Thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty xây dựng số 8 Thăng Long

Chương i Tổng quan về Hiệu qủa sản xuất kinh doanh I. Khái niệm, bản chất, phân loại hiệu qủa sản xuất kinh doanh 1. Khái niệm về hiệu qủa sản xuất kinh doanh Đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, với các cơ chế quản lý khác nhau thì có các nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động khác nhau. Ngay cả trong mỗi giai đoạn phát triển của mình, doanh nghiệp cũng có các mục tiêu khác nhau. Trong cơ chế thị trường, mọi doanh nghiệp đều có mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hoá lợi nhu

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1453 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty xây dựng số 8 Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận. Để đạt được mục tiêu này, mọi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược phát triển thích ứng với các biến động của thị trường, phải xây dựng các kế hoạch và phương án kinh doanh, phải kế hoạch hoá các hoạt động của doanh nghiệp và đồng thời phải tổ chức thực hiện chúng một cách có hiệu quả. Trong qúa trình tổ chức xây dựng và thực hiện các hoạt động kể trên, các doanh nghiệp phải luôn kiểm tra, đánh giá tính hiệu quả của chúng. Muốn kiểm tra đánh giá các hoạt động sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp cũng như từng lĩnh vực, từng bộ phận bên trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp không thể không thực hiện việc tính toán hiệu quả kinh tế của nó. Vậy thì hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh (hiệu quả sản xuất kinh doanh) là gì? Để hiểu được phạm trù này, trước tiên chúng ta tìm hiểu xem hiệu quả kinh tế nói chung là gì. Từ trước đến nay có rất nhiều tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế: - Theo P. Samerelson và W. Nordhaus thì: "hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loạt hàng hoá mà không cắt giảm một loạt sản lượng hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó"(1) P. Samueleson và W. Nordhaus: Giáo trình kinh tế học, trích từ bản dịch Tiếng Việt (1991) . Đây là quan điểm phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh ở tầm vĩ mô, nó đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực sản xuất trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả cao. Có thể nói, mức hiệu quả ở đây mà tác giả đưa ra về mặt lý thuyết là cao nhất, là lý tưởng và không thể có mức hiệu quả nào cao hơn nữa. - Có một số tác giả lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ lệ giữa sự tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí. Các quan điểm này mới chỉ đề cập đến hiệu quả của phần tăng thêm chứ không phải của toàn bộ phần tham gia vào qúa trình kinh tế. - Một số quan điểm lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Điển hình cho quan điểm này là tác giả Manfred Kuhn, theo ông: "Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh" (2) (2)(3) (4) (5) Trích dẫn theo giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp trang 407, 408 . Đây là quan điểm được nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng vào tính hiệu quả kinh tế của các qúa trình kinh tế. - Hai tác giả Whohe và Doring lại đưa ra hai khái niệm về hiệu quả kinh tế. Đó là hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị giá trị. Theo hai ông thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau: "Mối quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng tính theo đơn vị hiện vật (chiếc, kg...) và lượng các nhân tố đầu vào (giờ lao động, đơn vị thiết bị, nguyên vật liệu...) được gọi là tính hiệu quả có tính chất kỹ thuật hay hiện vật" , còn "Mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí kinh doanh phải chỉ ra trong điều kiện thuận lợi nhất và chi phí kinh doanh thực tế phải chi ra được gọi là tính hiệu quả xét về mặt giá trị" và "Để xác định tính hiệu quả về mặt giá trị người ta còn hình thành tỷ lệ giữa sản lượng tính bằng tiền và các nhân tố đầu vào tính bằng tiền" (5). Khái niệm hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật của hai ông chính là năng suất lao động, máy móc thiết bị và hiệu suất tiêu hao vật tư, còn hiệu quả tính bằng giá trị là hiệu quả của hoạt động quản trị chi phí. - Một khái niệm được nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước quan tâm chú ý và sử dụng phổ biến đó là: hiệu quả kinh tế của một số hiện tượng (hoặc một qúa trình) kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã xác định. Đây là khái niệm tương đối đầy đủ phản ánh được tính hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung trong đó hàm chứa cả hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ các quan điểm về hiệu quả kinh tế đã nêu trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh (hiệu quả sản xuất kinh doanh) của các doanh nghiệp như sau: hiệu qủa sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, tiền vốn và các yếu tố khác) nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra. 2. Bản chất của hiệu qủa sản xuất kinh doanh Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh đã nghiên cứu ở trên cho thấy bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp (với chi phí thấp nhất và doanh thu (kết quả đạt được có thể tính bằng tiền) cao nhất có thể). Do vậy, để hiểu rõ và ứng dụng được phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (tầm vi mô) vào việc thành lập các chỉ tiêu, các công thức cụ thể nhằm đánh giá tính hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì chúng ta cần: Thứ nhất, cần phải phân biệt rõ các phạm trù sau: - Phải phân biệt hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế xã hội với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu về xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường là: Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong phạm vi toàn xã hội hay phạm vi từng khu vực, nâng cao trình độ văn hoá, nâng cao mức sống, đảm bảo vệ sinh môi trường,... Còn hiệu quả kinh tế xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu cả về kinh tế xã hội trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như trên phạm vi từng vùng, từng khu vực của nền kinh tế. - Phải phân biệt được hiệu quả trước mắt với hiệu quả lâu dài: Xét về tính lâu dài thì các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong suốt qúa trình hoạt động của doanh nghiệp là lợi nhuận và các chỉ tiêu về doanh lợi. Xét về tính hiệu quả trước mắt (hiện tại) thì nó phụ thuộc vào các mục tiêu hiện tại mà doanh nghiệp đang theo đuổi. Trên thực tế, để thực hiện mục tiêu bao trùm lâu dài của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận thì hầu hết các doanh nghiệp hiện tại lại không đạt mục tiêu là lợi nhuận mà trước mắt họ phải thực hiện các mục tiêu nâng cao năng suất và chất lượng của sản phẩm, nâng cao uy tín danh tiếng của doanh nghiệp, mở rộng thị trường cả về chiều sâu lẫn chiều rộng... do đó, các chỉ tiêu lợi nhuận là không cao nhưng các chỉ tiêu có liên quan đến các mục tiêu trước mắt đã đề ra của doanh nghiệp là cao. Vì thế, trong trường hợp này chúng ta không thể kết luận là doanh nghiệp đang hoạt động không có hiệu quả. Như vậy, các chỉ tiêu hiệu quả hiệu quả trước mắt có thể là trái với các chỉ tiêu hiệu quả lâu dài, nhưng mục đích của nó lại là nhằm thực hiện chỉ tiêu hiệu quả lâu dài. - Ngoài ra, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh doanh cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả: Hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất. Trình độ lợi dụng các nguồn lực không thể đo bằng đơn vị hiện vật hay giá trị mà là một phạm trù tương đối. Còn kết quả là phạm trù phản ánh những cái thu được sau một quá trình kinh doanh nào đó. Kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp và được đo bằng các đơn vị hiện vật hoặc đơn vị giá trị (trong phạm vi doanh nghiệp thì kết quả đạt được có thể lượng hoá bằng đơn vị giá trị chính là doanh thu). Thứ hai, phải hiểu rằng phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực chất là mối quan hệ so sánh giữa doanh thu (kết quả đạt được có thể tính bằng tiền) và chi phí bỏ ra để sử dụng các yếu tố đầu vào và có tính đến các mục tiêu của doanh nghiệp. Mối quan hệ so sánh ở đây được thể hiện theo hai hướng: + Về mặt so sánh tuyệt đối thì hiệu quả sản xuất kinh doanh là: H1 = K - C (Hiệu quả tuyệt đối) Chỉ tiêu H1 phản ánh mức chênh lệch giữa doanh thu và chi phí, gọi là hiệu quả tuyệt đối hay H1 chính là lơi nhuận đạt được. + Còn về so sánh tương đối thì: H2 = K / C hoăc H3 = C / K (Hiệu quả tương đối) Trong đó: Hi : Là hiệu quả sản xuất kinh doanh K : Là kết quả đạt được có thể tính bằng tiền (doanh thu) C : Là chi phí bỏ ra để sử dụng các nguồn lực đầu vào Chỉ tiêu H2 phản ánh 1 đơn vị đầu vào có khả năng tạo bao nhiêu đơn vị đầu ra và được dùng để xác định ảnh hưởng của hiệu quả sử dụng nguồn lực (hay chi phí thường xuyên) đến doanh thu. Chỉ tiêu H3 phản ánh 1 đơn vị đầu ra cần bao nhiêu đơn vị đầu vào và được dùng để xác định mức tiết kiệm hay lãng phí nguồn lực và chi phí thường xuyên. Do đó, để tính được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ta phải tính toán được doanh thu và chi phí bỏ ra. 3. Phân loại hiệu qủa sản xuất kinh doanh Tùy theo phạm vi nghiên cứu, kết quả đạt được (có hay không thể lượng hoá) và chi phí bỏ ra mà có các phạm trù hiệu quả khác nhau. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hiệu quả trực tiếp của các doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh hay nói khác đi là hiệu quả sản xuất kinh doanh, còn hiệu quả của các ngành hoặc hiệu quả của nền kinh tế quốc dân là hiệu quả kinh tế xã hội. Từ đó, ta có thể phân hiệu quả thành hai loại: 3.1. Hiệu qủa kinh tế của doanh nghiệp Khi nói tới doanh nghiệp, người ta thường quan tâm nhất, đó là hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp bởi lẽ, các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều với động cơ kinh tế để kiếm lợi nhuận. Do đó, hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp lại được chia thành hai loại cơ bản là hiệu quả kinh tế tổng hợp và hiệu quả kinh tế từng yếu tố. 3.1.1. Hiệu qủa kinh tế tổng hợp Hiệu quả kinh tế tổng hợp là phạm trù kinh tế biểu hiện tổng thể của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác và lợi dụng các nguồn lực trong qúa trình sản xuất và tái sản xuất nhằm thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, hiệu quả kinh tế tổng hợp là thước đo hết sức quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cho việc đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. 3.1.2. Hiệu qủa kinh tế của từng yếu tố Hiệu quả kinh tế của từng yếu tố là phạm trù kinh tế thể hiện trình độ, khả năng khai thác và sử dụng các yếu tố (các nguồn lực) trong qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: hiệu qủa sử dụng vốn, hiệu qủa sử dụng lao động, hiệu quả sử dụng qũy tiền lương, hiệu quả sử dụng tài sản cố định, hiệu qủa sử dụng máy móc và trang thiết bị,... nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Có thể nói, hiệu qủa kinh tế của từng yếu tố của doanh nghiệp là thước đo quan trọng của sự tăng trưởng (tính hiệu qủa) của từng yếu tố và cùng với hiệu qủa kinh tế tổng hợp làm cơ sở để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp. 3.2. Hiệu qủa kinh tế - xã hội Hiệu quả kinh tế - xã hội là phạm trù kinh tế phản ánh hiệu qủa của các hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đem lại cho xã hội và nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả kinh tế - xã hội được thể hiện qua các mặt như: tăng thu ngân sách cho Nhà nước, nâng cao trình độ dân trí, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người lao động và tái phân phối lợi tức xã hội,... Tóm lại, trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung và trong phạm vi doanh nghiệp nói riêng, phạm trù hiệu quả kinh tế hay hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được biểu hiện ở nhiều loại khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh tế hay hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là cơ sở để xác định các chỉ tiêu hiệu quả, phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh và xác định những biện pháp nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. II. các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù rộng, vì vậy có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh và có rất nhiều cách để phân loại nhân tố đó. Thông thường, người ta chia các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh làm hai nhóm chính sau: 1. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp (nhân tố chủ quan) 1.1. Nhân tố lao động Khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày nay đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Mỗi một doanh nghiệp áp dụng kỹ thuật tiên tiến là điều kiện tiên quyết để tăng hiệu quả sản xuất. Song, chỉ trang bị máy móc thiết bị thôi thì chưa đủ mà một vấn đề quan trọng nữa là vai trò của người lao động. Bởi lẽ, máy móc thiết bị dù có tối tân hiện đại đến đâu cũng đều do con người chế tạo ra, máy móc thiết bị dù có hiện đại đến đâu cũng phải phù hợp với trình độ tổ chức, trình độ kỹ thuật, trình độ sử dụng của người lao động thì mới phát huy được tác dụng, tránh lãng phí, hỏng hóc. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp nhập tràn lan thiết bị hiện đại của nước ngoài nhưng do trình độ sử dụng yếu kém nên vừa không đem lại năng suất cao lại vừa tốn tiền bảo dưỡng, sửa chữa vì hỏng hóc do không biết sử dụng, hoặc sử dụng không hết công suất, gây thiệt hại lớn cho hoạt động sản suất kinh doanh, kết quả là hiệu quả sản xuất kinh doanh rất thấp. Do vậy, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, lực lượng lao động có tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tác động theo các hướng: - Nếu trình độ lao động là tương xứng với sự phát triển của các yếu tố vật chất thì sẽ góp phần vận hành có hiệu quả các yếu tố vật chất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. - Nếu cơ cấu lao động phù hợp sẽ góp phần sử dụng có hiệu quả chính bản thân yếu tố lao động đồng thời góp phần tạo lập và điều chỉnh mối quan hệ tỷ lệ hợp lý giữa các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh. - ý thức, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động,... là các yếu tố cơ bản, quan trọng để phát huy nguồn lực lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ngày nay, sự phát triển khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức, đòi hỏi lực lượng lao động phải là lực lượng rất tinh nhuệ, có trình độ kỹ thuật cao. Điều này khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của lực lượng lao động đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2. Cơ sở vật chất và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất - Khoa học kỹ thuật và công nghệ sẽ tác động tới việc tiết kiệm chi phí vật chất trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp sử dụng hợp lý, tiết kiệm chi phí vật chất trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời, kỹ thuật và khoa học công nghệ cũng góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm. - Cơ sở vật chất là nhân tố rất quan trọng trong việc tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm (tức là tăng hiệu qủa sản xuất kinh doanh). Chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị tác động mạnh mẽ bởi cơ sở vật chất, trình độ hiện đại, tính đồng bộ, tình hình bảo dưỡng, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị, công nghệ. Thực tiễn nước ta hiện nay cho thấy, nhiều doanh nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất yếu kém, máy móc, thiết bị sản xuất vừa lạc hậu, cũ kĩ vừa không đồng bộ, đồng thời việc quản lý và sử dụng tiết kiệm và hiệu qủa cơ sở vật chất kỹ thuật đó cũng không được chú trọng nên nhiều doanh nghiệp không phát huy được năng lực hiện có của mình, chưa nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Ngày nay, công nghệ kỹ thuật phát triển nhanh chóng, chu kỳ công nghệ ngày càng ngắn và hiện đại hơn do đó nó có vai trò ngày càng lớn và mang tính chất quyết định đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Bởi vậy, các doanh nghiệp phải tìm giải pháp đầu tư đúng đắn, chuyển giao công nghệ phù hợp với trình độ công nghệ tiên tiến của thế giới, bồi dưỡng và đào tạo lực lượng lao động làm chủ được công nghệ kỹ thuật hiện đại... để làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.3. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin Trong thời đại bùng nổ về khoa học công nghệ thông tin như hiện nay, thông tin và hệ thống xử lý thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị tường. Thông tin được coi là hàng hoá, là đối tượng lao động của các nhà kinh doanh. Mỗi một doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt được thành công thì cần rất nhiều thông tin chính xác về thị trường, về công nghệ kỹ thuật, về người mua, về các đối thủ cạnh tranh, về giá cả đồng thời doanh nghiệp cũng cần phải biết về sự thành công hay thất bại của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, về sự thay đổi chủ trương, chính sách của Nhà nước và của nước ngoài để có các chiến lược kinh doanh trong tương lai. Những thông tin kịp thời, chính xác sẽ giúp doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh và hoạch định các chương trình sản xuất kinh doanh trong ngắn hạn đồng thời xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn. Từ đó, doanh nghiệp xác định phương án sản xuất tối ưu nhằm đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh lớn. 1.4. Nhân tố quản lý và điều hành sản xuất Trong qúa trình sản xuất kinh doanh, nhân tố quản lý và điều hành sản xuất có vai trò vô cùng quan trọng: Quản lý doanh nghiệp có vai trò xác định cho doanh nghiệp có một hướng đi đúng trong hoạt động kinh doanh, xác định chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Chất lượng của chiến lược kinh doanh là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất quyết định sự thành công, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hay thấp, đối với một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh. Mỗi một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chiến thắng trong cạnh tranh, với các lợi thế về chất lượng và sự khác biệt hoá sản phẩm, giá cả và tốc độ cung ứng. Để đảm bảo cho doanh nghiệp giành chiến thắng trong cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào nhãn quan và khả năng quản lý và điều hành sản xuất của các nhà quản trị doanh nghiệp. Như vậy, quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh thể hiện sự kết hợp giữa ứng dụng kiến thức khoa học vào quy trình sản xuất và nghệ thuật kinh doanh của các nhà quản trị doanh nghiệp, nó có tác động rất lớn đến hiệu qủa sản xuất kinh doanh và có ý nghĩa quyết định đối với việc duy trì, phát triển của doanh nghiệp. 1.5. Nhân tố hạch toán kinh tế Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được xác định bởi tương quan giữa hai đại lượng kết quả thu được (doanh thu)và chi phí bỏ ra. Cả hai đại lượng nay đều phức tạp và khó đánh giá chính xác. Cùng với sự phát triển của khoa học quản trị kinh doanh càng ngày người ta càng tìm ra phương pháp đánh giá đảm bảo dần dần tiếp cận với tính “thật” của hai đại lượng này. Trong hai đại lượng đó nếu xét trên phương diện giá trị và coi lợi nhuận là hiệu qủa (tuyệt đối), chi phí là cái bỏ ra thì: P = TR - TC Trong đó: P: Là lợi nhuận TR: Là tổng doanh thu TC : Là tổng chi phí Sự khó xác định trước hết ở quan niệm về hai yếu tố này và cần chú ý rằng cái gì là lợi nhuận thì sẽ không phải là chi phí và ngược lại, cái gì được quan niệm là chi phí sẽ không phải là lợi nhuận. Có rất nhiều dẫn chứng để chứng tỏ sự không thống nhất trong quan niệm này. Ví dụ trước đây chúng ta quan niệm thuế nằm trong phạm trù lợi nhuận và là một phần của lợi nhuận. Do vậy, ảnh hưởng của hạch toán kinh tế đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là nằm ở sự phức tạp trong quan niệm về hai yếu tố này. 2. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp (nhân tố khách quan) 2.1. Môi trường chính trị, luật pháp Môi trường chính trị ổn định luôn luôn là tiền đề cho việc phát triển và mở rộng các hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. Các hoạt động đầu tư nó lại tác động trở lại rất lớn tới các hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật, các quy trình quy phạm kỹ thuật sản xuất tạo ra một hành lang cho các doanh nghiệp hoạt động, các hoạt động của doanh nghiệp như sản xuất kinh doanh cái gài, sản xuất bằng cách nào, bán cho ai ở đâu, nguồn đầu vào lấy ở đâu đều phải dựa vào các quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp phải chấp hành các quy định của pháp luật, phải thực hiện các nghĩa vụ của mình với nhà nước, với xã hội và với người lao động như thế nào là do luật pháp quy định (nghĩa vụ nộp thuế, trách nhiệm đảm bảo vệ sinh môi trường, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp... ). Có thể nói luật pháp là nhân tố kìm hãm hoặc khuyến khích sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng trực tiếp tới các kết quả cũng như hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 2.2. Môi trường kinh tế Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, tốc độ lạm phát, thu nhập bình quân trên đầu người... là các yếu tố tuy là bên ngoài doanh nghiệp nhưng lại tác động trực tiếp tới cung cầu và hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Nếu tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quốc dân cao, các chính sách của Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, sự biến động tiền tệ là không đáng kể, lạm phát được giữ mức hợp lý, thu nhập bình quân đầu người tăng... sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và ngược lại. 2.3. Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái và cơ sở hạ tầng Các điều kiện tự nhiên như: các loại tài nguyên khoáng sản, vị trí địa lý, thời tiết, khí hậu,... là các nhân tố có ảnh hưởng tới chi phí sử dụng nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, ảnh hưởng tới mặt hàng kinh doanh, năng suất chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng tới cung cầu sản phẩm do tính chất mùa vụ... do đó ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong vùng. Tình trạng môi trường, các vấn đề về xử lý phế thải, ô nhiễm môi trường,... đều có tác động nhất định đến chi phí kinh doanh, năng suất và chất lượng sản phẩm. Một môi trường trong sạch thoáng mát sẽ trực tiếp làm giảm chi phí kinh doanh, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cơ sở hạ tầng quyết định sự phát triển của nền kinh tế cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp: Hệ thống đường xá, giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống ngân hàng tín dụng,... có ảnh hường không nhỏ tới chi phí kinh doanh, khả năng nắm bắt thông tin, khả năng huy động và sử dụng vốn, khả năng giao dịch thanh toán, khả năng vân chuyển hàng hoá,... của các doanh nghiệp. Do đó, các yếu tố cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.4. Nhân tố môi trường ngành 2.4.1. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trong ngành Mức độ và quy mô cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành với nhau có ảnh hưởng trực tiếp tới lượng cung và cầu sản phẩm của mỗi doanh nghiệp trên thị trường, ảnh hưởng tới giá bán, tốc độ tiêu thụ sản phẩm,... do vậy, ảnh hưởng tới hiệu quả của mỗi doanh nghiệp. 2.4.2. Khả năng gia nhập mới của các doanh nghiệp Trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, trong hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề sản xuất kinh doanh có mức doanh lợi cao thì đều bị rất nhiều các doanh nghiệp khác nhòm ngó và sẵn sàng đầu tư vào lĩnh vực đó để cạnh tranh nếu như không có sự cản trở từ phía Chính phủ. Vì vậy, buộc các doanh nghiệp trong các ngành có mức doanh lợi cao đều phải tạo ra cac hàng rào cản trở sự ra nhập mới bằng cách khai thác triệt để các lợi thế riêng có của mình, bằng cách định mức giá phù hợp và tăng cường mở rộng chiếm lĩnh thị trường. Do vậy, khả năng gia nhập mới của các doanh nghiệp khác có ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.4.3. Sản phẩm thay thế Hầu hết các sản phẩm của doanh nghiệp đều có sản phẩm thay thế, số lượng chất lượng, giá cả, mẫu mã bao bì của sản phẩm thay thế, các chính sách tiêu thụ của các sản phẩm thay thế ảnh hưởng rất lớn tới lượng cung cầu, chất lượng, giá cả và tốc độ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Do đó, sản phẩm thay thế có ảnh hưởng tới kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.4.4. Người cung ứng Các nguồn lực đầu vào của một doanh nghiệp được cung cấp chủ yếu bởi các doanh nghiệp khác được gọi là người cung ứng. Việc đảm bảo chất lượng, số lượng cũng như giá cả các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp phụ thuộc vào tính chất của các yếu tố đó hay nói khác đi là phụ thuộc vào tính chất của người cung ứng và các hành vi của họ. Nếu các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp là không thể thay thế và do các nhà độc quyền cung cấp thì việc đảm bảo yếu tố đầu vào của doanh nghiệp phụ thuộc vào các nhà cung ứng, chi phí về các yếu tố đầu vào cao hơn bình thường sẽ làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ngược lại. 2.4.5. Khách hàng Khách hàng là một vấn đề vô cùng quan trọng và được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm chú ý. Nếu như sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra mà không có hoặc là không được người tiêu dùng chấp nhận rộng rãi thì doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất kinh doanh được. Mật độ dân cư, mức độ thu nhập, tâm lý và sở thích tiêu dùng, thị hiếu,... của khách hàng ảnh hưởng lớn tới sản lượng và giá cả sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới sự cạnh tranh của doanh nghiệp vì vậy ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. III. các phương pháp đánh giá và sự cần thiết phải nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh 1. Phương pháp phân tích, đánh giá hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường được biểu hiện thành các chỉ tiêu kinh tế dưới sự tác động của các yếu tố có liên quan. Do đó, khi phân tích và đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ta phải lượng hoá các chỉ tiêu là nhân tố ở những trị số xác định. Vì vậy, để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách chính xác và đúng đắn nhằm rút ra những thiếu sót, những hướng đi mới, cần phải có một hệ thống phương pháp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh một cách khoa học để rút ra những đánh giá về những hiện tượng và quá trình kinh tế. Dưới đây là một số phương pháp cơ bản: 1.1. Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh là việc đối chiếu các chỉ tiêu hiệu quả, các hiện tượng kinh tế đã được lưỡng hoá để xác định xu hướng, mức độ biến động của các chỉ tiêu đó. Phương pháp này cho phép ta tổng hợp được những nét chung, đồng thời tách ra được những nét riêng biệt của các hiện tượng cần so sánh. Trên cơ sở đó đánh giá được các mặt tăng hay giảm, phát triển hay kém phát triển, hiệu quả hay không hiệu quả để tìm ra các giải pháp khắc phục hợp lý cho từng trường hợp cụ thể, thông qua phương pháp so sánh chúng ta thấy được sự tăng trưởng và phát triển hay là những bước đi thụt lùi (suy thoái) đối với một số hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, trong phương pháp này ta phải so sánh mức hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực như thế nào. Có nhiều phương pháp so sánh khác nhau như: + So sánh số liệu kỳ này so với số liệu của kỳ trước giúp ta nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng của hiện tượng. + So sánh số liệu của doanh nghiệp mình với số liệu của doanh nghiệp khác tương đương hay doanh nghiệp điển hình hay doanh nghiệp thuộc đối thủ cạnh tranh giúp ta đánh giá được mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp. 1.2. Phương pháp chi tiết Là việc chi tiết hoá các bộ phận cấu thành chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các chỉ tiêu biểu hiện kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, bao gồm nhiều bộ phận cấu thành bộ phận biểu hiện chi tiết về một khía cạnh nhất định của kết quả kinh doanh. phân tích chi tiết các chỉ tiêu cho phép đánh giá một cách chính xác cụ thể kết quả kinh doanh đạt được. Khi phân tích kết quả sản xuất ta chỉ có chỉ tiêu giá trị sản lượng được chi tiết theo các bộ phận sau: giá trị thành phẩm làm bằng nguyên liệu của doanh nghiệp, giá trị sản phẩm dở dang, giá trị sản phẩm tự chế. Chi tiết thời gian kết quả kinh doanh bao giờ cũng là kết quả của một quá trình. Trong sản xuất kinh doanh kết quả đạt được trong từng thời kỳ khác nhau là khác nhau. Thậm chí chi tiết theo thời gian giúp ta đánh giá được nhịp điệu, tốc độ phát triển của kinh doanh qua từng thời kỳ. 1.3. Phương pháp loại trừ Phương pháp này sử dụng để nghiên cứu ảnh hưởng của một nhân tố nào đó bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác. Phương pháp loại trừ được sử dụng để phân tích dưới hai dạng: 1.3.1. Phương pháp thay thế liên hoàn: đây là phương pháp xác định mức ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách thay thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố từ giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để xác định trị số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó so sánh trị số của chỉ tiêu vừa tính được với trị số của chỉ tiêu chưa có biến đổi của nhân tố cần xác định sẽ tính được mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó. Nội dung của phương pháp này là: + Sắp xếp các nhân tố ảnh hưởng và xác định ảnh hưởng. Có bao nhiêu nhân tố thì thay thế bấy nhiêu lần. Giá trị của nhân tố đã thay thế được giữ nguyên bằng giá trị ở kỳ phân tích cho đến lần thay thế cuối cùng. + Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố đó và so sánh với số liệu biến động tuyệt đối của chỉ tiêu (kỳ phân tích so với kỳ gốc). 1.3.2. Phương pháp số chênh lệch: thực chất của phương pháp này là hình thức biến tướng của phương pháp thay thế liên hoàn. Nó khác ở chỗ khi xác định ảnh hưởng của nhân tố, người ta xác định thông qua chênh lệch trị số của chính bản thân nhân tố đó. 2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 2.1. Vai trò của hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp Hiệu quả sản xuất kinh doanh là công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ quản trị kinh doanh. ở mỗi giai đoạn phát triển, doanh nghiệp đều có nhiều mục tiêu khác nhau, nhưng mục tiêu cuối cùng bao trùm toàn bộ qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở sử dụng tối ưu các nguồn lực của doanh nghiệp. Để thực hiện mục tiêu đó, các nhà quản trị doanh nghiệp phải sử dụng nhiều phương pháp, công cụ khác nhau mà hiệu quả sản xuất k._.inh doanh là một trong những công cụ hữu hiệu nhất. Việc tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh không những cho phép kiểm tra đánh giá tính hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mà còn cho phép phân tích tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất kinh doanh đó, để từ đó đưa ra được các biện pháp điều chỉnh thích hợp trên cả hai phương diện giảm chi phí tăng kết quả nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với tư cách là một công cụ quản trị kinh doanh hiệu quả sản xuất kinh doanh không chỉ được sử dụng để kiểm tra, đánh giá và phân tích trình độ sử dụng tổng hợp các nguồn lực đầu vào trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà còn được sử dụng để kiểm tra đánh giá trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào trong phạm vi toàn doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận cấu thành của doanh nghiệp. Do vậy, xét trên phương diện lý luận và thực tiễn thì phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng và không thể thiếu được trong việc kiểm tra đánh giá và phân tích nhằm đưa ra các giải pháp tối ưu nhất, lựa chọn được các phương pháp hợp lý nhất để thực hiện các mục tiêu và chiến lược mà doanh nghiệp đã đề ra. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, các nhà quản trị còn coi hiệu quả sản xuất kinh donh như là các nhiệm vụ, các mục tiêu để thực hiện. Vì đối với các nhà quản trị, khi nói đến các hoạt động sản xuất kinh doanh thì họ đều quan tâm đến tính hiệu quả của nó. Do vậy mà hiệu quả sản xuất kinh doanh có vai trò là công cụ để thực hiện nhiệm vụ quản trị kinh doanh đồng thời vừa là mục tiêu để quản trị kinh doanh. 2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ở nước ta hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong và ngoài ngành (do cơ chế thị trường tạo ra). Có rất nhiều doanh nghiệp đã trụ vững và phát triển do hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nhưng cũng có không ít doanh nghiệp làm ăn bị thua lỗ, phải giải thể hoặc phá sản. Do đó, các doanh nghiệp buộc phải luôn luôn tìm tòi các biện pháp hữu hiệu và cần thiết để không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Bản chất của phạm trù sản xuất kinh doanh đã cho ta thấy: nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chính là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, qua đó giúp cho doanh nghiệp tồn tại ngày càng phát triển. Do vậy, có thể khẳng định rằng, để tồn tại, duy trì sản xuất kinh doanh và phát triển trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay thì nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là hết sức cần thiết và là phương thức sông còn đối với mọi doanh nghiệp. IV. Xây dựng-ngành sản xuất vật chất đặc thù trong nền kinh tế quốc dân 1. Vai trò của ngành xây dựng trong quá trình CNH-HĐH 1.1. Tình hình phát triển của ngành Xây dựng Trong những năm vừa qua, cùng với quá trình dổi mới chung của đất nước, ngành Xây dựng đã có những bước phát triển nhanh chóng. Điều đó được thể hiện rõ qua tốc độ tăng giá trị sản xuất của ngành cũng như những đóng góp của ngành Xây dựng đối với nền kinh tế. Công cuộc xây dựng và đổi mới của đất nước ta đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây, trong đó Xây dựng được coi là một trong những ngành kinh tế quốc dân có tốc độ tăng trưởng khá cao. Từ năm 1992 đến nay, lĩnh vực xây dựng luôn có tốc độ tăng trưởng cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của cả nước. Có thể nói, đây là một dấu hiệu đáng mừng và là thành công lớn trong ngành Xây dựng nước ta. Cùng với công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, ngành Xây dựng cũng không ngừng phát triển và đi lên xứng đáng với tầm cỡ của nó trong nền kinh tế. Đây là thời kỳ sôi động nhất từ trước đến nay của ngành Xây dựng nước ta và sẽ còn tiếp tục sôi động hơn nữa trong thời gian tới với chiến lược: “Khẩn trương tạo nền tảng kinh tế kỹ thuật cho sự phát triển của những năm đầu thế kỷ XXI và xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa”. 1.2. Vai trò của ngành xây dựng trong quá trình CNH-HĐH đất nước Xây dựng là một trong những ngành sản xuất vật chất lớn nhất của nền kinh tế quốc dân. Ngành nay đóng vai trò chủ chốt ở khâu cuối cùng của quá trình sáng tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật và tài sản cố định cho mọi lĩnh vực hoạt động của đất nước. Có thể nói không một ngành sản xuất nào, không một hoạt động kinh tế và văn hoá - xã hội nào lại không sử dụng sản phẩm của ngành Xây dựng. - Các công trình xây dựng luôn có tính chất kinh tế, kỹ thuật, văn hoá, nghệ thuật và xã hội tổng hợp. Một công trình mới được xây dựng thường được kết tinh của các thành quả khoa học, kỹ thuật của ngành. Vì vậy, các công trình xây dựng có tác dụng quan trọng đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh việc phát triển khoa học kỹ thuật, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, góp phần phát triển văn hoá và nghệ thuật kiến trúc, có tác động mạnh mẽ đến môi trường sinh thái. - Hoạt động xây dựng cơ bản được thực hiện ở các giai đoạn khác nhau (như thiết kế, thi công) ứng với các giai đoạn này là các bộ phận, các đơn vị. Các bộ phận, đơn vị đó cũng được xem là các thành phần sản xuất trực tiếp như các doanh nghiệp khác và nó cũng tạo ra sự tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân thông qua các hình thức như nộp thuế cho Nhà nước. - Ngành xây dựng sử dụng một lượng vốn lớn của xã hội, do đó một sai lầm nhỏ cũng có thể dẫn đến những tổn thất lớn và khó sửa chữa trong nhiều năm (ví dụ: nhà hát chèo Kim Mã). Theo dự báo, để nâng cao thu nhập tính trên một đầu người lên gấp đôi như mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra, thời kỳ 1996-2010 hàng năm vốn đầu tư toàn xã hội lên tới 7 tỷ đến 10 tỷ USD, số tiền này phần lớn phải để xây dựng công trình. Như vậy, vai trò nhiệm vụ của ngành xây dựng trong thời gian tới là rất lớn và quan trọng. - Trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, hoạt động xây dựng cơ bản góp phần to lớn vào việc tạo ra cơ sở hạ tầng cho các ngành khác, đồng thời xây dựng còn là ngành tạo ra khả năng xoá bỏ khoảng cách khac biệt giữa thành thị và nông thôn, nâng cao trình độ văn minh và đời sống dân cư, cải tạo bộ mặt của đất nước. 2. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành Xây dựng 2.1. Đặc điểm của ngành Xây dựng Hoạt động xây dựng cơ bản (XDCB) là những hoạt động nhằm tạo ra những tài sản cố định (đó chính là những công trình sử dụng lâu dài trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân) thông qua các hình thức như: Xây dựng mới, cải tạo mở rộng, sửa chữa lớn, khôi phục,... Đó là một trong những lĩnh vực sản xuất vật chất lớn nhất của nền kinh tế quốc dân. Nhiệm vụ của ngành Xây dựng là trực tiếp thực hiện và hoàn thiện khâu cuối cùng của quá trình hình thành tài sản cố định (thể hiện ở những công trình, nhà xưởng bao gồm cả thiết bị, công nghệ được lắp đặt kèm theo) cho toàn bộ các lĩnh vực sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân và các lĩnh vực phi sản xuất khác. Theo số liệu thống kê cho thấy: - Chi phí xây lắp thể hiện phần tham gia của ngành xây dựng trong việc sáng tạo ra tài sản cố định chiếm từ 40% - 60% cho công trình sản xuất và 75% - 90% cho công trình phi sản xuất. - Phần giá trị thiếp bị máy móc lắp đặt vào công trình thể hiện phần tham gia của ngành chế tạo máy ở đây chiếm 30%-52% cho công trình sản xuất, 0%-15% cho công trình phi sản xuất. - Giá trị tài sản cố định của ngành xây dựng kể cả các ngành liên quan đến việc phục vụ cho ngành xây dựng cơ bản như vật liệu xây dựng, chế tạo máy chiếm khoảng 20% tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân. Còn theo số liệu của nước ngoài, thì phần sản phẩm của ngành xây dựng chiếm khoảng 11% tổng sản phẩm xã hội, lực lượng lao động chiếm 14% lực lượng lao động của khu vực sản xuất vật chất. 2.2. Đặc điểm sản phẩm của ngành Xây dựng Sản phẩm trực tiếp của ngành công nghiệp xây dựng chỉ bao gồm các công việc kiến tạo các kết cấu xây dựng làm chức năng bao che và nâng đỡ, các công việc lắp đặt thiết bị máy móc cần thiết vào công trình xây dựng để đưa chúng vào hoạt động. Như vậy, sản phẩm Xây dựng có những đặc điểm riêng biệt sau: - Sản phẩm của ngành Xây dựng là sản phẩm đơn chiếc, quá trình sản xuất diễn ra rời rạc, không liên tục, việc kết tinh giá trị lao độngvà đối tượng lao động trong mỗi sản phẩm là khác nhau. - Sản phẩm của ngành Xây dựng là những công trình nhà cửa được xây dựng và sử dụng tại chỗ,cố định tại địa điểm xây dựng và phân bố tản mạn ở nhiều nơi trên lãnh thổ. Đặc điểm này làm cho sản xuất kinh doanh có tính chất lưu động cao và thiếu ổn định. - Sản phẩm của ngành Xây dựng phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện địa phương mang nhiều tính cá biệt cao về công dụng, về cách cấu tạo và phương pháp chế tạo. - Sản phẩm Xây dựng thường có kích thước lớn, chi phí lớn, thời gian xây dựng, sử dụng lâu dài và khó sửa chữa. - Sản phẩm Xây dựng mang tính chất tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế, văn hoá, nghệ thuật và quốc phòng. 2.3. Đặc điểm của sản xuất trong xây dựng Do tính đặc thù của ngành Xây đựng nên sản xuất trong xây dựng cũng mang những đặc điểm riêng có sau: - Tình hình và điều kiện sản xuất trong xây dựng thiếu ổn định, luôn biến động theo địa điểm và giai đoạn xây dựng công trình. Trong xây dựng, con người và công cụ luôn phải di chuyển từ nơi này sang nơi khác còn sản phẩm xây dựng thì lại đứng yên. Các phương án xây dựng về mặt kỹ thuật và tổ chức sản xuất cũng phải luôn luôn thay đổi theo từng địa điểm và giai đoạn xây dựng. Điều này gây khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, khó cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động, làm phát sịnh nhiều chi phí cho khâu di chuyển lực lượng sản xuất và cho công trình tạm phục vụ sản xuất. - Chu kỳ sản xuất thường dài, dẫn tới vốn đầu tư bị ứ đọng tại công trình, đồng thời làm tăng các khoản phụ phí thi công khác như chi phí bảo vệ, chi phí hành chính. - Sản xuất xây dựng phải tiến hành theo đơn đặt hàng cho từng trường hợp cụ thể vì sản phẩm xây dựng rất đa dạng, có tính chất cá biệt cao và chi phí lớn. Sản phẩm xây dựng không thể sản xuất hàng loạt để bán trừ một số trường hợp cá biệt. - Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp, số lượng đơn vị tham gia xây dựng rất lớn, các đơn vị tham gia xây dựng công trình phải có mặt tại công trình đang thi công theo một trình tự nhất định về thời gian và không gian. Do đó, các tổ chức xây dựng phải có sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình sản xuất, thi công. - Sản xuất xây dựng phải tiến hành ngoài trời, nên chịu nhiều ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu, điều kiện làm việc nặng nhọc,... Tác động của thời tiết như: mưa, gió, bão làm ngưng trệ tiến độ thi công công trình do đó doanh nghiệp xây dựng cần phải lập kế hoạch để có tiến độ thi công hợp lý tránh những rủi ro lớn do thời tiết xấu gây ra. Chương 2 thực trạng hiệu qủa sản xuất kinh doanh của công ty xây dựng số 8 Thăng Long I. Quá trình hình thành, phát triển của công ty xây dựng số 8 Thăng Long 1. Giới thiệu khái quát về Công ty - Tên Công ty: Công ty Xây dựng số 8 Thăng Long thuộc Tổng Công ty Xây dựng Thăng Long. - Địa chỉ trụ sở chính của Công ty: Đường Phạm Văn Đồng (đường Nam Thăng Long) - Huyện Từ Liêm - Thành phố Hà Nội. - Điện thoại: (04) 8362665 hoặc: (04) 8362666 ; Fax: (04) 8387711 - Giám đốc Công ty: ông nguyễn quang tuýnh - Công ty Xây dựng số 8 Thăng Long có khả năng nhân thầu thi công xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, các công trình giao thông, thuỷ lợi và có khả năng thi công các công trình ngầm dưới nước, các công trình ngầm trong lòng đất. 2. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Công ty Xây dựng số 8 Thăng Long được thành lập năm 1991 theo Luật Công ty (với tiền thân là một đội thợ lặn và xây dựng công trình ngầm trực thuộc Tổng Công ty Xây dựng Thăng Long - Bộ Xây dựng). Đến năm 1996, Công ty được chính thức thành lập do Bộ trưởng Bộ Giao thông vân tải ký quyết định. Dưới đây là các quyết định thành lập và đổi tên Công ty: 2.1. Quyết định số 842/QĐ-TCCB-LĐ ban hành ngày 23/04/1996 về việc thành lập doanh nghiệp Nhà nước: + Thành lập doanh nghiệp Nhà nước: Công ty lặn và xây dựng công trình ngầm Thăng Long (trực thuộc Tổng công ty Xây Dựng Thăng Long). + Mã số ngành Kinh tế kỹ thuật: 25 + Được phép đặt trụ sở chính tại: Xã Xuân Đỉnh, Huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội. + Tổ chức doanh nghiệp theo hình thức: Quốc doanh + Doanh nghiệp có trách nhiệm làm đầy đủ các thủ tục về đăng ký kinh doanh và hoạt động theo đúng pháp luật. 2.2. Quyết định số 2052/QĐ-TCCB-LĐ ngày15/08/1998 của Bộ Giao thông vận tải về việc đổi tên công ty: “Công ty Lặn và xây dựng công trình ngầm Thăng Long” đổi tên thành “Công ty Lặn và xây dựng Thăng Long”. 2.3. Quyết định số 889/QĐ-BGTVT ngày 29/03/2001 của Bộ Giao thông vận tải về việc đổi tên và bổ sung nhiệm vụ cho doanh nghiệp + Đổi tên doanh nghiệp Nhà nước: “Công ty Lặn và xây dựng Thăng Long” đổi tên thành “Công ty Xây dựng và trục vớt Thăng Long”. + Bổ sung các nhiệm vụ sau cho Công ty - Đào, đắp đất, đá, san, lấp mặt bằng, tạo bãi. - Kinh doanh xăng dầu, mỡ, dầu nhờn. - Xây dựng công trình thủy lợi. - Thi công công trình bằng phương pháp khoan nổ mìn - Trục vớt các phương tiện thủy nội địa chìm đắm trong lòng sông, hồ. 2.4. Quyết định số 4228/QĐ-BGTVT ngày 11/12/2001 của Bộ Giao thông vận tải về việc đổi tên, bổ sung nhiệm vụ và ngành nghề kinh doanh cho doanh nghiệp Nhà nước. Nội dung như sau: + Đổi tên doanh nghiệp Nhà nước: “Công ty Xây dựng và trục vớt Thăng Long” đổi tên thành “Công ty Xây dựng số 8 Thăng Long”. + Điều chỉnh và bổ sung nhiệm vụ, ngành nghề kinh doanh sau cho Công ty xây dựng số 8 Thăng Long: - Xây dựng công trình giao thông: cầu cảng, đường ôtô (bao gồm: đường nhựa, đường bê tông...) - Xây dựng đường dây trạm điện đến 50 KV Kể từ khi thành lập đến nay, Công ty đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong thi công, quản lý và đã xây dựng nhiều loại hình nhà ở mới bằng phương pháp lắp ghép cùng với niều công trình giao thông, thuỷ lợi và các công trình ngầm khác bằng phương pháp khoan nổ mìn. Dưới đây là danh mục những công trình mà Công ty đã tham gia thi công và đạt kết quả tốt: Đường Bản Đông - Mường Noòng (tỉnh Savanaket - Lào) với trị giá công trình là 10 tỷ VNĐ Đường Quốc lộ Nội Bài - Bắc Ninh đoạn từ Km 14+330 đến Km 18+370 trị giá 17,74 tỷ VNĐ Đường phía Bắc cầu Bồng Sơn trị giá 16,7 tỷ VNĐ Xây mới nhà 7 tầng LOGITEM 57 Thái Thịnh trị giá 18,4 tỷ VNĐ Xây dựng trụ sở làm việc của Bộ Quốc Phòng trị giá 23,1 tỷ VNĐ Xây dựng Chợ Sắt Tp.Hải Phòng trị giá 12,7 tỷ VNĐ Nạo vét cảng Cái Lân tỉnh Quảng Ninh trị giá 8,012 tỷ VNĐ Lặn và phục vụ thi công cầu Hàm Rồng Lặn cắt cọc thép cầu Non Nước tỉnh Ninh Bình Phá nổ mìn thi công công trình bãi đỗ xe Cốc Nam tỉnh Lạng Sơn Và rất nhiều công trình khác như: cầu Long Biên, cầu Sông Gianh, cầu Việt Trì, KTX trường CNKT Điện,... Đạt được sản lượng như vậy là do năng lực của Công ty đã được đầu tư ngày càng lớn, chủ yếu thi công bằng cơ giới. Lực lượng lao động của Công ty lên tới 3.000 người, bao gồm các công nhân kỹ thuật như: lái cẩu, lái xe các loại. Công nhân kỹ thuật khác có trình độ và tay nghề vững vàng, được tổ chức hợp lý nên đã thi công hoàn chỉnh các công trình có chất lượng tốt, được chủ đầu tư đánh giá cao. 3. Chức năng - nhiệm vụ của công ty 3.1. Cơ cấu tổ chức - quản lý Sơ đồ cơ cấu tổ chức - quản lý và điều hành sản xuất của Công ty Xây dựng số 8 Thăng Long được trình bày ở trang bên: Giám Đốc Phó giám đốc Kỹ thuật - vật tư Phó giám đốc Tổ chức - hành chính Phó giám đốc Kinh doanh Phòng Máy thi công Phòng Vật Tư Phòng Tổ chức Hành chính Phòng Tài chính kế Toán Phòng Dự án Phòng Kỹ thuật Phòng Kế Hoạch đội xây dựng số 2 đội xây dựng số 3 đội xây dựng số … đội xây dựng số 7 đội xây dựng số 8 đội Sửa Chữa đội máy thi công đội xây dựng số 1 sơ đồ cơ cấu tổ chức - quản lý và điều hành của công ty xây dựng số 8 thăng long 2.2. Chức năng - nhiệm vụ của công ty Ngày nay, nền kinh tế của Việt Nam đang vận động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp đều chịu sự quản lý của Nhà nước ở tầm vĩ mô. Công ty Xây dựng số 8 Thăng Long cũng không nằm ngoài quy luật đó. Theo quyết định số 4228/QĐ-BGTVT ban hành ngày 11 tháng 12 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải về việc đổi tên doanh nghiệp Nhà nước và bổ sung, quy định chức năng - nhiệm vụ cho công ty Xây dựng số 8 Thăng Long thì công ty Xây dựng số 8 Thăng Long có một số chức năng - nhiệm vụ chủ yếu sau: 2.2.1. Chức năng - Xây dựng công trình giao thông, thủy lợi, cầu, cảng. - Xây dựng công trình dân dụng. - Xây dựng công trình công nghiệp. - Xây dựng công trình điện đến cấp III. - Nạo, vét, đào kênh, mương, lòng sông, cảng biển... - Thi công các công trình xây dựng, giao thông thuỷ lợi bằng phương pháp khoan nổ mìn trên cạn và dưới nước - Lặn phục vụ, thi công các công trình ngầm dưới nước và trong lòng đất (lặn khảo sát thăm dò, thanh thải chướng ngại vật để phục vụ thi công) - Hàn cắt và hàn cắt dưới nước, xây dựng công trình ngầm dưới nước và trong lòng đất. - Đào, đắp đất, đá, san, lấp mặt bằng, tạo bãi. - Trục vớt các phương tiện thủy nội địa chìm đắm trong lòng sông, hồ. - Xây dựng công trình giao thông: cầu cảng, đường ôtô (bao gồm: đường nhựa, đường bê tông...) - Xây dựng đường dây trạm điện đến 100 KV 2.2.2. Nhiệm vụ - Xây dựng nhà ở theo quy hoạch, kế hoạch giao thầu trực tiếp của ngành và Tổng công ty Xây dựng Thăng Long - Nhận thầu xây dựng, cải tạo, sửa chữa (kể cả trang trí nội thất) lắp đặt hệ thống cấp thoát nước, điện hạ thế trong và ngoài nhà đối với các công trình công nghiệp dân dụng và nhà ở đến quy mô do cấp tỉnh, thành phố trực thuộc hội đồng bộ trưởng, các bộ và các cơ quan ngang bộ - xét duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật và thẩm kế. - Được liên doanh với các tổ chức kinh tế khác, có tư cách pháp nhân và chuyên môn phù hợp với ngành nghề xây dựng cơ bản để làm tổng thầu các công trình lớn cho cấp Nhà nước xét duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật và thẩm kế. - Được tổ chức sản xuất và gia công các cấu kiện kết cấu thép, bê tông cốt thép và kết cấu gỗ phục vụ yêu cầu công tác xây lắp phù hợp với chuyên nghành. - Liên doanh liên kết với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, có tư cách pháp nhân để nhận thầu các công trình xây dựng, thực hiện các dự án đầu tư với mọi thành phần kinh tế theo quy hoạch được duyệt trong khuôn khổ luật pháp quy định. - Xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng, công trình giao thông đường bộ, công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ. - Lập, quản lý các dự án đầu tư xây dựng cơ bản để phát triển các đô thị, khu phố mới và các công trình đô thị khác. - Được liên doanh, liên kết với các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước để phát triển sản xuất và thực hiện các đề án đầu tư của Công ty. - Được phép tham gia dự thầu các công trình xây dựng, dân dụng, thuỷ lợi trong và ngoài nước. II. Những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật ảnh hưởng đến hiệu qủa sản xuất kinh doanh của công ty 1. Đặc điểm thị trường của Công ty Xây dựng là một lĩnh vực có thị trường rất rộng lớn, có tiềm nhiều năng để phát triển mạnh với tốc độ tăng trưởng khá cao. Trong thời gian vừa qua, nhờ các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài cũng như trong nước, ngành Xây dựng đã thực hiện khối lượng xây dựng cơ bản rất lớn, đó là những tác nhân góp phần cho lĩnh vực xây dựng nói chung được nâng cao cả về chất lượng và số lượng. Sự chuyển đổi từ cơ chế quản lý bao cấp sang cơ chế thị trường hiện nay đã đặt ra thách thức không nhỏ cho Công ty Xây dựng số 8 Thăng Long trong việc duy trì và tìm kiềm và chiếm lĩnh thị trường. Chính vì lẽ đó mà đòi hỏi và đặt ra yêu cầu rất lớn cho Công ty làm sao đứng vững và phát triển trên thị trường trong bối cảnh có sự cạnh tranh với nhau quyết liệt nhằm chiếm lĩnh thị trường. Với bề dày kinh nghiệm và uy tín trong nghành xây dựng của thủ đô đã nhiều năm, Công ty Xây dựng số 8 thăng Long đã nắm bắt được lợi thế này để tạo dựng cũng như nâng cao tầm hoạt động trên thị trường sẵn có này. Không chỉ dừng lại ở thị trường trong nước, trong những năm gần đây, Công ty đã tranh thủ mở rộng thị trường sang các nước khác trong khu vực như: CHNCNN Lào, Campuchia, Trung Quốc, Đài Loan,... Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, Công ty không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Nhưng trong nhiều năm qua Công ty chỉ mới thi công những công trình của số đông khách hàng không đòi hỏi yêu cầu khắt khe về kỹ thuật và chất lượng. Chỉ vài năm trở lại đây khi yêu cầu xây dựng thủ đô hiện đại phải có những công trình đòi hỏi kỹ thuật và chất lượng rất cao cũng như quy mô lớn thì Công ty bắt đầu chú trọng phát triển sang khu vực thị trường này. Thêm vào đó, như trên đã nói, Công ty cũng không xem nhẹ việc mở rộng và xâm nhập sang thị trường của các nước trong khu vực. 2. Đặc điểm về công nghệ và máy móc thiết bị Đặc điểm về công nghệ, máy móc thiết bị trong xây dựng là một trong những yếu tố quan trọng nói lên năng lực sản xuất cuả xí nghiệp. Muốn tăng hiệu quả cũng như chất lượng các công trình thì phải có hệ thống máy móc thiết bị thi công hiện đại và máy móc thiết bị đó phải phù hợp với năng lực tài chính cũng như trình độ sử dụng của cán bộ, công nhân kỹ thuật thì máy móc thiết bị đó mới thực sự có hiệu quả. Nắm bắt được tầm quan trọng của máy móc thiết bị xây dựng trong việc bảo đảm tiến độ thi công các công trình, Công ty xây dựng số 8 Thăng Long đã trang bị cho mình một số máy móc thiết bị tiên tiến nhằm đáp ứng được yêu cầu trong tình hình kinh doanh mới của Công ty. Dưới đây là tình trạng máy móc và trang thiết thiết bị của Công ty: Biểu 1: Tình trạng cơ sở vật chất máy móc thiết bị của Công ty Số TT Tên thiết bị Số lượng Nước sản xuất Tình trạng kỹ thuật Hoạt động Hư hỏng Còn lại 1 Xe IFA 5 Đức + 55% 2 XeHYNGDAI 6 H.Quốc + 60% 3 Xe CITROEN 3 Pháp + 70% 4 XeSANSING 3 T.Quốc + 70% 5 XeTOYOTA 2 Nhật + 75% 6 Xe SUZUKI 3 Nhật + 70% 7 Cẩu tháp Raimondi 2 Italia 95% 8 Cẩu tháp KB 100 1 Liên Xô + + 40% 9 Cẩu lốp KC3577 1 Liên Xô + 60% 10 Cẩu lốp KC3577 1 Liên Xô + 65% 11 Cẩu lốp KC3562 1 Liên Xô + 50% 12 Máy xúc KOBECO 2 Nhật + 60% 13 Máy ủi DT75 2 Liên Xô + 20% 14 Xe MAZ 5335 2 Liên Xô + 65% 15 Xe MAZ 5549 2 Liên Xô + 55% 16 Máy vận thang T37 1 V.Nam + 65% 17 Máy trộn bê tông 2501 5 V.Nam + 20% 18 Nồi trộn 4001 2 Rumani + 20% 19 Nồi trộn JZC200 1 T.Quốc + 40% 20 Máy trộn vữa 2 V.Nam + 30% 21 Máy bơm nước 9 Rumani + 20% 22 Máy hàn điện thông 5 V.Nam + 60% 23 Máy hàn hồ quang 3 Rumani + 40% 24 Máy hàn hơi 3 Ba Lan + 35% 25 Máy hàn 6 đầu 2 Liên Xô + 50% 26 Đầm bàn 13 Đức + 60% 27 Đầm bàn 11 T.Quốc + 30% 28 Đầm đùi 9 T.Quốc + + 30% 29 Máy mài 1 đá 3 V.Nam + 55% 30 Máy mài 2 đá 3 V.Nam + 35% 31 Máy cưa gỗ 2 V.Nam + 55% 32 Máy tời kéo sắt 4 Ba Lan + 50% 33 Máy cắt đột 2 Ba Lan + 50% 34 Máy uốn sắt 3 V.Nam + 60% 35 Máy biến thế 3 Liên Xô + 70% 36 Máy cưa tuần hoàn 1 Rumani + 50% 37 Máy phun sơn 8 Nhật + 35% 38 Máy ép cọc tự chế 1 V.Nam + 60% 39 Lò hơi 1 V.Nam + 40% Qua bảng trên ta thấy, Công ty đang quản lý lực lượng máy móc thiết bị với số lượng lớn, giá trị cao và đa chủng loại, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh và chất lượng sản phẩm. Theo số liệu thống kê sơ bộ, hàng năm vốn đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị của Công ty là khá lớn: Năm 1998 là 459 tỷ đồng; năm 1999 là 1.279 tỷ đồng; năm 2000 là 817 tỷ đồng. Khoảng 60% thiết bị thi công là loại tốt, được đầu tư trang bị từ sau năm 1998, trong đó có nhiều thiết bị thi công hiện đại của các nước phương Tây. Chiến lược của Công ty trong những năm tới là sẽ đổi mới một số thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất thi công công trình như: Máy phun vữa, máy nghiến đá, máy luồn cáp,... để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường như hiện nay. 3. Đặc điểm về lao động Trong bất cứ một nghành nghề nào thì yếu tố lao động cũng là một trong những yếu tố có vai trò quan trọng bậc nhất. Lao động là nguồn gốc sáng tạo ra sản phẩm, là nhân tố quyết định nhất của lực lượng sản xuất. Nhờ có lao động và thông qua các phương tiện sản xuất mà các yếu tố đầu vào là nguyên vật liệu có thể kết hợp với nhau tạo ra thực thể sản phẩm. Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng rất lớn vào yếu tố lao động và chất lượng lao động. Dưới đây là các thống kê sơ bộ: Biểu 2: Chất lượng cán bộ chuyên môn Số TT Cán bộ chuyên môn Số lượng Theo thâm niên công tác (năm) <5 >5 >10 >15 I Đại học và trên Đại học 106 Kỹ sư Xây dựng 66 13 1 2 50 Kiến trúc sư 7 4 1 0 2 Kỹ sư Giao Thông 1 0 0 0 1 Kỹ sư cơ khí 3 0 0 0 3 Cử nhân kinh tế-tài chính 14 1 1 2 10 Kỹ sư khác 15 3 8 0 4 II Cao Đẳng và Trung cấp 74 CĐ Kỹ thuật 1 1 0 0 0 CĐ Ngân hàng -Kế toán 2 2 0 0 0 TC Xây dựng 45 2 0 2 41 TC Tài chính-Tiền lương 9 2 0 1 6 TC Điện Cơ khí 5 0 0 0 5 TC Khác 12 2 5 2 3 Tổng cộng 180 Biểu 3: Chất lượng công nhân kỹ thuật Số TT Công nhân kỹ thuật theo nghề Số lượng Bậc thợ <4/7 4/7 5/7 6/7 7/7 1 Thợ nề 125 40 30 38 17 2 Phụ nề 55 18 30 7 3 Sơn vôi 8 1 7 4 Bê tông 40 5 17 18 5 Sắt 20 2 7 10 1 6 Hàn 15 2 7 6 7 Lao động 54 20 33 1 8 Nước 18 3 11 4 9 Phụ nước 2 1 1 10 Mộc 22 6 10 6 11 Sửa chữa 11 1 5 5 12 Điện 6 1 2 1 1 1 13 Tiện 2 2 14 Vận hành 6 1 5 15 Lái cẩu và ủi 5 2 3 16 Lắp tháp 4 2 2 17 Trắc đạc 2 1 1 18 Lái cẩu xích 2 2 19 Lái cẩu tháp 2 2 20 Lái gầu xúc 2 2 21 Điện nước + Máy 4 4 22 Bốc dỡ 5 5 23 N.viên du lịch khách sạn 93 24 Lao động phổ thông 119 Tổng cộng 622 Qua các bảng trên ta thấy số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý, làm công tác khoa học - kỹ thuật là 180 người, trong đó có 106 người có trình độ đại học chiếm 58,89%, 3 người có trình độ cao đẳng chiếm 1,67% và 71 gnười có trình độ trung cấp chiếm 39,44%. Đây là một tỷ lệ cao, thể hiện số cán bộ quản lý có trình độ cao trong công ty là rất lớn. Điều này tạo điều kiện tốt cho công ty trong việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho công ty thực hiện chiến lược đa dạng hoá ngành nghề sản xuất kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động gián tiếp = 180/1231 = 14,62% >10% Điều này thể hiện bộ máy quản lý của công ty còn chưa được tinh giảm tối ưu, bộ máy quản lý của Công ty vẫn còn chồng chéo, nhiều phòng ban làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo biểu 3, số lượng công nhân kỹ thuật thì thợ bậc cao từ bậc 5 đến bậc 7 là 138 người chiếm 22,18% tổng số công nhân của Công ty. Thợ bậc 4 trở xuống là 272 người chiếm 43,73%. Lao động phổ thông như: Bảo vệ, tiếp liệu là 119 người chiếm 19,13%. Đối với khối dịch vụ thì tổng số công nhân là 93 người chiếm 14,95%. Đây là một tỷ lệ khá cao, góp phần rất quan trọng vào việc tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh của Công ty. Với số lượng 1231 lao động, lại trong điều kiện kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc bố trí công ăn việc làm cho 802 lao động là việc làm rất khó tuy nhiên Công ty xây dựng số 8 Thăng Long đã làm được trong những năm qua, đây là một thành công lớn của Công ty và chiến lược trong thời gian tới của Công ty là đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh để tạo ổn định công ăn việc làm cho lao động thời vụ nói riêng và của công nhân toàn công ty nói chung. 4. Đặc điểm về chế độ tiền lương Trong sản xuất, tiền lương là một yếu tố chi phí, là một bộ phận của kế hoạch lao động nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động. Đối với người lao động, tiền lương cải thiện đời sống, khuyến khích nâng cao tay nghề chuyên môn. Tiền lương mang ý nghĩa đòn bẩy, thúc đẩy kích thích sản xuất phát triển. Hiện nay, Công ty đang áp dụng 2 hình thức trả lương gắn với kết quả lao động của từng người lao động, từng bộ phận: - Hình thức trả lương theo thời gian: Được áp dụng cho bộ máy quản lý của các xí nghiệp và Công ty, cho các đối tượng công nhân không thể thực hiện trả lương theo sản phẩm hoặc lương khoán như:công nhân tiếp liệu, bảo vệ. Với hình thức trả lương này, tiền lương căn cứ vào bậc lương và thời gian thực tế làm việc không xét đến thái độ lao động và kết quả công việc. Tuy nhiên, người lao động sẽ được nhận một khoản tiền nếu trong quá trình làm việc người lao động tăng được năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu hay hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao. Đối với bộ máy quản lý ở các xí nghiệp thì tiền lương gắn liền với hiệu quả công việc công trình thi công còn đối với bộ máy quản lý của Công ty thì tiền lương được gắn với giá trị sản lượng của toàn Công ty hoàn thành trong tháng. Mặc dù vậy hình thức này làm suy yếu vai trò đòn bẩy kinh tế của tiền lương và duy trì chủ nghĩa bình quân trong tiền lương bởi thời gian làm việc của mọi người được phân bổ bằng nhau tức là người làm không đủ thời gian quy định cũng sẽ nhận được một khoản tiền lương bằng người làm vượt mức thời gian quy định. - Hình thức trả lương theo sản phẩm: Được trả căn cứ vào đơn giá tiền lương, số lượng sản phẩm hoàn thành.Với hình thức này sẽ kích thích mạnh mẽ người lao động làm việc bởi tiền lương của người lao động nhiều hay ít phụ thuộc vào kết quả hoàn thành công việc, do vậy mỗi người trong công ty đều cố gắng hoàn thành vượt mức để có tiền lương cao. Biểu 4: Bảng kết quả phân phối quỹ lương Năm Bộ phận Lao động (người) Bình quân Thu nhập (1000đ) Tổng số Trong đó Tổng số tiền lương Trong đó Nữ Thời vụ Tổng lương thực tế BHXH thay lương Thu nhập BQ 1998 Tổngsố LĐ 858 358 357 754 4.625.722 4.609.799 15.923 512 Công nhân 701 279 357 607 3.446.256 3.431.997 14.259 473,2 Gián tiếp ._. xin đề xuất hai phương pháp để ra quyết định tranh thầu: 1.2. Một số phương pháp nâng cao hiệu quả đấu thầu 1.1.2. Phương pháp lý thuyết xác suất áp dụng phương pháp này để quyết định có nên tham gia tranh thầu hay không trên cơ sở phân tích ích lợi và rủi ro theo sơ đồ hình cây sau: Không dự thầu Không được gì, Không mất gì Cho A đồng lợi nhuận Xác suất thắng thầu là P% Quyết định Có dự thầu Mất B đồng chi phí Xác suất không thắng thầu là (100%-P%) Nếu Công ty không vì lý do giải quyết viêc làm hay vì chiến lược kinh doanh mà chỉ vì lợi ích kinh tế thì việc quyết định có hay không tham gia tranh thầu có thể dựa vào kết quả E của hai quyết định sau: - Khi có dự thầu: EC = (A x P%) + [-B x ( 100% - P%)] - Khi không dự thầu: E0 = 0 Tuy nhiên trong thực tế khi Công ty không tham gia dự thầu, do không tạo được việc làm cho công nhân, do phải duy trì, bảo dưỡng máy móc thiết bị Công ty có thể bị thua thiệt một lượng tiền E0 > 0. So sánh: Nếu EC > E0 (E0 > 0) thì nên chọn phương án tham gia dự thầu và ngược lại. Ví dụ: Vừa qua Công ty tranh thầu dự án nhà chung cư cao 21 tầng tại 25 Láng Hạ với các tham số để áp dụng phương pháp lý thuyết xác suất là: - Xác suất để thắng thầu là 60%, nếu trúng thầu sẽ cho lợi nhuận là 420 triệu đồng. - Xác suất không trúng thầu sẽ là: 100% - P% = 100% - 60% = 40% và do phải chi phí mua hồ sơ dự thầu, chi phí giao dịch... nên sẽ bị mất 11 triệu đồng. Các tham số này được phân tích,đánh giá và xác định từ qúa trình hoạt động của Công ty. Ta có: Ec = 420 x 60% - 11 x 40% = 247,6 triệu đồng Ta thấy Ec = 247,6 triệu đồng > Eo = 0 do đó Công ty đã tham gia tranh thầu và đã trúng thầu công trình này. 1.1.3. Phương pháp sử dụng chỉ tiêu tổng hợp Nội dung của phương pháp này bao gồm các vấn đề sau: Aa) Xác định danh mục các chỉ tiêu ảnh hưởng đến khả năng thắng thầu Việc đầu tiên là Công ty phải căn cứ vào kinh nghiệm của bản thân, những quy định của pháp luật và quy chế đấu thầu hiện hành để xác định danh mục chỉ tiêu đặc trưng cho những nhân tố có ảnh hưởng đến khả năng thắng thầu. Các chỉ tiêu này càng sát với chỉ tiêu xét thầu càng tốt. Số lượng chỉ tiêu là tuỳ ý, nhưng tối thiểu phải bao quát được đầy đủ các chỉ tiêu thường dùng để đánh giá hồ sơ thầu, phải tính đến tình hình cạnh tranh của các đối thủ, phải chú ý tránh trùng lặp chỉ tiêu và phải xác định đúng những chỉ tiêu thực sự có ảnh hưởng. Không đưa vào bảng danh mục những chỉ tiêu không có ảnh hưởng, hoặc ảnh hưởng rất ít đến khả năng thắng thầu. b) Xây dựng thang điểm: Các chỉ tiêu đã chọn sẽ được phân tích tương ứng với từng bậc trong thang điểm. Có nhiều loại thang điểm như: 3 bậc, 5 bậc, 9 bậc,... - Thang điểm 3 bậc được chia thành 3 mức điểm 4, 2, 0 tương ứng với 3 trạng thái của từng chỉ tiêu là: tốt, trung bình, kém. - Thang điểm 5 bậc được chia thành 5 mức điểm là 4, 3, 2, 1, 0 ứng với 5 trạng thái của từng chỉ tiêu là: rất tốt, khá tốt, trung bình, yếu, kém. - Thang điểm 9 bậc có các mức điểm là 8, 7, 6, 5, 4, 3, 2, 1, 0. Như vậy, ở mỗi thang điểm đều có mức tối đa tương ứng với trạng thái tốt nhất và mức điểm tối thiểu tương ứng với trạng thái tồi nhất của các chỉ tiêu. Công ty xây dựng số 8 Thăng Long có thể vận dụng loại thang điểm nào là tuỳ thuộc vào đặc điểm, năng lực của mình. c) Xác định tầm quan trọng (trọng số) của từng chỉ tiêu Trong số các chỉ tiêu đã được lựa chọn để đưa vào tính toán, thì rõ ràng mỗi chỉ tiêu có mức độ ảnh hưởng riêng đến khả năng thắng thầu của Công ty. Do vậy, Công ty phải sử dụng kinh nghiệm của mình, những quy định của pháp luật và quy chế đầu thầu hiện hành, những thông lệ và tiêu chuẩn thường được dùng để đánh giá hồ sơ dự thầu, kết hợp sử dụng phương pháp chuyên gia để đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng chỉ tiêu. Tầm quan trọng (trọng số) của từng chỉ tiêu có thể được thể hiện bằng số phần trăm hay số thập phân. Tổng hợp ảnh hưởng của các chỉ tiêu là bằng 1 nếu thể hiện bằng số thập phân và bằng 100% nếu thể hiện bằng số phần trăm. d) Tính toán chỉ tiêu tổng hợp cho gói thầu cụ thể Khi xuất hiện gói thầu cụ thể, Công ty cần khẩn trương nghiên cứu hồ sơ mời thầu, nghiên cứu gói thầu, phân tích môi trường đấu thầu, đánh giá khả năng của mình đối với gói thầu và dự đoán các đối thủ cạnh tranh, để xác định trang thái của từng chỉ tiêu trong bảng danh mục và số điểm tương ứng với trạng thái đó. Tính toán chỉ tiêu tổng hợp theo công thức: TH n = ồAi.Pi i=1 Trong đó: TH: là chỉ tiêu tổng hợp n: là số các chỉ tiêu trong danh mục Ai: là điểm số của chỉ tiêu thứ i ứng với trạng thái của nó Pi: là trọng số (tầm quan trọng) của chỉ tiêu i. e) Đánh giá khả năng thắng thầu và ra quyết định Khả năng thắng thầu được đo bằng tỷ lệ % theo công thức sau: K = TH x 100% M Trong đó: K: là khả năng thắng thầu tính bằng % TH: là chỉ tiêu tổng hợp M: là mức độ tối đa trong thang điểm được dùng. Nếu tất cả các chỉ tiêu đều ở trạng thái trung bình, thì khả năng thắng thầu sẽ là 50%. Nếu khả năng thắng thầu tính toán nhỏ hơn 50% thì Công ty không nên tham gia tranh thầu gói thầu đó. Ngược lại, nếu khả năng thắng thầu lớn hơn 50% thì Công ty nên tham gia tranh thầu. Ví dụ: Giả sử Công ty Xây dựng số 8 Thăng Long đang chuẩn bị tham gia tranh thầu và đã xây dựng được danh mục các chỉ tiêu và thang điểm 5 bậc như sau: Số TT Các chỉ tiêu Thang điểm và trạng thái 4 3 2 1 0 1 Mục tiêu lợi nhuận Rất thấp Thấp Trung bình Cao Rất cao 2 Khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật Rất cao Cao Trung bình Thấp Rất thấp 3 Mức độ quen thuộc với gói thầu Rất cao Cao Trung bình Thấp Rất thấp 4 Khả năng đáp ứng tiến độ thi công Rất cao Cao Trung bình Thấp Rất thấp 5 Khả năng đáp ứng về năng lực thi công Rất cao Cao Trung bình Thấp Rất thấp 6 Đánh giá về đối thủ cạnh tranh Rất yếu Yếu Trung bình Mạnh Rất mạnh Từ biểu trên, Công ty đã phân tích và xác định dược trọng số của từng chỉ tiêu như sau: Số TT Chỉ tiêu Trọng số (%) 1 Mục tiêu lợi nhuận 30 2 Khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật 20 3 Mức độ quen thuộc với gói thầu 15 4 Khả năng đáp ứng tiến độ thi công 5 5 Khả năng đáp ứng về năng lực thi công 10 6 Đánh giá về đối thủ cạnh tranh 20 Công ty đã phân tích gói thầu, xác định trạng thái của các chỉ tiêu và tính toán được chỉ tiêu tổng hợp cho gói thầu như sau: TT Chỉ tiêu Trạng thái Điểm Trọng số Kết quả 1 Mục tiêu lợi nhuận Trung bình 2 0,3 0,6 2 Khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật Rất cao 4 0,2 0,8 3 Mức độ quen thuộc với gói thầu Trung bình 2 0,15 0,3 4 Khả năng đáp ứng tiến độ thi công Cao 3 0,05 0,15 5 Khả năng đáp ứng về năng lực độ thi công Rất cao 4 0,1 0,4 6 Đánh giá về đối thủ cạnh tranh Mạnh 1 0,2 0,2 Tổng số điểm tính toán 2,45 Khả năng thắng thầu đối với gói thầu này là: K = 2,45 x 100 = 61,25 % 2 Với kết quả đã tính toán trên, Công ty nên tham gia tranh thầu gói thầu này vì khả năng thắng thầu là K = 61,25% > 50%. 1.1.4. Các phương pháp bổ sung Có được phương pháp tính thầu để có thể đấu thầu có hiệu quả, Công ty cũng cần lựa chọn các chuyên gia vào bộ máy đấu thầu đảm bảo các yêu cầu: có trình độ chuyên môn cao đồng thời biết nhiều lĩnh vực khác để có thể hoạch định chính xác các bước của gói thầu. Việc bố trí sắp xếp các chuyên gia trong bộ máy đấu thầu của Công ty nên chia theo sơ đồ sau: Phòng dự án đấu thầu Chuyên gia về thí nghiệm Chuyên gia về thiết bị thi công Chuyên gia về kinh tế Chuyên gia về thị trường Chuyên gia công nghệ kỹ thuật thi công Một yếu tố quan trọng quyết định hoạt động đấu thầu có hiệu quả đó là giá dự thầu hợp lý. Để có giá bỏ thầu hợp lý, Công ty phải tính toán so sánh kỹ lưỡng giữa lợi nhuận thu được với chi phí bỏ ra, điều này phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu và cán bộ chỉ đạo thi công, họ phải biết ứng phó một cách linh hoạt, có thể lấy lợi nhuận ở khu vực này bù đắp cho khu vực khác, ở hợp đồng này bù dắp cho hợp đồng khác... Ngoài ra, giá bỏ thầu còn phụ thuộc rất lớn vào phương án tổ chức thi công, máy móc thiết bị, trình độ cán bộ kỹ thuật,... trong đó thiết bị thi công là yếu tố rất quan trọng đối với việc thi công các công trình, đặc biệt là đối với các công trình thủy lợi, ảnh hưởng của thiết bị thi công có thể nâng cao năng suất lao động, giảm thời gian thi công tác động tới giá thành công trình. Chi phí máy móc thường chiếm từ 15% dến 20% giá thành xây dựng công trình. Do vậy, trong thời gian tới, Công ty cần tiếp tục củng cố máy móc thiết bị để có được phương án thi công công trình khả thi hơn, có hiệu quả hơn, như vậy hiệu quả của công tác dự thầu sẽ được nâng cao hơn. Tóm lại, việc thực hiện giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu của Công ty sẽ có ý nghĩa làm tăng doanh thu, tạo công ăn việc làm cho người lao động đồng thời đảm bảo việc thi công các công trình có lợi nhuận cao. Hơn nữa, thực hiện giải pháp này sẽ tạo cho công ty có đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu có bản lĩnh, năng động, nâng cao uy tín,... có tác dụng tích cực đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. 2. Huy động và sử dụng vốn có hiệu qủa Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả sẽ đảm bảo cho Công ty có một cơ cấu vốn hợp lý tối ưu, đạt được sự cân bằng tối đa giữa rủi ro và chi phí vốn, nhờ đó đáp ứng được nhu cầu vốn thường xuyên biến động của doanh nghiệp, mức sinh lời vốn cao. Muốn vậy, Công ty cần phải có các biện pháp huy động và sử dụng vốn hợp lý và hiệu quả. Cụ thể là: 2.1. Các biên pháp huy động vốn - Để có vốn đổi mới máy móc thiết bị, Công ty có thể khai thác hình thức tín dụng thuê mua thiết bị, kể cả thuê vận hành và thuê tài chính. Đây là một hình thức trong thực tế Công ty gần như không sử dụng. Hình thức này có ưu điểm là Công ty sẽ sử dụng vốn đúng mục đích; được sự tư vấn, đào tạo hướng dẫn kỹ thuật từ cơ quan cho thuê; tránh được tổn thất do mua máy móc thiết bị nhầm, không đúng yêu cầu; có thể thoả thuận tái thuê và có được máy móc thiết bị mà không cần đầu tư một lần số vốn lớn. Mặt khác, hình thức này cũng có thể giảm tỷ lệ nợ/vốn vì tránh phải vay ngân hàng đồng thời Công ty có thể nhanh chóng đổi mới tài sản cố định. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là chi phí huy động vốn cao, hợp đồng phức tạp đòi hỏi phải nắm bắt được kỹ thuật của hợp đồng thuê mua. Trên thị trường hiện nay có nhiều công ty thuê mua tài chính như Công ty thuê mua tài chính quốc tế VILC phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước với giá trị máy móc thiết bị từ 100.000USD đến 200.000USD. Ngoài ra, ngân hàng Đầu tư và ngân hàng Công thương hiện nay cũng đã có dịch vụ này. - Công ty cũng có thể huy động vốn vay dài hạn hoặc vay vốn với từng công trình thực hiện bằng cách vay vốn từ cán bộ công nhân viên. Công ty cần có các biện pháp khuyến khích và khen thưởng đối với những những người tích cực cho Công ty vay vốn. Đồng thời phải đảm bảo nguyên tắc lãi suất vay vốn từ người lao động lớn hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng và nhỏ hơn lãi suất tiền vay ngân hàng. Khi đó chi phí vay vốn của Công ty từ người lao động có thể mới có thể nhỏ hơn chi phí vay vốn ngân hàng đồng thời cũng đảm bảo lợi ích cho người lao động. Mặt khác, Công ty cũng phải có những giải pháp thật cụ thể, khả thi, đảm bảo thanh toán đầy đủ, đúng hạn, tránh mọi rủi ro có thể có với người lao động thì mới có thể huy động vốn từ người lao động vì hơn ai hết người lao động hiểu rõ tình hình hoạt động của Công ty như thế nào và chỉ khi thấy rõ lợi ích và chi phí bỏ ra thì họ mới thật sự yên tâm cho Công ty vay vốn và cống hiến sức lao động đảm bảo sản xuất kinh doanh phát triển. - Do đặc điểm của Công ty là xây dựng nên chi phí cho nguyên vật liệu là rất lớn chiếm từ 70% đến 80% chi phí trực tiếp của Công ty, do đó Công ty cần có các biện pháp huy động vốn lưu động kịp thời để mua sắm nguyên vật liệu để tránh mất mát, lãng phí hao hụt. - Một hình thức huy động vốn có hiệu quả nữa đó là Công ty nên tiến hành cổ phần hoá và bán cổ phiếu cho người lao động. Bằng cách này Công ty có thể huy động được một khối lượng vốn lớn, không có thời hạn trả, tăng nguồn vốn chủ sở hữu và kích thích người lao động hoạt động có hiệu quả hơn nhờ gắn quyền lợi và trách nhiệm chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là khi Công ty thừa vốn không trả lại được, phải có nghĩa vụ công khai tài chính. 2.2. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động được - Hiện nay, nguồn vốn vay chiếm tỷ trọng khá lớn khoảng 80% tổng nguồn vốn của Công ty. Tuy nhiên, vốn vay cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, Công ty luôn phải mang nặng lãi suất. Hơn nữa, vốn vay càng lớn càng chứng tỏ sự mất cân đối của cơ cấu vốn và chứa càng nhiều yếu tố bấp bênh, rủi ro. Vì vậy, Công ty không nên lạm dụng vốn vay, khi vay vốn cần phải có kế hoạch sử dụng có hiệu quả cao và phải có những biện pháp phòng chống rủi ro có thể từ yếu tố này. - Thực tế cho thấy, vốn vay của Công ty từ nợ ngắn hạn là chủ yếu. Trong nợ ngắn hạn: vay ngắn hạn chiếm 47%; phải trả người bán chiếm 20%; phải trả ngân sách 4%; phải trả công nhân viên 0,4%; phải trả cho các đơn vị nội bộ 6,1%; phải trả, phải nộp khác là 22,5%. Tuy nhiên hệ số thanh toán ngắn hạn năm 2000 đạt 0,724% cho thấy tài sản lưu động đã đáp ứng được phần nào khả năng thanh toán nợ ngắn hạn do Công ty đã dùng nợ ngắn hạn tài trợ cho tài sản cố định. Như vậy, việc dùng nợ ngắn hạn sẽ có chi phí thường thấp hơn vì lãi suất của tín dụng ngắn hạn chỉ được huy động khi có những nhu cầu thực sự. Nhưng nếu Công ty dùng nợ ngắn hạn để tài trợ cho tài sản cố định thì rất rễ gây rủi ro thanh toán, Công ty sẽ phải thường xuyên ra hạn nợ ngắn hạn do vậy sẽ có những trường hợp khó khăn trong việc gia hạn nợ phải chịu chi phí rất cao hoặc khi không gia hạn nợ được phải bán tài sản với giá rẻ để thanh toán hoặc mất khả năng thanh toán sẽ dẫn đến những thiệt hại không lường trước được đối với sự tồn tại và phát triển của mình. - Để sử dụng vốn có hiệu qủa, Công ty phải quản lý chặt chẽ các khoản phải thu và tăng cường thu hồi các khoản phải thu quá hạn. Trong thực tế các khoản phải thu chiếm 63,5% vốn lưu động, phải thu quá hạn chiếm 25,6% các khoản phải thu, vì vậy việc quản lý chặt chẽ các khoản phải thu và tăng cường thu hồi các khoản phải thu quá hạn có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, tăng số vòng quay vốn lưu động nói riêng và số vòng quay tổng vốn kinh doanh nói chung. - Trong nền kinh tế thị trường, hình thức bán chịu là không thể thiếu. Do được trả tiền chậm nên sẽ có nhiều khách hàng hơn, khi đó các khoản phải thu tăng, chi phí cho hoạt động kinh doanh của Công ty tăng như chi phí cho đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để bù đắp sự thiếu hụt ngân quỹ. Thời hạn phải thu càng dài thì chi phí càng lớn, rủi ro càng nhiều. Còn khi Công ty mua chịu được tài sản cố định hoặc chiếm dụng được vốn thì việc sử dụng tài sản cố định sẽ có hiệu quả hơn và hạn chế phần nào về hao mòn vô hình, vốn chiếm dụng được Công ty sẽ đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhằm thu lợi nhuận. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng xây dựng, Công ty phải đặc biệt chú ý đến điều khoản thanh toán. Để tránh rủi ro trong thu hồi các khoản phải thu, Công ty cần phải hiểu rõ phẩm chất, tư cách của chủ đầu tư, nguồn vốn đầu tư, khả năng tài chính của chủ đầu tư... - Đối với các khoản phải thu quá hạn, khó đòi, Công ty có thể bán nợ cho một số ngân hàng hay một Công ty mua nợ nào đó nhằm tránh tình trạng tồn đọng vốn, làm chậm tốc độ luân chuyển vốn lưu động, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Trong quá trình luân chuyển vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì việc tồn tại vật tư tồn kho là bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường. Nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn gây ra hàng loạt các hậu quả tiếp theo, ngược lại nếu dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn. Thực tế cho thấy, giá trị vật tư trong sản phẩm dở dang năm 2001 ít hơn so với các năm trước. Như vậy, Công ty đã giảm chi phí tồn đọng vật tư trong sản phẩm dở dang để giảm chi phí cho dự trữ đồng thời đảm bảo tiến độ sản xuất chính là đã tăng hiệu quả sử dụng vốn. Muốn vậy, Công ty phải xây dựng mối quan hệ bề chặt lâu dài, hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau với người cung ứng nguyên vật liệu đảm bảo khả năng tổ chức cung ứng đầy đủ kịp thời chính xác, đúng nơi cần thiết. Tóm lại, thực hiện giải pháp huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, Công ty sẽ có một cơ cấu vốn tối ưu đảm bảo cân bằng giữa rủi ro và chi phí, làm tăng số vòng luân chuyển tổng vốn kinh doanh của mình. Tuy nhiên, giải pháp này thực hiện được còn phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của thị trường vốn, sự ổn định của nền kinh tế, uy tín của Công ty và khả năng thích ứng trong các tình huống cụ thể của người quản lý. 3. Giải pháp về lao động Lao động là nhân tố có tính chất quyết định hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, vì vậy phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ lao động, tạo động lực cho tập thể, cá nhân người lao động phải được xem là nội dung không thể thiếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. 3.1. Phát triển và nâng cao chất lương lao động Thực tế cho thấy, chất lượng đội ngũ lao động của Công ty chưa phải là đã cao, số lao động phổ thông là 119 lao động chiếm 19,13% tổng số lao động, các chuyên gia có kinh nghiệm nhất chủ yếu được đào tạo trước những năm 90 theo các quy trình cũ. Số kỹ sư, chuyên gia mới ra trường tuy được đào tạo chính quy nhưng chưa có thực tiễn, đồng thời việc đào tạo kiến thức của nhà trường chưa theo kịp với thực tế của quá trình cạnh tranh gay gắt. Vì vậy cần phải đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động của Công ty. Để có được một đội ngũ lao động lành nghề có kiến thức, có kinh nghiệm, ham học hỏi, có nỗ lực, có nhiệt tình cao trong công việc thì Công ty phải thường xuyên tạo điều kiện cho người lao động nâng cao trình độ,đưa ra những ý kiến đóng góp, kích thích tinh thần sáng tạo và tinh thần tích cực trong công việc bằng các hình thức khuyến khích vật chất và tinh thần nhằm làm cho người lao động thoả mãn gắn bó với doanh nghiệp, thực hiện quyền làm chủ của người lao động. Đặc biệt, đối với đội ngũ cán bộ quản trị, cán bộ làm công tác đấu thầu và cán bộ điều hành dự án cần phải trang bị và trang bị lại những kiến thức kinh doanh hiện đại, tạo điều kiện cho các cán bộ này tham gia vào các khoá đào tạo bồi dưỡng, học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển. Việc có được kiến thức, kinh nghiệm tiên tiến là cơ sở để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực như vốn, nhân sự, công nghệ,...cũng như làm chủ được các yếu tố bên ngoài như thị trường, hạn chế những lãng phí, tổn thất do không hiểu biết gây ra. 3.2. Nâng cao hiệu quả quản lý và tổ chức lao động Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý doanh nghiệp nói chung cũng như nâng cao hiệu quả quản lý lao động nói riêng có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Do vậy, về công tác quản lý lao động, Công ty phải hình thành nên cơ cấu lao động tối ưu, phải bảo đảm đủ việc làm trên cơ sở phân công và bố trí lao động hợp lý sao cho phù hợp với năng lực, sở trường và nguyện vọng của mỗi người. Trước khi phân công bố trí hoặc đề bạt cán bộ đều phải qua kiểm tra trình độ tay nghề. Khi giao việc cần phải xác định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm. Khi tuyển chọn lao động cần phải thận trọng do nhu cầu sản xuất của Công ty không ổn định nhằm tiết kiệm chi phí lao động, tăng năng suất lao động, số lượng và chất lượng lao động phù hợp với nhu cầu về lao động, đáp ứng sản xuất, bảo đảm chất lượng sản phẩm để tăng khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường của Công ty. Yêu cầu người được tuyển chọn phải là người có trình độ chuyên môn cần thiết, có sức khoẻ, có thể làm việc đạt năng suất lao động cao, hiệu suất công tác tốt, có kỷ luật, trung thực, gắn bó với công việc, với Công ty. Bên cạnh việc xây dựng một cơ cấu lao động tối ưu, Công ty cón cần phải xác định định mức lao động cụ thể cho từng công việc, từng cấp, bậc thợ, vừa có căn cứ kỹ thuật, vừa phù hợp với những điều kiện lao động cụ thể của Công ty. 3.3. Tạo động lực cho người lao động Trên cơ sở định mức lao động, Công ty có thể thấy từng lao động có hiệu quả hay không để có được hình thức khuyến khích những lao động hoàn thành và vượt định mức, hạn chế những lao động không đạt định mức nhằm nâng cao năng suất lao động. Chính vì vậy, việc tạo động lực cho tập thể và cá nhân người lao động sẽ kích thích cho hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. Cần phân phối lợi nhuận thoả đáng, đảm bảo công bằng, hợp lý, chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Đặc biệt, cần có chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với những nhân viên giỏi, có trình độ tay nghề cao hoặc có thành tích, sáng kiến trong công việc,... khi đó sẽ tạo ra được một tinh thần làm việc tích cực và có trách nhiệm trong Công ty. Cần phải thiết lập một hệ thống thông tin nội bộ trong Công ty nhằm thu thập những ý kiến đóng góp, phê bình của người lao động, để qua đó, ban lãnh đạo Công ty có thể thấy dược những mâu thuẫn phát sinh và sẽ có những biện pháp giải quyết kịp thời, tránh tình trạng xảy ra những việc không có lợi cho Công ty. Việc thực hiện tốt giải pháp này sẽ tạo điều kiện cho Công ty có một tập thể đội ngũ những người lao động đoàn kết, có năng lực, nhiệt tình và có tinh thần trách nhịêm cao trong công việc, qua đó mới thực hiện được các giải pháp khác thành công. Tuy nhiên, thực tiễn đã cho thấy, việc thực hiện giải pháp này không phải là dễ dàng, trước hết đòi hỏi các cán bộ quản lý, lãnh đạo và điều hành sản xuất của Công ty phải có phẩm chất đạo đức tốt và có năng lực thì mới có thể xây dựng một tập thể đoàn kết, làm việc có hiệu quả nhằm hoàn thành các mục tiêu chiến lược của Công ty và giúp phát triển một cách vững trắc và ổn định. 4. Vận dụng mối quan hệ Chi phí - Chất lượng -Thời gian Mối quan hệ Chi phí - Chất lượng - Thời gian là mối quan hệ khá phức tạp mà Công ty cần phải hiểu rõ và vận dụng nó một cách hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng, giảm thiểu chi phí và đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình xây dựng. - Chi phí được hiểu là toàn bộ chi phí đầu tư ban đầu cho việc xây dựng công trình và chi phí khai thác vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa công trình trong giai đoạn sử dụng. - Chất lượng hay giá trị sử dụng được thể hiện bằng các chỉ tiêu như: các chỉ tiêu về công năng, độ bền chắc, trình độ kỹ thuật, mức tiện nghi, tuổi thọ, độ an toàn, mỹ quan, bảo về môi trường,... Vậy chất lượng sản phẩm theo quan điểm này là tổng hợp các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế kỹ thuật thoả mãn nhu cầu và phù hợp với công dụng sản phẩm của người tiêu dùng. - Thời gian xây dựng công trình là tổng toàn bộ thời gian xây dựng để hoàn thành một công trình tính từ giai đoạn chuẩn bị: mua nguyên vật liệu, huy động máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình thi công...đến khi hoàn thiện công trình đưa vào bàn giao. Vậy, vấn đề đặt ra là: làm sao nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ thi công ứng với chi phí và thời gian bỏ ra. Trong thực tế để đạt được chất lượng Công ty không thể bỏ chi phí một cách tuỳ tiện mà phải tính toán mối tương quan giữa chất lượng và chi phí. Nhiều khi chất lượng công trình khá cao song vẫn không thoả mãn khách hàng vì giá quá cao. Nói cách khác Công ty không thể không tiến hành nâng cao chất lượng công trình mà không tính toán tới giá cả của công trình. Vậy, trong chiến lược cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng hiện nay, nâng cao chất lượng công trình phải được xem xét trong mối quan hệ Chi phí - Chất lượng - Thời gian. Như vậy, khi nâng cao yêu cầu chất lượng công trình thì chi phí cho đầu tư xây dựng tăng lên, nhưng chi phí cho khai thác, bảo dưỡng sửa chữa trong sử dụng giảm xuống. Mối quan hệ này được mô tả qua sơ đồ sau: C CT CX COP CK O QOP Q Trong đó : C : Chi phí Q : Chất lượng CX : Chi phí xây dựng công trình CK : Chi phí kiểm soát chất lượng CT : Tổng chi phí QOP : Chất lượng tối ưu COP : Chi phí tối ưu Chất lượng tối ưu ở đây không có nghĩa thuần tuý là chất lượng tốt nhất, mà là mức chất lượng vừa đảm bảo thoả mãn về yêu cầu chất lượng, vừa đảm bảo chi phí là nhỏ nhất. Vì vậy, còn có thể gọi đây là mối quan hệ giữa chất lượng và độ phù hợp với độ thoả dụng và giá thành. Tuy nhiên, đồ thị trên mới chỉ xem xét mối quan hệ giữa chi phí và chất lượng mà đã bỏ qua nhân tố thời gian thi công. Khi xem xét đồng thời mối quan hệ của cả ba nhân tố là chi phí, chất lượng và thời gian thi công thì Công ty cần phải thấy thời gian xây dựng công trình được rút ngắn sẽ mang lại lợi ích cho cả chủ đầu tư và nhà thầu. Giả sử rằng điều kiện để xét trúng thầu dự án là loại bỏ ngay mọi trường hợp dự thầu có chỉ tiêu chất lượng không đạt hoặc thời gian vượt quá quy định hoặc tổng chi phí vượt quá khả năng tài chính tối đa của chủ đầu tư. Xuất phát từ giả thiết trên, ta xây dựng được bảng phân tích tình huống như sau: Tình huống Chi phí Chất lượng Thời gian Nhận xét 1 Thấp nhất Cao nhất Rút ngắn nhất Tối ưu 2 Thấp Đạt Rút ngắn Gần tối ưu 3 Thấp Cao Đạt Có sức cạnh tranh khá 4 Thấp Đạt Đạt Có sức cạnh tranh 5 Cao Cao Rút ngắn Cần xem xét 6 Cao Đạt Rút ngắn Cần xem xét 7 Cao Cao Đạt Sức cạnh tranh yếu 8 Cao Đạt Đạt Sức cạnh tranh kém Các tình huống nêu ở bảng trên mới chỉ là các kết luận có tính chất định hướng. Khi so sánh các phương án tình huống chiến lược tranh thầu trên về mặt định lượng phải sử dụng phương pháp: “giá trị - giá trị sử dụng” có tính đến nhân tố thời gian xây dựng để giải quyết vấn đề. Nội dung của phương pháp này là đưa các phương án về cùng một mặt bằng giá trị sử dụng và có tính đến nhân tố thời gian xây dựng để xem xét lựa chọn phương án dựa trên chỉ tiêu chi phí cho một đơn vị giá trị sử dụng tổng hợp bé nhất. Như vậy, muốn nâng cao nhất lượng công trình xây dựng, Công ty phải xem xét mối quan hệ Chi phí - Chất lượng - Thời gian để đưa ra phương án thích hợp nhất với từng tình huống cụ thể mà Công ty có thể áp dụng. III. Một số kiến nghị đối với Nhà nước Hiện nay, các doanh nghiệp đang hoạt động trong cơ chế thị trường, dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Quản lý vĩ mô của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, để thực hiện tốt những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và Công ty Xây dưng số 8 nói riêng thì Nhà nước cần có các chủ trương chính sách sau: + Nhà nước cần hỗ trợ can thiệp để Công ty thu hồi nhanh các khoản thu quá hạn vì thực tế các khoản thu quá hạn của Công ty là 11.650 triệu đồng, đây là con số lớn gây nên tình trạng ứ đọng vốn, chi phí vốn của Công ty cao ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng gây thất thu cho Nhà nước. + Nhà nước nên có một hệ thống văn bản dưới luật đầy đủ, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong công tác đầu thầu cũng như trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần tăng cường quản lý chặt chẽ đối với lĩnh vực xây dựng, tránh những hiện tượng tiêu cực lợi dụng kẽ hở luật pháp để làm ăn phi pháp ảnh hưởng đến hiệu qủa của ngành xây dựng cũng như môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp Xây dựng. + Nhà nước cần có các chính sách và biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp Nhà nước để các doanh nghiệp này thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân: * Nhà nước nên có chính sách ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích sản xuất để có thể cạnh tranh được với hàng nhập ngoại, tránh tình trạng như những năm qua các doanh nghiệp nước ta thường nhập về những loại máy móc cũ kỹ, lạc hậu, không giúp được nhiều cho các doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm và cạnh tranh với các sản phẩm của nước ngoài. * Thực hiện các dịch vụ thanh toán nợ của các doanh nghiệp. * Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích khả năng tự chủ, năng động của các doanh nghiệp trong công tác huy động và sử dụng vốn. Kết luận Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế rất phức tạp, do đó còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về phạm trù này vì điều kiện lịch sử và góc độ nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi doanh nghiệp thì có thể khẳng định rằng: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để từ đó nâng cao sức cạnh tranh, tăng lợi nhuận là mục tiêu theo đuổi tối cao của các doanh nghiệp, là nhân tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Qua thời gian thực tập tại Công ty Xây dựng số 8 Thăng Long, tôi thấy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty khá được chú trọng, song vẫn không thể tránh khỏi những khó khăn trong thực tế. Do vậy, trong thời gian tới, Công ty cần tiến hành thực hiện một số biện pháp cần thiết nhằm phát huy lợi thế và hạn chế khó khăn để nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Tuy còn nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện, song một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Xây dựng số 8 Thăng Long được đưa ra trong bài viết này theo tôi là phù hợp với khả năng và điều kiện có thể của Công ty. Với thời gian có hạn và kiến thức còn nhiều hạn chế, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi mong được sự góp ý của các thầy cô giáo cùng bạn đọc để bài viết sau được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp_Ngô Đình Giao chủ biên, NXB Khoa học kỹ thuật 1997 2. Giáo trình hiệu quả quản lý dự án_PTS.Mai Văn Bưu_Khoa Khoa Học Quản Lý_Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân_NXB Khoa học kỹ thuật_1998 3. Hiệu quả kinh tế trong các doanh nghiệp công nghiệp_Nguyễn Sỹ Thịnh, Lê Sỹ Thiệp, Nguyễn Kế Tuấn_NXB Thống kê 1985. 4. Luận án PTS Khoa học kinh tế: Xây dựng hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế trong các đơn vị sản xuất kinh doanh công nghiệp_Nguyễn Thị Thu_Hà nội 1998 5. Thời báo kinh tế Việt Nam_Số 31, ngày 18 / 4 năm 2000 6. Tạp chí xây dựng_ Số 5 và 6 năm 1999, Số 4/2000 (Trang 42), 8/2000 (Trang 13), 1/2001 (Trang 56), 5/2000 (Trang 28) 7. Một số tài liệu của Công ty xây dựng số 8 Thăng Long. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4607.doc
Tài liệu liên quan