Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty thiết bị lạnh Long Biên

Phần I Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp công nghiệp I. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. 1. Chi phí sản xuất . 1.1. Khái niệm và đặc điểm chi phí sản xuất. Sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu của xã hội là hoạt động chính của các doanh nghiệp sản xuất. Để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải có đầy đủ các yếu tố cơ bản như đối tượng lao động, tư liệu lao động, người lao

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty thiết bị lạnh Long Biên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động. Sự tham gia của các yếu tố này vào quá trình sản xuất hình thành nên các khoản chi phí tương ứng. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất (CPSX) để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất. Vậy: Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh doanh. Như vậy chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Trong khi đó, chi tiêu là sự giảm đi các loại vật liệu, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về mặt lượng mà còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu. Sở dĩ có sự khác biệt như vậy là do đặc điểm tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán của chúng. CPSX trong một doanh nghiệp gồm nhiều loại khác nhau về nội dung kinh tế, về điểm chi ra các khoản chi phí, về tính chất chi phí chi ra... Phân loại chi phí một cách khoa học, hợp lý là một yêu cầu quan trọng trong công tác kế hoạch hóa, hạch toán và tính giá thành sản phẩm. Hạch toán chi phí theo từng loại sẽ nâng cao tính chi tiết của thông tin là cơ sở tin cậy cho việc lập kế hoạch giảm chi phí. 1.2. Phân loại chi phí sản xuất. 1.2.1. Phân loại theo yếu tố chi phí: Theo cách phân loại này, các chi phí sản xuất có cùng nội dung kinh tế ban đầu được xếp vào cùng một loại không kể các chi phi đó phát sinh ở lĩnh vực sản xuất nào,ở đâu và mục đích công dụng của chi phí đó như thế nào. ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia làm 7 yếu tố sau: - Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ... sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). - Yếu tố nhiên liệu động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ. - Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân viên chức. - Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ: phản ánh phần BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định tính trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên. - Yếu tố khấu hao tài sản cố định (TSCĐ): phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ. - Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí được mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh. - Yếu tố chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ. Cách phân loại này giúp ta biết được cơ cấu chi phí và biết được tính chất nguyên thủy của chi phí, xác định được mức vốn lưu động cho doanh nghiệp. 1.2.2. Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Theo cách phân loại này, các CPSX có cùng mục đích và công dụng thì được xếp vào cùng khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Theo qui định hiện hành, giá thành sản xuất ở Việt Nam gồm 3 khoản mục chi phí. - Khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (CPNVLTT): phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu... tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ... - Khoản mục chi phí nhân công trực tiếp (CPNCTT): gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh. - Khoản mục chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất. Ngoài ra khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ (giá thành đầy đủ) thì chỉ tiêu giá thành còn bao gồm khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp và khoản mục chi phí bán hàng. 1.2.3. Phân loại chi phí theo chức năng trong sản xuất kinh doanh. Dựa vào chức năng hoạt động trong quá trình kinh doanh và chi phí liên quan đến việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện các chức năng mà chia CPSX kinh doanh làm 3 loại. - Chi phí thực hiện chức năng sản xuất: gồm những chi phí phát sinh liên quan đến việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ trong phạm vi phân xưởng. - Chi phí thực hiện chức năng tiêu thụ: gồm tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ... - Chi phí thực hiện chức năng quản lý: gồm các chi phí quản lý kinh doanh, hành chính và những chi phí chung phát sinh liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Cách phân loại này là cơ sở để xác định giá thành công xưởng, giá thành toàn bộ, xác định trị giá hàng tồn kho, phân biệt được chi phí theo từng chức năng cũng như làm căn cứ để kiểm soát và quản lý chi phí. 1.2.4. Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí: Toàn bộ CPSX kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc mua, còn chi phí thời kỳ là những chi phí làm giảm lợi tức trong một thời kỳ nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất hoặc được mua nên được xem là phí tổn cần được khấu trừ ra từ lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh. 1.2.5. Phân loại chi phí theo phương pháp phân bổ chi phí vào giá thành. Theo cách phân loại này toàn bộ CPSX được chia thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. - Chi phí trực tiếp : là những CPSX có liên quan trực tiếp đến sản xuất một loại sản phẩm, một công việc nhất định, có thể căn cứ vào số liệu chứng từ kế toán qui nạp và phân bổ trực tiếp cho các loại sản phẩm đó. Chi phí này bao gồm nguyên vật liệu, tiền lương và BHXH của công nhân sản xuất, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền... - Chi phí gián tiếp: là những CPSX có liên quan đến việc sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau, đòi hỏi phải phân bổ gián tiếp cho các đối tượng liên quan theo các tiêu thức phân bổ khác nhau. Phân loại chi phí theo cách này giúp cho việc xác định phương pháp kế toán tổng hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách đúng đắn, hợp lý. Ngoài ra còn có tác dụng trong việc tính toán giá thành kế hoạch cũng như hạch toán giá thành thực tế của đơn vị sản phẩm. 1.2.6. Phân loại chi phí theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc sản phẩm hoàn thành. - Chi phí cố định: là những chi phí không thay đổi khi khối lượng sản phẩm sản xuất thay đổi. Trong một giới hạn, qui mô nhất định chi phí này độc lập khách quan đối với kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp. - Chi phí biến đổi: là những chi phí thay đổi khi khối lượng sản phẩm sản xuất ra thay đổi như chi phí về nguyên vật liệu, chi phí nhân công. Ngoài ra chi phí biến đổi còn được chi tiết hoá thành chi phí biến đổi cùng tỷ lệ (chi phí cấp bậc). 1.2.7. Phân loại chi phí theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh. Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh toàn bộ chi phí được chia làm 3 loại. - Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh: gồm những chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ và quản lý hành chính, quản trị kinh doanh. - Chi phí hoạt động tài chính: gồm những chi phí liên quan đến hoạt động về vốn và đầu tư tài chính. - Chi phí hoạt động bất thường: gồm những chi phí ngoài dự kiến có thể do chủ quan hay khách quan mang lại. Ngoài các cách phân loại trên đây, dựa vào các tiêu thức khác nhau thì CPSX lại được phân chia thành nhiều loại khác nhau. Do đó, phải tuỳ thuộc vào từng yêu cầu cụ thể mà lựa chọn các phương pháp phân loại CPSX cho phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu cụ thể đó. 2. Giá thành sản phẩm. 2.1. Khái niệm và bản chất giá thành. Trong quá trình sản xuất, chi phí chi ra mới biểu hiện ở đầu vào của quá trình sản xuất, để đánh giá chất lượng sản xuất kinh doanh cần xem xét chi phí trong mối quan hệ với kết quả đầu ra của quá trình sản xuất đó là sản phẩm hoàn thành. Quan hệ so sánh này đã hình thành nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm (ZSP). Vậy, giá thành sản phẩm: là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. ZSP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng của hoạt động sản xuất. Mục đích sản xuất kinh doanh hay nói khác đi mục đích bỏ ra chi phí của doanh nghiệp là để tạo nên giá trị sử dụng nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn quan tâm đến hiệu quả của các chi phí đã bỏ ra, để với chi phí bỏ ra ít nhất thu được giá trị sử dụng lớn nhất và họ luôn tìm cách tối thiểu hoá chi phí nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế phục vụ cho công tác quản lý, chỉ tiêu ZSP đã thoả mãn đáp ứng các nội dung trên, đây là chỉ tiêu chất lượng cho phép đánh giá sự nỗ lực của doanh nghiệp trong hạch toán và quản lý. ZSP luôn chứa đựng 2 mặt khác nhau vốn có bên trong nó là CPSX đã chi ra và lượng giá trị sử dụng thu được cấu thành trong khối lượng sản phẩm, công việc đã hoàn thành. Như vậy bản chất của giá thành sản phẩm là sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố chi phí vào sản phẩm công việc hoàn thành. Để đáp ứng yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hóa; giá thành cần phải được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Nói cách khác cần phải tiến hành phân loại giá thành. 2.2. Phân loại giá thành. Dựa trên các tiêu thức và góc độ khác nhau thì giá thành lại được phân chia thành nhiều loại khác nhau. 2.2.1. Phân loại giá thành theo thời điểm và nguồn số liệu để tính giá thành: Căn cứ vào thời điểm và nguồn số liệu để tính giá thành được chia thành 3 loại: - Giá thành kế hoạch: được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch. - Giá thành định mức: được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng). Khác với giá thành kế hoạch không biến đổi suốt cả kỳ kế hoạch thì giá thành định mức lại luôn thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất sản phẩm. - Giá thành thực tế: là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. 2.2.2. Phân loại giá thành theo phạm vi phát sinh chi phí. Theo cách phân loại này, giá thành được chia làm 2 loại: - Giá thành công xưởng (giá thành sản xuất): là chỉ tiêu phản ánh tất cả các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất (CPNVLTT,CPNCTT, CPSXC). Bởi vậy giá thành sản xuất còn có tên gọi là giá thành công xưởng. - Giá thành toàn bộ (giá thành đầy đủ): là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (CPSX, CPBH, CPQLDN). Do vậy giá thành toàn bộ còn gọi là giá thành đầy đủ được tính theo công thức: Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ = Giá thành sản xuất của sản phẩm + Chi phí bán hàng + Chi phí quản lý doanh nghiệp Giá thành toàn bộ là căn cứ để tính toán lợi nhuận trước thuế về hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. 3. Mối quan hệ giữa CPSX và ZSP. Giữa CPSX và ZSP có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. CPSX biểu hiện mặt hao phí, ZSP (hay giá thành công xưởng) biểu hiện mặt kết quả. ZSP được tính trên cơ sở CPSX đã được tập hợp và số lượng sản phẩm đã hoàn thành. CPSX và ZSP giống nhau về chất là đều bao gồm các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình chế tạo sản phẩm. Tuy nhiên CPSX và ZSP có những điểm khác biệt nhất định về lượng, CPSX luôn gắn với từng thời kỳ đã phát sinh chi phí còn ZSP lại gắn với khối lượng sản phẩm hoàn thành. CPSX không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng, còn ZSP không liên quan đến CPSX của sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng nhưng lại liên quan đến CPSX của cuối kỳ trước chuyển sang. Do đó tổng ZSP thường không trùng với tổng CPSX phát sinh trong kỳ. Tổng ZSP hoàn thành = CPSX dở dang đầu kỳ + CPSX phát sinh trong kỳ - CPSX dở dang cuối kỳ Về mặt kế toán, kế toán tập hợp CPSX tạo cơ sở để tính ZSP. Có thể nói kế toán tập hợp CPSX và tính ZSP là hai bước công nghệ liên tiếp, gắn bó hữu cơ với nhau. Khi giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì ZSP bằng CPSX. II. hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. 1. Đối tượng và phương pháp hạch toán CPSX. 1.1.Đối tượng hạch toán CPSX Đối tượng hạch toán CPSX ở doanh nghiệp tùy thuộc vào đặc điểm qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm, vào yêu cầu của công tác quản lý giá thành. Bởi vậy, đối tượng hạch toán CPSX có thể là: + Nơi phát sinh chi phí như: phân xưởng, tổ đội, bộ phận sản xuất hay giai đoạn công nghệ. + Đối tượng chịu chi phí như: sản phẩm, nhóm sản phẩm hay đơn đặt hàng. Như vậy thực chất của việc xác định đối tượng hạch toán CPSX là xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và đối tượng chịu phí làm cơ sở cho việc tập hợp CPSX, phục vụ yêu cầu cuối cùng của quản lý chi phí. Xác định đúng đắn đối tượng hạch toán CPSX giúp cho việc tổ chức hạch toán CPSX từ khâu ghi chép ban đầu, tổng hợp số liệu đến tổ chức tài khoản và hệ thống sổ được thống nhất, liền mạch vì tất cả các khâu đó đều phải theo đúng đối tượng hạch toán CPSX đã xác định. Các căn cứ để xác định đối tượng hạch toán CPSX: * Căn cứ vào tính chất sản xuất và đặc điểm của qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm. + Nếu doanh nghiệp có qui trình công nghệ sản xuất giản đơn thì đối tượng hay giới hạn hạch toán CPSX là toàn bộ qui trình công nghệ. + Nếu doanh nghiệp có qui trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu chế biến liên tục thì đối tượng hạch toán CPSX có thể là sản phẩm cuối cùng hoặc có thể là từng giai đoạn công nghệ. Kiểu chế biến song song thì đối tượng hạch toán CPSX là thành phẩm hoặc từng bộ phận, từng chi tiết. * Căn cứ vào loại hình sản xuất: + Các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất đơn chiếc thì đối tượng hạch toán chi phí là từng sản phẩm. + Các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất hàng loạt và có khối lượng lớn phụ thuộc vào tính chất qui trình công nghệ sản xuất thì đối tượng hạch toán chi phí có thể là nhóm sản phẩm. * Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất: Các doanh nghiệp có đặc điểm tổ chức sản xuất khác nhau thì có đối tượng tập hợp chi phí khác nhau. Các doanh nghiệp có tổ chức sản xuất theo phân xưởng thì đối tượng tập hợp chi phí là các phân xưởng. Việc tập hợp chi phí theo phân xưởng phục vụ cho việc phân tích và kiểm tra các chi phí ở phân xưởng, tạo điều kiện xác định đúng đắn kết quả hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp. 1.2. Phương pháp hạch toán CPSX. Phương pháp hạch toán CPSX là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các CPSX theo yếu tố và khoản mục trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán CPSX. Về cơ bản, phương pháp hạch toán CPSX bao gồm: phương pháp hạch toán CPSX theo chi tiết hoặc bộ phận của sản phẩm; theo sản phẩm ; nhóm sản phẩm ; theo đơn đặt hàng; theo đơn vị sản xuất hay theo toàn bộ dây chuyền sản xuất. Mỗi phương pháp hạch toán CPSX ứng với một loại đối tượng hạch toán CPSX nên tên gọi của phương pháp này biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân bổ chi phí. 2. Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm: 2.1. Đối tượng tính giá thành: Đối tượng tính giá thành là sản phẩm, bán thành phẩm, công vụ, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng này có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây chuyền sản xuất, tuỳ theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và tiêu thụ sản phẩm. Việc xác định đối tượng tính giá thành là công việc và nhiệm vụ đầu tiên trong toàn bộ công tác tính giá thành của kế toán. Để xác định đúng đối tượng tính giá thành, kế toán giá thành có thể căn cứ trên các cơ sở sau: * Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: - Với sản xuất giản đơn, đối tượng tính giá thành là sản phẩm cuối cùng. - Với sản xuất phức tạp, đối tượng tính giá thành là bán thành phẩm ở từng bước chế tạo hay thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng. * Loại hình sản xuất: Gồm sản xuất đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn. - Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ, đối tượng tính giá thành là từng sản phẩm. - Đối với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn, đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo. * Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh: - Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng tính giá thành ở các góc độ khác nhau. - Với trình độ thấp, đối tượng tính giá thành có thể bị hạn chế và thu hẹp lại. Nếu đặc điểm của doanh nghiệp cùng một qui trình sản xuất, cùng một loại vật liệu nhưng sản xuất ra nhiều loại sản phẩm khác nhau thì đối tượng tính giá thành có thể quy về một loại sản phẩm gốc (sản phẩm tiêu chuẩn) để sau đó tính ra giá thành các loại sản phẩm khác... Giữa đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành có điểm giống và khác nhau. - Giống nhau: Về bản chất chúng đều là phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí vì thế có trường hợp trùng nhau. - Khác nhau: Đối tượng tập hợp CPSX là căn cứ để mở các tiểu khoản sổ chi tiết để tổ chức công tác ghi chép ban đầu, tập hợp số liệu chi phí phục vụ công tác quản lý chi phí và tính giá thành. Còn việc xác định đối tượng tính giá thành lại là căn cứ để lập các bảng chi tiết để tính giá thành và tổ chức công tác tính giá thành. 2.2. Phương pháp tính giá thành. Phương pháp tính giá thành là phương pháp hoặc hệ thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành của từng loại sản phẩm, từng công việc hoàn thành theo các khoản mục giá thành. Việc tính giá thành được tiến hành theo định kỳ. Kỳ tính giá thành là khoảng thời gian kể từ khi kế toán mở sổ CPSX đến thời điểm khoá sổ CPSX liên quan đến đối tượng tính giá thành để xác định ZSP. Kỳ tính ZSP có thể được xác định theo kỳ báo cáo hoặc theo kỳ sản xuất. Một số phương pháp tính giá thành thường được sử dụng là: * Các phương pháp chung: - Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn): Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn và chu kỳ sản xuất ngắn như các nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác (quặng, than, gỗ....) ZSP theo phương pháp này được tính bằng cách: Tổng ZSP = Giá trị SPDD đầu kỳ + Tổng CPSX phát sinh trong kỳ - Giá trị SPDD cuối kỳ Giá thành đơn vị sản phẩm = Tổng ZSP Số lượng sản phẩm hoàn thành - Phương pháp tổng cộng chi phí: Phương pháp này thường áp dụng trong những doanh nghiệp sản phẩm hoàn thành trong qui trình công nghệ bao gồm nhiều chi tiết bộ phận cấu thành, mỗi một chi tiết được sản xuất ra ở một bộ phận sản xuất khác nhau và sau đó lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh. Những doanh nghiệp này thường là doanh nghiệp cơ khí, lắp ráp, đóng tàu và đối tượng hạch toán CPSX là từng chi tiết bộ phận cấu thành của đơn vị sản phẩm, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành. Do vậy phải tính được giá thành của từng chi tiết mới tính được giá thành của sản phẩm hoàn chỉnh. ZSP hoàn chỉnh = Z1 + Z2 + Z3 + ... + Zn. - Phương pháp hệ số: Phương pháp này thường áp dụng trong những doanh nghiệp trong cùng một qui trình sản xuất, sử dụng cùng các yếu tố đầu vào về vật liệu, nhân công, máy móc thiết bị sản xuất ra những sản phẩm khác nhau về chất lượng, về cỡ số, về quy cách và ngay từ đầu không thể hạch toán chi tiết chi phí cho từng sản phẩm được. Những doanh nghiệp thuộc loại này thường là những doanh nghiệp sản xuất hoá chất, dược phẩm, may mặc. Đối tượng hạch toán CPSX là địa điểm phát sinh chi phí hoặc theo phân xưởng còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm từng loại theo từng chủng loại. Theo phương pháp này, trước hết kế toán căn cứ vào hệ số quy đổi để quy đổi các sản phẩm về sản phẩm gốc, từ đó dựa vào tổng chi phí liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm gốc và giá thành từng loại sản phẩm. Giá thành đơn vị sản phẩm gốc = Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm Tổng số sản phẩm gốc quy đổi Giá thành đơn vị sản phẩm từng loại = Giá thành đơn vị sản phẩm gốc x Hệ số quy đổi sản phẩm từng loại Trong đó: Số lượng sản phẩm quy đổi = Số lượng sp loại i x Hệ số quy đổi sp loại i Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm = Giá trị SPDD đầu kỳ + Tổng chi phí phát sinh trong kỳ - Giá trị SPDD cuối kỳ - Phương pháp tỷ lệ: Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách phẩm chất khác nhau như may mặc, dệt kim, đóng giầy... nhưng không quy đổi sản phẩm tiêu chuẩn được vì những sản phẩm này có giá trị sử dụng khác nhau. Trong các doanh nghiệp này CPSX được tập hợp theo nhóm sản phẩm cùng loại, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành của từng loại. Căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa CPSX thực tế với CPSX kế hoạch, kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành sản phẩm từng loại. Tổng giá thành thực tế từng loại sản phẩm = Tổng giá thành kế hoạch (hoặc giá thành định mức) của từng loại sản phẩm X Tỷ lệ chi phí Trong đó: Tỷ lệ chi phí = Tổng giá thành thực tế của tất cả các loại sản phẩm x 100 Tổng giá thành kế hoạch (giá thành định mức) của tất cả các loại sản phẩm Giá thành thực tế đơn vị sản phẩm từng loại = Tổng giá thành thực tế từng loại sản phẩm Số lượng sản phẩm từng loại - Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ: Phương pháp này thường áp dụng trong những doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh sản phẩm chính, còn thu được các sản phẩm phụ (các doanh nghiệp chế biến đường, rượu, bia, mì ăn liền...). Để tính ZSP chính kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ khỏi tổng CPSX sản phẩm. Đối tượng tập hợp CPSX được tập hợp theo phân xưởng hoặc địa điểm phát sinh chi phí còn đối tượng tính giá thành là các sản phẩm chính sản xuất ra. Tổng ZSP chính = Giá trị sản phẩm chính dở dang đầu kỳ + CPSX phát sinh trong kỳ - Phát sinh giảm chi phí - Giá trị sản phẩm phụ - Giá trị sản phẩm chính dở dang cuối kỳ - Phương pháp liên hợp: Là phương pháp được áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh nghiệp sản xuất hoá chất, dệt kim, đóng giày, may mặc... Trên thực tế, kế toán có thể kết hợp phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ sản phẩm phụ... * Vận dụng phương pháp tính giá thành sản phẩm trong một số loại hình doanh nghiệp chủ yếu: - Doanh nghiệp sản xuất giản đơn: Đối với các doanh nghiệp này công việc tính giá thành thường được tiến hành vào cuối tháng theo phương pháp trực tiếp (giản đơn) hoặc phương pháp liên hợp. - Doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng: Đối với loại hình doanh nghiệp này, kế toán tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo từng đơn. Đối tượng tính giá thành sản phẩm là sản phẩm của từng đơn đặt hàng. Phương pháp tính giá thành này tùy theo tính chất và số lượng sản phẩm của từng đơn sẽ áp dụng phương pháp thích hợp như phương pháp trực tiếp, phương pháp hệ số, phương pháp tổng cộng chi phí hay phương pháp liên hợp.... - Doanh nghiệp áp dụng hệ thống hạch toán định mức: Trước hết, kế toán phải dựa vào các định mức kinh tế kỹ thuật để xác định giá thành đơn vị định mức sản phẩm, đồng thời phải theo dõi chặt chẽ tình hình thay đổi định mức trong kỳ cũng như tình hình chi tiêu so với định mức, từ đó tính ra giá thành thực tế của sản phẩm bằng cách: Giá thành thực tế sản phẩm = Giá thành định mức sản phẩm ± Chênh lệch do thay đổi định mức ± Chênh lệch so với định mức - Doanh nghiệp sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục: Đối với loại hình doanh nghiệp này, phương pháp tính giá thành là phương pháp trực tiếp kết hợp với phương pháp tổng cộng chi phí hay hệ số (hoặc tỷ lệ). + Tính giá thành phân bước theo phương án hạch toán có bán thành phẩm: Được áp dụng với những doanh nghiệp sản xuất phức tạp mà bán thành phẩm ở các bước chế biến được tiêu thụ ra ngoài (có ý nghĩa kinh tế độc lập) và doanh nghiệp đó có nhu cầu hạch toán kinh tế nội bộ cao. Theo phương án này kế toán phải tiến hành tính giá thành bán thành phẩm từng bước, từ bước thứ nhất đến bước thứ n. Bởi vậy, phương án này còn được gọi là phương pháp kết chuyển tuần tự. Trình tự tập hợp chi phí và tính giá thành theo phương pháp này có thể phản ánh qua sơ đồ sau: Sơ đồ số 01 + Tính giá thành phân bước theo phương án không có bán thành phẩm: Được áp dụng đối với những doanh nghiệp sản xuất phức tạp mà bán thành phẩm không tiêu thụ ra ngoài hoặc tiêu thụ không đáng kể và yêu cầu hạch toán nội bộ không cao. Theo phương án này, kế toán không cần tính giá thành bán thành phẩm hoàn thành trong từng giai đoạn mà chỉ tính giá thành thành phẩm hoàn thành bằng cách tổng hợp chi phí nguyên, vật liệu chính và các chi phí chế biến khác trong các giai đoạn công nghệ. Có thể phản ánh phương án này qua sơ đồ sau: Sơ đồ số 02 - Doanh nghiệp có tổ chức bộ phận sản xuất kinh doanh phụ: Trường hợp giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh không phục vụ lẫn nhau hoặc có sự phục vụ lẫn nhau nhưng giá trị và khối lượng phục vụ không đáng kể: trong trường hợp này giá thành của từng hoạt động, bộ phận sản xuất kinh doanh sẽ chỉ bao gồm những chi phí liên quan đến hoạt động đó mà thôi, bởi vậy việc tính giá thành thường được tính bằng phương pháp trực tiếp giản đơn. Trường hợp giữa các bộ phận sản xuất có phục vụ lẫn nhau đáng kể, kế toán có thể áp dụng các phương pháp như phương pháp phân bổ lẫn nhau một lần theo giá thành ban đầu, giá thành kế hoạch, phương pháp đại số hoặc phương pháp kinh nghiệm để xác định giá trị phục vụ trong thực tế. Trong thực tế phương pháp phân bổ lẫn nhau một lần được sử dụng phổ biến. + Phương pháp phân bổ lẫn nhau một lần theo giá thành kế hoạch: Bước 1: Xác định giá trị phục vụ lẫn nhau giữa các bộ phận sản xuất phụ theo giá thành đơn vị: Giá trị phục vụ lẫn nhau = Số lượng sản phẩm, lao vụ phục vụ lẫn nhau x Giá thành đơn vị kế hoạch Bước 2: Xác định giá trị phục vụ cho đối tượng khác theo giá thành đơn vị mới: Giá trị phục vụ cho từng đối tượng = Số lượng sản phẩm, lao vụ phục vụ từng đối tượng x Giá thành đơn vị mới Trong đó: Giá thành đơn vị mới = Tổng chi phí ban đầu + Giá trị nhận của bộ phận SX phụ khác - Giá trị phục vụ cho bộ phận SX phụ khác Số lượng sản phẩm, lao vụ ban đầu - Số lượng SP, lao vụ phục bộ phận SX phụ khác (kể cả tự phục vụ, nếu có) + Phương pháp phân bổ lẫn nhau một lần theo giá thành ban đầu: Về cơ bản phương pháp này giống phương pháp trên, chỉ khác trong bước 1 khi tính giá trị phục vụ lẫn nhau phải sử dụng giá thành đơn vị ban đầu. Giá thành đơn vị ban đầu = Tổng chi phí ban đầu Số lượng SP, lao vụ ban đầu III. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. 1. Hạch toán CPSX và tính ZSP theo phương pháp kê khai thường xuyên. Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp kê khai theo dõi tình hình hiện có, biến động tăng giảm vật tư, hàng hoá một cách thường xuyên liên tục trên sổ sách. áp dụng phương pháp này có ưu điểm là chính xác và có thể cho thông tin bất kỳ lúc nào về nhập, xuất, tồn vật tư hàng hoá, về tình hình biến động tăng giảm chi phí, hàng hoá, tình hình chênh lệch thiếu hụt… mà không nhất thiết phải đợi đến cuối kỳ để sớm có biện pháp xử lý kịp thời. Nội dung hạch toán gồm: 1.1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (CPNVLTT) * Nội dung của CPNVLTT CPNVLTT bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu… được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Vật liệu là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh, giá trị của vật liệu tiêu hao trong quá trình sản xuất, tỷ trọng của chúng trong giá trị sản phẩm , dịch vụ khác nhau tuỳ theo từng loại hình sản xuất của doanh nghiệp. Thông thường đối với các doanh nghiệp sản xuất thì giá trị nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu trong giá trị sản phẩm. Vì vậy việc quản lý chi phí vật liệu có ý nghĩa lớn trong việc quản lý CPSX và ZSP. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, sản phẩm, loại sản phẩm…) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng tập hợp chi phí, không thể hạch toán riêng được thì doanh nghiệp phải áp dụng phương pháp phân bổ chi phí cho các đối tượng liên quan. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, số lượng sản phẩm… Công thức phân bổ: Chi phí vật liệu phân bổ cho từng đối tượng = Tiêu thức phân bổ cho từng đối tượng x Tỷ lệ (Hệ số) Hệ số phân bổ = Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ * Tài khoản sử dụng. Kế toán sử dụng TK621 - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp để theo dõi các khoản CPNVLTT, tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí Kết cấu TK 621 như sau: Bên Nợ: Giá trị nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm. Bên Có: - Giá trị vật liệu xuất dùng không hết. - Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. TK621 ._.cuối kỳ không có số dư. Phương pháp hạch toán thể hiện trên sơ đồ sau: Sơ đồ 03: Sơ đồ hạch toán tổng hợp CPNVLTT . 1.2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp (CPNCTT) * Nội dung của CPNCTT: CPNCTT là khoản thù lao lao động phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm như tiền lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp có tính chất lương (phụ cấp khu vực, phụ cấp độc hại…) ngoài ra CPNCTT còn bao gồm các khoản đóng góp cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ do chủ lao động chịu và được tính vào CPSX theo một tỷ lệ nhất định với số tiền lương phát sinh của công nhân trực tiếp sản xuất. * Tài khoản sử dụng. Để theo dõi CPNCTT kế toán sử dụng TK622- Chi phí nhân công trực tiếp, tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí. Kết cấu TK622 như sau: Bên Nợ : CPNCTT sản xuất sản phẩm. Bên Có : Kết chuyển CPNCTT. TK 622 cuối kỳ không có số dư Phương pháp hạch toán thể hiện trên sơ đồ sau: Sơ đồ 04: Sơ đồ hạch toán tổng hợp CPNCTT. 1.3. Hạch toán chi phí trả trước: Chi phí trả trước là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh, chi phí có giá trị lớn liên quan đến nhiều kỳ sản xuất kinh doanh nên chưa thể tính hết vào CPSX kinh doanh kỳ này, mà được tính cho hai hay nhiều kỳ sản xuất kinh doanh sau đó như chi phí tiền thuê nhà xưởng, trả trước tiền điện nước, chi phí ngừng sản xuất ngoài kế hoạch. Tài khoản sử dụng: TK142 - Chi phí trả trước. Kết cấu tài khoản. Bên Nợ: Phản ánh chi phí trả trước thực tế phát sinh, CPBH, CPQLDN chờ kết chuyển. Bên Có: Chi phí trả trước đã tính vào CPSX kinh doanh trong kỳ. Kết chuyển CPBH, CPQLDN chờ kết chuyển. Dư Nợ: Phản ánh chi phí trả trước chưa tính vào CPSX kinh doanh trong kỳ hoặc đang chờ kết chuyển. TK 142 có hai tiểu khoản. 1421 : Chi phí trả trước. 1422 : Chi phí chờ kết chuyển Phương pháp hạch toán. Sơ đồ 05: Sơ đồ hạch toán chi phí trả trước. 1.4. Hạch toán chi phí phải trả. Đó là những chi phí thực tế chưa phát sinh nhưng đã được ghi nhận trước vào chi phí trong kỳ hạch toán. Bao gồm: - Chi phí tiền lương phải trả cho công nhân sản xuất trong thời gian nghỉ phép. - Chi phí sửa chữa lớn TSCĐ trong kế hoạch. - Chi phí về ngừng sản xuất trong kế hoạch. - Chi phí về bảo hành sản phẩm hàng hoá có thể dự tính trước. - Chi phí về lao vụ, dịch vụ thuê hoặc mua ngoài. TK sử dụng : TK 355 - Chi phí phải trả. Kết cấu TK 335 như sau: Bên Nợ : Các chi phí thực tế phát sinh thuộc nội dung chi phí phải trả. Chi phí phải trả lớn hơn chi phí thực tế phát sinh được ghi giảm. Bên Có: Chi phí phải trả dự tính trước đã ghi nhận vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. Dư Có: Chi phí phải trả đã tính vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng thực tế chưa phát sinh. Sơ đồ 06 : Sơ đồ hạch toán chi phí phải trả. 1.5. Hạch toán các thiệt hại trong sản xuất: * Hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng: sản phẩm hỏng là những sản phẩm không thoả mãn các tiêu chuẩn chất lượng và đặc điểm kỹ thuật về màu sắc, kích thước , trọng lượng, kỹ thuật lắp ráp. Tuỳ theo mức độ hư hỏng mà sản phẩm hỏng được chia làm hai loại: - Sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được (sản phẩm tái chế) là những sản phẩm hỏng mà về mặt kỹ thuật có thể sửa chữa được và việc sửa chữa có lợi về mặt kinh tế. - Sản phẩm không sửa chữa được là những sản phẩm hỏng về mặt kỹ thuật không thể sửa chữa được hoặc có thể sửa chữa được nhưng không có lợi về kinh tế. Trong quan hệ với công tác kế hoạch, cả hai loại sản phẩm hỏng nói trên lại được chi tiết thành sản phẩm hỏng trong định mức và sản phẩm hỏng ngoài định mức. Những sản phẩm hỏng mà doanh nghiệp dự kiến sẽ xảy ra trong quá trình sản xuất được coi là hỏng trong định mức. Đây là những sản phẩm hỏng được xem là không tránh khỏi trong quá trình sản xuất nên phần chi phí của những sản phẩm này coi là chi phí sản xuất chính phẩm. Sản phẩm hỏng ngoài định mức là những sản phẩm nằm ngoài dự kiến của nhà sản xuất do những nguyên nhân bất thường như hoả hoạn, máy hỏng. Do xẩy ra bất thường, không được chấp nhận nên chi phí của chúng không được cộng vào chi phí sản xuất sản phẩm chính mà được xem là khoản phí tổn thời kỳ, phải trừ vào thu nhập. Phương pháp hạch toán. * Đối với sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được các chi phí về sửa chữa được tập hợp vào TK142 - Chi phí trả trước - sau đó căn cứ vào nguyên nhân cụ thể xử lý số chi phí này. Có thể phản ánh qua sơ đồ sau: Sơ đồ 07: Sơ đồ hạch toán sản phẩm có thể sửa chữa. * Đối với sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được, kế toán cần phải xác định chính xác giá trị sản phẩm hỏng không sửa chữa được , giá trị phế liệu thu hối, xác định nguyên nhân gây hỏng để sửa chữa kịp thời. Sơ đồ 08: Sơ đồ hạch toán sản phẩm hỏng không thể sửa chữa. * Thiệt hại về ngừng sản xuất. Trong thời gian ngừng sản xuất vì những nguyên nhân chủ quan hay khách quan, các doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra các khoản chi phí để duy trì hoạt động như khấu hao TSCĐ, tiền công lao động, chi phí bảo dưỡng… Những khoản chi phí chi ra trong thời gian này được coi là thiệt hại về ngừng sản xuất. Với những khoản chi phí về ngừng sản xuất theo kế hoạch dự kiến không coi là thiệt hại, kế toán đã theo dõi ở tài khoản 335 - chi phí phải trả. Trường hợp ngừng sản xuất bất thường, các chi phí bỏ ra trong thời gian này do không được chấp nhận nên phải theo dõi riêng, giá trị thiệt hại sẽ trừ vào thu nhập như khoản chi phí thời kỳ. Cách hạch toán có thể được phản ánh qua sơ đồ sau: Sơ đồ 09: Thiệt hại ngừng sản xuất ngoài kế hoạch 1.6. Hạch toán chí phí và tính giá sản xuất kinh doanh phụ: Sản xuất kinh doanh phụ là ngành sản xuất được tổ chức ra để nhằm mục đích phục vụ cho sản xuất kinh doanh chính. Sản phẩm, lao vụ của sản xuất phụ phần lớn được sử dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh chính, phần còn lại có thể cung cấp cho các phân xưởng phụ khác hoặc có thể cung cấp cho bên ngoài. CPSX kinh doanh phụ bao gồm: CPNVLTT, CPNCTT, CPSXC liên quan đến việc sản xuất kinh doanh phụ. Phương pháp hạch toán các khoản chi phí trên giống như với hoạt động sản xuất kinh doanh chính. Các TK621,622,627 được mở theo dõi chi tiết theo từng hoạt động sản xuất kinh doanh phụ. Cuối kỳ sẽ được tập hợp vào TK154, chi hết theo từng hoạt động để tính giá thành sản phẩm, lao vụ. Sơ đồ 10 : Sơ đồ hạch toán chi phí, giá thành sản xuất kinh doanh phụ 1.7. Hạch toán chi phí sản xuất chung (CPSXC) * Nội dung của CPSXC: CPSXC là những chi phí cần thiết khác để sản xuất sản phẩm ngoài CPNVLTT và CPNCTT. Đây là các chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng, các bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. * Tài khoản sử dụng: Để hạch toán CPSXC, kế toán sử dụng TK627 - Chi phí sản xuất chung tài khoản này được mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất. Kết cấu của tài khoản này như sau: Bên Nợ: CPSXC thực tế phát sinh trong kỳ. Bên Có: - Các khoản ghi giảm CPSXC - Kết chuyển (hay phân bổ)CPSXC vào CPSX sản phẩm. TK 627 cuối kỳ không có số dư được chi tiết thành 6 tiểu khoản. 6271: Chi phí nhân viên phân xưởng. 6272 : Chi phí vật liệu. 6273 : Chi phí dụng cụ sản xuất. 6274 : Chi phí khấu hao TSCĐ. 6277 : Chi phí dịch vụ mua ngoài. 6278 : Chi phí bằng tiền khác. Phương pháp hạch toán thể hiện trên sơ đồ sau: Sơ đồ 11: Hạch toán tổng hợp CPSXC Do CPSXC có liên quan đến nhiều loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trong phân xưởng nên cần thiết phải phân bổ khoản chi phí này cho từng đối tượng (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ) theo tiêu thức phù hợp: Mức CPSXC phân bổ cho từng đối tượng = Tổng CPSXC cần phân bổ x Tiêu thức phân bổ của từng đối tượng Tổng tiêu thức phân bổ 1.8. Tổng hợp CPSX, kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang và tính giá thành sản phẩm. 1.8.1. Tổng hợp CPSX: Để tổng hợp CPSX và xác định ZSP hoàn thành, kế toán sử dụng TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Kết cấu của tài khoản này như sau: Bên Nợ: Tập hợp CPSX trong kỳ Bên Có: Các khoản ghi giảm CPSX. Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành. Dư Nợ: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ. Sơ đồ 12 : Nội dung tập hợp CPSX như sau 1.8.2. Kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang. Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn đang nằm trong quá trình sản xuất. Để tính giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành cuối mỗi kỳ kinh doanh cần phải tiến hành kiểm kê và xác định giá trị sản phẩm dở dang tại các bộ phận phân xưởng sản xuất. Trên thực tế có thể áp dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp ước tính sản lượng tương đương. Theo phương pháp này, căn cứ vào số lượng và mức độ hoàn thành của sản phẩm dở dang để quy đổi sản phẩm dở dang thành sản phẩm hoàn thành tương đương. Tiêu chuẩn để quy đổi sản phẩm dở dang thành sản phẩm hoàn thành tương đương thường được sử dụng là giờ công định mức hoặc tiền lương định mức. Công thức tính: Giá trị SPDD cuối kỳ = Giá trị SPDD đầu kỳ + Chi phí phát sinh trong kỳ x Số lượng SPDD cuối kỳ x % hoàn thành Số lượng SP hoàn thành + Số lượng SPDD cuối kỳ x % hoàn thành Phương pháp này chỉ nên áp dụng để tính chi phí chế biến, còn CPNVLTT phải tính bằng cách trực tiếp dựa trên cơ sở chi phí thực tế hoặc chi phí định mức. - Phương pháp đánh giá theo CPNVLTT. Theo phương pháp này thì giá trị của sản phẩm dở dang chỉ tính CPNVLTT. Còn những chi phí khác phát sinh trong kỳ đều tính vào giá thành của sản phẩm hoàn thành. Giá trị SPDD cuối kỳ = Giá trị SPDD đầu kỳ + Chi phí NVL phát sinh trong kỳ x Số lượng SPDD cuối kỳ x % hoàn thành Số lượng SP hoàn thành + Số lượng SPDD cuối kỳ x % hoàn thành Phương pháp này đơn giản, nhưng mức độ chính xác thấp, chỉ áp dụng ở những doanh nghiệp mà CPNVLTT chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm. -Phương pháp đánh giá theo 50% chi phí chế biến. Theo phương pháp này, chi phí NVLTT tính cho sản phẩm dở dang theo chi phí thực tế hoặc chi phí định mức. Đối với các chi phí chế biến, để đơn giản cho việc tính toán, ta lấy mức độ hoàn thành bình quân của sản phẩm dở dang là 50% so với thành phẩm để phân bổ. Thực chất đây là phương pháp ước tính theo sản lượng tương đương mà mức độ hoàn thành là 50% so với thành phẩm. Giá trị SPDD = Giá trị NVL chính trong SPDD + 50% chi phí chế biến. Phương pháp này chỉ nên áp dụng ở những doanh nghiệp mà chi phí chế biến chiếm tỷ trọng nhỏ trong giá thành sản phẩm. - Phương pháp đánh giá theo giá thành định mức hoặc giá thành kế hoạch. Theo phương pháp này thì CPNVLTT và CPNCTT tính vào sản phẩm dở dang dựa theo các định mức tiêu hao nguyên vật liệu, tiền lương của đơn vị sản phẩm. Các chi phí khác tính vào giá trị sản phẩm dở dang dựa trên cơ sở tỷ lệ quy định so với khoản mục CPNCTT hoặc dựa theo mức chi phí kế hoạch. Phương pháp này chỉ áp dụng ở những doanh nghiệp mà SPDD có mức độ khá đồng đều giữa các tháng. 2. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ. Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp không theo dõi một cách thường xuyên liên tục về tình hình biến động của vật tư, hàng hoá, sản phẩm mà chỉ phản ánh giá trị tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của chúng trên cơ sở kiểm kê cuối kỳ, xác định lượng tồn kho thực tế chưa xuất dùng cho sản xuất kinh doanh và các mục đích khác. 2.1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Kế toán sử dụng TK621 - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp để phản ánh toàn bộ chi phí nguyên vật liệu liên quan trực tiếp đến việc sản xuất chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ trong kỳ. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng hạch toán. Bên Nợ: Giá trị vật liệu đã xuất dùng cho các hoạt động SXKD trong kỳ. Bên Có: Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu vào giá thành sản phẩm lao vụ, dịch vụ. TK621 cuối kỳ không có số dư. Sơ đồ 13: Sơ đồ hạch toán tổng hợp CPNVLTT 2.2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp. Về CPNCTT, tài khoản sử dụng và cách tập hợp chi phí trong kỳ giống như phương pháp kê khai thường xuyên. Cuối kỳ để tính giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ kế toán tiến hành kết chuyển CPNCTT vào TK 631 theo từng đối tượng. 2.3. Hạch toán chi phí sản xuất chung. Toàn bộ CPSXC được tập hợp vào TK627 và được chi tiết theo các tiểu khoản tương ứng và tương tự như với doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên. Sau đó sẽ được phân bổ vào TK 631 chi tiết theo từng đối tượng để tính giá thành. 2.4. Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê - đánh giá sản phẩm dở dang và tính giá thành sản phẩm. Để phục vụ cho việc tổng hợp CPSX và tính ZSP, kế toán sử dụng TK631- "Giá thành sản xuất". Tài khoản này được hạch toán chi tiết theo địa điểm phát sinh chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất…) và theo loại, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm, lao vụ của cả bộ phận sản xuất kinh doanh chính, sản xuất kinh doanh phụ, chi phí thuê ngoài gia công chế biến. Kết cấu TK631 như sau: Bên Nợ: Phản ánh giá trị SPDD đầu kỳ và các CPSX phát sinh trong kỳ liên quan tới việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ… Bên Có: - Kết chuyển giá trị SPDD cuối kỳ vào TK154. - Tổng giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành. TK631 cuối kỳ không có số dư. Phương pháp hạch toán. Sơ đồ 14: Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất sản phẩm IV. Chuẩn mực kế toán Quốc tế có liên quan đến việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Chuẩn mực về hàng tồn kho ( IAS-2) 1. Vấn đề đặt ra. Hạch toán kế toán hàng tồn kho theo hệ thống chi phí ban đầu đã được mô tả. Vấn đề đặt ra là tính toán chi phí hàng tồn kho phải được công nhận như một khoản mục tài sản và được kết chuyển cho tới khi các khoản doanh thu tương ứng được thực hiện theo khái niệm tương ứng. 2. Hạch toán kế toán. - Hàng tồn kho phải được tính toán với mức chi phí thấp hơn hoặc giá trị thực hiện ròng theo nguyên tắc thận trọng. - Chi phí hàng hoá bao gồm tất cả chi phí mua, chi phí chuyển đổi và các chi phí khác phát sinh trong quá trình chuyển hàng tồn kho sang địa điểm và trạng thái hiện tại. + Chi phí mua, ví dụ như giá mua và chi phí nhập khẩu. + Chi phí chuyển đổi, là: nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, chi phí chung thay đổi, chi phí chung cố định được phân bổ với khả năng sản xuất bình thường. + Các chi phí khác như thiết kế, chi phí đi vay… - Chi phí dịch vụ bao gồm tất cả các khoản chi phí liên quan trực tiếp đến việc cung cấp dịch vụ, ví dụ: + Hàng có thể tiêu thụ. + Nhân công và các chi phí nhân viên khác. + Chi phí chung có thể phân bổ. - Những kỹ thuật dưới đây có thể được sử dụng để tính chi phí hàng tồn kho: + Chi phí thực tế. + Chi phí chuẩn, trong đó: Tính theo mức chi phí nguyên vật liệu, nhân công và công suất thông thường. Kiểm kê thường xuyên để dự tính chi phí thực tế. + Phương pháp bán lẻ: áp dụng khi phương pháp chi phí thực tế không sử dụng được. Giảm giá trị doanh thu bằng biên gộp để tính chi phí. Phần trăm trung bình được sử dụng cho nhóm khoản mục giống nhau. Tính đến giá ghi giảm. - Chi phí hàng tồn kho thực tế có thể áp dụng theo các công thức tính chi phí sau: + Xác định cụ thể. + Chi phí bình quân gia quyền. + Nhập trước, xuất trước ( FIFO ). + Nhập sau, xuất trước ( LIFO, là phương án khác được cho phép ). - Giá trị thực hiện ròng ( NRV ) là giá bán dự tính trừ đi các chi phí dự tính để hoàn tất và chi phí cần thiết cho bán hàng. Những ước tính này được dựa trên bằng chứng đáng tin cậy nhất vào thời điểm đưa ra dự tính. Mục đích giữ hàng tồn kho phải được tính đến khi đưa ra dự tính. Hàng tồn kho thường được điều chỉnh giảm xuống bằng giá trị thực hiện ròng theo các nguyên tắc sau: + Theo từng khoản mục. + Các khoản mục tương tự nhau thường được nhóm lại. + Từng dịch vụ được hạch toán như một khoản mục riêng biệt. - Những khoản mục sau đây được công nhận là chi phí trong báo cáo thu nhập: + Chi phí hàng tồn kho bán ra. + Điều chỉnh giảm xuống giá trị thực hiện ròng. + Lỗ hàng tồn kho. + Hao phí bất thường. + Chi phí sản xuất chung không được phân bổ. V. Liên hệ với kế toán một số nước trên thế giới. 1. Kế toán Pháp. TK- Giá phí sản xuất TK- Thành phẩm TK-Giá thành SP đã bán TK-T.tâm sản xuất TK-T.tâm phân phối TK – SPDD TK- Giá phí phân phối Xuất kho vật liệu đưa vào sản xuất Chi phí trực tiếp CPSX gián tiếp Chi phí trực tiếp Chi phí gián tiếp Phân bổ chi phí gián tiếp Kết chuyển giá phí phân phối Giá thành sản phẩm nhập kho Giá phí sản phẩm dở dang Giá trị sản phẩm xuất kho đem bán Phân bổ CPSX gián tiếp Quá trình hạch toán CPSX và tính ZSP được khái quát bằng sơ đồ sau: Như vậy, trong kế toán Pháp có sự quan niệm khác về bản chất chi phí giá thành và chức năng của chỉ tiêu giá thành dẫn đến có sự khác biệt trong tính toán xác định phạm vi giá thành. Theo họ: Giá thành sản phẩm tiêu thụ = Giá phí sản xuất + Giá phí phân phối 2. Kế toán Mỹ: Quan niệm về chi phí và giá thành trong kế toán Mỹ giống với kế toán Việt Nam. Kế toán Mỹ cũng sử dụng phương pháp theo dõi thường xuyên hàng tồn kho và phương pháp theo dõi định kỳ hàng tồn kho để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Chỉ khác, kế toán Mỹ không sử dụng tài khoản “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp” như trong kế toán Việt Nam (TK621) và lại sử dụng thêm tài khoản “sản xuất” trong phương pháp theo dõi định kỳ để tính chi phí sản xuất và thành phẩm trong kỳ. Quá trình hạch toán CPSX và tính ZSP được khái quát bằng sơ đồ sau: + Theo phương pháp theo dõi thường xuyên hàng tồn kho TK-Kiểm soát tồn kho VL TK- Chi phí sản xuất chung Vật liệu đưa vào sản xuất TK- Lao động trực tiếp Kết chuyển Giá trị sản phẩm hoàn thành trong kỳ TK-Kiểm soát SPDD TK-Kiểm soát thành phẩm Chi phí sản xuất chung phân bổ cho sản xuất + Theo phương pháp theo dõi định kỳ hàng tồn kho. TK-Kiểm soát tồn kho VL TK- Chi phí sản xuất chung TK - Tiêu thụ TK-Kiểm soát SPDD TK - Mua hàng TK – Lao động trực tiếp Giá trị SPDD đầu kỳ Kết chuyển VL tồn kho đầu kỳ Kết chuyển Kết chuyển Kết chuyển Giá trị SPDD cuối kỳ VL tồn kho cuối kỳ Giá trị sản phẩm hoàn thành trong kỳ TK- Sản xuất Phần II Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty thiết bị lạnh Long Biên I. Những đặc điểm chung của Công ty có ảnh hưởng đến hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. 1. Quá trình hình thành và phát triển. Công ty Thiết bị lạnh Long Biên là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Sở Công Nghiệp Hà Nội đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển hơn 30 năm. Ngày 23/3/1969 UBND Thành phố Hà Nội quyết định xát nhập xí nghiệp liên xưởng: Công ty hợp doanh Minh Nam và xí nghiệp Cộng Lực thành Nhà máy cơ khí Long Biên với tổng số vốn pháp định là 6 tỷ đồng, mặt bằng sản xuất 9.800 m2, tổng số cán bộ công nhân viên là 550 người. Nhà máy có nhiệm vụ sản xuất các loại bể xăng, thùng gang và đinh các loại. Trụ sở của Nhà máy đặt tại số 2 đường Giảng Võ -Quận Đống Đa-Hà Nội. Khi mới thành lập, do thiết bị nhà xưởng không đồng bộ, chất lượng thấp đồng thời do sản xuất bị phân chia nên trong thời gian này sản phẩm của Nhà máy không đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của Nhà máy Công cụ số 1 và các Nhà máy cơ khí khác. Đứng trước tình hình đó Nhà máy đã mạnh dạn nghiên cứu, sản xuất và chế thử thành công máy kem lạnh vào năm 1972. Trong những năm tiếp theo do có sự tiêu thụ tốt nhà máy liên tục cho ra đời các máy kem lạnh 2AT180, 2AT125...các kho lạnh bảo quản thực phẩm 100 tấn/ngày, hệ thống làm nước đá công suất 1tấn/ngày trở lên. Đến năm 1982, các sản phẩm thiết bị lạnh của nhà máy đã chiếm 80% trong cơ cấu sản phẩm. Để phù hợp với tình hình kinh doanh mới, ngày 12/6/1982 nhà máy đổi tên thành Nhà máy Thiết bị lạnh Long Biên. Với nguyên tắc luôn cải tiến thay đổi mẫu mã sản phẩm, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm, các thiết bị lạnh có công suất lớn đã được công nhận trên thị trường Hà Nội, còn các thiết bị chế biến vi sinh như bình lên men, bình xạc CO2...đã chiếm lĩnh được thị phần nhất định trên thị trường miền Trung và miền Nam. Tuy nhiên khi bước sang nền kinh tế thị trường, nhà máy đã gặp phải không ít khó khăn: vốn thiếu, máy móc thiết bị lạc hậu...thị trường của Công ty bị thu hẹp, sản phẩm bị cạnh tranh bởi các máy móc nhập ngoại. Trước tình hình này, Ban giám đốc nhà máy đã đề ra những biện pháp cụ thể để cải tiến kỹ thuật mặt hàng như chế tạo thiết bị lạnh có công suất lớn phù hợp với yêu cầu bảo quản lạnh, tiến hành sản xuất theo các hợp đồng… Ngày 19/4/1993 Nhà máy chính thức đổi tên thành Công ty Thiết bị lạnh Long Biên. *Nhiệm vụ sản xuất của Công ty hiện nay: Hiện nay Công ty Thiết bị lạnh Long Biên có những nhiệm vụ chủ yếu sau: Chế tạo, lắp đặt máy lạnh công nghiệp ( kho lạnh, nước đá, bia, nước giải khát…) Lắp đặt điều hoà trung tâm. Xây lắp điện nước công nghiệp và dân dụng. Xuất nhập khẩu thiết bị , vật tư, phụ tùng ngành cơ khí lạnh. Dịch vụ chế tạo, gia công cơ khí. * Tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh doanh qua một số năm. Một số chỉ tiêu về quy mô và chất lượng mà Công ty đã đạt được trong những năm qua: Bảng kết quả hoạt động của Công ty. Đơn vị: Nghìn đồng TT Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 1 DTT 5.016.032 5.617.956 6.179.752 2 LN từ HĐKD 250.802 280.898 401.684 3 Thuế nộp NS 460.310 520.330 550.524 4 Số CNV(người) 276 265 260 5 TNBQ(ngđ/người) 580 620 650 6 Tổng nguồn vốn 12.100.000 12.500.000 12.800.000 7 Giá trị tổng sản lượng 7.634.000 6.460.450 7.340.750 Kết quả trên cho thấy trong những năm gần đây quy mô hoạt động của Công ty đã tăng lên, doanh thu thuần tăng lên qua các năm mặc dù giá trị tổng sản lượng năm 1999 và năm 2000 giảm so với năm 1998. Công ty đã có những đóng góp tích cực cho ngân sách nhà nước. Theo quyết định 176 về lao động Công ty đã giải quyết chế độ thôi việc , nghỉ hưu mất sức cho một số cán bộ công nhân viên đến nay trong biên chế chỉ còn hơn 250 người trong đó chủ yếu là cán bộ có trình độ đại học và thợ lành nghề ở các độ tuổi khác nhau. Với mức thu nhập bình quân trên 600 nghìn đồng/người như hiện nay Công ty đã tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên yên tâm làm việc và sản xuất. 2. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Thiết bị lạnh Long Biên. 2.1. Tổ chức bộ máy quản lý. Để đáp ứng yêu cầu quản lý của Công ty, bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức gọn nhẹ, hợp lý bao gồm một Ban giám đốc trực tiếp lãnh đạo và quản lý điều hành hoạt động của các phòng ban chức năng và các phân xưởng. Ban giám đốc gồm: Giám đốc: phụ trách chung toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và là người có thẩm quyền cao nhất, có trách nhiệm phụ trách các lĩnh vực tổ chức sản xuất kinh doanh, công tác tài chính kế toán, quy hoạch phát triển Công ty... trên cơ sở chấp hành đúng đắn các chủ trương, chính sách, chế độ của nhà nước. Phó giám đốc: giúp việc cho giám đốc trong các lĩnh vực tổ chức sản xuất trong các phân xưởng, sắp xếp, điều động và sử dụng lao động, công tác định mức kỹ thuật, định mức lao động...Phó giám đốc chịu trách nhiệm trước giám đốc theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Các phòng ban chức năng: Phòng tổ chức hành chính: có chức năng tham mưu giúp giám đốc quản lý các mặt công tác như chỉ huy điều hành, quản lý các mặt thuộc phạm vi nhân sự, thực hiện các chế độ, chính sách theo quy định của nhà nước đối với người lao động, làm tốt công tác bảo vệ an ninh trật tự, phòng cứu hoả, quản lý, bảo vệ tài sản của Công ty và cán bộ công nhân viên. Phòng tài vụ: có chức năng tham mưu giúp giám đốc tổ chức thực hiện tốt các chế độ hạch toán kinh tế, thống kê, thông tin kinh tế trong Công ty, lập và thực hiện các kế hoạch tài chính và báo cáo tài chính. Phòng kinh doanh: có chức năng tham mưu các mặt công tác liên quan đến việc cung ứng vật tư kịp thời cho sản xuất cũng như việc tiêu thụ sản phẩm, xây dựng kế hoạch tiền lương, quản lý, kiểm tra tiền lương hàng tháng của các phòng ban, phân xưởng, tổ chức khai thác thị trường, định hướng phát triển các loại sản phẩm phù hợp với khả năng và sự phát triển của Công ty, phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Phòng kỹ thuật-KCS: có chức năng giúp giám đốc Công ty quản lý và thực hiện các nhiệm vụ về kỹ thuật sản xuất, xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất đã được thông qua, đảm bảo sự cân đối giữa kế hoạch sản xuất và tiêu thụ trên thị trường, từng bước nghiên cứu chế thử mặt hàng mới, cải tiến áp dụng các phương pháp công nghệ vào sản xuất, chỉ đạo việc kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm trong quá trình sản xuất và trước khi xuất xưởng theo tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm đã đăng ký với cơ quan nhà nước. 2.2. Tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty. Để phù hợp với quy trình công nghệ sản xuất và đặc điểm của sản phẩm, Công ty tổ chức sản xuất theo các phân xưởng chuyên ngành. Chức năng và nhiệm vụ của các phân xưởng như sau: - Phân xưởng cơ khí: gia công cơ khí các chi tiết bằng kim loại hoặc các chi tiết mua ngoài. Để phù hợp với yêu cầu sản xuất, phân xưởng đã lập ra các tổ sản xuất: tổ tiện( tiện 1, tiện 2, tiện 3), tổ phay bào, tổ mài khoan doa. - Phân xưởng gia công nóng- nhiệt luyện: Nhiệt luyện các chi tiết theo yêu cầu kỹ thuật đồng thời chuyên gò, hàn các dàn, bình máy lạnh, can xăng, bệ xăng...Phân xưởng này cũng chia thành các tổ sản xuất: tổ gò, tổ nhiệt luyện. - Phân xưởng cơ điện: nhiệm vụ chủ yếu là sửa chữa các thiết bị máy móc, thiết bị điện, lắp các bảng điện, tủ điện. Đồng thời phân xưởng còn phụ trách toàn bộ hệ thống điện của Công ty. - Phân xưởng lắp ráp: là phân xưởng cuối cùng của công đoạn sản xuất sản phẩm. Nhiệm vụ chính của phân xưởng là lắp ráp các bộ phận, chi tiết của máy thành sản phẩm hoàn chỉnh. ở tất cả các phân xưởng, các chi tiết sau khi gia công xong đều phải qua bộ phận KCS kiểm tra trước khi nhập kho bán thành phẩm và sau đó các chi tiết mới được xuất sang phân xưởng khác để tiếp tục chế biến theo kế hoạch. Sơ đồ 1:Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Công ty 3. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm Sản phẩm sản xuất tại Công ty Thiết bị lạnh Long Biên bao gồm rất nhiều loại trong đó mỗi loại sản phẩm, mỗi nhóm chi tiết đều có quy trình công nghệ sản xuất riêng. Sản phẩm chủ yếu của Công ty là các loại máy nén lạnh 2AD150, 2AT180, 2AT125, các loại téc bia, thùng ngâm hoa quả. Máy 2AD150 là sản phẩm chủ yếu, được cấu thành từ hơn 800 chi tiết khác nhau. Các chi tiết này chia thành 3 nhóm chính: nhóm chi tiết đầu máy, nhóm chi tiết bể- bình- dàn lạnh, các tủ điện. Mỗi nhóm có quy trình công nghệ khác nhau: * Đối với chi tiết đầu máy: Đầu máy được chế tạo từ phôi, phôi được mua ngoài thị trường sau đó nhập kho nguyên vật liệu. Khi có lệnh sản xuất, phôi được xuất kho đưa xuống phân xưởng cơ khí để gia công, chế biến. Sau khi đã qua bộ phận KCS để kiểm tra, phôi gia công được nhập kho bán thành phẩm. * Đối với chi tiết bể - bình -dàn: Nguyên vật liệu chính là thép lá, thép tấm, tôn, Inôc…được lĩnh từ kho nguyên vật liệu về phân xưởng GCN- NL để gò, uốn, dập, hàn thành hình dạng theo yêu cầu kỹ thuật. Các chi tiết này phải đưa qua bộ phận KCS để kiểm tra trước sau đó mới đem nhập kho bán thành phẩm. * Các tủ điện: Phân xưởng cơ điện lĩnh về các loại dây điện, bóng đèn, ổ phích, phích cắm từ kho nguyên vật liệu để lắp thành các bảng điện, tủ điện. Sau đó các chi tiết này cũng qua bộ phận KCS để kiểm tra rồi mới đem nhập kho bán thành phẩm. * Tại phân xưởng lắp ráp: Ba nhóm chi tiết được tạo ra từ ba nguồn trên chuyển tới phân xưởng lắp ráp để lắp ráp thành sản phẩm hoàn chỉnh theo đúng tiến độ kế hoạch. Sản phẩm sau khi được lắp ráp hoàn chỉnh, phải qua bộ phận KCS kiểm tra mới đem nhập kho thành phẩm. Sơ đồ 2 Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất máy nén lạnh 4. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán, công tác kế toán ở Công ty Thiết bị lạnh Long Biên: 4.1.Tổ chức bộ máy kế toán: Để phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, Công ty Thiết bị lạnh Long Biên tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình tập trung. Cụ thể là mỗi công việc của kế toán từ hạch toán chi tiết đến hạch toán tổng hợp đều được tập trung tại phòng kế toán dưới sự điều hành của kế toán trưởng. Bộ máy kế toán của Công ty có chức năng thu thập, xử lý, cung cấp các thông tin kinh tế phục vụ cho công tác quản lý, qua đó kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch, giám đốc bằng tiền việc sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn và mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong Công ty, thúc đẩy thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Sơ đồ3: Sơ đồ bộ máy kế toán của Công ty Phòng kế toán của Công ty gồm 5 người, phụ trách các phần công việc khác nhau, cụ thể: Một kế toán trưởng: phụ trách, điều hành chung công tác kế toán của phòng, có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc, báo cáo số liệu cụ thể về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cho giám đốc; chịu trách nhiệm thực thi, hướng dẫn thi hành chính sách, chế độ tài chính cũng như chịu trách nhiệm trước các quan hệ tài chính với cơ quan tài chính nhà nước. Một kế toán thanh toán: chịu trách nhiệm về mọi nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài Công ty. Cụ thể là ghi chép theo dõi về tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, theo dõi công nợ với khách hàng, tính lương, hạch toán lương và các khoản trích theo lương cho công nhân viên. Một kế toán vật tư: có trách nhiệm theo dõi tình hình nhập - xuất - tồn vật tư trong kỳ đồng thời theo dõi việc bán hàng. Một thủ quỹ: có nhiệm vụ quản lý số tiền hiện có của Công ty, chịu trách nhiệm trước chủ tài khoản và kế toán trưởng về khoản tiền do mình quản lý cất giữ, theo dõi các quỹ của Công ty. Một kế toán tổng hợp: tổng hợp các Bảng kê, Nhật ký chứng từ của các phần hành để vào Sổ cái và lập các báo cáo tài chính. Kế toán tổng hợp cũng có nhiệm vụ tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, hạch toán quá trình tiêu thụ sản phẩm, xác định kết quả kinh doanh, theo dõi tình hình tăng giảm tài sản cố định theo quy định của nhà nước. 4.2. Hệ thống chứng từ và tài khoản kế toán Về chứng từ kế toán, Công ty sử dụng hầu hết các chứng từ theo quy định bắt buộc của chế độ, chứng từ kế toán bao gồm: - Chứng từ lao động tiền lương: bảng chấm công, bảng thanh toán tiền lương, phiếu nghỉ hưởng BHXH. - Chứng từ hàng tồn kho: phiếu nhập kho, phiếu xuất kho, thẻ kho, biên bản kiểm kê vật tư, sản phẩm._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3402.doc
Tài liệu liên quan