính lý luận, tổng quát nhất về hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Chương II viết về thực trạng hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Cuối cùng, chương III là một số các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
CHƯƠNG I:
HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY QUẢN LÝ NỢ VÀ KHAI THÁC TÀI SẢN - NHỮNG VẤN ĐỀ MANG TÍNH LÝ LUẬN.
Tổng quan về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Ngày nay chúng ta được nghe nhắc rất nhiều tới “nền kinh tế tri thức”, nơi mà sự tăng trưởng, ổn định của nhiều lĩnh vực với hàm lượng chất xám cao, nhân viên có tay nghề được coi là nhân tố trọng tâm của sự phát triển. Một trong những khu vực trọng tâm đó chính là khu vực Tài chính - Ngân hàng. Trên thực tế, hệ thống Tài chính – Ngân hàng cũng đang ngày càng khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng và tầm ảnh hưởng vô cùng rộng lớn của mình tới sự phát triển của nền kinh tế từng quốc gia nói riêng cũng như sự phát triển chung của cả khu vực và toàn thế giới. Sự lành mạnh, ổn định của hệ thống ngân hàng là tiền đề cho sự hưng thịnh của nền kinh tế. Ngược lại, “sức khỏe” của nền kinh tế cũng sẽ phản ánh và ảnh hưởng sâu sắc tới tình trạng hoạt động của các ngân hàng. Qua nhiều cuộc khủng hoảng, mà gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997, nhận định này càng được khẳng định. Một trong những nhân tố dẫn tới khủng hoảng 1997 chính là “nguy cơ dễ bị tổn thương” (Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông á) của khu vực Tài chính – Ngân hàng, là các bất cập, thiếu hợp lý trong đường lối phát triển, huy động và cho vay của hệ thống các ngân hàng. Và khi khủng hoảng nổ ra, ngành ngân hàng, đến lượt mình, lại cũng là “nạn nhân” chịu những cú sốc nặng nề nhất. Các nước đã phải thực hiện một loạt các biện pháp nhằm cơ cấu lại, tăng cường sức mạnh cho hệ thống ngân hàng, trong đó có việc thành lập công ty khai thác nợ và quản lý tài sản (Asset Management Company – AMC) để xử lý số nợ tồn đọng khó đòi khổng lồ, “làm sạch” bảng cân đối tài sản của các ngân hàng. Một bài học rút ra là không nên chỉ coi công ty khai thác nợ và quản lý tài sản như một hình thức “xử lý hậu quả”, để sự việc đã xảy ra rồi mới nghĩ tới chuyện thành lập công ty mà nên sử dụng công ty quản lý nợ và khai thác tài sản như một biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng xấu đi của hệ thống ngân hàng, tăng cường sự lành mạnh, và do đó, sức cạnh tranh của ngân hàng trong điều kiện hội nhập phát triển ngày càng cao như hiện nay.
Khái niệm về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Loại hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được sử dụng ở nhiều nước. Tại mỗi nước, tuỳ theo điều kiện kinh tế và chính sách phát triển từng nước mà công ty quản lý nợ và khai thác tài sản lại có những tên gọi, đặc trưng, quyền và nghĩa vụ riêng. Nhưng chung nhất, có thể coi công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là một định chế có mục tiêu đặc biệt, có trách nhiệm và quyền lực đặc biệt trong việc thực hiện chức năng mua, quản lý các khoản nợ khó đòi từ hệ thống ngân hàng và xử lý các khoản nợ đó một cách tối ưu.
Mục tiêu hoạt động: Như vậy, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được thành lập nên nhằm mục tiêu phục hồi sức mạnh cho hệ thống ngân hàng. Ngân hàng chính là kênh dẫn truyền các khoản tiết kiệm trong dân cư, trong xã hội vào việc đầu tư cho các hoạt động kinh tế. Một khi các khoản đầu tư, cho vay của ngân hàng là không có hiệu quả, mà thể hiện trước tiên và trực quan nhất là qua tỷ lệ các khoản nợ quá hạn khó đòi trên tổng dư nợ cao, thì có nghĩa sự lành mạnh cũng như năng lực tài chính của ngân hàng đang bị suy giảm, ngân hàng đang đứng trước các nguy cơ rủi ro lớn. Khi đó, để củng cố lại hệ thống ngân hàng, các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản sẽ mua, tiếp quản các khoản nợ khó đòi đó và tìm cách xử lý chúng một cách “thông minh” và hiệu quả nhất. Hoạt động của công ty này sẽ luôn hướng tới việc làm sao để tối đa hoá được giá trị của các khoản nợ tồn đọng được giao và giảm thiểu chi phí cho quá trình cải tổ hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp. Khác với các loại hình công ty khác, ở hầu hết các nước, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản không hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Hơn nữa, đối tượng mua bán của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là các khoản nợ khó đòi tồn đọng với ít tài sản đảm bảo có giá trị, thậm chí có giá trị bằng 0 hoặc tài sản không đủ giấy tờ, không còn đối tượng để thu nợ... nên hầu như công ty cũng không thể tạo ra lợi nhuận được.
Chức năng: Như khái niệm đã trình bày rõ, hai chức năng cơ bản nhất của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là mua lại nợ tồn đọng khó đòi và tối đa hoá khả năng thu hồi các khoản nợ đó.
Việc mua lại nợ khó đòi từ hệ thống ngân hàng được thực hiện theo những phương thức và các mức giá cả khác nhau, tuỳ thuộc vào “tình trạng” của khoản nợ cũng như sự thoả thuận giữa 2 bên, bên bán và bên mua. Thường, ngân hàng sẽ có nhu cầu bán lại nợ khê đọng cho quản lý nợ và khai thác tài sản khi tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống đã vượt quá 5% (mức tối đa cho phép theo thông lệ quốc tế).
Vì nợ được mua bán là những khoản nợ tồn đọng khó đòi, với rất nhiều khó khăn và vướng mắc trong việc thu hồi nợ từ khách nợ hay từ việc xử lý tài sản đảm bảo, nên khả năng thu hồi toàn bộ giá trị món vay gần như là không thể. Để có thể tối đa hóa được giá trị thu hồi của khoản vay và các nguồn lực từ khoản vay, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản phải rất linh hoạt và chủ động trong việc xử lý số nợ khê đọng đã mua. Một số biện pháp công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thường sử dụng là: dùng tài sản thế chấp để góp vốn liên doanh liên kết hay cho thuê, sửa chữa, đầu tư để tăng giá trị tài sản trước khi đem bán, chuyển nợ thành vốn cổ phần...
Quyền lực hoạt động: Để giải quyết các khoản nợ tồn đọng, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản cần có một quyền lực đặc biệt. Quyền lực này được quy định và bảo vệ bởi những nghị định, quy định, quyết định do các cơ quan chức năng ban hành, thậm chí là cả một đạo luật riêng do Quốc hội ban hành. Việc xử lý nợ khê đọng, tài sản đảm bảo tiền vay có liên quan tới rất nhiều các nhánh luật khác nhau như luật phá sản, luật doanh nghiệp, luật đất đai, pháp lệnh về hợp đồng kinh tế... và nhiều khi sự mâu thuẫn giữa các luật này trong hoạt động nghiệp vụ của công ty là điếu khó tránh khỏi. Đồng thời, quá trình xử lý tài sản đảm bảo cũng luôn làm phát sinh những mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên: chủ nợ, khách nợ, chính quyền địa phương... và các bên liên quan khác. Vì vậy, xét riêng trên khía cạnh giải quyết cho hết tất cả những mâu thuẫn, tranh chấp về mặt pháp lý, nếu không có được những quyền hạn và kỹ năng đặc biệt, việc giải quyết các khoản nợ khê đọng khó đòi của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản sẽ rất mất thời gian, thậm chí trong nhiều trường hợp, có nhiều món nợ vì lý do này mà không thể được xử lý.
Lịch sử hình thành - Sự cần thiết thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Lịch sử hình thành.
Nền kinh tế thế giới đã chứng kiến nhiều những bước thăng trầm, những đợt khủng hoảng nặng nề của hệ thống tài chính – ngân hàng. Hậu quả của những cuộc khủng hoảng này là sự suy yếu, xáo động của không chỉ bộ máy ngân hàng mà còn của cả nền kinh tế. Những khoản nợ khó đòi khổng lồ là một trong những nguyên nhân khiến cho hệ thống ngân hàng rơi vào khó khăn, đồng thời nó cũng lại là một trở lực trong quá trình cải cách và phục hồi kinh tế sau khủng hoảng.
Có nhiều cách để xử lý số nợ này. Đơn giản nhất là xoá nợ hoặc cơ cấu lại các khoản nợ này bằng nguồn vốn của Chính phủ. Nhưng với số nợ của hệ thống ngân hàng vô cùng lớn thì chi phí sẽ rất tốn kém. Mặt khác, làm như vậy sẽ không thúc đẩy được quá trình cải cách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho hệ thống ngân hàng. Có một phương pháp khác, đáp ứng được cả hai mục tiêu tiết kiệm chi phí và thúc đẩy quá trình cải cách hệ thống ngân hàng, đó là mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được đưa ra áp dụng lần đầu tiên tại Mỹ vào năm 1989. Trong những năm 80, một cuộc khủng hoảng các quỹ tiết kiệm và cho vay (S&L) với quy mô lớn đã diễn ra ở Mỹ. Do một số quỹ tiết kiệm quá lớn để có thể đóng cửa một cách đơn giản mà không gây ra những tác động nhất định tới xã hội nên Chính phủ Mỹ đã phải đưa ra giải pháp thành lập “Công ty uỷ thác xử lý tài sản” (Resolution Trust Company) (hay “Công ty tín thác xử lý các đổ vỡ ngân hàng”), một loại hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Công ty này với tư cách là một cơ quan Trung ương đứng ra mua lại các khoản nợ khó đòi của các quỹ tiết kiệm và sau đó tìm cách làm tối đa hoá khả năng thu hồi của các khoản nợ thông qua việc bán trên thị trường.
Sau Mỹ, vào những năm 1992-1995, một loạt các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản cũng được thành lập ở các nước Châu Âu như Thuỵ Điển, Na Uy, Phần Lan khi những nước này rơi vào khủng hoảng ngân hàng với khối lượng lớn nợ tồn đọng trong nền kinh tế.
Tại Đông Nam á, để giải quyết hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và phục hồi kinh tế sau khủng hoảng, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản cũng được thành lập ở các nước như Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc. Đến nay, trên toàn thế giới đã có khoảng trên 20 công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được thành lập.
Ở Việt Nam, mặc dù những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Châu á tới hoạt động của hệ thống ngân hàng không mạnh và khốc liệt như đối với trường hợp của nhiều nước trong cùng khu vực, nhưng nó cũng gây ra những tác động nhất định. Bài học quý giá từ cuộc khủng hoảng là phải xây dựng cho được một hệ thống tài chính – ngân hàng thật sự lành mạnh, vững chắc. Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế, hệ thống ngân hàng đứng trước sự canh tranh ngày càng cao, đòi hỏi củng cố, tăng cường sức mạnh cho các ngân hàng càng trở nên cấp thiết. Trước tình hình đó, ngày 15/9/2000 Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 305/2000/QĐ-NHNN5 về việc thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp của ngân hàng thương mại. Năm 2001, quyết định 1389/2001/QĐ-NHNN do phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Trần Minh Tuấn ký ngày 07/11/2001, ban hành quy định về việc thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại ra đời thay thế cho quyết định 305/2000 ở trên. Hiện nay, nhiều công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các ngân hàng thương mại quốc doanh và cả ngân hàng thương mại cổ phần đã được thành lập như công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sài Gòn thương tín...
Sự cần thiết thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh luôn diễn ra vô cùng khốc liệt, muốn tồn tại các doanh nghiệp buộc phải làm ăn có hiệu quả thì mới có thể trụ vững. Mà để tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần có một lượng vốn nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất kinh doanh, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có đủ nguồn vốn cần thiết để tiến hành hoạt động, sẽ có lúc doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu vốn, nhưng cũng có lúc sẽ dư thừa vốn. Do vậy, việc phát sinh các khoản công nợ giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp với nhà nước, doanh nghiệp với ngân hàng trong quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các nguồn vốn là một điều tất yếu.
Như vậy, có thể nói các khoản nợ cũng chính là một phần nguồn vốn của doanh nghiệp. Khi các khoản nợ này thành nợ tồn đọng khó đòi với số lượng ngày càng lớn thì có nghĩa nguồn vốn đang bị chiếm dụng, đang bị sử dụng một cách không hiệu quả của doanh nghiệp ngày càng nhiều. Đối với một doanh nghiệp, đây là điều vô cùng nguy hiểm, nó báo hiệu sự suy yếu của doanh nghiệp đó. Suy rộng ra, đối với một nền kinh tế, các khoản nợ tồn đọng khó đòi thể hiện sự lãng phí nguồn lực, ngăn trở sự phát triển, thậm chí có thể gây nên những tác động hết sực tiêu cực tới nền kinh tế. Tựu chung lại, nợ tồn đọng cần phải được xử lý vì:
Nợ tồn đọng có tác động xấu tới nền kinh tế, thể hiện:
Thứ nhất, vốn tồn đọng trong nền kinh tế làm ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập quốc dân (GNP) của một quốc gia. Theo lý thuyết về cầu tiền tệ của Irving Fisher thì:
P.Y = M.V = GNP
Trong đó:
P: mức giá cả
Q: tổng sản phẩm
M: khối lượng tiền tệ
V: vòng quay tiền tệ
Vốn tồn đọng chính là đại diện cho một lượng lớn vồn bị “nằm chết” trong nền kinh tế. Lượng vốn “chết” này sẽ khiến cho vòng quay tiền tệ (V) bị chậm lại. Vốn tồn đọng càng lớn thì V sẽ càng nhỏ. Và như vậy, giả sử M không đổi, V giảm càng nhiều dẫn đến GNP cũng sẽ giảm nhiều tương ứng. Hơn nữa, thu nhập quốc dân thấp lại ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của nhân dân quốc gia đó, thu nhập bình quân đầu người thấp, phúc lợi xã hội giảm...
Thứ hai, tình trạng nợ đọng sẽ làm ảnh hưởng đến lượng vốn đầu tư từ bên ngoài vào. Đối với những nhà đầu tư nước ngoài, quyết định có đầu tư vào một quốc gia nào hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đó là sự thông thoáng và ưu đãi trong hệ thống luật pháp, sự ổn định về môi trường đầu tư cũng như môi trường chính trị – xã hội, sự hấp dẫn của những cơ hội làm ăn có khả năng sinh lời cao, của nguồn lực, khả năng hấp thụ và sử dụng vồn một cách hiệu quả của nền kinh tế... Khối lượng những khoản nợ tồn đọng lớn trong nền kinh tế, có thể nói, là sự thể hiện rõ ràng nhất của việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực về vốn. Và tất nhiên, khi nguồn lực đã không được sử dụng một cách có hiệu quả thì môi trường đầu tư của quốc gia đó cũng khó có thể được gọi là hấp dẫn nữa. Kết quả là nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài không tăng trưởng, quốc gia không có đủ số vốn cần thiết để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội. Một khi nền kinh tế bị thu hẹp vào nội bộ của một nước thì sẽ rất bất lợi cho quốc gia đó trong bối cảnh các nước trên thế giới đang tiến nhanh tới toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế.
Nợ tồn đọng khó đòi ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, thể hiện:
Thứ nhất, nợ tồn đọng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc các ngân hàng mất khả năng thanh toán, có nguy cơ rủi ro gây đổ vỡ ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng thực chất là việc sử dụng nguồn vốn tiền gửi của dân cư và nguồn đi vay để tiến hành cho vay, đầu tư trở lại cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Khoản thu được từ những món đầu tư đó chính là nguồn ngân hàng thanh toán cho các khản tiền tiết kiệm và các khoản ngân hàng đã đi vay, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Khi việc cho vay, đầu tư của ngân hàng là không hiệu quả, các khoản nợ tồn đọng khó đòi ngày càng nhiều, khả năng thanh toán của ngân hàng sẽ bị yếu đi, và đến một lúc nào đó, ngân hàng không còn khả năng đáp ứng được những đợt rút tiền ồ ạt của dân chúng, ngân hàng sẽ bị phá sản.
Trong điều kiện mỗi ngân hàng đều có quan hệ giao dịch, trao đổi với những ngân hàng khác, mỗi ngân hàng đều giữ một vai trò nhất định trong cả bộ máy thì chỉ cần một ngân hàng bị phá sản sẽ gây ảnh hưởng đến toàn hệ thống, thậm chí trầm trọng hơn, có thể gây ra khủng hoảng tài chính – tiền tệ và gây ảnh hưởng trực tiếp, nghiêm trọng đến đời sống kinh tế – xã hội của một quốc gia, làm suy giảm uy tín và vị thế của quốc gia đó trên trường quốc tế. Vì vậy, nhìn chung, tuỳ theo đặc điểm, tình hình từng nước mà có nước thành lập một tổ chức xử lý nợ tồn đọng cho cả hệ thống, có nước chỉ thành lập riêng cho những ngân hàng mà sự sụp đổ của nó có thể có tác động dây chuyền đến cả hệ thống.
Thứ hai, việc mua bán nợ tồn đọng ngân hàng không chỉ giúp lành mạnh hoá, đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân hàng mà còn giúp các tổ chức tín dụng:
+) Đa dạng hoá các nghiệp vụ hoạt động: Bên cạnh những nghiệp vụ mà ngân hàng vẫn thực hiện từ trước đến nay như huy động, cho vay, thanh toán,... thì nh còn được thực hiện việc bán những khoản nợ cho các công ty, tổ chức khác trong và ngoài ngành ngân hàng.
+) Khắc phục khó khăn về tài chính trong kinh doanh: Việc bán các khoản nợ tồn đọng sẽ giải phóng một phần nguồn vốn đang bị ứ đọng tại những dự án đầu tư không hiệu quả. Nguồn thu từ hoạt động bán nợ khó đòi này sẽ góp phần bù đắp chi phí, đáp ứng yêu cầu về thanh khoản, tái tạo vốn đầu tư, giải quyết những khó khăn về tài chính. Hơn nữa, với quy định trích lập quỹ dự phòng rủi ro cho các khoản nợ quá hạn, các ngân hàng sẽ gánh một chi phí rất lớn trong trường hợp các khoản nợ tồn đọng khó đòi phát sinh nhiều. Nhưng nếu ngân hàng được phép bán nợ tồn đọng cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản xử lý thì sẽ không còn phải trích lập dự phòng cho những khoản vay đó nữa, điều này sẽ giúp giảm bớt căng thẳng về tài chính cho ngân hàng.
+) Mở rộng cho vay đối với khách hàng, tăng cường khả năng chuyển dịch cơ cấu đầu tư: Với nguồn vốn có hạn, một khi đã đầu tư và khoản cho vay này thì ngân hàng sẽ mất đi cơ hội đầu tư vào những hoạt động khác. Đặc biệt khi không thể thu hồi lại được vốn từ những khoản vay không hoạt động (Non-performing Loans) hoặc các tài sản có không sinh lời khác (Non-performing Assets) thì sự lãng phí sẽ là rất lớn. Nhưng nếu có thể bán đi những khoản nợ tồn đọng, ngân hàng sẽ có thể tiếp tục mở rộng hoạt động cho vay của mình, đầu tư vào những dự án, lĩnh vực có triển vọng phát triển tốt. Cơ cấu đầu tư của ngân hàng cũng theo đó mà được thay đổi linh hoạt hơn từ lĩnh vực rủi ro cao, tiềm năng phát triển sang những lĩnh vực có khả năng sinh lời lớn hơn.
+) Khôi phục và mở rộng các mối quan hệ của tổ chức tín dụng: Việc mua bán các khoản nợ tồn đọng khó đòi sẽ giúp làm sạch bảng tài sản của ngân hàng. Ngân hàng sẽ được củng cố về mặt tài chính, được cơ cấu lại theo hướng hợp lý và lành mạnh. Nhờ vậy tạo dựng lại được lòng tin và mối quan hệ với giới đầu tư, với dân chúng cũng như những người gửi tiền. Hơn nữa, khả năng mở rộng cho vay đối với khách hàng cũng sẽ giúp ngân hàng có được những mối quan hệ với khách hàng mới, hứa hẹn tiềm năng phát triển của ngân hàng trong tương lai.
+) Quản lý rủi ro tín dụng: Cùng với các biện pháp quản lý và phòng ngừa rủi ro khác, mua bán nợ tồn đọng sẽ giúp nh giữ cho tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của mình trong phạm vị cho phép, xử lý những món cho vay không hiệu quả, tập trung vào những khoản cho vay hiệu quả, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, ngăn ngừa những rủi ro do tình trạng nợ đọng gây nên.
Như vậy, nợ tồn đọng là một vấn đề nhức nhối mà nhiều quốc gia cần phải tập trung giải quyết triệt để. Các quốc gia đã áp dụng nhiều biện pháp truyền thống để xử lý như: xử lý nội bộ, khoanh nợ chờ xử lý, xoá nợ, mua bán nợ giữa các nh... nhưng hiệu quả không cao, không xử lý được dứt điểm và vì thế họ phải áp dụng một phương thức đặc biệt là thành lập các công ty quản lý tài sản để xử lý nợ tồn đọng của mình. Việc thành lập các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản để giải quyết vấn đề nợ đọng khó đòi là hiệu quả và tiết kiệm chi phí hơn so với những phương thức thông thường khác do:
Thứ nhất, các ngân hàng không có đủ nguồn lực và kỹ năng cần thiết để xử lý các khoản nợ trong khi đó công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được chuyên môn hoá để thực hiện công việc này. Xử lý nợ đọng đòi hỏi phải có một lượng vốn không nhỏ. Hơn nữa, công việc này hết sức phức tạp, nó liên quan tới nhiều hoạt động, nhiều ngành, cần có sự linh hoạt và những kỹ năng đặc biệt nhất định. Nếu ngân hàng tập trung đáp ứng những yêu cầu đó để giải quyết nợ tồn đọng của mình thì chi phí xử lý cũng như những khoản chi phí cơ hội của ngân hàng sẽ rất lớn. Nhưng với công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được chuyên môn hoá thì hoạt động này sẽ trở nên dễ dàng và tiết kiệm hơn.
Thứ hai, các ngân hàng bị hạn chế và thiếu quyền lực đặc biệt để xử lý nợ trong khi công ty quản lý nợ và khai thác tài sản có thể thúc đẩy các thay đổi pháp lý cần thiết. Như đã phân tích, hoạt động xử lý nợ liên quan tời nhiều nhánh luật khác nhau, để tạo hành lang pháp lý đảm bảo cho sự thuận lợi và trôi chảy của công việc thì đơn vị xử lý nợ phải được pháp luật trao cho những quyền lực đặc biệt. Do vậy, nếu ngân hàng tự mình đứng ra xử lý mà không chuyển giao cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thì sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn về mặt pháp lý.
Thứ ba, các ngân hàng chỉ được áp dụng biện pháp duy nhất để thu hồi nợ là bán đấu giá các tài sản thế chấp trong khi công ty quản lý nợ và khai thác tài sản có thể tối đa hoá khả năng thu hồi nợ thông qua nhiều biện pháp. Các khoản nợ tồn đọng khó đòi nếu chỉ được xử lý bằng một cách là bán tài sản thì chắc chắn sẽ không tối đa hoá được giá trị thu hồi vì trong nhhiều trường hợp, đó không phải là giải pháp tối ưu, chưa kể đến những khoản vay không có tài sản cầm cố, thế chấp hay tài sản cầm cố, thế chấp có giá trị bằng 0. Nếu nợ tồn đọng được bán cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, công ty sẽ có thể xử lý một cách linh hoạt bằng nhiều biện pháp khác nhau, do đó nâng cao được khả năng thu hồi giá trị từ khoản vay.
Các mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Tuỳ theo điều kiện từng nước, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản có thể do Nhà nước hoặc tư nhân sở hữu. Hiện nay trên thế giới tồn tại 5 loại hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Đó là:
Các cơ quan xử lý trung ương (của Chính phủ): Chính phủ đứng ra thành lập một cơ quan xử lý nợ tồn đọng cho cả hệ thống ngân hàng nói chung. Đây là mô hình được áp dụng ở Malaysia, Hàn Quốc.
Các công ty quản lý tài sản riêng của từng ngân hàng: Các ngân hàng tự đứng ra thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng mình với nhiệm vụ trọng yếu là giải quyết nợ đọng trước tiên cho bản thân ngân hàng đó. Mô hình này được áp dụng ở Trung Quốc, Thái lan.
Các bên thứ ba được uỷ quyền theo hợp đồng, áp dụng tại Phần Lan
Bán nhanh, bán/chuyển nhượng khối lượng lớn: Tài sản có của những tổ chức có nguy cơ đổ vỡ sẽ được bán, chuyển nhượng lại một phần hay toàn bộ cho một tổ chức có tình hình tài chính lành mạnh... Mô hình này được áp dụng ở Mỹ.
Ngân hàng thu nợ/toà thu nợ, áp dụng tại ấn Độ.
Trong các mô hình trên, theo ý kiến của các chuyên gia thì mô hình thứ nhất, cơ quan xử lý trung ương, là có khả năng đạt mức độ thành công cao nhất. Nguyên do là một mô hình cơ quan xử lý trung ương do Chính phủ thành lập được xem là mang tính khả thi cao và theo hướng tiếp cận này Chính phủ sẽ đạt được nhiều mục đích đồng thời.
Thứ nhất, Chính phủ thuận lợi trong việc thiết lập một phương tiện (công ty quản lý nợ và khai thác tài sản) thuộc sở hữu của nhà nước cho việc mua tậu tài sản, tối đa hoá giá trị của chúng và việc đem bán các tài sản đó cho các nhà đầu tư sẽ dễ dàng hơn nhờ vào uy tín và sự bảo lãnh của Chính phủ.
Thứ hai, qua đó Chính phủ có thể có sự kiểm soát trung ương hoá đối với chương trình tái cơ cấu chuyển nhượng dài hạn đối với các khoản vay không hoạt động.
Thứ ba, Chính phủ có đủ năng lực để trao các đặc quyền cho các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của mình để hỗ trợ cho việc chuyển giao các tài sản hiệu quả cũng như cung cấp các cơ chế bên ngoài tư pháp để tạo các thuận lợi cho việc giải quyết tranh tụng giữa các bên đi vay và bên cho vay, tạo cơ hội cho các cuộc bán tài sản với giá trị tối đa thông qua việc thiết lập các cơ chế nhằm đảm bảo quyền sở hữu vừa “sạch” vừa “sáng” đối với các tài sản và một cơ chế nhượng bán minh bạch.
Tóm lại, với những đặc trưng trên có thể nói công ty quản lý tài sản là một định chế đặc biệt có một không hai trong lịch sử.
Vai trò của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Vai trò của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đối với ngân hàng.
Như trên đã trình bày, việc thành lập công ty quản lý tài sản là một tất yếu khách quan đối với các nước kinh tế thị trường có tỷ lệ nợ quá hạn trên 5% hoặc gặp các vấn đề nghiêm trọng về nợ tồn đọng. Công ty quản lý tài sản còn đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu được trong các chương trình quốc gia về cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, lành mạnh hoá hệ thống tài chính và là một phần trong chương trình khôi phục hệ thống kinh tế.
Công ty được thành lập với các hoạt động chính là: mua lại nợ khó đòi tồn đọng của các tổ chức tín dụng trên cơ sở giá thị trường; quản lý và xử lý các khoản nợ này bằng các biện pháp và kỹ năng đặc biệt; quản lý và xử lý các tài sản thế chấp, cầm cố gắn liền với các khoản nợ đã mua; tập trung vào việc bán tối đa hoá giá trị ròng cao nhất trong một khoảng thời gian hợp lý, nhằm giảm thiểu tổn thất cho quốc gia.
Với các nhiệm vụ trên, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đóng một vai trò quan trọng trong việc cơ cấu lại ngân hàng. Cụ thể, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đóng vai trò chủ động, tích cực trong việc thúc đẩy phát triển khu vực ngân hàng thông qua xử lý các khoản nợ xấu, làm lành mạnh tình hình tài chính của các nh và cho phép các nh trở lại các hoạt động kinh doanh thương mại với chất lượng hoạt động được cải thiện.
Ngoài mục đích cải thiện tình hình nợ xấu, nợ đọng, công ty quản lý nợ và tài sản còn được thành lập với mục đích là để ngăn chặn khủng hoảng nh bằng cách cung cấp một cơ chế cho các ngân hàng yếu kém bán tài sản có vấn đề để lấy tiền hay giấy nhận nợ. Việc này giúp bơm tiền vào các ngân hàng, cải thiện khả năng thanh toán của khu vực ngân hàng, trợ giúp các ngân hàng yếu kém quay trở lại cách thức hoạt động cho vay thận trọng, làm cho các ngân hàng thương mại thoát khỏi gánh nặng xử lý các khoản vay có vấn đề, đồng thời cải thiện được tỷ lệ vốn đối với ngân hàng, tuỳ thuộc vào việc trích lập dự phòng ban đầu và giá trị bán tài sản thu được để hệ thống ngân hàng thu hồi được vốn tiếp tục quay vòng phục vụ các doanh nghiệp, tăng lợi nhuận, giảm chi phí, ngăn ngừa các nguy cơ đổ vỡ cục bộ trong hệ thống.
Như vậy, bằng các biện pháp kỹ năng đặc biệt của mình trong việc xử lý nợ và tồn đọng ngân hàng, các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản ngân hàng đã giúp lành mạnh hoá hoạt động của các ngân hàng, góp phần cơ cấu lại hệ thống ngân hàng một cách hiệu quả. Có thể nói thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản chính là một phần thiết yếu quan trọng trong chương trình cơ cấu lại các ngân hàng.
Đối với nền kinh tế.
Trong nền kinh tế, hệ thống tài chính – ngân hàng đóng một vai trò vô cùng quan trọng, sự tăng trưởng hay suy yếu của nền kinh tế được thể hiện qua sự hùng mạnh hay yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng. Ngược lại, sức khỏe của hệ thống ngân hàng cũng xẽ có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của nền kinh tế. Vì thế, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản giúp lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng cũng chính là giúp tăng cường sức mạnh, lành mạnh hoá các hoạt động của nền kinh tế. (Điều này càng được thể hiện rõ hơn qua việc các quốc gia khắc phục những hậu quả do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ gây ra. Để khôi phục, cơ cấu lại kinh tế, một trong những biện pháp quan trọng trước tiên các quốc gia đã làm là tiến hành cơ cấu, phục hồi lại sức mạnh cho hệ thống ngân hàng với biện pháp thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản để xử lý các khoản nợ khó đòi khổng lồ.) Nền kinh tế tăng trưởng bền vững, ổn định chính là một trong những yếu tố quan trọng thu hút đầu tư từ bên ngoài cũng như kích thích đầu tư trong nước để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển khoa học kỹ thuật, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế.
Khi nợ tồn đọng khó đòi được công ty quản lý nợ và khai thác tài sản xử lý, vốn sẽ được thu hồi lại một._. phần để đầu tư vào những dự án khả thi khác, với khả năng sinh lời cao hơn. Xét trên góc độ cả nền kinh tế, hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản sẽ giúp đẩy nhanh quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng lợp lý và hiệu quả. Nguồn lực sẽ được tập trung vào những ngành, lĩnh vực có tiềm năng phát triển và đem lại lợi nhuận cao, tránh tình trạng vốn bị sử dụng một cách làng phí, đọng tại những dự án đầu tư kém hiệu quả. Điều này, như đã phân tích, sẽ đẩy nhanh vòng quay của vốn, nhờ đó làm tăng thu nhập quốc dân (GNP), đời sống nhân dân được nâng cao, xã hội ổn định...
Tóm lại, mua bán nợ thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn và hàng hoá trong nền kinh tế, giúp ổn định và lành mạnh hoá hệ thống tài chính – ngân hàng, giúp tăng cường uy tín, vị thế của quốc gia nói chung và các doanh nghiệp trong nước nói riêng trong cộng đồng tài chính quốc tế, tham gia hội nhập vào thị trường vốn, công nghệ ngân hàng với các nước trong khu vực và thế giới.
Hoạt động mua bán nợ tại các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Các khái niệm cơ bản.
2.1.1. Mua, bán nợ.
2.1.1.1. Khái niệm
Mua bán nợ là hoạt động mà trong đó bên bán chuyển quyền đòi nợ cho bên mua nợ để sớm thu hồi vốn của mình.
Thực ra, thực hiện bán khoản cho vay có nghĩa là tạo điều kiện cho bên bán nợ – các ngân hàng – thay đổi quy mô hoạt động. Bán khoản cho vay xuất phát từ một số yêu cầu trong quản trị kinh doanh như: cải thiện khả năng thanh toán của ngân hàng, cải thiện danh mục cho vay và đầu tư, ngăn chặn rủi ro, tăng thu nhập...
Bản chất của mua bán nợ là chuyển giao quyền yêu cầu, là thay đổi quyền sở hữu đối với các khoản nợ. Mà vấn đề sở hữu là vấn đề rất nhậy cảm trong hoạt động kinh tế. Hơn nữa, các khoản nợ phát sinh trong hoạt động cho vay của ngân hàng là rất phong phú với các đặc điểm hoàn toàn khác nhau, mà trước hết là đặc điểm đa dạng của loại hình, kì hạn, lãi suất... của khoản vay và người vay nợ. Sự thay đổi thành phần (nhà nước, tư nhân, liên doanh...) trong sở hữu nợ qua mua bán nợ thể hiện sự phức tạp của hoạt động này, nhất là ở những nước mà còn tồn tại sự khác biệt đáng kể trong hoạt động của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Bên cạnh đó, việc mua bán nợ còn bị giới hạn bởi một số yếu tố khác.
Thứ nhất, ngân hàng phải giải quyết tốt các mâu thuẫn như vừa muốn bán với giá tối ưu (thu hồi được giá trị lớn nhất có thể từ món cho vay) vừa muốn tăng sự an toàn (giảm dư nợ xấu). Hay việc bán khoản cho vay thường đi kèm với chuyển giao thông tin về khách hàng mà ngân hàng không có đủ, và vừa phải có nghĩa vụ bảo mật những thông tin đó.
Thứ hai, để đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống, việc mua bán nợ bị hạn chế và chịu sự kiểm soát của nhà nước bằng các quy định và tính thuế.
Ở Việt Nam, theo Quy chế mua bán nợ của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN14 thì mua bán nợ là hoạt động mua bán, theo đó bên bán nợ chuyển giao khoản nợ mà bên nợ hiện đang nợ bên bán nợ (bao gồm nợ gốc, lãi, lãi phạt) cho bên mua nợ và nhận tiền thanh toán, bên mua nợ có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán nợ và tiếp nhận các quyền của chủ nợ đối với khoản nợ theo thoả thuận của hai bên.
2.1.1.2. Các điều kiện cho hoạt động mua bán nợ.
Điều kiện cần:
Điều kiện cần thiết cho giao dịch mua, bán nợ chính là trình độ phát triển thị trường cao trong hoạt động kinh tế, hoạt động ngân hàng. Nó được thể hiện ở hai mặt.
Trước hết, đó là tính linh hoạt trong giao dịch của các doanh nghiệp và của ngân hàng. Khi cường độ hoạt động thị trường của các doanh nghiệp đạt đến một trình độ nhất định, các doanh nghiệp sẽ hoạch định chặt chẽ và linh hoạt hoạt động tài chính của mình nhằm tối đa hoá lợi nhuận và tối thiểu hoá rủi ro. Nẩy sinh sự cần thiết về nội dung và tăng cường nhịp độ giao dịch để xử lý tình trạng này.
Tiếp theo đó là sự chặt chẽ, linh hoạt trong phục vụ, điều phối hoạt động kinh doanh của bộ máy ngân hàng. Các ngân hàng sẽ mở rộng dần khả năng xử lý các yêu cầu về dịch vụ tài chính ngày càng cao và phức tạp của các trung gian tài chính và của các doanh nghiệp.
Điều kiện đủ:
Điều kiện đủ cho giao dịch mua, bán nợ chính là khung pháp lý, khả năng giải toả về mặt pháp lý cho giao dịch này. Chính sự phức tạp trong mua, bán nợ đặt ra sự cần thiết phải có một khuôn khổ pháp lý chặt chẽ và đầy đủ cho hoạt động này nhằm đảm bảo không chỉ cho sự an toàn của các giao dịch, mà còn đảm bảo sự ổn địnhh cho các mối qua hệ kinh tế, xã hội rộng rãi khác có liên quan.
Nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển, thực hiện giao dịch nợ rất năng động. Tuy nhiên, hầu hết các nước đều không có một khuôn khổ chung, thống nhất cho hoạt động mua bán nợ. Đa số các nước thực hiện phương án tạo khung pháp lý cho hoạt động mua, bán nợ theo từng lĩnh vực nhất định. Các giao dịch này tuỳ theo tính chất của khoản nợ được thực hiện theo những quy định riêng. Hoạt động ngân hàng trong giao dịch mua, bán nợ cũng là một trong những lĩnh vực chủ yếu.
Điều kiện về phương tiện giao dịch: Thực tế là không có một khoản nợ nào chỉ được ghi sổ đơn thuần. Hơn nữa, việc ghi sổ chỉ là xác nhận, còn chủ nợ khi nào cũng có trong tay một chứng từ, hay chứng chỉ nào đó xác nhận quyền của mình về khoản nợ đó. Do vậy, về bản chất, trong mọi trường hợp các khoản nợ đều được ghi nhận (xác nhận) bằng các chứng chỉ. Vấn đề đặt ra là các chứng chỉ phải như thế nào để đáp ứng được các yêu cầu giao dịch là tin cậy, an toàn, phổ thông. Tất yếu, khả năng giao dịch (được mua, bán hay không được mua, bán) các khoản nợ cũng phải được xác định rõ ràng không chỉ trong các chứng chỉ nợ, mà cả trong các hợp đồng về quan hệ vay nợ. Ngoài ra, các giao dịch các khoản nợ cũng có liên quan rất mật thiết với giao dịch các quyền. Như vậy, phải có các quy định pháp lý về điều kiện vật chất của phương tiện giao dịch.
Điều kiện về khuôn khổ pháp lý cho tổ chức và hoạt động giao dịch mua, bán nợ: Phải có các quy định cần thiết về các nội dung chủ yếu như hình thức, quy cách, quyền phát hành các chứng chỉ giao dịch; điạ điểm, phương thức giao dịch; các quy định về kiểm tra, giám sát, thưởng phạt...
Hoạt động mua bán nợ tại các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản chỉ là một nhánh của hình thức hoạt động mua bán nợ nói chung. Nó gắn liền với đối tượng, phạm vi cũng như mục tiêu mua bán đặc trưng riêng. Tuy vậy, cũng như hình thức mua bán nợ nói chung, hoạt động mua bán nợ tại công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là hết sực phức tạp và cần có những điều kiện hỗ trợ thuận lợi từ phía luật pháp, cơ chế, thị trường để có thể phát triển và đạt được những mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.
2.1.2. Phạm vi mua bán nợ trong hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Trong nghiệp vụ mua bán khoản cho vay nói chung, ngân hàng có thể mua bán cả những khoản cho vay còn thời hạn thanh toán, những khoản cho vay có tính thanh khoản, khả năng thu hồi cao, hay khoản cho vay không có đảm bảo bên cạnh những khoản nợ quá hạn hoặc nợ có khả năng thu hồi thấp. Tuy nhiên, với công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, loại hình công ty được thành lập với một mục tiêu đặc biệt là xử lý nợ tồn đọng khó đòi cho hệ thống ngân hàng, thì đối tượng mua bán, xử lý của công ty là các khoản nợ tồn đọng ngân hàng, hay còn gọi là các khoản vay không hoạt động, hoặc các tài sản có không sinh lời khác dùng làm tài sản thế chấp cho khoản vay đã quá thời hạn trả nợ gốc hoặc lãi trên sổ sách kế toán của ngân hàng. Chính vì đối tượng xử lý của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản chỉ là những khoản nợ tồn đọng khó đòi nên công ty có điều kiện tập trung nguồn lực, chuyên sâu vào các kỹ năng, nghiệp vụ xử lý nợ và tài sản thế chấp, nâng cao tính chuyên môn hoá và hiệu quả trong hoạt động của mình.
Các nước khác nhau có các quy định khác nhau khi xếp một khoản vay vào danh mục các khoản vay không hoạt động. Chẳng hạn ở Thái Lan, các khoản vay không hoạt động là các khoản vay đã quá 3 tháng kể từ thời hạn phải hoàn trả nợ gốc.
Ở Việt Nam, dựa trên tinh thần quyết định 149/2001/QĐ-TTTg ngày 5 tháng 10 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ, chỉ thị số 01/2002/CT-NHNN của thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại quy định: phạm vi xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại là các khoản nợ tồn đọng còn dư nợ đến thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2000. Việc xử lý các khoản nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại sau thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2000 thực hiện theo các quy định hiện hành.
2.1.3. Đối tượng tham gia.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản sẽ tiến hành mua bán và xử lý nợ của những tổ chức, ngân hàng mà tỷ lệ nợ khê đọng khó đòi quá lớn, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của bản thân ngân hàng đó cũng như sự ổn định của cả hệ thống, hay thực hiện giải quyết tình trạng nợ đọng cho cả hệ thống theo chương trình cơ cấu lại ngân hàng, lành mạnh hoá tình hình tài chính. Như vậy, nói chung các đối tượng được tham gia xử lý nợ tồn đọng là các tổ chức tín dụng trong hệ thống tài chính ngân hàng. Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản không có trách nhiệm, không có quyền mua các khoản nợ khó đòi của doanh nghiệp, và các tổ chức phi ngân hàng.
Trong quá trình xử lý nợ của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, công ty có thể tiến hành việc bán lại các khoản nợ hay những tài sản cầm cố thế chấp tiền vay ra thị trường. Pháp luật thường không có quy định hạn chế các chủ thể công ty quản lý nợ và khai thác tài sản có thể quan hệ hợp tác mua bán nhằm đảm bảo tính chủ động và linh hoạt của công ty trong việc tìm nguồn, tối đa hoá giá trị thu hồi từ nợ vay.
Ở Việt Nam, cũng theo Quyết định 149/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đối tượng được xử lý nợ tồn đọng là ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần của nhà nước và nhân dân.
Cơ chế hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Hoạt động huy động vốn.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là hình thức công ty được thành lập nên chủ yếu nhằm mục tiêu xử lý nợ tồn đọng khó đòi chứ không hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Hơn nữa, do đặc thù của đối tượng xử lý là những khoản nợ tồn đọng và tài sản thế chấp với khả năng thu hồi lại giá trị thấp, các chi phí bỏ ra để tối ưu hoá các khoản nợ trước khi đem bán lại không hề nhỏ, nên để có thể hoạt động được thì công ty quản lý nợ và khai thác tài sản cần có một lượng vốn lớn.
Tuỳ theo quy định của mỗi nước mà công ty quản lý nợ và khai thác tài sản có thể huy động vốn ban đầu cũng như bổ sung vốn trong quá trình hoạt động bằng những con đường khác nhau. Điều này cũng còn tuỳ thuộc vào mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản và tình trạng sở hữu. Nhưng nhìn chung, nguồn vốn hoạt động ban đầu của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thường là do Chính phủ cấp qua Bộ Tài chính hoặc qua việc mua cổ phần của công ty.
Vốn hoạt động đang là một trong những vấn đề gây khó khăn cho hoạt động của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Như đã nói ở trên, các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản hầu như không thể tạo ra lợi nhuận, do đó rất khó có thể duy trì được hoạt động nếu không có sự hỗ trợ về vốn từ bên ngoài. Mà một khi đã bị phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn từ bên ngoài thì sự chủ động và hiệu quả trong hoạt động của công ty sẽ bị giảm sút, nhất là khi đó lại là nguồn vốn do Chính phủ cấp, nơi mà những quyết định mang nhiều tính chủ quan hơn là tính thị trường, kèm theo sự chậm trễ đáng kể trong việc thực thi do bộ máy cơ chế cồng kềnh. Trong trường hợp của Mĩ, công ty uỷ thác xử lý tài sản (RTC) đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc lập các kế hoạch xử lý dài hạn do chậm nhận được các khoản tiền từ ngân sách và đã bị giải thể vào năm 1993 bằng Luật đóng cửa RTC do không đủ nguồn vốn để giải quyết thêm các tổ chức tiết kiệm bị đổ vỡ.
Hoạt động xử lý nợ của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Tuy cơ chế xử lý tài sản của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của từng nước cũng khác nhau, các nước có thể phát triển các phương pháp xử lý cho riêng mình, nhưng nhìn chung việc xử lý thường được thực hiện theo trình tự sau: các khoản vay không hoạt động và tài sản có vấn đề của các tổ chức tín dụng, các ngân hàng được chuyển đến công ty quản lý tài sản. Tại đây chúng được phân loại theo các mức độ khác nhau và được chuyển thành các tài sản có. Sau đó tuỳ theo từng loại mà chúng được xử lý theo các phương pháp khác nhau như cơ cấu lại, tài trợ, tối đa hoá giá trị... để trở thành các hình thức dễ chuyển nhượng hơn và cuối cùng đem bán, thu hồi lại vốn.
Mua, tiếp nhận các khoản nợ tồn đọng
Trước tiên, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản sẽ mua các khoản nợ không hoạt động từ các ngân hàng. Việc tiếp nhận nợ tồn đọng có thể được tiến hành dưới các hình thức khác nhau. Ngân hàng có thể uỷ thác cho công ty; ngân hàng mua trái phiếu của công ty, công ty dùng số tiền đó để mua lại nợ tồn đọng của chính ngân hàng; nhưng phổ biến nhất có lẽ là công ty trực tiếp mua lại các khoản nợ cần xử lý của ngân hàng.
Khi việc mua bán các khoản nợ khê đọng được thực hiện giữa ngân hàng và công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, giá cả là yếu tố quan trọng cần được xem xét. Thông thường, trong giao dịch bán khoản cho vay cần phân biệt một số khái niệm có liên quan đến giá:
Thứ nhất là giá trị của khoản cho vay được chuyển giao, đó là giá trị của trái quyền có thể bao gồm cả gốc và lãi mà khách hàng nợ sẽ phải thanh toán cho người mua.
Thứ hai là giá bán của khoản cho vay, đó là số tiền mà người mua (công ty quản lý nợ và khai thác tài sản) trả cho ngân hàng bán.
Thứ ba là giá hạch toán khoản cho vay tại ngân hàng bán, là giá vốn của khoản cho vay.
Đối với ngân hàng bán, khoản chênh lệch giữa giá bán với giá vốn của khoản cho vay được quan tâm nhiều vì nó thể hiện mức độ bù đắp tổn thất của khoản vay kém hiệu quả từ tiền bán. Còn đối với công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, khoản chênh lệch giữa giá mua với giá trị lại được quan tâm hơn. Trong hoạt động của mình, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản luôn hướng tới việc làm sao thu hồi được tối đa giá trị của khoản vay, bù đắp được chi phí đã bỏ ra. Tuy nhiên, phải khẳng định lại một điều, do đây là những khoản nợ có vấn đề nên việc thu hồi giá trị, bù đắp chi phí là điều không dễ dàng.
Xử lý nợ và tài sản bảo đảm.
Sau khi tiếp nhận các khoản nợ tồn đọng khó đòi, trong hầu hết các trường hợp, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản không thể ngay lập tức bán chúng đi được mà phải tiến hành một loạt các nghiệp vụ xử lý tuỳ theo điều kiện và tình trạng của các món nợ đọng.
Trước tiên, công ty sẽ tiến hành phân tích, phân loại các khoản nợ theo nhiều tiêu thức khác nhau để đánh giá tình trạng của món nợ, con nợ và tài sản bảo đảm nếu có. Đây là khâu rất quan trọng vì nó sẽ quyết định đến tính đúng đắn và tối ưu của những phương thức xử lý mà công ty sử dụng cho từng khoản nợ sau này.
Đối với những khoản nợ mà công ty nhận thấy còn khả năng thu hồi từ con nợ, công ty sẽ tiến hành phân tích kỹ càng tình hình tài chính hiện tại của con nợ và đề ra những biện pháp cơ cấu lại khoản nợ theo hướng hợp lý, phù hợp với tình hình, tạo điều kiện giúp con nợ vực dậy hoạt động kinh doanh, có khả năng trả được nợ trong thời gian tới. Các biện pháp cơ cấu lại nợ mà công ty sử dụng có thể là: miễn, giảm lãi suất hoàn toàn hay chỉ trong một thời gian nhất định; giãn nợ (kéo dài thời hạn trả nợ); cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư thêm...
Các khoản nợ có thể được bán ra trên thị trường theo mức giá thoả thuận giữa bên mua và bên bán (công ty quản lý tài sản). Bên mua thường là những đơn vị có mối quan hệ, hoặc quan tâm đặc biệt tới doanh nghiệp nợ, nhìn thấy ở khoản nợ này một cơ hội kinh doanh có thể tận dụng được.
Còn một phương thức xử lý khác cũng hay được các công ty quản lý tài sản sử dụng, đó là chuyển nợ thành cổ phần của doanh nghiệp. Đây là một trong những cách được các nhà nghiên cứu kinh tế đánh giá cao, vì khi công ty quản lý nợ và khai thác tài sản có cổ phần trong doanh nghiệp, công ty sẽ có quyền can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp đó, buộc doanh nghiệp phải thực hiện những biện pháp cần thiết để khôi phục tình hình tài chính cho doanh nghiệp. Và như vậy, quá trình cơ cấu lại ngân hàng sẽ được gắn liền với quá trình cơ cấu lại các doanh nghiệp.
Đối với các tài sản cầm cố, thế chấp, công ty cũng có thể xử lý bằng nhiều cách khác nhau. Công ty có thể tiến hành sửa chữa, nâng cấp tài sản để tăng tính khả mại cũng như giá trị của tài sản khi đem bán ra thị trường. Công ty còn có thể đưa tài sản vào hoạt động kinh doanh của bản thân công ty, hay đem tài sản góp vốn, liên doanh... Tóm lại, để thu hồi giá trị tối đa của khoản nợ, hoạt động xử lý tài sản của công ty là hết sức linh hoạt và đa dạng.
Kinh nghiệm hoạt động của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản một số quốc gia trên thế giới - bài học đối với Việt Nam.
3.1. Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới.
3.1.1. Kinh nghiệm của Thái Lan.
3.1.1.1. Bối cảnh ra đời các công ty quản lý tài sản ở Thái Lan.
Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ bắt nguồn từ Thái lan xảy ra vào giữa năm 1997 đã gây ra những tác hại nghiêm trọng đến nền kinh tế của một loạt các nước trong khu vực vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20. Trong số đó, chính Thái Lan là nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất với mức thiệt hại nặng nề nhất: sự mất ổn định của đồng tiền và của các thị trường tiền tệ trong nước, sự giảm sút các luồng vốn nước ngoài đổ vào, giảm sút ngay cả đầu tư trong nước do lãi suất cao và yếu tố lòng tin, nợ tồn đọng trong nước, nợ nước ngoài tăng mạnh, tỷ lệ tăng trưởng âm...
Thêm vào đó, việc Thái Lan tuyên bố phá giá tiền tệ đã làm tăng các chi phí dịch vụ nợ và chất thêm gánh nặng nợ nần lên vai các công ty – con nợ, làm tăng tình trạng mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản các công ty này và các nh rơi vào tình trạng gánh chịu một đống nợ khó đòi hoặc phải giữ gìn bất đắc dĩ một lượng lớn tài sản thề chấp ngày càng mất giá và khó bán. Trên bảng cân đối của các nh, các tổ chức tín dụng số lượng các khoản vay không hoạt động liên tục tăng, vào cuối năm 1998 tăng lên đến 2675 tỷ Baht chiếm 45,02% tổng số tiền vay và đến tháng 5/1999 tăng lên con số đỉnh điểm là 2729 tỷ Baht tương đương 47,7% tổng trị giá các khoản vay. Điều tệ hại hơn là các khoản vay không hoạt động này lại chủ yếu ở trên bảng cân đối của các tổ chức tín dụng thuộc sở hữu nhà nước và tập trung vào các ngành kinh tế chủ chốt như ngành công nghiệp và thương mại dịch vụ, và một số ngành liên quan đến bất động sản.
Để thoát ra khỏi khủng hoảng, giải quyết triệt để vấn đề nợ tồn đọng, tăng cường năng lực tài chính của các tổ chức tài chính – ngân hàng và góp phần ổn định, lành mạnh hoá khu vực này nhằm tạo điều kiện tiên quyết cho kinh tế tiếp tục tăng trưởng, Chính phủ Thái Lan đã khẩn trương ban hành một nghị định khẩn cấp thành lập công ty quản lý tài sản, một cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện các biện pháp xử lý nợ tồn đọng theo thông lệ quốc tế. Việc thành lập công ty quản lý tài sản để quản lý nợ tồn đọng của các tổ chức tài chính là một phần của chương trình cơ cấu lại khu vực tài chính của Thái Lan.
3.1.1.2. Uỷ ban tái cơ cấu ngành tài chính Thái Lan.
Uỷ ban tái cơ cấu ngành tài chính Thái Lan (viết tắt là FRA) được Chính phủ thành lập năm 1997 đặt dưới sự giám sát của Bộ Tài chính. Tuy đây là một đơn vị tự quản báo cáo trực tiếp cho Bộ Tài chính nhưng Bộ Tài chính không có quyền phủ quyết hoặc can thiệp.
Nguồn vốn hoạt động của công ty ban đầu được Hoàng gia Thái Lan tài trợ để trang trải chi phí phát sinh và thuê nhân sự. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động công ty FRA có quyền nhận được số tiền từ việc bán 1% giá trị tài sản từ các công ty tài chính nó tiếp quản.
Uỷ ban hoạt động theo luật định và Nghị định thành lập FRA ngày 22 tháng 10 năm 1997 để xử lý 58 định chế tài chính bị đổ vỡ. FRA tiếp nhận tài sản và thực hiện bán buôn chứ không được quyền bán lẻ các tài sản này mà phải chuyển cho công ty quản lý tài sản.
3.1.1.3. Công ty quản lý tài sản Thái Lan.
Công ty quản lý tài sản Thái Lan được thành lập theo Pháp lệnh khẩn cấp về Công ty quản lý tài sản B.E.2540 ngày 22/10/1997 là một pháp nhân, có trụ sở tại Bangkok hoạt động với hai mục đích chính là:
Quản lý hoạt động mua hoặc nhận chuyển đổi tất cả các loại tài sản hoặc tài sản thế chấp của các công ty tài chính bị tịch biên (58 công ty)
Quản lý hoạt động mua hoặc tiếp nhận các tài sản có vấn đề đã quá thời hạn trả lãi 3 tháng của các tổ chức tài chính.
Vốn của công ty được hình thành trên cơ sở 10 triệu cổ phiếu, giá trị mỗi cổ phiếu là 100 Baht, tổng cộng vốn là 1000 triệu Baht. Khoản vốn ban đầu này do Chính phủ huy động và Bộ Tài chính sẽ là một cổ đông. Trong trường hợp công ty gây ra thua lỗ làm cho tiền vốn giảm công ty được tăng vốn thông qua phát hành cổ phiếu.
Tổ chức của công ty.
Cấp quản lý cao nhất của công ty là Hội đồng quản trị gồm Chủ tịch và 6 thành viên do Bộ trưởng Bộ Tài chính chỉ định. Hội đồng quản trị công ty có quyền ban hành các quy định về quản lý nhân sự, tiền lương và các chi phí, ban hành các quy định về mua, thuê tài chính, tài sản và kế toán, kể cả kiểm toán và kiểm toán nội bộ, các quy định về quản lý hành chính và các hoạt động...
Hội đồng quản trị có quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm Giám đốc với sự đồng ý của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Giám đốc có những quyền hạn và nhiệm vụ quản lý các hoạt động của công ty phù hợp với chức trách được giao và phù hợp với các quy định do Hội đồng quản trị đặt ra.
Hoạt động của công ty.
Hoạt động của công ty được quy định trong Pháp lệnh khẩn cấp thành lập công ty quản lý tài sản như sau:
Sở hữu hoặc có các quyền sở hữu hay bất kỳ quyền thực tế nào, xây dựng, mua, bán thanh lý, cho thuê, thuê mua, soạn thảo các hợp đồng thuê mua, đi vay, cho vay, chấp nhận cầm cố, thế chấp, ngoại hối, tiếp nhận chuyển tiền hoặc tham gia vào bất cứ hoạt động nào liên quan đến tài sản trong ngoài vương quốc, kể cả việc tiếp nhận tài trợ và tài sản từ các nhà tài trợ.
Cấp bảo đảm, chấp nhận, bảo lãnh hoặc cầm cố thương phiếu
Yêu cầu khách hàng thanh toán tiền lãi suất, tiền chiết khấu, các lệ phí và các chi phí dịch vụ tài chính liên quan khác.
Vay nợ thị trường trong nước và quốc tế.
Phát hành trái phiếu, hối phiếu hoặc các công cụ nợ.
Đầu tư mua các chứng khoán do Chính phủ, các tổ chức hay các doanh nghiệp Nhà nước phát hành.
Duy trì tiền gửi tại các tổ chức tài chính
Thực hiện các hoạt động kinh doanh khác của công ty.
Chiến lược xử lý tài sản: Nhìn chung công ty quản lý tài sản Thái Lan cũng tuân theo các trình tự: Tiếp nhận tài sản, quản lý tài sản và xử lý tài sản. Chiến lược này cho phép công ty có thể có được quyền sở hữu đối với các tài sản được chuyển đổi, nhờ đó giảm được các rủi ro pháp lý trong tương lai. Mặt khác, nó cho phép các con nợ hoàn trả một phần nợ và tiếp tục kinh doanh và sau cùng nó giúp toàn bộ ngành bất động sản tiếp tục hoạt động trở lại.
Tiếp nhận tài sản: Công ty tiến hành phân loại các tài sản nó tiếp nhận thành 2 loại: Tài sản có cơ bản và tài sản có không cơ bản. Trong năm 1999, công ty quản lý tài sản đã mua tổng giá trị tài sản có cơ bản là 197,047 tỷ Baht với giá đấu thầu là 33,853 tỷ Baht được trả bằng cách phát hành trái phiếu với tổng trị giá 33,958 tỷ Baht. Các trái phiếu được phát hành có thời hạn từ 3-5 năm với mức lãi suất dao động từ 7-11%, trả lãi 6 tháng một lần.
Quản lý tài sản: Ngay từ đầu công ty đã xác định viẹc quản lý tài sản sẽ có hiệu quả phụ thuộc vào 3 yếu tố:
Định giá tài sản để đưa ra giá đấu thầu chính xác.
Chuyển các khoản vay thành tài sản
Thu được lợi nhuận từ việc xử lý tài sản.
Phương pháp đánh giá tài sản của công ty quản lý tài sản dựa trên các phương pháp đánh giá tiêu chuẩn: “các phương pháp luồng tiền mặt chiết khấu”
Luồng tiền mặt từ kinh doanh
Luồng tiền mặt từ con nợ và người bảo lãnh
Luồng tiền mặt từ thế chấp.
Mỗi phương pháp luồng tiền mặt sẽ được sử dụng tuỳ theo từng loại tài sản được mua. Có 3 loại: khoản vay bất động sản, khoản vay thương mại và khoản vay tiêu dùng.
Chính sách xử lý tài sản: Công ty sẽ không bán lại các khoản vay đã mua trực tiếp từ cơ quan tái cơ cấu ngành tài chính (FRA) mà sẽ tiến hành cơ cấu lại nợ theo phương thức tối đa hoá giá trị và điều kiện của khoản vay trước khi bán đứt hoặc công ty sẽ chuyển các khoản vay đó thành tài sản và xử lý các tài sản này thông qua các phương tiện khác nhau để tối đa hoá lợi nhuận của nó cũng như làm tăng tính thanh khoản của các tài sản này. Có các phương pháp xử lý tài sản như sau:
Thu xếp riêng
Bán từng lần
Đấu giá công khai
Ngoài ra, công ty quản lý tài sản Thái Lan còn sử dụng các chiến lược xử lý nợ khác như:
Hoán đổi nợ thành vốn cổ phần
Thanh toán khoản vay từng lần theo các điều kiện vay mới
Xoá nợ.
3.1.1.4. Các công ty quản lý tài sản được thành lập tại các ngân hàng.
Như trên cho thấy vào thời điểm cuối năm 1999, bằng những nỗ lực của mình Thái Lan đã giảm được một số lượng lớn các khoản vay không hoạt động. Việc này bắt nguồn từ những tiến bộ trong việc cơ cấu lại nợ do Chính phủ đã có chính sách khuyến khích về thuế đối với các tổ chức tín dụng và các con nợ để tiến hành tái cơ cấu lại nợ đồng thời ban hành một số văn bản luật và các quy định để tạo điều kiện thuận lợi thành lập các công ty quản lý tài sản, mua các tài sản tồn đọng từ các tổ chức tín dụng. Do vậy, bên cạnh công ty quản lý tài sản được thành lập thuộc sở hữu của chính phủ, các ngân hàng lớn cũng thành lập các công ty quản lý tài sản để xử lý các vấn đề về nợ tồn đọng của ngân hàng mình.
Tính đến nay đã có khoảng 8 công ty được thành lập tại các nh trong đó có 5 công ty thuộc sở hữu nhà nước, 3 công ty thuộc sở hữu tư nhân, điển hình là công ty SAM.
Công ty SAM (Sukhumvit Asset Management Co.Ltd) được Chính phủ thành lập ngày 4/4/2000 với mục tiêu xử lý nợ tồn đọng của Ngân hàng Krung Thai Bank (Ngân hàng thuộc sở hữu của Chính phủ) vì 40% tổng số nợ khó đòi của nước này phát sinh từ Krung Thai Bank. Với nguồn vốn ban đầu là 25 triệu Baht do Quỹ phát triển các định chế tài chính của ngân hàng trung ương Thái lan cấp để đảm trách khối lượng nợ tồn đọng khoảng 524 triệu Baht. Tuy là một cơ quan của Chính phủ nhưng SAM được toàn quyền quyết định như một công ty tư nhân. Thành phần ban lãnh đạo công ty gồm 9 người, 1 Phó Thống đốc ngân hàng trung ương, Thứ trưởng Bộ tài chính (thường trực), Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Đại diện Bộ tư pháp, Giám đốc Quỹ phát triển các định chế tài chính, Phó giám đốc điều hành các công ty quản lý tài sản thế chấp, bất động sản SMC, trợ lý Tổng thư ký Hội đồng nhà nước, Phó giám đốc ngân hàng Krung Thai Bank, Tổng Giám đốc SAM. Tổng biên chế của công ty là 60 người.
Mục đích của SAM là tối ưu hoá việc phục hồi khoản vay nhận được từ Krung Thai Bank trong vòng 3 năm và khôi phục các doanh nghiệp còn có khả năng sống. Công ty SAM được phát hành trái phiếu để có nguồn tài chính cho Krung Thai Bank. SAM không bán các khoản nợ và tài sản mà xử lý bằng cách đấu thầu quản lý các khoản nợ và tài sản đó. Các nhà thầu tham dự phải có hồ sơ dự thầu hoàn chỉnh, có tính đúng đắn, không có sự tranh chấp về quyền và lợi ích, có khả năng tài chính.
3.1.1.5. Thành lập công ty TAMC (Thai Asset Management Corp.)
Đây là một công ty quản lý tài sản trung ương được Chính phủ thành lập để xử lý nợ khó đòi của hệ thống ngân hàng thương mại. Công ty bắt đầu hoạt động từ tháng 6/2001. Mặc dù các ngân hàng đã tự thành lập được các ban (hoặc các công ty) quản lý tài sản để xử lý các vấn đề nợ tồn đọng của ngân hàng mình nhưng do các cơ quan này không có thẩm quyền cao nên không xử lý được các vấn đề nợ đọng phức tạp đòi hỏi phải có những quyền hạn pháp lý đặc biệt, do vậy các cơ quan này chỉ xử lý các khoản nợ nhỏ, lẻ. Ví dụ Ban Quản lý tài sản của Krung Thai Bank chịu trách nhiệm xử lý các khoản nợ nhỏ trị giá dưới 5 triệu Baht, các bất động sản nhỏ. Trong khi đó công ty quản lý tài sản Thái Lan và Uỷ ban tái cơ cấu ngành tài chính (FRA) được thành lập trước đây chỉ chịu trách nhiệm đối với 58 công ty tài chính nhà nước bị tịch biên chứ không chịu trách nhiệm xử lý nợ cho các ngân hàng thương mại. TAMC ra đời để đảm trách công việc này. Tất cả các khoản nợ tồn đọng lớn của các ngân hàng thương mại sẽ được chuyển tới TAMC. TAMC sẽ thuê một công ty độc lập tiến hành định giá các khoản nợ và phát hành trái phiếu thời hạn 10 năm để trả cho các ngân hàng thương mại. Lợi ích của việc thành lập TAMCbao gồm:
Tối ưu hoá giá trị bằng các biện pháp thích hợp và tái cơ cấu tài chính các khoản nợ xấu; do tập trung hoá nên tạo đà cho cơ cấu lại tài chính bên nợ
Xử lý được các khó khăn do có được những thẩm quyền pháp lý đặc biệt và quy trình rút gọn
Tạo được hiệu quả trong việc khuyến khích thực hiện nguyên tắc hoạt động tín dụng; điều quan trọng là loại trừ được nợ khó đòi ra khỏi bảng cân đối ngân hàng thương mại ,tạo ra một “ngân hàng sạch”.
3.1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc.
Không như các nước Châu á khác, khi thành lập công ty quản lý tài sản tình hình kinh tế Trung Quốc vẫn ổn định: dự trữ ngoại tệ tăng đạt 150 tỷ USD lãi suất tiết kiệm dân cư được điều chỉnh giảm 7 lần liên tiếp, chưa xuất hiện sức ép lớn về nợ tồn đọng. Tính đến cuối tháng 9/2001 nợ khó đòi của các ngân hàng thương mại là khoảng 1800 tỷ Nhân dân tệ, bằng 26,5% trên tổng doanh số cho vay (6800 tỷ...) Vì vậy, mục tiêu chính của việc thành lập công ty quản lý tài sản của Trung quốc là nhằm khắc phục rủi ro tài chính tiềm tàng của các ngân hàng thương mại quốc doanh, tăng cường cải cách doanh nghiệp nhà nước thông qua việc tối ưu hoấ giá trị tài sản tồn đọng. Vì thế trong năm 1999, Trung quốc tiến hành thành lập 4 công ty quản lý tài sản thuộc 4 ngân hàng thương mại chuyên doanh thuộc sở hữu nhà nước, đó là:
Công ty COAMC
Công ty Vạn lý trường thành (Great Wall)
Công ty CHAMC
Công ty CINDA.
Đặc điểm chung của các công ty này là những định chế mới trong thị trường tài chính được thành lập có tư cách pháp lý đặc biệt, có những quyền hạn mạnh nhất và được nhà nước tạo các điều kiện tối đa về pháp lý. Bộ Tài chính cấp vốn ban đầu cho các công ty dưới dạng tín dụng ngân hàng trung ương và trái phiếu. Các công ty quản lý tài sản đã mua từ 4 ngân hàng thương mại nhà nư._. hồ sơ pháp lý, qua đó đẩy nhanh tốc độ và hiệu quả của hoạt động xử lý nợ đọng của công ty và các ngân hàng thương mại.
Có những quy định phù hợp về quyền được biết những thông tin của ngân hàng và của các doanh nghiệp - khách hàng của ngân hàng. Theo như pháp lệnh về bảo mật thông tin và quyết định 681/1994 của Thủ tướng Chính phủ về bảo mật thông tin ngân hàng, ngân hàng có trách nhiệm bảo mật những thông tin về khách hàng của mình. Tuy nhiên, khi chuyển giao nợ tồn đọng khó đòi cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản xử lý, ngân hàng lại cần phải chuyển giao toàn bộ thông tin về khách hàng của mình cho công ty để trên cơ sở đó công ty quản lý nợ và khai thác tài sản tiến hành phân tích, đánh giá khoản nợ và đề ra phương thức xử lý phù hợp và hiệu quả nhất.
Thứ hai, tiếp tục bổ sung, sửa đổi các hệ thống luật có liên quan khác cho phù hợp với đòi hỏi thực tế và tương thích với các quy định về hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Lĩnh vực nợ là lĩnh vực bao trùm nhiều những quan hệ kinh tế rộng lớn, nên cũng có liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau. Để đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đòi hỏi phải có sự phối hợp, thống nhất của hệ thống các khuôn khổ pháp luật điều chỉnh các hoạt động liên quan. Do vậy, bên cạnh việc hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động mua bán xử lý nợ tồn đọng khó đòi của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thì Quốc hội, Chính phủ và các bộ ngành liên quan cũng cần nghiên cứu bổ sung sửa đổi Luật Doanh nghiệp, Luật đất đai,... trong thời gian gần nhất.
Luật phá sản doanh nghiệp, ra đời năm 1993, tuy đã góp phần quan trọng vào việc hình thành một cơ chế pháp lý đồng bộ cho hoạt động xử lý nợ của các doanh nghiệp, bảo đảm trật tự kỷ cương trong lĩnh vực tài chính, làm cho môi trường kinh doanh trở nên lành mạnh hơn..., nhưng trong thực tế giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản những năm qua cũng đã bộc lộ một số điểm bất hợp lý trong nhiều quy định pháp lý. Có thể đưa ra đây một số ví dụ như: điều 2 của luật Phá sản doanh nghiệp có quy định: “doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Theo như quy định này thì không phải tất cả các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn đều được đưa ra xem xét giải quyết theo thủ tục phá sản mà chỉ những doanh nghiệp nào bị mất khả năng thanh toán nợ đến hạn do hai lý do là bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc vì lý do bất khả kháng mới được Toà án xem xét để tuyên bố phá sản.
Hay như khoản 3, Điều 7 Luật Phá sản doanh nghiệp quy định, khi gửi đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản thì các chủ nợ phải cung cấp cho Toà án các giấy tờ, tài liệu để chứng minh về việc doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Quy định này gây khó khăn cho các chủ nợ trong việc nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp vì họ chỉ có thể biết được việc con nợ không thanh toán được các khoản nợ đối với mình chứ không biết, và cũng khó có đủ giấy tờ để chứng minh đựơc con nợ còn không thanh toán được nợ đối với các chủ nợ khác.
Một số những quy định bất hợp lý như phân tích ở trên đã khiến việc thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp gặp khó khăn. Thực tế, số lượng đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp là rất ít so với số lượng thực tế các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Hiện tượng nhiều doanh nghiệp đã không còn hoạt động, chỉ tồn tại trên danh nghĩa, mà không được tuyên bố phá sản khiến nhiều chủ nợ, trong đó có trường hợp của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, rơi vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”, không thể thu hồi được nợ. Vì vậy, Chính phủ cần nhanh chóng có những sửa đổi, bổ sung thích hợp để tháo gỡ khó khăn không những cho chủ nợ mà còn cho bản thân các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có khả năng cơ cấu lại hoạt động của mình.
Chính phủ cũng cần có những sửa đổi đối với Luật đất đai theo hướng thông thoáng và hợp lý hơn nữa. Một trong những vướng mắc lớn nhất hiện nay trong vấn đề đất đai là sự rườm rà, khó khăn... khi làm các giấy tờ, thủ tục pháp lý. Theo Luật đất đai quy định, người sử dụng đất có quyền chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê, thế chấp và thừa kế, nhưng khi thực hiện các quyền trên phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Như vậy, cũng có thể nói các cơ quan nhà nước cấp dưới còn có thẩm quyền cao hơn cả Quốc hội. Người chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình, dù đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn cứ phải xác nhận qua xã, phường, rồi vòng qua mấy lượt cơ quan nhà nước, mới chuyển nhượng được cho đúng pháp luật. Nhìn chung, các quy định về thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Nghị định số 17/1999/NĐ-CP và Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 17, về cơ bản vẫn mang đặc trưng của thời bao cấp, quan điểm xin – cho vẫn in đậm trong thủ tục chuyển quyền sử dụng đất và trong bộ máy Nhà nước. Bên cạnh đó, sự tồn tại của nhiều loại giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở nước ta hiện nay như: giá thị trường, giá do Nhà nước quy định, giá để tính tiền thuê đất đối với tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài, giá đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất...; và sự áp đặt giá theo khung giá đã kìm hãm sự phát triển của thị trường bất động sản, khiến thị trường bất động sản trở nên khó quản lý, dễ xẩy ra các hiện tượng tiêu cực...
Sự phối hợp của các bộ, ngành có liên quan.
Như ta đã thấy rõ, hoạt động xử lý nợ tồn đọng của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không có sự hỗ trợ, phối hợp của nhiều bộ, ngành liên quan. Vì vậy, để tạo sự thuận lợi, trôi chảy cho công tác giải quyết nợ khê đọng, các cơ quan liên quan cần hướng dẫn thực hiện một số công việc sau:
Bộ Tư pháp:
Ban hành văn bản, hướng dẫn các cơ quan bảo vệ và thi hành pháp luật đẩy nhanh tiến độ xét xử các vụ án liên quan đến tài sản thế chấp, tránh kéo dài dây dưa.
Ngay cả khi nhiều bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật mà trong đó có tuyên giao tài sản cho ngân hàng, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại quản lý, khai thác, phát mại để thu hồi nợ, nhưng các cơ quan thi hành án địa phương lại tổ chức thi hành bản án, quyết định có hiệu lực của toà án rất chậm. Cho đến nay, nhiều tài sản liên quan đến các vụ án vẫn chưa được cơ quan thi hành án giao cho ngân hàng, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản xử lý theo bản án, quyết định có hiệu lực của toà án. Do đó, việc giải quyết nợ tồn đọng của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản liên quan đến các vụ án đang chiếm một tỷ lệ lớn. Vì vậy, Bộ Tư pháp cần hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan thi hành án thực hiện nghiêm túc đúng quy định về việc cưỡng chế buộc người vay thi hành án; bàn giao nhanh cho ngân hàng thương mại, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại những tái ản bảo đảm nợ vay đã được toà án tuyên giao cho nh để xử lý thu hồi nợ.
Ban hành văn bản hướng dẫn các phòng công chứng địa phương và uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng mua bán những tài sản được giao từ các vụ án. Thực tế, thời gian qua khi công ty quản lý nợ và khai thác tài sản bán cho khách hàng những tài sản được giao từ các vụ án, nhiều hợp đồng mua bán những tài sản đó đã không được một số cơ quan công chứng Nhà nước chứng nhận vì cơ quan công chứng cho rằng tài sản chưa có đủ giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp. Do vậy, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản không thể làm được các thủ tục công chứng hợp đồng mua bán những tài sản bảo đảm nói trên để bán cho khách hàng thu nợ.
Tổng cục Địa chính và Bộ Xây dựng:
Cần xác định rõ việc xử lý nợ tồn đọng không phải là trách nhiệm riêng của ngành ngân hàng, của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản mà là trách nhiệm chung của các ngành có liên quan để làm lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Sở Địa chính các tỉnh, thành phố nên sớm xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân có vay và thế chấp nhà đất tại các ngân hàng thương mại.
Tổng cục Địa chính và Bộ xây dựng phải coi những tài sản bảo đảm nợ vay chưa có đủ giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp là hậu quả của lịch sử để lại để ban hành văn bản hướng dẫn thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với đất và tài sản gắn liền với đất cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay khi các ngân hàng thương mại, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các ngân hàng thương mại bán tài sản bảo đảm nợ vay là bất động sản.
Sở Địa chính phối hợp với Trung tâm bán đấu giá tài sản làm nhanh các thủ tục chuyển quyền sở hữu đối với các tài sản bán đấu giá để tạo điều kiện cho người mua.
Phát triển thị trường thứ cấp, thị trường bất động sản – tạo sự chuyển biến về nhận thức.
Mọi hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, từ việc mua, tiếp nhận nợ, cơ cấu lại nợ, và bán ra thị trường để thu hồi giá trị đều diễn ra theo cơ chế của thị trường mua bán nợ – thị trường thứ cấp. Do đó, trình độ phát triển của thị trường thứ cấp chính là một trong những điều kiện đảm bảo cho tính hiệu quả của hoạt động mua bán nợ. Để phát triển thị trường thứ cấp – một thị trường còn khá mới mẻ và chưa thực sự phát triển ở nước ta, Chính phủ cần có những biện pháp tăng cường hoạt động của thị trường, xây dựng khung pháp lý theo hướng vừa chặt chẽ, nghiêm minh để tạo sự ổn định, trật tự thị trường, tạo dựng lòng tin ở các nhà đầu tư trên thị trường, vừa thông thoáng, khuyến khích các chủ thể tham gia thị trường, không can thiệp, bóp méo các quy luật...
Thực chất, trong phần lớn các trường hợp, các khoản nợ mua vào của công ty là việc chuyển giao tài sản thế chấp, bảo lãnh, là các bất động sản mà các tổ chức tín dụng đã xiết nợ, nay chuyển cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Do vậy, từ những bất động sản “nằm chết” chờ xử lý, khi chuyển giao cho công ty mua bán nợ, chúng cần phải được khai thác một cách triệt để qua các hoạt động của thị trường bất động sản. Trong thời gian gần đây, Chính phủ đã có nhiều biện pháp tháo gỡ khó khăn trong giao dịch bất động sản, điều chỉnh, ban hành nhiều quy định giúp các hoạt động được thông thoáng hơn, các giao dịch được dễ dàng hơn, gần hơn với những quy luật thị trường, phù hợp đòi hỏi thực tế. Tuy vậy, thị trường bất động sản vẫn còn nhiều bất ổn, tự phát, khó kiểm soát, thủ tục mua bán còn rườm rà... Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu đưa ra các quy định, các biện pháp kiểm soát nhằm đưa hoạt động thị trường vào ổn định, tạo thuận lợi tối đa cho các giao dịch, có như vậy thì việc xử lý, mua bán các tài sản bản đảm là bất động sản mới có thể diễn ra nhanh chóng và hiệu quả, đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia.
Để phát triển thị trường thứ cấp, thị trường bất động sản, thúc đẩy hoạt động xử lý nợ tồn đọng của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, một trong những việc trước tiên cần làm là phải có sự chuyển biến về mặt nhận thức và quan điểm về phát triển thị trường, về hoạt động mua bán nợ. Đây là các giải pháp liên quan đến đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về kinh tế thị trường. Mọi điều về kinh tế thị trường đối với chúng ta đều mới, không nên vội phê phán và đánh giá theo cảm tính, dẫn đến những sự e ngại, không mạnh dạn và triệt để trong suy nghĩ và hành động.
Không chỉ các cơ quan quản lý Nhà nước, mà cả các doanh nghiệp, tổ chức và dân chúng cũng cần có nhận thức đầy đủ để có sự đánh giá và tiếp cận đúng đắn về hoạt động mới này của nền kinh tế thị trường. Mọi thành phần cần có sự hợp tác, phối hợp tốt hơn trong hoạt động xử lý nợ của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, không nên để yếu tố tâm lý đơn thuần ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của bản thân doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cũng như đến việc giải quyết nợ đọng của hệ thống ngân hàng.
Đẩy nhanh hơn nữa công tác xem xét phê duyệt xoá nợ
Xử lý nợ là một công việc không hề đơn giản, nhất là khi đó lại là những khoản nợ “có vấn đề”, phải dựa vào điều kiện, đặc điểm cụ thể của từng khoản nợ mà có những phương thức xử lý hợp lý. Trong số nợ khê đọng, không phải khoản nợ nào cũng có tài sản bảo đảm nợ vay để có thể tiến hành thanh lý, phát mại... thu hồi giá trị; con nợ còn hoạt động và có khả năng trả nợ mà có nhiều trường hợp món nợ đó vừa không có tài sản bảo đảm lại vừa không có khả năng thu nợ từ con nợ (doanh nghiệp giải thể, phá sản, còn hoạt động nhưng không có khả năng hoàn trả...). Tình hình nợ khê đọng ở nước ta nói chung, ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói riêng, số nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm, con nợ không còn tồn tại không phải là nhỏ do hậu quả của chế độ bao cấp, không tách bạch tín dụng thương mại và tín dụng chính sách trong một thời gian dài để lại. Với những khoản nợ như vậy, các ngân hàng thương mại, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại không có cách xử lý nào khác là phải sử dụng quỹ dự phòng, nguồn vốn ngân sách cấp để xoá nợ. Tuy nhiên, sự chậm trễ trong việc xem xét phê duyệt xoá nợ của Chính phủ lại đang là khó khăn của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trong quá trình xử lý nợ đọng. Để tạo thuận lợi cho công tác xử lý nợ, Chính phủ cần đẩy nhanh hơn nữa việc xem xét xoá nợ, phê duyệt nguồn vốn cho các ngân hàng thương mại và công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại thực hiện xoá nợ. Một trong những biện pháp tạo sự chủ động cho Chính phủ trong việc phê duyệt nguồn vốn xoá nợ cũng như tạo sự tin tưởng ở nh và các doanh nghiệp là Chính phủ thành lập một quỹ đặc biệt để xoá nợ, cơ cấu lại nợ cho các doanh nghiệp.
Có cơ chế bù lỗ trong hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản không hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và thực tế cũng rất khó để tạo ra lợi nhuận. Vì vậy, để công ty hoạt động bình thường và có hiệu quả, ngoài số vốn được cấp ban đầu, Bộ Tài chính nên nghiên cứu chế độ cấp bù lỗ hàng năm dựa trên cơ sở quyết toán tài chính được duyệt.
Đối với Ngân hàng Nhà nước.
Nghiên cứu soạn thảo, hoàn thiện mô hình Công ty mua, bán nợ của Nhà nước.
Để hoạt động xử lý nợ tồn đọng của ngân hàng thương mại được thực hiện một cách nhanh chóng và hiệu quả, việc thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản ở từng ngân hàng thôi là chưa đủ. Cần phải thành lập một công ty ở tầm nhà nước để vừa trực tiếp tham gia giải quyết nợ tồn đọng cho hệ thống ngân hàng, vừa có tác dụng quản lý, hướng dẫn, kết nối hoạt động của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc các ngân hàng thương mại khác nhau.
Ý thức được sự cần thiết phải thành lập công ty mua, bán nợ của Nhà nước, Chính phủ đã giao cho Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu soạn thảo các cơ chế, quy chế hoạt động cho công ty quản lý tài sản tồn đọng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm nghiên cứu, tổ chức các hội thảo, và mời các chuyên gia tư vấn... để đưa ra một cơ chế tổ chức và hoạt động cho công ty mua, bán nợ Việt Nam trong tương lai, đồng thời chịu trách nhiệm soạn thảo một Nghị định về thành lập công ty mua, bán nợ Việt Nam, quy định rõ những quyền hạn và kỹ năng đặc biệt của công ty.
Dự kiến mô hình công ty mua, bán nợ của Nhà nước.
Về mô hình tổ chức công ty, theo kiến nghị của Ngân hàng Nhà nước thể hiện rõ trong dự thảo nghị định: Công ty mua bán nợ Việt Nam sẽ là một tổ chức tài chính Nhà nước đặc biệt, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có bảng cân đối riêng và được mở tài khoản tại các nh trong nước và nước ngoài. Người ra quyết định thành lập, phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty mua bán nợ là Thủ tướng Chính phủ. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các hoạt động của công ty.
Công ty mua bán nợ Việt Nam dự kiến sẽ có trụ sở chính tại Hà nội và có chi nhánh ở một số thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Đà Nẵng...
Là một tổ chức đặc biệt, Công ty mua bán nợ dự kiến sẽ không bị chi phối bởi Luật Doanh nghiệp Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng, mà là một tổ chức đặc thù, chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, khoảng 10 năm, vốn hoạt động là vốn Nhà nước cấp hoặc phát hành trái phiếu. Việc xử lý nợ và tài sản tồn đọng nh được thực hiện theo cơ chế riêng.
Theo kinh nghiệm của một số nước, cơ cấu tổ chức của Công ty mua bán nợ sẽ phụ thuộc vào tính chất, số lượng và giá trị của các tài sản được chuyển cho công ty mua bán nợ. Công ty mua, bán nợ Việt Nam sẽ được tổ chức thành một bộ máy gọn nhẹ để tiết kiệm chi phí và nguồn lực và cần được chia tách giữa hai bộ phận chức năng: hoạt động và quản lý với một cơ cấu quản trị công ty và điều hành chung.
DỰ KIẾN MÔ HÌNH CÔNG TY MUA, BÁN NỢ CỦA NHÀ NƯỚC.
Hội đồng quản lý (Ban điều hành)
Ban kiểm soát
Ban Giám đốc điều hành (Tổng Giám đốc)
Kiểm toán nội bộ
Mua tài
sản
Hành
chính
Quản lý
rủi ro
Kế toán
tài chính
Pháp chế
Quản lý
tài sản
Tổ chức
Kế toán
Bán
tài sản
Thông
tin
tuyên truyền
Tài
chính
Tài sản không còn giá trị
Công
nghệ
thông
tin
Khối quản lý
Hội đồng quản lý (Ban điều hành): có ít nhất 9 thành viên, trong đó có 3 thành viên chuyên trách là Chủ tịch, Tổng Giám đốc, Trưởng ban kiểm soát do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm. Các thành viên kiêm nhiệm là đại diện của các Bộ, Ngành liên quan: Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tư pháp, Ban Vật giá Chính phủ, Tổng cục địa chính... Đồng thời một Ban định giá riêng được thành lập để giúp Hội đồng quản lý đưa ra các quyết định về giá, Hội đồng quản lý tham khảo ý kiến và đưa ra các quyết định cuối cùng về giá.
Hoạt động của Ban điều hành tập trung vào giám sát hoạt động và chiến lược của công ty mua, bán nợ cũng như các kế hoạch của Tổng Giám đốc và đòi hỏi có sự phê duyệt đặc biệt.
Ban Giám đốc điều hành: gồm một Tổng Giám đốc là thành viên của Hội đồng quản lý, do Hội đồng quản lý bổ nhiệm. Tổng Giám đốc có trách nhiện tổng thể đối với hoạt động của công ty mua, bán nợ, là đại diện pháp lý và có quyền cao nhất trong công ty mua bán nợ. Tổng giám đốc cũng là người chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhà nước và ban điều hành. Các phó tổng giám đốc là cán bộ công chức có trình độ tiêu chuẩn chuyên môn đáp ứng được việc quản lý chuyên môn của công ty, sẽ do Tổng giám đốc đề cử và uỷ quyền điều hành một số phòng hoạt động của công ty mua bán nợ và sẽ báo cáo trực tiếp cho Tổng giám đốc.
Ban kiểm soát: do Hội đồng quản lý thành lập và hoạt động với tư cách là thanh tra độc lập và có chức năng kiểm tra sự tuân thủ của công ty mua, bán nợ. Ban kiểm soát gồm ít nhất 5 thành viên. Trong đó, một thành viên thuộc Hội đồng quản lý làm trưởng ban, hai thành viên kiêm nhiêkm là đại diện của Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước, còn hai thành viên chuyên trách là cán bộ trong bộ máy công ty do Chủ tịch Hội đồng quản lý bổ nhiệm.
Ban kiểm toán nội bộ: Trong mô hình dự kiến Ban kiểm toán nội bộ đứng ở vị trí độc lập. Tuy nhiên, các nhà tư vấn công ty mua bán nợ lại đề xuất là Ban kiểm soát sẽ hoạt động với chức năng kiểm toán nội bộ
Khối nghiệp vụ:
Khối nghiệp vụ là bộ phận chức năng chính của công ty mua bán nợ, là nơi tiến hành tất cả các hoạt động kinh doanh của công ty mua bán nợ. Mỗi phòng trong khối nghiệp vụ có chức năng và trách nhiệm cụ thể đối với những tài sản được mua, quản lý và bán. Dự kiến gồm 4 bộ phận chính:
Tiếp nhận tài sản
Quản lý tài sản
Bán tài sản
Tài sản không còn giá trị (Tài sản có giá trị bằng 0)
Khối quản trị gồm:
Phòng hành chính gồm 2 phòng: Phòng nhân sự và phòng tuyên truyền
Phòng quản lý rủi ro
Phòng tài chính kế toán:
phòng kế toán
Phòng tài chính
Phòng Công nghệ thông tin
Phòng pháp chế.
Dự kiến các hoạt động của công ty mua bán nợ Việt Nam
Công ty mua, bán nợ Nhà nước thực tế sẽ chỉ có một cơ cấu tài chính – tài sản. Đối tượng mua nợ và các tài sản là các ngân hàng thương mại, trong giai đoạn đầu ưu tiên các ngân hàng thương mại quốc doanh. Ngân hàng thương mại cổ phần bán cho công ty mua, bán nợ những khoản nợ có vấn đề của các ngân hàng thương mại quốc doanh và các Doanh nghiệp Nhà nước. Trong trường hợp này việc tài trợ, định giá và các chính sách khác sẽ mang chức năng chính sách hơn là các sức mạnh thị trường và các cơ cấu vốn có tính tối ưu.
Nợ được mua là các khoản nợ khó đòi hạch toán trên sổ sách kế toán của ngân hàng từ trước 31/12/2000. Tài sản được mua là những tài sản đã gán, xiết nợ liên quan đến các khoản nợ khó đòi được hạch toán trên sổ sách nh thời điểm trên. Ngân hàng đã nhận được tài sản, quyền sở hữu hay quyền sử dụng, quyền định đoạt và các quyền khác do con nợ chuyển giao để thay thế một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ trả nợ cho khách hàng.
Đối với các khoản nợ không còn giá trị do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng. Để thực hiện việc mua bán nợ – tài sản công ty mua, bán nợ sẽ lập chứng chỉ chuyển giao làm cơ sở pháp lý trong việc mua bán, chuyển nhượng.
Công ty được trực tiếp mua theo giá thị trường một phần hoặc toàn bộ nợ, tài sản mà bên bán nợ đang nắm giữ quyền sở hữu, hoặc quyền sử dụng, định đoạt với các tổ chức cá nhân khác.
Các tài sản được mua, công ty mua bán nợ sẽ trực tiếp quản lý hoặc sử dụng đại lý để quản lý, bảo trì, bảo dưỡng... các khoản nợ thì cơ cấu lại thông qua việc xác định lại thời hạn nợ mới, thay đổi kỳ hạn trả nợ, phương thức trả nợ gốc, miễn giảm lãi suất, đầu tư cho vay thêm, chuyển đổi thành cổ phiếu trái phiếu... nhằm chuyển đổi các khoản vay không sinh lời thành có sinh lời, phục hồi tài sản và khả năng sinh lời. Cuối cùng công ty mua bán nợ sẽ thực hiện quy trình bán, chuyển nhượng tài sản thông qua đấu giá, chứng khoán hoá hoặc bán riêng theo thoả thuận.
Nhìn chung, mô hình công ty mua bán nợ do Ngân hàng Nhà nước đề xuất là tổng hợp kết quả của cả một quá trình nỗ lực nghiên cứu tìm tòi, áp dụng các kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cùng với sự giúp đỡ tận tình của các công ty tư vấn hàng đầu thế giới như Công ty Anthur Andersen, Công ty Deloitte Touch Tohmatsu, Công ty Vinstar...
Tuy nhiên, do tính đặc thù riêng biệt của nền kinh tế Việt Nam, do những hạn chế, thiếu đồng bộ của môi trường pháp lý, các vấn đề về chính sách, vốn, nhân sự... cũng như một số điểm chưa thực sự thích hợp trong bản thân mô hình công ty mua, bán nợ mà đến nay công ty vẫn chưa được cho ra đời. Vì vậy, cùng với việc Chính phủ từng bước xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hơn nữa mô hình công ty mua bán nợ Nhà nước để trình lên Chính phủ, nhanh chóng đưa mô hình công ty đi vào hoạt động.
Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản hướng dẫn thực hiện các quyết định liên quan đến hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Như đã phân tích, hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản cần có những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh, công ty cần được trao những kỹ năng và quyền lực đặc biệt để có thể hoàn thành được mục tiêu xử lý nợ tồn đọng khó đòi của hệ thống ngân hàng. Việc Chính phủ không ngừng hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý cho hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là điều vô cùng cần thiết và phải làm cho được. Tuy nhiên, để công ty quản lý nợ và khai thác tài sản biết, hiểu, và thực hiện đúng theo các quy định luật pháp của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong việc ban hành các văn bản liên quan, cụ thể hoá, hướng dẫn thực hiện quyết định, và cần tránh không để xảy ra hai tình trạng:
Thứ nhất, các quyết định, văn bản của Ngân hàng Nhà nước không thống nhất, thậm chí xung đột với quyết định của Chính phủ; không phù hợp với đòi hỏi thực tế.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước chậm ban hành các công văn, chỉ thị, văn bản... hướng dẫn hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản theo tinh thần quyết định của Chính phủ.
Cả hai trường hợp trên đều gây nên những khó khăn, vướng mắc cho công tác giải quyết nợ tồn đọng của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần rà soát các văn bản hiện hành có liên quan đến việc xử lý nợ tồn đọng và hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, đồng thời tham khảo thêm ý kiến của các ngân hàng thương mại để ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản mới cho phù hợp với các quyết định và tình hình thực tế.
Một trong những trường hợp Ngân hàng Nhà nước cần xem xét là Quy chế mua bán nợ ban hành kèm theo Quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN14 ngày 19 tháng 04 năm 1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Quy chế này chỉ điều chỉnh hoạt động mua bán nợ mà bên bán là tổ chức tín dụng. Do đó, sau khi mua nợ từ các tổ chức tín dụng, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các ngân hàng thương mại không biết căn cứ vào văn bản pháp lý nào để bán nợ cho các tổ chức kinh tế hay cá nhân khác. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần ban hành văn bản hướng dẫn hoạt động mua bán nợ giữa công ty quản lý nợ và khai thác tài sản với các tổ chức kinh tế và cá nhân khác hoặc ngược lại.
Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn .
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là đơn vị trực tiếp quản lý, kiểm tra về tổ chức và nội dung, phạm vị hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn . Công ty có trách nhiệm sử dụng có hiệu quả vốn và các nguồn lực khác được Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao; phải thực hiện các công tác tuyển chọn, thuê mướn, bố trí, sử dụng, đào tạo lao động, lựa chọn các hình thức trả lương, thưởng và các nghĩa vụ và quyền hạn của người lao động theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam; chịu trách nhiệm trước Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và trước pháp luật về mọi hoạt động của công ty; thực hiện quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Như vậy, hoạt động của công ty phụ thuộc rất nhiều vào các quyết sách, định hướng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn .
Để thúc đẩy, phát triển hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, điều trước tiên Ngân hàng Nông nghiệp cần làm là tạo điều kiện thuận lợi về mặt tài chính, cơ sở vật chất ban đầu cho công ty, thể hiện ở nguồn vốn cấp ban đầu, tiếp tục có sự bổ sung và trợ giúp thích hợp, kịp thời trong quá trình hoạt động sau này. Ngân hàng cũng có thể tạo điều kiện về trụ sở hoạt động và những trang thiết bị vật chất ban đầu để công ty nhanh chóng đi vào hoạt động. Đồng thời, ngân hàng nên giúp đỡ điều chuyển những cán bộ có trình độ và kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng nói chung cũng như lĩnh vực quản lý nợ nói riêng sang công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng để giúp công tác xử lý nợ đạt được hiệu quả cao hơn.
Bên cạnh đó, ngân hàng cần thường xuyên quan tâm đến tình hình hoạt động nói chung của công ty, lắng nghe ý kiến và những vướng mắc trong công tác xử lý nợ mà công ty gặp phải, từ đó cùng công ty đề ra các biện pháp tháo gỡ. Kịp thời có các văn bản hướng dẫn cụ thể đối với hoạt động của công ty cho phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật.
Tuy nhiên, ngân hàng cũng không nên có sự can thiệp quá sâu vào hoạt động của công ty, nên tránh tư tưởng bao cấp, ỷ lại, mà nên để công ty có sự tự chủ và linh hoạt của mình trong công tác xử lý nợ tồn đọng cho ngân hàng.
Về phần mình, công ty nên không ngừng củng cố và phát triển hoạt động nghiệp vụ. Công ty mới đi vào hoạt động chưa lâu nên khó khăn còn rất nhiều. Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên công ty cần cùng nhau nỗ lực, tìm hiểu kỹ nguyên nhân của những vướng mắc, chưa thành công, từ đó có những biện pháp khắc phục kịp thời. Với những nguyên nhân từ phía cơ chế, luật pháp, môi trường vĩ mô... công ty cần có những phản ánh kịp thời lên các cơ quan lãnh đạo cấp trên để có những sửa đổi, hoàn thiện về mặt pháp lý, đồng thời tăng cường mối quan hệ, tận dụng sự giúp đỡ của các bộ ngành có liên quan, đẩy nhanh tốc độ giải quyết nợ tồn đọng. Trong hoạt động, công ty cần có sự chủ động, linh hoạt đối với công tác xử lý nợ, không ngừng bồi dưỡng trình độ cho các cán bộ, hoàn thiện hơn nữa các quy trình nghiệp vụ, cố gắng tận dụng những khả năng và lợi thế của công ty...
KẾT LUẬN
Trước đòi hỏi của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế cũng như yêu cầu phát triển bền vững nền kinh tế, chương trình cơ cấu lại ngân hàng, lành mạnh hoá tình hình tài chính, trong đó xử lý nợ tồn đọng của hệ thống ngân hàng là một nội dung quan trọng, là một quyết định kịp thời và đúng đắn của Chính phủ.
Để phục vụ cho chương trình tái cơ cấu tài chính, nhiều ngân hàng thương mại đã thành lập các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng mình nhằm giải quyết cho được vấn đề nợ tồn đọng khó đòi đã tồn tại từ lâu nay. Với những nghiên cứu nghiêm túc, luận văn cố gắng phần nào làm rõ được những lý luận tổng quát nhất về hoạt động của hình thức công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Dựa trên cơ sở lý luận đó, phân tích đánh giá tình hình hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn , rút ra những mặt đã làm được và chưa làm được của công ty trong thời gian hoạt động vừa qua. Nhưng quan trọng nhất vẫn là việc phát hiện ra những nguyên nhân của các khó khăn tồn tại để đưa ra hệ thống những giải pháp thích hợp giúp hoàn thiện hơn nữa hoạt động của công ty.
Cuối cùng, em xin cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy, cô giáo, của các cán bộ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng như công ty quản lý nợ và khai thác tài sản nơi thực tập. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn cô giáo, thạc sĩ Đỗ thị Kim Hảo, người đã rất nhiệt tình, tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em trong suốt thời gian làm luận văn.
Dù đã có sự cố gắng hết sức của người viết, luận văn chắc chắn vẫn không tránh khỏi việc còn có những điểm thiếu sót, chưa hoàn thiện. Rất mong nhận được sự thông cảm cũng như những ý kiến đóng góp, sửa chữa của thầy, cô và các bạn bè.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0060.doc