Thực trạng & Giải pháp trong hoạt động Nhập khẩu máy vi tính & phụ kiện máy vi tính của Công ty FPT

Lời nói đầu Đại hội Đảng lần thứ IX vừa qua đã khẳng định đẩy mạnh Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. Trong bối cảnh thế giới khoa học công nghệ phát triển như vũ bão Việt nam không thể nằm ngoại lệ, muốn đạt mục tiêu thì phải có trình độ công nghệ nhất định và liên tục được nâng cao. Năng lực nội sinh hiện tại của Việt nam còn thấp, không thể chỉ tự phát huy nội lực mà cần phải học hỏi bạn bè các nước. Có nhiều cách học hỏ

doc97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1204 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp trong hoạt động Nhập khẩu máy vi tính & phụ kiện máy vi tính của Công ty FPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nhưng lựa chọn cách thích hợp và có hiệu quả thì mới đem lại thành công. Đối với Việt nam hiện nay, những mặt hàng chứa hàm lượng khoa học công nghệ cao như máy vi tính và phụ kiện máy vi tính có tính năng tiện dụng cao nhưng trong nước chưa đủ khả năng sản xuất mặc dù nhu cầu trên thị trường Việt nam lớn thì nhập khẩu là tất yếu và rất cần thiết. FPT (Công ty Đầu tư và Phát triển Công nghệ) là công ty công nghệ lớn của Nhà nước, có nhiệm vụ là một trong những doanh nghiệp đi đầu, tiên phong trong lĩnh vực tin học. Trong 13 năm hình thành và phát triển, công ty đã đóng góp phần không nhỏ trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ cho nước nhà. Nhập khẩu mặt hàng máy vi tính và phụ kiện máy vi tính đã được FPT thực hiện ngay từ khi thành lập, cho đến nay vẫn được duy trì, phát triển và có hiệu quả. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, tất cả các thành phần kinh tế được tham gia vào thị trường một cách bình đẳng, công ty FPT ngoài nhiệm vụ phục vụ cho các dự án của Nhà nước còn phải tự tìm kiếm đối tác và khách hàng. Bên cạnh những kết quả đạt được, công ty vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận đã được học tại trường kết hợp với cơ sở thực tiễn đã được quan sát tại Công ty FPT cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo, Thạc sĩ Ngô Thị Tuyết Mai và các cô chú tại phòng Kế hoạch Kinh doanh của công ty, em đã chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là “Hoạt động nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty FPT: Thực trạng và giải pháp”. Mục đích của luận văn là: -Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về hoạt động nhập khẩu để phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu hai mặt hàng nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính tại công ty FPT trong những năm gần đây. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn hiện hoạt động nhập khẩu của công ty nói chung và hai mặt hàng chính trên nói riêng trong thời gian tới. Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Vấn đề nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính tại công ty FPT. Phạm vi nghiên cứu: công ty FPT hoạt động trong cả lĩnh vực nhập khẩu và xuất khẩu. Về hoạt động nhập khẩu, công ty nhập khẩu khá nhiều mặt hàng, tuy nhiên trong đề tài luận văn tốt nghiệp này em chỉ đề cập đến vấn đề “Nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty FPT”. Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh thông qua các số liệu thu được để thấy sự tăng giảm qua các năm của từng chỉ tiêu trong từng thời kỳ. Kết cấu của luận văn tốt nghiệp: Ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương chính: Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu Chương II: Thực trạng hoạt động hoạt động nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty FPT trong thời gian qua Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty fpt Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu I. Khái niệm và vai trò nhập khẩu 1. Khái niệm: Hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ được coi là hoạt động thương mại, nó bao gồm hoạt động nội thương và hoạt động ngoại thương trong đó ngoại thương bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu là việc mua hàng hoá, dịch vụ từ các tổ chức kinh tế hay các doanh nghiệp nước ngoài theo các nguyên tắc thị trường quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước hoặc tái xuất khẩu để tìm kiếm lợi nhuận. Hoạt động nhập khẩu là một bộ phận rất quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế, nó thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Từ đó thấy được lợi thế so sánh về vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ,... để có chính sách khai thác hợp lý và có lợi nhất. Xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá trên thế giới diễn ra khá mạnh mẽ, đó là sự hình thành các khu vực mậu dịch, các liên minh kinh tế như AFTA, NAFTA,... đã cho thấy khối lượng giao dịch giữa các quốc gia ngày càng lớn và rõ ràng vai trò nhập khẩu là không thể thiếu, nó không chỉ quan trọng đối với một quốc gia mà còn đối với cả sự ổn định kinh tế chung của khu vực. ở một giới hạn nhất định nhập khẩu có thể quyết định tới sự sống còn của nền kinh tế nước đó đã thống nhất dưới một mái nhà chung của nền kinh tế thế giới. 2. Vai trò nhập khẩu: Một điều khẳng định rằng, trên thế giới nơi nào có hoạt động thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế phát triển thì nơi đó có nền kinh tế phát triển. Trước đây một số nước như Trung quốc, Liên xô (cũ), Việt nam đã coi độc lập kinh tế là vấn đề trên hết và có ý thức xây dựng một nền kinh tế tự cấp, tự túc. Nhưng thực tế đã thất bại, sự khan hiếm hàng hoá trầm trọng đã ảnh hưởng đến kinh tế cũng như xã hội. Bài học này cho thấy rằng hoạt động ngoại thương là vô cùng quan trọng, phải biết kết hợp cả nội lực và ngoại lực, ngoại lực là yếu tố quan trọng còn nội lực là yếu tố quyết định. Nhận thức được vấn đề này, các quốc gia đã tích cực tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế nơi thúc đẩy sự trao đổi buôn bán giữa các nước diễn ra một cách mạnh mẽ và có hiệu quả hơn. Và thành phần không thể thiếu, đó là nhập khẩu đã đóng vai trò quan trọng của nền kinh tế quốc gia cũng như đối với sự phát triển của thương mại quốc tế. *Lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo đã chỉ ra rằng một nước sẽ có lợi hơn khi nhập khẩu một loại mặt hàng mà nếu chi phí sản xuất trong nước cao hơn và nên chuyên môn hoá vào lĩnh vực mà mình có lợi thế hơn bằng cách xem xét đầu tư. Qua đó ta thấy vai trò nhập khẩu từ rất lâu đã được đánh giá là khá quan trọng bởi vì nó là hai mặt của hoạt động thương mại quốc tế, góp phần đưa nền kinh tế nước nhà đi lên trong một phạm vi nhất định. *Nhập khẩu cùng với xuất khẩu góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Nhờ hoạt động này mà một quốc gia có thể tiêu dùng vượt khả năng sản xuất của mình. Cũng nhờ có hoạt động nhập khẩu cơ cấu hàng hoá lưu thông trên thị trường trở nên phong phú hơn cả về quy cách, chất lượng, chủng loại, mẫu mã thoả mãn được nhu cầu trong nước ở mức độ cao đặc biệt đối với hàng hóa trong nước chưa sản xuất được. Bên cạnh đó nó cũng tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa hàng sản xuất trong nước và hàng ngoại nhập, thanh lọc các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và khuyến khích các doanh nghiệp nội địa vươn lên. Nó xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế đóng, chế độ tự cung tự cấp. Mặt khác, hoạt động nhập khẩu còn góp phần cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động thông qua việc nhập khẩu các phương tiện, công cụ lao động mới, tiên tiến và an toàn. *Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá-Hiện đại hóa (CNH-HĐH). Không phải tất cả các quốc gia đều có thể tự sản xuất để rồi tự trang bị cho mình, đặc biệt là các nước đang phát triển, nhu cầu về cải thiện cơ sở hạ tầng rất lớn và việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại tất yếu phải thông qua con đường nhập khẩu. *Nhập khẩu bổ sung những mặt hàng còn thiếu hụt của nền kinh tế nội địa, giải quyết tình trạng không cân bằng giữa cung và cầu hàng hoá. Vì một lý do nào đó tác động đến cân bằng cung cầu và cung không đáp ứng đủ cầu trong nước. Mục tiêu hiệu quả kinh tế làm cho các quốc gia tham gia vào phân công lao động quốc tế, tập trung phát triển mặt hàng lợi thế. Hàng loạt các nhu cầu không thể đáp ứng bằng nguồn lực sản xuất nội địa mà phát sinh nhu cầu nhập khẩu mang tính chu kỳ và khá ổn định. Tham gia hoạt động nhập khẩu, sự mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu được khắc phục nghĩa là góp phần làm cho quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra thường xuyên và ổn định. Không chỉ nhập khẩu trực tiếp hàng hoá thiết yếu mà thị trường nội địa còn khan hiếm mà cả máy móc, nguyên phụ liệu, công nghệ giúp cho sản xuất trong nước phát triển, năng suất lao động cao hơn, hàng hoá sản xuất ra dồi dào và ngoài ra còn có tác dụng giữ giá ổn định trên thị trường, hạn chế sự leo thang của giá cả bằng cách tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh-chất lượng và giá cả được quan tâm. *Nhập khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh vì nó cung cấp nguyên phụ liệu để sản xuất hàng hoá trong nước, tỷ lệ nguyên phụ liệu này tuỳ thuộc vào từng quốc gia với nhu cầu của họ, đem lại nhiều trình độ công nghệ khác nhau phù hợp với từng vùng, địa phương với quy mô và khả năng sản xuất được nâng cao, năng suất lao động tăng. Ngoài ra nhập khẩu hàng tiêu dùng, sách báo khoa học, kỹ thuật, văn hoá góp phần nâng cao dân trí. Nhập khẩu và xuất khẩu có mối quan hệ khăng khít với nhau. Hiện nay trên thế giới, các nước đều nhấn mạnh đến hoạt động xuất khẩu nhưng không vì thế mà nhập khẩu bị coi nhẹ. Có những mặt hàng nguyên phụ liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài, cá biệt có thể là 100%, mà lợi thế so sánh chỉ là giá nhân công rẻ hoặc được hưởng ưu đãi nào đó. Đối với những nước kém về công nghệ thì việc nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị giúp cho hàng hoá sản xuất chất lượng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngược lại, nhập khẩu phải có lượng dự trữ ngoại tệ, khoản này không thể chỉ trông mong từ hoạt động đi vay từ các tổ chức quốc tế mà nó cần thiết phải được lấy ra từ hoạt động xuất khẩu và các nước đều cân đối để cán cân thương mại được cân bằng. Tuy nhiên, hoạt động nhập khẩu cũng có những hạn chế chủ yếu sau: *Tất cả các hoạt động trong xã hội cần có sự quản lý, hoạt động nhập khẩu cũng vậy, có nhiều phương pháp để thực hiện việc này thông qua thuế quan, phi thuế quan hoặc hành chính. Nếu quản lý không tốt thì tình trạng nhập khẩu sẽ không đúng với mục tiêu của Nhà nước gây nên tình trạng nhập khẩu tràn lan, giá thành giảm nhanh và dẫn đến lãng phí vừa tác động xấu đến sản xuất trong nước vừa gây thiệt hại cho các nhà nhập khẩu. Các cơ quan chức năng liên quan trực tiếp đến hoạt động này như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan nếu không thực hiện một cách đồng bộ quản lý từ trên xuống thì cách xử lý sẽ tạo ra sự không công bằng và thiệt hại có thể cho nền kinh tế trong nước hoặc nhà nhập khẩu hoặc cả hai. Ngoài ra, vì lợi ích trước mắt mà nhiều cán bộ của Hải quan đã cho qua các máy móc thiết bị có thông số kỹ thuật không phù hợp vào Việt nam, những thiết bị công nghệ cũ đã gây ô nhiễm môi trường vừa lãng phí tiền của vừa ảnh hưởng tới sức khoẻ của người lao động và người dân sống xung quanh. *Nhập khẩu thường phải sử dụng ngoại tệ đặc biệt là ngoại tệ mạnh. Những nước đang phát triển nhu cầu nhập khẩu cao trong khi ngoại tệ lại thiếu nên việc vay nợ từ ngân hàng trong nước hoặc nước ngoài của các đơn vị là phổ biến khi lượng dự trữ ngoại tệ không đủ. Nếu kinh tế nước đó phát triển chậm hoặc không ổn định, cung ngoại tệ thấp hơn cầu thì tình trạng nợ sẽ không giải quyết được và nếu tỷ giá hối đoái tăng cao, nợ nước ngoại tệ có thể kéo dài. *Trong trường hợp giá trị nhập khẩu nhiều hơn giá trị xuất khẩu sẽ gây nên tình trạng mất cân bằng cán cân thương mại quốc tế ảnh hưởng đến quan hệ thương mại quốc tế giữa nước đó với các nước khác. Tỷ giá hối đoái tăng lên gây thiệt hại cho nước nhập khẩu, ngoài ra có thể chịu sức ép về kinh tế hay chính trị để có thể giải quyết được vấn đề nợ. *Đào tạo con người- nhân tố trung tâm của mọi hoạt động-cần hết sức coi trọng. Hoạt động nhập khẩu là hoạt động khó đòi hỏi trình độ nghiệp vụ cao. Nếu không đào tạo cán bộ nhập khẩu và cán bộ làm công tác quản lý liên quan đến nhập khẩu như Hải quan, cán bộ thuế thì thiệt hại chắc chắn xảy ra do sự vô ý hay cố tình liên quan đến đạo đức làm giảm hiệu quả nhập khẩu. Việt nam là nước đang phát triển, nhu cầu về công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu, phục vụ nhu cầu xã hội là rất lớn trong khi trình độ, khả năng tự có là không thể thì phương thức tối ưu nhất là nhập khẩu. Những mặt hàng như nhựa, đồ điện tử,... phụ liệu, linh kiện không thể tự sản xuất thì không có cách nào khác đó là nhập khẩu. Khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng giá cả, chất lượng luôn dẫn đầu. Để thực hiện được mục tiêu của mình, phương châm mua sắm trong thời kì đầu rồi từng bước học tập, cải tiến máy móc, kỹ thuật, áp dụng phù hợp với hoàn cảnh Việt nam để sản xuất có hiệu quả hơn. Song, để phát huy tốt vai trò của nhập khẩu trong quá trình CNH-HĐH, vấn đề đặt ra là: cần thiết hoạt động nhập khẩu phải là phương tiện kết hợp sức mạnh trong nước và quốc tế. II. các hình thức nhập khẩu chủ yếu Nhập khẩu đơn thuần chỉ là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá qua biên giới nhưng trong thực tế có nhiều hình thức nhập khẩu, mỗi loại có những điều kiện nhất định, ưu điểm, nhược điểm riêng và các doanh nghiệp phải lựa chọn sao cho phù hợp nhất nhằm đạt được hiệu quả từ hoạt động của mình. Trong thực tế thường có những hình thức chủ yếu sau: 1. Nhập khẩu tư doanh: Hình thức này còn được gọi là nhập khẩu trực tiếp. Doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu một cách độc lập. Nó đòi hỏi nhà nhập khẩu phải nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng, hiểu biết sâu sắc tình hình luật pháp, chính sách của quốc gia mình và các thông lệ, luật pháp, tập quán quốc tế. Do nhập khẩu độc lập nên yêu cầu doanh nghiệp phải nắm chắc nghiệp vụ và do đó nếu có rủi ro, tổn thất xảy ra thì phải tự gánh chịu. Ngược lại, thu được lợi nhuận sẽ được hưởng toàn bộ. Hoạt động nhập khẩu tư doanh có được sự tự chủ hơn so với các hình thức nhập khẩu khác, doanh nghiệp phải tự bỏ vốn ra để kinh doanh do đó muốn thu được lợi ích tối đa thì doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ lưỡng từng bước từ khâu nghiên cứu thị trường cho đến kí kết và thực hiện các điều khoản trong hợp đồng cũng như tiêu thụ sản phẩm nhập khẩu và thu tiền về,... Tính tự chủ hoàn toàn là đặc điểm khác biệt nhất và hiện nay nó được sử dụng nhiều nhất. 2. Nhập khẩu liên doanh: Đây là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp cùng nhau để tiến hành giao dịch và đưa ra các biện pháp liên quan đến nhập khẩu để hai bên đều thu được lợi ích (cùng chịu rủi ro và cùng hưởng lợi). Hoạt động này không tự chủ như nhập khẩu tư doanh nhưng ngược lại chịu ít rủi ro hơn vì vốn, trách nhiệm, quyền hạn đều được phân bổ cho các bên. Trên thực tế bên nào có nghiệp vụ, kinh nghiệm, bạn hàng giao dịch sẽ có quyền nhập khẩu trực tiếp đồng thời đứng ra tiến hành góp vốn, bảo đảm các bước tiêu thụ, lắp ráp, gia công. Trong thực tế Việt nam hiện nay, nhiều doanh nghiệp muốn tham gia nhập khẩu trực tiếp để giám sát nhưng không đủ hoàn toàn mọi điều kiện đồng thời cũng tìm được một đối tác có nhu cầu như mình, do đó, hình thức này vẫn được sử dụng. 3. Nhập khẩu uỷ thác: Hình thức này được hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một mặt hàng nào đó nhưng lại không có quyền nhập khẩu trực tiếp, uỷ thác hàng hoá đó cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác sẽ nhận được một khoản tiền gọi là lệ phí uỷ thác. Bên nhận uỷ thác và bên uỷ thác sẽ kí kết hợp đồng mà theo đó bên nhận uỷ thác sẽ tiến hành các bước hoặc một số bước đã thoả thuận của quá trình nhập khẩu hàng hoá. Họ không phải bỏ vốn và phải chịu rủi ro bán hàng mà thay mặt cho bên uỷ thác giao dịch với bạn hàng nước ngoài từ kí kết cho đến thực hiện các điều khoản hợp đồng nhập khẩu. Trong thực tế, bên nhận uỷ thác là những công ty lớn, uy tín trên thương trường, mạnh về tiềm lực tài chính và nắm vững nghiệp vụ ngoại thương. Đối với doanh nghiệp uỷ thác, do thiếu những điều kiện cần thiết nhưng vẫn có thể nhập khẩu được mặt hàng mình muốn mà không phải mất thời gian cho thủ tục nhập khẩu cũng như tiến hành các bước nhập khẩu. Tuy nhiên họ phải mất một khoản lệ phí lớn và mất đi lợi thế về chi phí trong hoạt động bán hàng về sau. Ngoài ra, do không trực tiếp thực hiện nhập khẩu nên hàng hoá có thể không đúng về quy cách, phẩm chất như trong hợp đồng. Năm 1999, Chính phủ Việt nam đã ban hành Nghị định 37/CP cho phép các doanh nghiệp kinh doanh thuộc các ngành có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp. Vì vậy, hình thức này hiện nay giảm và nhường chỗ cho các hình thức khác phát triển. 4. Buôn bán đối lưu: Đây là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với số lượng hàng nhận về. Hình thức này ra đời từ rất lâu, trong đó sớm nhất là “hàng đổi hàng”, tiếp đến là “trao đổi đền bù”. Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng, các bên trao đổi với nhau những hàng hoá tương đương và việc giao nhận hàng diễn ra gần như đồng thời, có thể thanh toán bằng tiền. Trong nghiệp vụ bù trừ, hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi sổ giá trị hàng giao. Đến cuối kì hạn hai bên mới so và đối chiếu trị giá hàng đã giao và trị giá đã nhận, nếu sau khi thực hiện nghiệp vụ bù trừ, tiền hàng còn dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ hoặc có thể được ghi vào sổ cho nghiệp vụ bù trừ năm sau. Do cùng một hợp đồng có thể thực hiện cả hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu, cùng lúc thu lãi từ hai hoạt động này, hình thức này khá phát triển đặc biệt sau chiến tranh Thế giới lần thứ 2. Trong thập niên 90 của thế kỷ 20 buôn bán đối lưu chiếm gần 35% trong buôn bán quốc tế. Tuy nhiên để thu được lợi ích tối ưu nhất, các nhà kinh doanh cần phải nắm vững thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. 5. Nhập khẩu tái xuất: Là hoạt động nhập khẩu hàng hoá từ một nước rồi sau đó xuất sang nước thứ ba mà không qua khâu chế biến ở nước tái xuất. Giao dịch này bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một khoản ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu, nó luôn luôn gồm ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Hình thức này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm rõ được thị trường nước ngoài về giá cả, mặt hàng cũng như biến động khác để có được sự chính xác, chặt chẽ trong các hợp đồng mua bán quốc tế. Hoạt động nhập khẩu khá đa dạng về hình thức, mỗi loại có những ưu, nhược điểm riêng, doanh nghiệp nhập khẩu cần phải chọn những phương thức giao dịch phù hợp với mình về khả năng tài chính, về nghiệp vụ ngoại thương, về mối quan hệ với khách hàng sao cho lợi ích thu được là tối ưu. III. Nội dung của hoạt động nhập khẩu Hoạt động nhập khẩu được tổ chức và thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường, lựa chọn hàng hoá nhập khẩu và đối tác, tiến hành đàm phán giao dịch và kí kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng và chuyển quyền sở hữu giữa bên bán cho bên mua, hoàn thành các thủ tục thanh toán. Các nghiệp vụ này đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng, đầy đủ và nhanh chóng nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao. 1. Nghiên cứu thị trường: Đây là nghiệp vụ đầu tiên đặt ra cho bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh nào nhằm giúp họ nắm vững các yếu tố thị trường, hiểu biết các quy luật vận động của thị trường để từ đó có thể đưa ra các ứng xử phù hợp. Nghiên cứu thị trường là cả một quá trình tìm kiếm khách quan và có hệ thống cùng với việc phân tích tổng hợp các thông tin cần thiết để giải quyết vấn đề. Quá trình này đòi hỏi rất công phu và tỉ mỉ bởi vì giá trị lớn, kinh doanh ngoại thương gặp nhiều rủi ro hơn với kinh doanh nội địa-bất cẩn sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường. Qua nghiên cứu thị trường chúng ta phải trả lời được các câu hỏi sau: Kinh doanh nhập khẩu hàng hoá gì? Kinh doanh với ai? Kinh doanh ở đâu, vào thời điểm nào? Kinh doanh với số lượng bao nhiêu? Giá cả và lợi nhuận ra sao? Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh nhập khẩu yêu cầu phải được tiến hành trong và ngoài nước. Nghiên cứu thị trường trong nước bao gồm những nội dung chủ yếu sau: 1.1. Nghiên cứu nhu cầu của thị trường (hiện tại và tương lai thị trường đang cần hàng hoá gì, số lượng là bao nhiêu, giá cả như thế nào,...): Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu quan tâm tới một số vấn đề như khả năng sản xuất và tiêu dùng trong nước thể hiện ở số lượng, chất lượng hàng sản xuất và tiêu thụ, thị hiếu, tập quán tiêu dùng cùng khả năng của doanh nghiệp trong việc cung ứng các mặt hàng đó ra thị truờng trong nước; chu kỳ sống của sản phẩm trải qua các giai đoạn: giới thiệu, phát triển, bão hoà và suy thoái. Khi doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu họ cần phải xác định mặt hàng đang ở giai đoạn nào trên cả thị trường đầu vào và đầu ra bởi vì trên thực tế mỗi khi thay đổi thị trường của một mặt hàng nào đó, nó sẽ tác động tới sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Chính sách của nhà nước đối với mặt hàng: xem xét sản phẩm mà doanh nghiệp định nhập khẩu cung ứng cho nhu cầu của nội địa có nằm trong danh mục hàng cấm nhập khẩu, biểu thuế nhập khẩu,...được quy định cho từng mặt hàng; nghiên cứu giá cả trong nước và đối thủ cạnh tranh trong nước: giúp cho doanh nghiệp xác định được lượng tiền mà khách hàng trong nước chấp nhận trả cho một đơn vị sản phẩm nhập khẩu-Mức giá này khá linh hoạt và chịu tác động của nhiều nhân tố như thu nhập, giá đối thủ đưa ra, quy định của Nhà nước,... 1.2. Nghiên cứu thị trường ngoài nước: Công việc này đòi hỏi doanh nghiệp cần phải biết có bao nhiêu nhà cung cấp sản phẩm mà mình dự định nhập khẩu, khả năng cung ứng, phương thức giao dịch và thanh toán ra sao..., các nhân tố này ảnh hưởng đến tính ổn định và lâu dài trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Do đó doanh nghiệp cần phải nghiên cứu nghiêm túc, nhanh chóng để nắm bắt cơ hội. -Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu: các yếu tố cấu thành giá cả của hàng hoá bao gồm giá vốn, giá bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí khác tuỳ theo các bước thực hiện và sự thoả thuận của các bên tham gia. Trong thực tế, giá cả của mỗi loại hàng hoá chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như: giá trị quốc tế, nhân tố chu kỳ, nhân tố lũng đoạn, nhân tố cạnh tranh, cung cầu, lạm phát, thời vụ,...do vậy doanh nghiệp cần khảo sát và xác định mức độ tác động của tất cả các nhân tố tới giá cả hàng nhập khẩu để từ đó xác định mức giá hợp lý mà người tiêu dùng trong nước chấp nhận và bản thân doanh nghiệp đạt được mục tiêu. Thông thường trong vấn đề chọn giá hàng nhập, các doanh nghiệp thường căn cứ vào: Giá ở trung tâm giao dịch truyền thống, ở những nước sản xuất chủ yếu hay những hãng sản xuất tập trung; tỷ suất ngoại tệ đối với hàng hoá nhập khẩu (VND/USD), nếu tỷ suất này lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thương trường thì doanh nghiệp nên nhập mặt hàng đó và ngược lại; nghiên cứu môi trường chính trị, luật pháp, tập quán buôn bán và hệ thống tài chính tiền tệ của quốc gia có thị trường hàng hoá mà doanh nghiệp định tiến hành nhập khẩu. Kết hợp với quá trình trên, lựa chọn được đối tác giao dịch trong công đoạn nghiên cứu nguồn cung hàng hoá là một thành công quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 2. Đàm phán và kí kết hợp đồng nhập khẩu: Đàm phán thương lượng là sự bàn bạc, trao đổi với nhau các điều khoản mua bán giữa các nhà kinh doanh để đi đến thống nhất kí kết hợp đồng. Đây là giai đoạn bắt đầu của việc hình thành hợp đồng, trong giai đoạn này, đại diện của các bên sẽ gặp gỡ nhau thể hiện nhu cầu, mong muốn của mình, đòi hỏi các bên phải chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt sao cho trong đàm phán đem lại những thoả thuận có lợi mà vẫn giữ được mối quan hệ tốt đẹp, bền vững giữa các bên trong công việc. Có ba hình thức đàm phán được sử dụng là: -Đàm phán qua thư tín: Có độ chính xác cao, mọi thứ đều được trình bày rõ ràng đồng thời tiết kiệm được chi phí. Tuy nhiên mất thời gian, có thể bị thất lạc làm mất cơ hội kinh doanh. -Đàm phán sử dụng phương tiện truyền thông: Fax, telex, e-mail,... được sử dụng khá phổ biến hiện nay vì tính năng nhanh, đảm bảo nội dung cần đàm phán. Tuy nhiên, chi phí không phải là nhỏ và có thể gây rủi ro, do đó chỉ được thực hiện khi các bên đã quen biết nhau, tin tưởng lẫn nhau. -Đàm phán trực tiếp: Độ an toàn khá cao vì các bên gặp gỡ nhau trực tiếp, trao đổi, trình bày những yêu cầu cũng như thắc mắc để giải quyết ngay. Tuy nhiên, phí cho hoạt động này khá cao đặc biệt là những nước có khoảng cách địa lý cách xa nhau. Vì vậy, nó thường được sử dụng trong những trường hợp khá phức tạp với số lượng lớn. Mỗi hình thức đều có những ưu, nhược điểm riêng, tuỳ từng trường hợp giao dịch và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mà lựa chọn hình thức đàm phán cho phù hợp nhất. Quá trình đàm phán thường bao gồm các bước sau: -Hỏi giá: Bên mua đề nghị bên bán cho biết thông tin về hàng hoá mình cần bao gồm: Tên hàng, chủng loại, phẩm chất, giá thành hàng hoá,...Hỏi giá không ràng buộc người mua phải trở thành mua hàng. -Báo giá: Người bán sẽ thông báo giá cả theo chủng loại hàng mà người mua yêu cầu. Báo giá được cam kết của người bán về mức giá đó mà người mua không có quyền từ chối. -Chào hàng: Là đề nghị của người bán cho người mua về một số hàng hoá muốn bán có kèm các điều khoản nhất định cần thiết. Chào hàng cũng không ràng buộc mua hàng. -Đặt hàng: Là lời đề nghị của người bán cho người mua dưới hình thức đơn đặt hàng. Nếu đã có báo giá của người bán thì việc người mua đặt hàng đánh dấu việc hợp đồng chính thức hình thành. -Hoàn giá: Khi nhận được đơn đặt hàng hoặc đặt hàng, nếu không chấp nhận hoàn toàn nội dung trong đó thì một trong hai bên sẽ đưa ra đề nghị mới gọi là hoàn giá và chào hàng cũ coi như bị huỷ bỏ. -Chấp nhận: Là việc đồng ý hoàn toàn với chào hàng hoặc báo giá đó. Việc chấp nhận này phải được người chấp nhận ký và ghi rõ sự chấp nhận hoàn toàn vô điều kiện cuả mình và gửi cho người chào hàng thì mới có giá trị pháp lý. -Xác nhận: Là sự khẳng định lại thoả thuận giữa bên bán và bên mua. Việc đàm phán và ký kết hợp đồng có thể đầy đủ các bước như trên hoặc bỏ qua một số bước tuỳ thuộc vào mối quan hệ. Mục đích của bất kỳ cuộc đàm phán đều là ký kết được hợp đồng. Thông thường nội dung của hợp đồng nhập khẩu gồm có: -Số hiệu hợp đồng -Ngày, địa điểm kí kết và thời hạn thực hiện hợp đồng -Địa chỉ các bên tham gia, quốc tịch, số điện thoại, số tài khoản, ngân hàng mở tài khoản -Các điều khoản của hợp đồng: +Tên hàng, quy cách, số lượng, chất lượng, bao bì, kí mã hiệu. +Thời hạn, địa điểm, phương thức giao hàng. +Thủ tục thanh toán, phương thức, đồng tiền thanh toán. +Giải quyết tranh chấp, khiếu nại nếu có và luật áp dụng. +Các điều khoản khác. 3. Tổ chức và thực hiện hợp đồng nhập khẩu: Sau khi ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng hoá các doanh nghiệp phải tiến hành các bước để thực hiện hợp đồng theo trình tự thể hiện qua sơ đồ sau: Đăng ký mã số nhập khẩu Mở l/c khi bên bán yêu cầu Thuê tàu (nếu giá FOB) Nhận, kiểm tra hàng Thanh toán Làm thủ tục hải quan Mua bảo hiểm( Nếu giá FOB) 3.1. Đăng kí mã số hàng nhập khẩu: Nghị định NĐ 57-CP ra ngày 31/07/1998, các doanh nghiệp được phép nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề ghi trong giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, sau khi đã đăng ký mã số tại cục Hải quan tỉnh, thành phố sẽ không phải xin giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu tại Bộ Thương mại như trước kia. Như vậy, để được nhập khẩu hàng hoá, doanh nghiệp chỉ cần đăng kí mã số tại Tổng cục Hải quan trong giới hạn hạn ngạch được cấp. 3.2. Mở L/C khi bên bán yêu cầu: Khi bên bán yêu cầu mở L/C thì mới giao hàng, người nhập khẩu sẽ uỷ quyền cho Ngân hàng của mình mở L/C thanh toán cho phía nước ngoài. 3.3. Thuê tàu vận chuyển: Nếu nhập khẩu theo giá FOB thì người bán sẽ phải trả chi phí thuê tàu, dỡ hàng. Nhưng tại Việt nam với nhiều lí do mà thường nhập khẩu theo giá CIF. 3.4. Mua bảo hiểm hàng hoá: Để đảm bảo an toàn cho hàng trong trường hợp nhập khẩu với điều kiện FOB người nhập khẩu phải mua bảo hiểm cho khách hàng. 3.5. Thanh toán: Có nhiều hình thức thanh toán hàng quốc tế nhưng phổ biến nhất là phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ. Theo phương thức này, người nhập khẩu sẽ tiến hành thanh toán tiền cho ngân hàng khi nhận được bộ chứng từ hợp lệ về hàng nhập khẩu. Nếu có vấn đề vướng mắc thì người nhập khẩu trả lại bộ chứng từ và dừng việc thanh toán tiền hàng. Bộ chứng từ gồm: vận đơn (B/L), giấy phép Hải quan, thẩm định hàng hoá,...và nó là căn cứ để nhận hàng từ chủ tàu. Đối với phương thức thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) hiện nay, sau khi thực hiện các thủ tục đã mở L/C ở bước 3.2, bên nhập khẩu sẽ ký hậu vào vận đơn khi ngân hàng có giấy báo gửi đến về việc nhận được bộ chứng từ. Sau khi tài khoản tại ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán, ngân hàng sẽ giao bộ chứng từ cho người nhập khẩu để tiến hành kiểm tra chứng từ có hợp lệ hay không, nếu phù hợp thì kí hối phiếu thanh toán cho ngân hàng. Ngân hàng nhận được tờ hối phiếu lập tức tiến hành kí hậu vận đơn và giao cho người nhập khẩu làm thủ tục Hải quan. 3.6. Làm thủ tục Hải quan: Khi vượt qua biên giới, hàng hoá phải được làm thủ tục Hải quan gồm: -Khai báo Hải quan: Chủ hàng phải kê khai chi tiết về hàng hoá lên tờ khai hải quan để cơ quan Hải quan kiểm tra thủ tục giấy tờ. -Xuất trình hàng hoá: Hải quan đối chiếu hàng hoá được khai trong tờ khai và thực tế để quyết định được phép nhập hay không. Do đó, chủ hàng nên xếp hàng theo trật tự để dễ kiểm tra. -Thực hiện các quy định của Hải quan: Sau khi kiểm tra, đối chiếu, Hải quan sẽ đưa ra quyết định, quyết định này có tính cưỡng chế. Nếu chủ hàng vi phạm thì có thể bị truy tố trách nhiệm hình sự. 3.7. Nhận hàng và kiểm tra: Khi hàng về tới cảng, hải quan thông báo cho nhà nhập khẩu để họ mang tờ đơn thông báo hàng và vận đơn đó đã được ký hậu đến nộp phí vận chuyển sau đó nhận tờ giao hàng. Hàng hoá về đến cảng sẽ được bốc dỡ vận chuyển vào các kho hoặc bãi và người nhận tại đó, nếu thuê tàu chuyến thì nhận hàng tại cầu tàu. Nhà nhập khẩu sẽ cầm lệnh giao hàng đến kho hoặc bãi để nhận, thường có hai trường hợp: -Nhận hàng tại kho nếu hàng bán lẻ. -Nhận hàng tại bãi nếu là hàng hóa đóng trong các container. Sau khi đã nhận đủ hàng, người nhập khẩu sẽ tiến hành kiểm tra hàng hoá về quy cách, phẩm chất và tình hình thực tại của hàng hoá. Thông thường hai bên thoả thuận trước về cơ quan giám định hàng nhập khẩu. Nhân viên giám định mở kẹp chì hàng hoá trước sự chứng k._.iến của các bên để kiểm tra hàng hoá và ghi lại vào những văn bản giám định và nó có vai trò quan trọng khi có tranh chấp về chất lượng hay thiếu hụt hàng hoá. 4. Tổ chức khiếu nại và giải quyết tranh chấp (nếu có): Khi xảy ra vi phạm về các điều khoản gây thiệt hại cho một trong hai bên thì bên kia có quyền kiện. Căn cứ để đơn vị nhập khẩu bảo vệ lợi ích của mình gồm: -Nội dung hợp đồng. -Kết quả thực hiện hợp đồng. Lúc đầu thông qua biện pháp tự hoà giải. Nếu không được thì sẽ đệ đơn lên trọng tài quốc tế hoặc toà án. Tại đây sẽ sử dụng luật hoặc tập quán quốc tế để giải quyết nhằm đảm bảo quyền lợi cho bên bị thiệt hại. IV. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu Mọi hoạt động đều chịu tác động của các yếu tố thuộc môi trường xung quanh. Nó có thể là yếu tố tác động trực tiếp, có thể là yếu tố tác động gián tiếp, bao gồm cả yếu tố khách quan cũng như yếu tố chủ quan. Hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng đều chịu sự chi phối của các nhân tố bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Các nhân tố này thường xuyên biến đổi qua các giai đoạn khác nhau. Vì vậy cần phải nghiên cứu kỹ các nhân tố để hạn chế tối thiểu những tiêu cực và phát huy những nhân tố tích cực đem lại hiệu quả hoạt động nhập khẩu cho doanh nghiệp. 1. Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp: 1.1. Chế độ chính sách và luật pháp: Mỗi quốc gia đều có chính sách nhằm đưa mọi hoạt động vào khuôn khổ và phục vụ mục đích lâu dài của mình. Rõ ràng hoạt động ngoại thương, một hoạt động khá phức tạp, có tác động rất lớn đến quan hệ đối ngoại nói chung cũng như kinh tế đối ngoại. Các chủ thể hoạt động kinh doanh luôn luôn phải tuân thủ quy định và luật pháp, những qui định có tính cưỡng chế. Nguồn luật ở đây gồm có: luật nước nhập khẩu, luật nước xuất khẩu, luật nước thứ ba và các tập quán quốc tế. Môi trường pháp lý tác động khá mạnh đến hoạt động này, nếu nó ổn định, đồng bộ, hoàn thiện thì sẽ giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có cơ sở vững chắc chủ động nhằm thực hiện được nguyên tắc trong quan hệ kinh tế đối ngoại đó là: bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi. Mục tiêu, chiến lược được đề ra thông qua các chính sách. Mỗi giai đoạn, thời kỳ, chính sách khác nhau để phục vụ vì lợi ích quốc gia. Trong hoạt động ngoại thương chính sách hoạt động quản lý của mỗi nước có những đặc trưng riêng. Có những nước tập trung vào công cụ thuế quan, có những nước lại tập trung vào công cụ phi thuế quan, hạn nghạch, ngoại tệ,... Tất cả các công cụ trên đều nhằm mục đích nhập khẩu phải bảo đảm phát triển kinh tế và ổn định đời sống nhân dân. Đứng ở một góc độ nào đó chắc chắn các doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng, có thể là khuyến khích nhập khẩu nhưng cũng có thể là hạn chế nhập khẩu. Do đó các doanh nghiệp cần phải hiểu rõ những chính sách quản lý nhập khẩu của Nhà nước. Kinh doanh nhập khẩu thường phải sử dụng ngoại tệ, chủ yếu là các ngoại tệ mạnh trong thanh toán. Do đó chính sách tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng khá lớn đến hoạt động này. Tỷ giá là cơ sở để xác định được giá cả hàng hoá trong nước so với giá trên thị trường quốc tế. Khi mục đích hoạt động ngoại thương khác nhau chính sách tỷ giá sẽ thay đổi cho phù hợp, tất nhiên sự thay đổi này cần phải dựa vào nhiều yếu tố. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải theo dõi, cân nhắc để đưa ra quyết định nên nhập hay hạn chế. Nền kinh tế các nước hiện nay phụ thuộc vào nhau khá lớn thể hiện ở độ mở, các tổ chức kinh tế quốc tế, các quốc gia tham gia tích cực nhằm tìm kiếm lợi ích. Ngày nay xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động đồng thời phát huy những lợi thế của mình, của quốc gia, của khu vực. 1.2. Sự biến động của thị trường trong nước và nước ngoài: Hoạt động kinh doanh luôn phụ thuộc vào thị trường. Hoạt động nhập khẩu không chỉ chịu sự biến động thị truờng trong nước mà còn chịu sự biến động của thị trường nước ngoài. Sự ảnh hưởng của thị trường nước ngoài thể hiện ở lượng cung, còn thị trường trong nước ảnh hưởng đến lượng cầu, nếu cung cầu không được cân đối thì chiến lược kinh doanh cũng như lợi nhuận sẽ bị tác động. Các xu hướng kinh tế, chính trị, chính sách bảo hộ, mở cửa,...ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa các đối tác làm cho lượng cung cấp bị giảm sút. Ngoài ra, khủng hoảng kinh tế, tài chính, bất đồng về kinh tế chính trị,... đều ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh nhập khẩu. Trước khi bước vào hoạt động kinh doanh các bên cần phải xác định được nhu cầu về mặt hàng trong nước như giá cả, chất lượng, số lượng đồng thời phải tìm kiếm đối tác nước ngoài về khả năng cung cấp có đáp ứng được nhu cầu trong nước không. Tiềm lực về tài chính của doanh nghiệp nước ngoài ra sao để có thể hỗ trợ rủi ro về chất lượng, tạo uy tín cho mặt hàng mình kinh doanh được lâu dài và quan trọng nhất là khả năng sản xuất của bên nước ngoài để doanh nghiệp có thị trường nhập khẩu ổn định và có lợi do quan hệ lâu dài. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh mạnh mẽ của các doanh nghiệp sản xuất trong nước đòi hỏi họ phải rất chú ý đến những điểm mạnh của mặt hàng nhập khẩu. 1.3. Hệ thống tài chính, ngân hàng: Vai trò của hệ thống tài chính, ngân hàng ngày càng lớn trong nền kinh tế. Nó đóng một vai trò quan trọng trong việc quản lý, cung cấp vốn, bảo đảm việc thanh toán một cách thuận tiện và nhanh chóng cho các doanh nghiệp. Hoạt động ngoại thương không thể thiếu được hệ thống này. Kinh doanh nhập khẩu cũng vậy, với vai trò của người bảo lãnh, bảo đảm về mặt lợi ích, ngân hàng sẽ giúp nhà nhập khẩu thực hiện nghiệp vụ nhanh chóng hơn. Ngoài ra ngân hàng còn giúp cho doanh nghiệp có được khoản tiền để trợ giúp về vốn cho nhà nhập khẩu. Hệ thống thông tin do ngân hàng cung cấp cho khách hàng là rất quan trọng, nó bao gồm kinh nghiệm tài chính, sự biến động thị trường thế giới,...Do đó ngân hàng phải đủ mạnh thì mới có đủ uy tín bảo lãnh trước đối tác nước ngoài, là nhà cố vấn trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của các doanh nghiệp. 1.4. Trình độ cơ sở hạ tầng: Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống tài chính ngân hàng và sân bay bến cảng. Mọi hoạt động liên quan đến kinh tế đều cần tới cơ sở hạ tầng tốt bởi vì nó sẽ giảm được chi phí trong kinh doanh. Cơ sở hạ tầng cấp quốc gia, mang tính chất lâu dài Nhà nước cần đầu tư mạnh và có thể phối hợp với các doanh nghiệp nhằm nhanh chóng đưa vào hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho công việc kinh doanh. 2. Nhân tố bên trong doanh nghiệp: Nhân tố khách quan tác động làm cho doanh nghiệp ở vào thế bị động nhiều hơn, điều này buộc doanh nghiệp phải xoay chuyển tình hình kinh doanh cho phù hợp với mình, đôi khi việc này đã làm cho họ bị thất thiệt. Còn các nhân tố bên trong doanh nghiệp là những yếu tố mang tính chủ quan của nhà nhập khẩu điều hành cho phù hợp với mục đích kinh doanh của mình. 2.1. Nhân tố bộ máy quản lý: Đây chính là sự tác động trực tiếp của cán bộ lãnh đạo đối với nhân viên nhằm điều hành hoạt động được hợp lý, nhịp nhàng. Quản lý nhân sự là vấn đề khá nhạy cảm, yêu cầu phải có bộ máy quản lý khá mạnh, phù hợp để phân công lao động một cách hợp lý với năng lực của từng người nhằm đẩy mạnh hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhân tố chủ yếu bên trong gồm: 2.2. Nhân tố con người: Nhân tố con nguời luôn được coi là quan trọng hàng đầu bởi vì mọi hoạt động đều do con người điều hành, quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Vì vậy, để đảm bảo được lợi ích của công nhân viên cũng như phát huy nhân tố con người trong doanh nghiệp thì cần phải có chế độ khen thưởng, kỷ luật rõ ràng đồng thời luôn nâng cao, bồi dưỡng nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu kinh doanh. 2.3 Nhân tố mạng lưới kinh doanh: Mục tiêu của hoạt động kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận. Giậm chân tại chỗ có nghĩa là “chết”. Do đó phải luôn mở rộng hoạt động kinh doanh thông qua mạng lưới kinh doanh. Thị trường luôn biến đổi, mở rộng mạng lưới kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp phát hiện kịp thời nhu cầu và hướng hoạt động kinh doanh của mình có hiệu quả. 2.4. Nhân tố về vốn: Vốn là vấn đề đầu tiên khi bước vào hoạt động kinh doanh, vốn quyết định đến quy mô của doanh nghiệp và thể hiện thông qua tiềm lực tài chính. Tất nhiên không phải hiệu quả kinh doanh là do vốn quyết định hoàn toàn nhưng nó sẽ có tác dụng nhất định giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Các chỉ tiêu đánh giá về vốn gồm có: tốc độ tăng trưởng của vốn, tốc độ vòng quay của vốn. Trong hoạt động nhập khẩu lượng vốn bỏ ra khá lớn và nhiều lúc lãi cũng tỷ lệ thuận với lượng vốn bỏ ra kinh doanh. Chính vì vậy, các doanh nghiệp luôn phải chú ý đến vấn đề bảo toàn và phát triển nguồn vốn kinh doanh. V. Quan điểm của Đảng và nhà nước về cơ chế quản lý đối với hoạt động nhập khẩu Mỗi giai đoạn, quan điểm về hoạt động kinh tế có khác nhau mặc dù nó luôn có quy luật vận hành, kinh tế gắn liền với các chính sách khác, đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực đối ngoại. Hệ thống tổ chức quản lý thương mại quốc tế trong nền kinh tế quốc dân của Việt nam từng thời kỳ có đặc điểm, tính chất riêng phù hợp với yêu cầu, chiến lược phát triển đất nước. *Thời kỳ 1955-1975: Trong thời kỳ này, hoạt động xuất nhập khẩu Miền Bắc chủ yếu phục vụ cho công cuộc khôi phục kinh tế, xây dựng hậu phương giải phóng Miền nam. Mặc dù đã chú trọng đến kinh tế đối ngoại nhưng do yêu cầu chính trị hoạt động ngoại thương chỉ chú trọng vào các nước XHCN, mục tiêu kinh tế bị thu hẹp nên hoạt động này cũng kém phần đa dạng, phong phú, tính cạnh tranh bị thủ tiêu, các công cụ quản lý của nhà nuớc còn đơn giản. *Thời kỳ 1976-1986: Đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, cả nước tập trung vào công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế. Với chủ trương mở rộng và đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đã mang tính chất của một hoạt kinh tế vì mục tiêu lợi nhuận. Trước năm 1980, nhà nước quản lý theo nguyên tắc độc quyền về ngoại thương. Theo đó mọi hoạt động đối ngoại nói chung đều đặt kế hoạch bằng các chỉ tiêu pháp lệnh. Riêng kinh doanh thì do hệ thống các tổng công ty và các công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu thuộc Bộ Ngoại thương đảm nhiệm, Bộ này được giao hai chức năng: Chức năng quản lý về hoạt động ngoại thương và chức năng kinh tế. Các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu do nhà nước thành lập và quản lý thông qua một Bộ Ngoại thương. Với chức năng và nhiệm vụ này Bộ thường can thiệp quá sâu vào hoạt động của các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu làm mất đi tính năng động và sáng tạo, tính linh hoạt trong kinh doanh, không phát huy được lợi thế ở từng đơn vị. Dẫn đến thực tế là thương mại quốc tế nước ta chưa gắn với thương mại thế giới. Tuy là thành viên của khối SEV nhưng chưa tham gia mạnh mẽ nên hiệu quả rất thấp không thể khai thác lợi thế tối ưu về lao động và tài nguyên, chưa đa dạng đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới. Bước vào những năm đầu thập kỷ 80, nền kinh tế Việt nam lâm vào tình trạng khó khăn, bị phá vỡ nghiêm trọng, lạm phát gia tăng, nguồn vốn vay và viện trợ nước ngoài giảm sút. Kế hoạch hoá hoạt động xuất nhập khẩu kém hiệu lực, các cân đối kinh tế, tài chính và vật tư không được đảm bảo. Tình hình kinh tế thế giới đang có nhiều thay đổi trong khi cơ chế chỉ huy bộc lộ nhiều nhược điểm. Trước thực trạng đó, cơ chế quản lý thương mại quốc tế và chính sách kinh tế đối ngoại Việt nam cần có sự thay đổi. Do vậy, ngày 7/2/1980 Chính phủ ra Nghị định 40CP quy định chính sách và biện pháp nhằm phát triển hàng xuất khẩu. Trong đó Bộ ngoại thương và các cơ quan chuyên trách quản lý hoạt động quốc tế cùng các Bộ, UBND địa phương là cơ quan chủ quản của các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu, các xí nghiệp sản xuất được trực tiếp xuất khẩu. Các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu được phép xuất nhập khẩu các mặt hàng theo kế hoạch đăng ký tại Bộ kinh tế đối ngoại, họ có quyền tự quyết giá cả hàng xuất nhập khẩu trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh doanh. Trong thời kì này, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách và biện pháp quản lý đổi mới, phát huy quyền chủ động sáng tạo của các địa phương, tổ chức kinh tế kinh doanh xuất nhập khẩu,... Tuy nhiên, những đổi mới đó vẫn chưa vượt ra ngoài khuôn khổ của chế độ quản lý theo mô hình Nhà nước độc quyền Ngoại thương. *Thời kỳ 1986-nay: Giai đoạn này, Đảng và Nhà nước coi thương mại quốc tế là công cụ quan trọng trong quá trình thúc đẩy CNH đất nước, nhiều chính sách, biện pháp quản lý đã và đang hoàn thiện dần hệ thống quản lý và kinh doanh xuất nhập khẩu. Bộ Thương mại là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước thống nhất đối với hoạt động xuất nhập khẩu thông qua các vụ chuyên môn. Bộ còn phối hợp với các bộ khác như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục Hải quan, UBND địa phương theo chức năng của mình qui định, hướng dẫn các thủ tục liên quan. Tại khoản 3, Điều 8, Nghị định 57/1998/NĐ-CP, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo quy định của pháp luật, được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề kinh doanh đã ghi trong giấy chứng nhận kinh doanh sẽ không phải xin giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu tại Bộ thương mại. Ngoài ra quy định rõ các mặt hàng được phép xuất nhập khẩu. Nhu cầu cho CNH-HĐH đòi hỏi phải có máy móc hiện đại, các phụ gia, những sản phẩm trong nước chưa sản xuất được, chính vì vậy vai trò nhập khẩu khá quan trọng. Cùng với định hướng về phát triển kinh tế, quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với việc phát huy đúng vị trí của hoạt động nhập khẩu cũng chỉ ra: -Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế và hoạt động dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước. -Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động nhập khẩu. Tức là không chỉ chạy theo mục đích vì lợi nhuận mà bỏ qua lợi ích về xã hội, nên kết hợp giữa hai loại lợi ích như vừa thu được lợi nhuận vừa tạo công ăn việc làm,... -Đảng đảm bảo nguyên tắc ngoại thương và quan hệ kinh tế quốc tế. Trong hoạt động phải chú ý tới tạo uy tín không chỉ với bạn hàng cũ mà với cả bạn hàng mới trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. -Nhập khẩu có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy xuất khẩu. Các nguyên tắc trên được cụ thể hoá theo các nguyên tắc sau: -Sử dụng tiết kiệm ngoại tệ, hiệu quả kinh tế cao. -Giành ưu tiên cho hoạt động nhập khẩu thiết bị, tư liệu sản xuất đồng thời chú ý nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân. -Nhập khẩu phải thúc đẩy và bảo vệ sản xuất trong nước. -Phải kết hợp xuất khẩu và nhập khẩu tạo ra sự cân đối kim nghạch xuất nhập bù trừ cho nhau và tổng cộng có lãi. -Xây dựng thị trường nhập khẩu ổn định và lâu dài, vững chắc với những nguyên tắc trên. Nhà nước muốn đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu trên mọi mặt, từng bước tiến tới trình độ quốc tế. Bộ Thương mại là cơ quan Chính phủ thực hiện và thống nhất quản lý Nhà nước đối với mọi hoạt động kinh doanh nhập khẩu thuộc mọi thành phần kinh tế trong cả nước. Theo Nghị Định 89 CP, Bộ thương mại sẽ cấp giấy phép nhập khẩu đối với các mặt hàng và nhóm hàng cụ thể theo các chỉ tiêu chung của Nhà nước về xuất-nhập khẩu, quản lý hạn nghạch nhập khẩu. Sau khi có văn bản cho phép của Bộ thương mại đối với những hàng hoá (trong số những mặt hàng và nhóm hàng kể trên) doanh nghiệp đến cơ quan Hải quan làm thủ tục để nhập khẩu, không cấp giấy phép chuyến. Các cơ quan quản lý chuyên nghành, theo chức năng quản lý của mình thoả thuận với Bộ thương mại để trình. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và công bố công khai hàng năm danh mục các mặt hàng có xác nhận của cơ quan quản lý chuyên nghành trước khi nhập khẩu, đồng thời chỉ định cơ quan chức năng trực thuộc chịu trách nhiệm xem xét, chấp nhận đối với các đơn hàng nhập khẩu thuộc danh mục này. Tổng cục Hải quan chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát hàng hoá và thu thuế nhập khẩu, cung cấp kịp thời cho Bộ thương mại, Bộ Kế hoạch đầu tư, Tổng cục thống kê và văn phòng Chính phủ tình hình và số liệu nhập khẩu từng mặt hàng, theo định kỳ 10 ngày 1 lần của từng Bộ, từng tỉnh, thành phố, từng doanh nghiệp với từng nước. Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc chi ngoại tệ của các doanh nghiệp hoạt động nhập khẩu. Như vậy, cơ chế quản lý của Nhà nước là một cơ chế quản lý thống nhất, các cơ quan chức năng sẽ thực hiện các khâu quản lý dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính phủ. Các vấn đề khúc mắc, tồn tại, khó khăn xảy ra trong thực tế sẽ được Chính phủ đệ trình lên Quốc hội xem xét, giải quyết để có những chính sách mới nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu. VI. sự phát triển vàvai trò nhập khẩu của máy vi tính và phụ kiện máy vi tính 1. Sự phát triển của máy vi tính, phụ kiện máy vi tính: Hàng trăm loại máy tính khác nhau đã từng được thiết kế và chế tạo trong lịch sử. Với những tính năng hữu ích, ưu việt, cấu trúc của chúng ngày càng tiện lợi hơn nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao về tự động hoá. Người đầu tiên chế tạo chế tạo được chiếc máy vi tính hoạt động được là nhà khoa học Pháp Blaso Pascal (1623-1666), chiếc máy tính này chỉ làm được những phép tính cộng trừ. Bước sang thế kỷ 20, công nghệ thông tin phát triển rất mạnh, chính thế chiến thứ 2 đã kích thích sự ra đời của máy tính điện tử như Eniac, chiếc máy này đã gây ra sự bùng nổ về nghiên cứu chế tạo máy tính số lớn, đây là thế hệ máy tính thứ nhất-máy tính dùng đèn điện tử (1945-1955). Thế hệ thứ hai-máy tính dùng transistor (1955-1965), điển hình là TX-0, đây là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực máy vi tính. Thế hệ thứ 3-máy tính dùng mạng tích hợp (1965-1980): Việc phát minh ra mạch tích hợp (đôi khi gọi là mạch vi điện tử) cho phép đặt hàng chục transistor trong một vỏ (chíp). Điều này giúp người ta có thể chế tạo các máy tính nhỏ hơn và nhanh hơn máy tính thế hệ trước. Thế hệ thứ tư-dùng mạch VLSI và máy vi tính: Vào khoảng những năm1980, công nghệ vi điện tử có thể chế tạo các mạch tổ hợp ở mức độ cao VLSI, trong một chip có thể có hàng nghìn, hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu transistor, nhờ đó máy tính ngày càng nhỏ hơn, chạy nhanh hơn và rẻ hơn. Và đến năm 1980 giá máy tính xuống thấp tới mức “vừa túi’ của một cá nhân. Kỷ nguyên của máy vi tính cá nhân đã bắt đầu. Hiện nay người ta chia máy tính số một cách tương đối làm 5 loại, dựa trên kích thước vật lý, hiệu suất và lĩnh vực ứng dụng -Microcomputer: Là những máy tính để bàn, xách tay, thường gọi là PC, có một chíp vi xử lý và một số thiết bị ngoại vi như màn hình, bàn phím, máy in,...thường dùng cho một người, chức năng loại này nổi bật là xử lý văn bản. Ban đầu chúng được thiết kế cho người sử dụng độc lập, tuy nhiên xu hướng nối các PC vào các mạng máy tính đã trở nên rất phổ biến. -Minicomputer: là loại máy cỡ trung bình thường có kích thước lớn hơn loại trên và sự tiện ích kém hơn so với Mainframe. Nó thường được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng thời gian thực như trong điều khiển không lưu, trong tự động hoá sản xuất. Nó cũng được nối với các Mainframe để thực hiện các thao tác hỗ trợ cho Mainframe. -Supermini: Là những máy Minicomputer có tốc độ xử lý nhanh nhất trong họ Mini ở những thời điểm nhất định. Nó thường được sử dụng trong các hệ thống phân chia thời gian như máy quản gia của mạng, trong các ứng dụng giao tiếp,... -Mainframe: Một supermini thường có vài đĩa ổ đĩa cứng 1GB, còn Mainframe có thể có hàng trăm. Mainframe thường được sử dụng trong chế độ Large-Batch-Job hoặc Transaction Procesing, ví dụ như trong ngân hàng, đặt vé máy bay. -Supercomputer: đây là những máy tính được thiết kế đặc biệt để đạt tốc độ cao nhất có thể được, chúng thường chỉ hoạt động có hiệu quả cao trong một số lĩnh vực chẳng hạn như dự báo thời tiết. Sự phát triển đến chóng mặt về tốc độ xử lý thông tin, cứ sau 18 tháng tốc độ xử lý của máy vi tính lại tăng gấp đôi, kéo theo là giá của mỗi chiếc máy vi tính cũng giảm xuống và cơ hội cho mỗi cá nhân được sử dụng tăng lên. Ngày nay, sự phát triển của mạng, cấu trúc máy tính ngày càng được tinh giản gọn nhẹ, có tính tích hợp và sẵn sàng cho thương mại điện tử, yêu cầu phải có các cạc mạng, modem, trong nối mạng từng máy tính không thể thiếu những phụ kiện này. Ngoài ra, mỗi máy vi tính đều phải có bàn phím, màn hình, máy in,..., nó có nhiệm vụ làm phương tiện thông tin giữa hệ thống vi xử lý và con người. Với bất cứ đồ dùng nào cũng vậy, thời gian sử dụng dài sẽ làm các bộ phận bị hỏng, do đó việc thay thế luôn được coi là cần thiết, và phụ kiện máy vi tính luôn được cải tiến để phù hợp với tốc độ xử lý của máy vi tính, chẳng hạn hãng Sam sung đã đưa ra loại màn hình tinh thể lỏng, kiểu dáng của các phụ kiện được cải tiến nhằm tạo sự tiện lợi cũng như cạnh tranh về hình thức và giá. 2. Vai trò nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính: Sự phát triển mạnh mẽ của Công nghệ thông tin (CNTT) đã tác động rất lớn đến mọi hoạt động của con người. Xu hướng tự động hoá trong sản xuất, công tác quản lý cần được vi tính hoá, nâng cao trình độ sử dụng máy móc hiện đại và quan trọng nhất trong thời kỳ hiện nay là tiếp nhận thông tin để xử lý kịp thời và chính xác nhất. Không phải nước nào cũng có được nền công nghệ phát triển với những sản phẩm tinh vi, hiện đại, điều này còn thể hiện rõ nét nhất ở các nước đang phát triển, nơi mà nhu cầu thông tin vô cùng cấp bách, đang thực hiện chiến lược CNH-HĐH, có nghĩa rằng nhu cầu về các máy móc hiện đại phù hợp với tình hình trong nước nhưng khả năng để sản xuất loại này thì không thể. Việc thực hiện R&D đối với những công nghệ nằm ngoài khả năng của mình trong hiện tại thì tốt nhất là nhập khẩu để rồi cải tiến sao cho phù hợp với khả năng nhất định của mình. Trên thế giới những nước sản xuất loại máy móc tinh vi như vậy chủ yếu là các nước phát triển và những nước thuộc nhóm NICs. Thế giới phát triển mạnh mẽ, không bắt kịp với sự biến đổi đó sẽ coi như đứng ngoài thời cuộc và chìm trong lạc lõng, trở nên tụt hậu-điều mà các quốc gia không bao giờ muốn. Đối với Việt nam, các loại mặt hàng này còn khá mới mẻ, đến đầu thập kỷ 90 thế kỷ 20, mặt hàng máy vi tính mới thực sự xuất hiện tại Việt nam. Bắt kịp với sự phát triển của thế giới, Việt nam đã dần dần tìm hiểu, khai thác các tính năng tiện ích của máy vi tính phục vụ cho mục tiêu của công việc. Trong vòng 5 năm trở lại đây, nhu cầu sử dụng mặt hàng này ở Việt nam là rất lớn và không ngừng tăng lên. Theo đánh giá của IDC năm 1996 thị trường tin học Việt nam đạt khoảng 267,2 triệu USD, tăng 58% so với năm 1995, gấp 2,23 lần mức tăng trưởng của khu vực và tăng gấp 3,41 lần so với mức tăng chung của thế giới. Đến năm 1999 đạt 400 triệu USD. Thị trường tin học Việt nam chiếm 0,7 thị trường tin học thế giới và chiếm 1,9% thị trường khu vực Châu á-Thái bình dương. Tổng số máy vi tính lắp đặt khoảng 320.000 chiếc và chủ yếu máy nhập về là dùng để bàn, chiếm 94% và tăng 56% so với mức tăng của khu vực là 25%. Phụ kiện máy vi tính cũng bắt đầu tăng nhanh cho cả lắp ráp và thay thế. Hầu như tất cả các cơ quan đều dùng máy vi tính, sử dụng vào lập trình, kế toán, kiểm toán, quản lý, đào tạo,... Qua đó ta thấy nhu cầu rất lớn nhưng hiện tại ở Việt nam chưa có một doanh nghiệp nào sản xuất được mà chỉ nhập linh kiện để lắp ráp mà số lượng lắp ráp thì quá nhỏ so với nhu cầu. Hiện nay, với công nghệ thấp nên cho dù Việt nam sản xuất được thì cũng không đủ khả năng cạnh tranh với hàng ngoại nhập. ý thức đuợc điều này, Việt nam đã nhanh chóng cho nhập những loại máy vi tính nổi tiếng như IBM, COMPAQ,...tránh nhập hàng bãi, hàng cũ. Chính điều nổi bật này giúp ngành Bưu chính Viễn thông Việt nam được coi là hiện đại bậc nhất của Châu á, giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt được thông tin, tìm được các đối tác trong cũng như ngoài nước. Đó là yếu tố cơ sở hạ tầng giúp Việt nam thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài. Trong quản lý, tin học là điều kiện không thể thiếu, nó giúp hệ thống quản lý công cộng của Việt nam khá quy củ. Ngoài ra, tại Việt nam lĩnh vực CNTT được hết sức chú ý và có xu hướng ngày càng phát triển. Nhập khẩu các linh kiện để lắp ráp đáp ứng nhu cầu trong nước và tiến tới sản xuất thiết bị tin học mang nhãn hiệu Việt nam. Nhu cầu phụ kiện máy vi tính không chỉ phục vụ cho lắp ráp mà phục vụ cho cả sử dụng. Những năm qua, lượng hàng điện tử nhập về lớn, đặc biệt hàng có hàm lượng công nghệ cao, máy vi tính và phụ kiện máy vi tính là một trong số đó. Loại mặt hàng này tồn đọng nhìn chung là ít có nghĩa rằng nhu cầu được đáp ứng kịp thời. Việt nam với mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, cần phải nỗ lực tiếp thu, học hỏi từ bên ngoài và tìm hướng đi phù hợp nhất phục vụ cho nhu cầu của mình. Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty FPT Trong thời gian qua I. KháI quát chung về công ty 1. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển: 1.1. Lịch sử hình thành: Xuất phát từ yêu cầu và nhiệm vụ của công cuộc xây dựng đất nước trong giai đoạn mới, sau Đại hội Đảng lần thứ VI Đảng xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, toàn xã hội phải tập trung mọi nỗ lực để đảm bảo nuôi sống xã hội. Mặt khác, nhóm sáng lập của công ty, một nhóm các nhà khoa học, mong muốn phát triển các công nghệ mới như công nghệ sấy, công nghệ tin học, tự động hoá. Ngày 13 tháng 9 năm 1989, Công ty Công nghệ và Chế biến Thực phẩm được thành lập theo quyết định số 80-88 QĐ/VCN do Viện Trưởng Viện Công Nghệ Quốc gia ký. Tên giao dịch Quốc tế : Food Procesing Technology Tên viết tắt: : FPT Văn phòng tại : 30-Hoàng Diệu Ngày mới thành lập công ty chỉ có 13 người, cơ sở vật chất nghèo nàn. Là một công ty nên cương lĩnh điều lệ được ra đời ngay từ khi thành lập, trong đó có một nguyên tắc đáng chú ý: “FPT mong muốn trở thành một tổ chức kiểu mới, hùng mạnh bằng nỗ lực sáng tạo trong khoa học kỹ thuật và công nghệ, góp phần hưng thịnh quốc gia, đem lại cho mỗi thành viên của mình điều kiện phát triển đầy đủ nhất về tiềm năng, một cuộc sống đầy đủ vật chất và tinh thần”. Song song với soạn thảo là sáng tác Logo. Những ngày đầu mới thành lập, FPT là một đơn vị liên kết giữa Viện Khoa học Việt nam với Viện Cơ học thuộc Viện Khoa học Việt nam với hoạt động chính là nghiên cứu và triển khai sản xuất kinh doanh đồng thời phối hợp với nhau để thực hiện hợp đồng trao đổi vật tư thiết bị với Viện Hàn lâm Khoa học Liên xô (cũ) mà chủ yếu là máy vi tính. Ngày 27 tháng 10 năm 1990, công ty quyết định đổi tên thành Công ty Phát triển Đầu tư Công nghệ để phù hợp với phương châm hoạt động mà FPT đề ra từ những ngày đầu thành lập. “Công nghệ là mối quan tâm hàng đầu của FPT, công ty không chỉ cung cấp cho khách hàng phần cứng mà cả phần mềm, giải pháp tổng thể và dịch vụ hoàn hảo”. Năm 1996 FPT rời trụ sở về 89-Láng hạ, Hà nội. Tên giao dịch quốc tế: The Corporation for Financing and Promoting Technology Viết tắt : FPT Trụ sở chính : 89-Láng hạ-Hà nội FPT là doanh nghiệp nhà nước, có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng. 1.2. Quá trình phát triển: Trải qua 13 năm tồn tại và phát triển, từ một doanh nghiệp vật chất hầu như không đáng kể đã vươn lên trở thành một doanh nghiệp nổi bật trong hoạt động kinh doanh. Trải qua các biến động của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt nam, FPT cũng có vấp váp và thành công, từ cái vấp váp đó để công ty có thể nhận ra được phương hướng cho hoạt động của mình. Ngay từ năm 1989, công ty đã có văn phòng đại diện tại Matxcơva đồng thời ký và thực hiện hơp đồng máy vi tính lớn với Viện Hàn lâm Khoa học Liên xô (cũ). Ngoài ra xây dựng thị trường tin học trong nước. Do nhu cầu về mặt hàng ngày càng tăng, hoạt động kinh doanh cần phải được mở rộng, đến năm 1990 FPT Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập, bộ phận này hoạt động khá hiệu quả. Các năm tiếp theo liên tục kí kết hợp đồng đại lý với các doanh nghiệp sản xuất máy tính lớn trên Thế Giới như Olivetti, IBM, Compaq. Ngoài ra, thành công còn thể hiện trong việc công bố sản phẩm phần mềm phục vụ kế toán, ngân hàng. Với hoạt động ngày càng mở rộng, một loạt các đơn vị nòng cốt được thành lập: Phòng tài vụ, trung tâm hệ thống thông tin, xí nghiệp giải pháp phần mềm, trung tâm máy tính và thiết bị văn phòng, trung tâm phân phối máy tính và thiết bị văn phòng vào năm 1994. Đối với công ty, năm 1995 là năm đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động đối ngoại, đó là lần đầu tiên FPT xuất khẩu phần mềm. Đến năm 1996, mạng Trí tuệ Việt nam ra đời, FPT trở thành nhà cung cấp dịch vụ và thông tin Internet đầu tiên của Việt nam. Ba năm liên tục 1998, 1999, 2000 FPT được bạn đọc báo PCWord bình chọn là công ty tin học có uy tín nhất. Năm 1999, 2000 được Bộ Thương mại tặng bằng khen về thành tích xuất khẩu phần mềm. Năm 1999, 2000 lần lượt đặt văn phòng thương mại tại ấn độ và Mỹ nhằm hướng vươn ra thị trường nước ngoài với việc xuất khẩu phần mềm. Bước đầu đã có thành công nhất định. Bên cạnh đó FPT cũng đã ký những thoả thuận với các trường đào tạo CNTT, tin học như đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Hà nội, liên kết với ấn độ thành lập trung tâm đào tạo lập trình viên Quốc tế để có được những nhân tài trong lĩnh vực công nghệ thông tin Thành tích xuất sắc nhất là ngày 17/02/2000, FPT đã nhận chứng chỉ ISO 9001 phiên bản 1994 do BVQI cấp và ngày 17/04/2001 FPT là công ty tin học đầu tiên ở khu vực Đông Nam á nhận chứng chỉ ISO 9001 phiên bản 2000 cũng do công ty chuyên cấp chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế của Anh BVQI. Đây chính là nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn thể cán bộ công nhân viên của FPT, cho biết chất lượng của công ty mang tầm cỡ quốc tế mà không phải doanh nghiệp nào cũng đạt được. 2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của công ty FPT: 2.1. Chức năng: FPT là một công ty thương mại và chuyển giao công nghệ (CGCN) có chức năng nghiên cứu, triển khai, chuyển giao công nghệ, sản xuất các chương trình phần mềm, lắp đặt các thiết bị văn phòng, làm đại lý cho các nhà sản xuất máy tính hàng đầu thế giới. Là một đơn vị kinh tế quốc doanh, công ty luôn thực hiện các chức năng chủ yếu của mình thông qua các kế hoạch nhà nước đặt hàng, các hợp đồng nghiên cứu và các chương trình nghiên cứu công nghệ của Nhà nước. Trong quá trình thực hiện, công ty có thể thực hiện liên doanh với các đơn vị kinh doanh trong và ngoài n._.n chuyên trách về nghiên cứu thị trường quy về một đầu mối hoạt động để bổ sung cập nhật thông tin và phân loại thị trường chính xác hơn, phù hợp hơn với điều kiện của công ty trong từng thời kỳ. FPT cần có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với những cán bộ nghiên cứu thị trường, tiếp tục đẩy mạnh đào tạo nâng cao và chuẩn hoá trình độ của họ về trình độ chuyên môn và ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp, đặc biệt trong việc xử lý, phân tích các thông tin thu nhận được. Cần thường xuyên có các buổi tổng kết đánh giá hoạt động nghiên cứu thị trường và các phương án chiến lược đề ra để tìm được nguyên nhân thành công hoặc thất bại mà có biện pháp chấn chỉnh, khen thưởng kịp thời những cán bộ đưa ra sáng kiến có giá trị, có tính khả thi cao. Không ngừng mở rộng hệ thống các đầu mối thu thập thông tin cả ở thành phố và các khu vực xa trung tâm, những khu vực có nhu cầu lớn về máy tính như các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao,... Cần có chế độ đãi ngộ thoả đáng cho cán bộ thu được thông tin có giá trị cao. Trong nghiên cứu thị trường, cần chú trọng đến nghiên cứu thị trường khu vực và thế giới, thị trường của các đối tác mà công ty nhận làm đại lý để có thể có được các kế hoạch khuyếch trương, quảng cáo cho phù hợp với từng sản phẩm, mặt hàng của từng hãng kinh doanh tránh tình trạng quảng cáo chung, đánh đồng các loại mặt hàng. Hiện tại mặt hàng máy vi tính và phụ kiện nhập chủ yếu từ các nước trong khu vực, có nghĩa rằng lượng cung phụ thuộc vào thị trường này, một biến động nhỏ cũng gây xáo trộn tới tình hình nhập khẩu của công ty. Thị trường nước nào ổn định hơn, khu vực địa lý thuận lợi hơn thì công ty sẽ có lợi hơn. Nhận xét được những thị trường nhập khẩu có triển vọng và cắt bớt thị phần kém hấp dẫn. Sắp xếp thứ tự thị trường đã lựa chọn để từ đó có chế độ ưu tiên thích hợp. Trong việc sắp xếp này phải quan tâm đến nhiều mặt hàng về điều kiện kinh tế, thái độ chính trị, luật pháp,...Có thể sắp xếp thứ tự thành những bảng điểm cho từng yếu tố, sau đó tập hợp lại theo điểm từ trên xuống dưới từng thị trường. Thông qua nghiên cứu thị trường nhập khẩu, công ty nắm bắt đầy đủ về giá cả hàng hoá, mức giá cho từng điều kiện mua bán và phẩm chất hàng hóa, khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của các công ty cạnh tranh, các hoạt động dịch vụ cho hàng hoá như bảo hành, cung cấp phụ tùng, hướng dẫn sử dụng,...Đồng thời nắm bắt được tình hình kinh doanh mặt hàng đó trên thị trường, nắm bắt được các yếu tố khác như luật pháp, tập quán buôn bán quốc tế để hoà nhập với thị trường nhanh chóng có hiệu quả, tránh được những sơ suất trong giao dịch buôn bán. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu cũng giúp cho FPT nắm vững được thị trường và các nhân tố ảnh hưởng trong từng thời kỳ để có những quyết định kịp thời, chính xác, nhanh chóng chớp được thời cơ giao dịch và đạt được kết quả cao nhất. Ngoài ra, công ty có điều kiện nắm bắt thông tin thị trường trọng điểm để có chiến lược kinh doanh thích hợp. Hiện đại hoá trang thiết bị mà cán bộ nghiên cứu thị trường sử dụng trong quá trình làm việc như các phương tiện: lấy tin, thống kê và phân tích thông tin,... Trong thời gian tới, nhu cầu tin học ở Việt Nam sẽ tăng nhanh chóng, công ty nên đẩy mạnh thực hiện một số biện pháp mới như điều tra thực tế, phương pháp chuyên gia, phương pháp toán kinh tế đồng thời hoàn thiện hơn phương pháp tổng hợp đơn hàng. 1.2. Xây dựng và duy trì tín nhiệm đối với khách hàng: Trong kinh doanh, uy tín là điều hết sức quan trọng đặc biệt đối với những doanh nghiệp lớn, nó có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại của họ. Xây dựng được chữ tín đã khó, giữ được nó lại càng khó hơn. Ngày nay, sự cạnh tranh đôi lúc là không lành mạnh tác động đến uy tín của các doanh nghiệp và có thể gây tổn hại cho những doanh nghiệp làm ăn chân chính. Uy tín ở thị trường trong nước mới là một phần, phải giữ uy tín đối với những đối tác nước ngoài tạo cho họ có được sự tin tưởng và sẵn sàng hợp tác ngay cả lúc khó khăn. Xét ở khía cạnh nào thì khách hàng cũng là thượng đế nên đòi hỏi của họ cần phải được thỏa mãn, gây được lòng tin cho họ là cả một vấn đề. 1.2.1. Tạo dựng và củng cố tín nhiệm về chất lượng sản phẩm: Trên thị trường máy vi tính hiện nay có rất nhiều loại sản phẩm khác nhau được bán bởi các công ty máy vi tính khác nhau. Vì vậy người tiêu dùng luôn luôn đứng trước sự lựa chọn giữa các sản phẩm này nên FPT phải có chính sách hợp lý. Chính sách sản phẩm là công cụ cạnh tranh hết sức quan trọng. FPT là doanh nghiệp kinh doanh thương mại chuyên kinh doanh sản phẩm nhập khẩu chứ không phải sản xuất ra máy vi tính và phụ kiện máy vi tính. Do đó, công ty không thể tự mình tác động trực tiếp vào sản phẩm nhằm cải tiến chất lượng của nó được. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của khách hàng về chất lượng của sản phẩm thì đòi hỏi phải có sự khéo léo, sáng suốt trong việc lựa chọn các sản phẩm nhập khẩu để thoả mãn những đòi hỏi đó. Vì khi đó uy tín chất lượng sản phẩm của FPT dựa trên uy tín và chất lượng sản phẩm của các công ty nước ngoài cung cấp. Ngoài ra với nền sản xuất hiện đại và quá trình cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu với sự xuất hiện hàng ngày những sản phẩm mới, những nhu cầu mới nên các đối tác luôn đứng trước những thử thách to lớn trong việc nắm bắt và thích nghi với những trào lưu thời đại. Bất cứ hãng nào cũng có thể bị phá sản nếu không nắm bắt xu hướng thị trường. Sự thay đổi nhanh chóng của nhu cầu và sản xuất cũng nhanh chóng giết chết những sản phẩm công nghệ cũ mà máy vi tính lại là một trong những loại sản phẩm như vậy. Trong bối cảnh đó, thành công chỉ giành cho những ai nhanh nhạy và năng động. Không chỉ sản phẩm hoàn hảo là thành công mà phải biết nhìn xa trông rộng. Hai hãng máy tính lớn và chất lượng nổi tiếng của Mỹ mà FPT hiện nay làm đại lý là IBM, Compaq. Tuy nhiên cũng cần phải xem xét những đối tác mà công ty nhập khẩu phụ kiện máy vi tính từ các nước Đông Nam á do đây là những đối tác mới tham gia sản xuất loại mặt hàng mới này. Không phải xây dựng chiến lược quảng cáo, tiếp thị rầm rộ thì uy tín được nâng cao hơn. Nếu có sự cố nhỏ tác động xấu đến chất lượng mặt hàng đang kinh doanh thì phải có biện pháp kịp thời nhằm kìm chế sự lây lan tiếp theo của nó mà có thể chi phí gây thiệt hại là lớn. Khi người tiêu dùng trực tiếp không hài lòng với chất lượng sản phẩm thì một loạt hệ thống phân phối của FPT sẽ bị tác động do mới chỉ tập trung ở hai thành phố lớn, nơi mà sự cạnh khốc liệt và uy tín dễ dàng giảm sút nhanh chóng. Cần thông báo cho đối tác và từ đó họ sẽ có trách nhiệm khi giao sản phẩm có chất lượng cho công ty. Do xu thế phát triển chung của nền kinh tế, thu nhập của người tiêu dùng không ngừng được nâng cao. Điều này dẫn đến chất lượng tiêu dùng cũng được nâng cao hơn. Chính vì vậy đổi mới sản phẩm để tăng khả năng đáp ứng nhu cầu là hết sức cần thiết và không thể thiếu được. Công ty cần xác định mặt hàng nào kinh doanh sẽ đem lại lợi nhuận nhất cho mình. Trong tình hình hiện nay do khách hàng chính là các dự án lớn của Nhà nước thì có nên chăng chỉ nhập những mặt hàng có chất lượng cao và những máy tính model nhất. Hiện tại, FPT có hệ thống dịch vụ bảo hành và sửa chữa khá mạnh, công ty nên thường xuyên đầu tư vào hoạt động này hơn nữa bởi đây sẽ là lợi thế cạnh tranh của công ty và cũng nên tiến hành dán tem sản phẩm kết hợp với quảng cáo để đẩy mạnh ưu thế về chất lượng dịch vụ và bảo hành FPT. Mặc dù tin học của FPT chủ yếu là máy hiệu có chất lượng cao, tuy nhiên không thể không chú ý tới công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, bởi một sai sót về sản phẩm có thể làm uy tín công ty bị sụp đổ nhanh chóng. Nên thành lập văn phòng đại diện ở những nơi có nhiều đại lý để thuận tiện cho việc quản lý về chất lượng cũng như làm cơ sở giao dịch và buôn bán. Mặt hàng máy vi tính cần phải rất cẩn thận, do đó trong khâu vận chuyển và bốc dỡ phải lưu ý tránh hiện tượng chất lượng hàng hoá bị hư hỏng vì nguyên nhân có thể tránh được này. Công ty cần tìm hiểu những kinh nghiệm giành giật được uy tín về chất lượng sản phẩm, muốn vậy phải có cái nhìn bao quát, nhìn về tương lai do thị hiếu và nhu cầu biến đổi thừơng xuyên . Nếu không, uy tín của FPT sẽ sụp đổ với sự sụp đổ của đối tác, và ngược lại. 1.2.2. Tạo dựng và củng cố tác phong kinh doanh: Củng cố tác phong kinh doanh chính là củng cố tinh thần trách nhiệm đối với bạn hàng. Tinh thần trách nhiệm đối với bạn hàng là việc tuân thủ thời gian, tuân thủ hợp đồng. Đây là yếu tố quan trọng tạo sự tín nhiệm của khách hàng và đối tác. Đối với khách hàng, luôn phải tỏ thái độ tôn trọng những lời đề nghị hay phê bình. Đối với đối tác nước ngoài, nên tuân thủ hợp đồng, nếu có bất cứ trục trặc gì thì phải thông báo lại ngay với lý do và chứng cứ rõ ràng, khi có những lời phàn nàn mà vấn đề liên quan trực tiếp đến đối tác nước ngoài thì không nên tỏ thái độ thái quá mà bình tĩnh sắp xếp ổn thoả có lợi cho cả đôi bên tạo thuận lợi cho mối quan hệ hợp tác lâu dài. Cần phải tạo được tác phong kinh doanh làm cho khách hàng cũng như đối tác cảm nhận được sự tin tưởng và sẵn sàng hợp tác nhiều năm. 1.3. Xây dựng sách lược tiêu thụ sản phẩm: Đối với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đều nhằm mục đích tiêu thụ sản phẩm chứ không phải mua về rồi tiêu dùng trực tiếp. Để tiêu thụ được sản phẩm đòi hỏi FPT phải có sách lược tiêu thụ là những phương pháp, kỹ xảo mà công ty áp dụng để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đối tượng tiêu dùng hàng hoá rất đa dạng và luôn thay đổi. Do đó, đề ra chiến lược đúng đắn có tác dụng hết sức to lớn đối với việc tiêu thụ sản phẩm nhập về, cần phải tạo ra các sách lược phù hợp với từng thời điểm cụ thể và áp dụng linh hoạt: 1.3.1. Sách lược tiêu thụ tạo điều kiện cho khách hàng: Khách hàng luôn muốn có được sản phẩm không những tốt mà các dịch vụ kèm theo cũng phải tương xứng. Khâu đầu tiên là giới thiệu hàng, nên có những hình thức khuyến khích thông qua khuyến mại, tiếp đến tạo điều kiện cho khách hàng ký hợp đồng. Không nên đòi hỏi nhiều thủ tục rắc rối mà hiện tại không cần thiết đặc biệt đối với những đaị lý vừa và nhỏ bởi vì lượng vốn bỏ ra kinh doanh mặt hàng tin học là cao. Cần phải tìm được nhiều khách hàng và giữ được họ. Công tác vận chuyển hàng đến tận nơi người tiêu dùng, đảm bảo an toàn là một dịch vụ hậu mãi được người tiêu dùng hưởng ứng. Theo yêu cầu của khách có thể lắp đặt các chương trình phần mềm. Khi các đại lý gặp khó khăn về vốn thì có các biện pháp hỗ trợ, đặc biệt giành cho những khách hàng có tín nhiệm lâu năm. FPT nên có chế độ đãi ngộ tín dụng hợp lý hơn để các đại lý nhỏ có đủ khả năng nhập hàng và thấy được lợi ích khi quan hệ giao dịch, từ đó thúc đẩy họ bán hàng cho công ty sẽ giúp công ty nhanh chóng mở rộng được mạng lưới phân phối hàng của mình, tuy nhiên cũng phải cân nhắc các thủ tục pháp lý rõ ràng để tránh bị chiếm dụng vốn. Đối với người tiêu dùng có thể dùng hình thức thanh toán trả góp hay trả chậm. Hiện nay, hình thức trả góp đã được áp dụng ở nhiều công ty và thu được kết quả nên công ty trong thời gian tới nên sớm áp dụng để khai thác triệt để thị trường vốn có đồng thời mở rộng hơn nữa thị trường mới. 1.3.2. Sách lược tiêu thụ nắm bắt nhu cầu người tiêu dùng: Nhu cầu tiêu dùng quyết định đến lượng hàng nhập khẩu. Hiện nay, nhìn chung mức thu nhập của người Việt Nam còn thấp nhưng vẫn muốn có những trang thiết bị phục vụ mới có chất lượng nhưng giá vừa túi tiền. Bên cạnh đó có những dự án đòi hỏi chất lượng phải thật tốt, sẵn sàng trả với giá cao. Có nghĩa rằng nhu cầu đa dạng và phong phú. Đối với máy vi tính và phụ kiện của nó vẫn có những sản phẩm có cấu hình thấp hơn và sự tiện ích không bằng nhưng sử dụng tốt cho nhu cầu nhất định nào đó. FPT nhập chủ yếu những mặt hàng mới của IBM, COMPAQ giá thành khá cao trong khi nhu cầu cá nhân tăng, chỉ có một lượng tiền nhất định nên mặc dù rất muốn có nhưng người dân cũng chỉ mua những máy tính có cấu hình thấp hơn và giá rẻ hơn cái mà hiện FPT hầu như không có. Các dự án luôn là mục tiêu chính nhưng không có nghĩa không quan tâm đến thị trường phục vụ cho cá nhân người tiêu dùng vì trong tương lai thị trường này phát triển mạnh. Do vậy, công ty nên nhập cả những máy có mức giá vừa phải nhưng chất lượng khá tốt phục vụ cho những khách hàng này vì thực tế thị trường cho các hộ gia đình của công ty không hề tăng trong mấy năm gần đây và những công ty đối thủ lại kinh doanh khá mạnh trên thị trường. 1.3.3. Sách lược mở rộng mạng lưới phân phối hàng nhập khẩu: FPT cần thường xuyên lập kế hoạch phân phối một cách cụ thể cho từng chủng loại hàng, đối với từng đại lý, bạn hàng để phân phối hiệu quả với kênh phân phối đa dạng, phức tạp của công ty, tránh tình trạng phân phối hàng tràn lan, thiếu trọng điểm và mất cân đối. Tăng cường khả năng kiểm soát, điều khiển kênh bằng việc mở thêm các chi nhánh, đại diện của mình tại các tỉnh. Công ty nên thiết lập chi nhánh tại miền Trung, có thể là Đà nẵng hoặc Huế bởi đây là hai thành phố có vị trí quan trọng ở vùng này đồng thời ở đó cũng có các trường Đại học lớn, được nhà nước đầu tư mạnh mẽ và có tốc độ phát triển khá cao trong hai năm trở lại đây. Công ty cần tận dụng những khoảng trống trên thị trường vì chúng thường khá nhỏ, phân tán, song nếu tận dụng được, chúng sẽ làm tăng đáng kể lượng khách hàng. Thiết lập các chương trình quản lý các đại lý có hiệu quả. Khi hệ thống mạng lưới đại lý được xác lập, công ty có thể thông qua các đại lý này để nắm bắt tình hình thị trường và các nhu cầu đồng thời biết chính xác về giá cả. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho công tác nghiên cứu thị trường của công ty đỡ tốn kém. 1.3.4. Sách lược giá bán hàng nhập khẩu linh hoạt: Giá cả mặt hàng là một trong những yếu tố cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường. Có thể nói định giá bán hàng nhập khẩu là một nghệ thuật trong kinh doanh, các quyết định về giá cả để chiếm được ưu thế trong cạnh tranh là vấn đề quan trọng đối với công ty. Sai lầm về vấn đề định giá hàng nhập khẩu có thể dẫn tới hậu quả khá nghiêm trọng, nếu định giá quá cao thì giảm khả năng cạnh tranh, giảm khánh hàng và khó tiêu thụ hàng hoá. Còn nếu định giá quá thấp thì giảm lợi nhuận hoặc dẫn tới lỗ đặc biệt khi tỷ giá tăng. Vì vậy, FPT cần chú ý tới những vấn đề liên quan trong việc định giá sản phẩm nhập khẩu nói chung, máy vi tính và phụ kiện máy vi tính nói riêng sau: -áp dụng chính sách linh hoạt thay đổi giá trong từng thời kỳ cụ thể, từng khách hàng cụ thể. -Có chính sách ưu đãi, khuyến khích khách hàng như: Giảm giá, chiếu cố cho từng trường hợp khách hàng. Chẳng hạn, những khách hàng mua với số lượng lớn sẽ được giảm giá, có thể giảm giá theo định kỳ đối với khách hàng lâu năm. -Phải luôn xem xét, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giá, cung cầu, các chi phí vận chuyển để có biện pháp thay đổi phù hợp. Công ty có thể định giá được trên căn cứ sau: -Căn cứ vào giá mua cộng các chi phí khác. -Căn cứ vào nhu cầu và sức mua của khách hàng để giải quyết định giá tiêu thụ. -Căn cứ vào thị trường và tình hình cạnh tranh và đảm bảo thuận lợi cho định giá tiêu thụ. Để thực hiện được thì công ty phải có các nhân viên có khả năng lập chính sách giá hướng ra thị trường, chính sách này dựa trên hai yếu tố quan trọng là: -Tiềm năng thị trường (Nhu cầu quan hệ , nhu cầu giá cả, sự đàn hồi của nhu càu) khách hàng, khả năng tách thị trường ra làm hai phần là phần tăng trưởng do tiêu thụ hay phần tăng trưởng do những hấp dẫn mới. -Cạnh tranh: không chỉ giá cạnh tranh mà cả phản ứng có thể xảy ra đối với các quyết định của công ty và chiến lược giá. 1.3.5. Quảng cáo và xúc tiến bán hàng: Bất cứ doanh nghiệp kinh doanh nào cũng đều muốn mở rộng hoạt động kinh doanh của mình, biện pháp được đánh giá là vô cùng quan trọng và không thể thiếu được đặc biệt đối với những doanh nghiệp lớn là quảng cáo. Cần phải được coi trọng đúng mức, sử dụng các phương tiện quảng cáo như: tivi, tạp chí, đài,... Ngoài ra có thể in ấn phát hành các tài liệu kèm theo các sản phẩm được gửi đến những khách hàng cần thiết. Các sản phẩm khi bán ra phải đúng như quảng cáo, không nên khuyếch trương thái quá làm khách hàng cảm thấy khó chịu. FPT nên xác lập các bảng quảng cáo và cách quảng cáo hữu hiệu nhất là đối với mỗi sản phẩm đến tay khách hàng đều đáp ứng nhu cầu và được đánh giá cao. Công ty cần phải dự báo chi phí cho quảng cáo, lập quỹ riêng cho hoạt động này. Những công việc xúc tiến bán hàng góp phần làm tăng doanh thu cũng như uy tín của công ty. Cần phải xây dựng mối quan hệ với các khách hàng thông qua tổ chức hội nghị khách hàng định kỳ hàng năm kết hợp với tham gia hội thảo để thu nhập thông tin. Tặng quà cho các khách hàng lớn, các đơn vị bạn trong những dịp thuận lợi nhằm tranh thủ tình cảm. Công ty nên kết hợp chặt chẽ với các quảng cáo và xúc tiến bán hàng trong một chương trình, kế hoạch Maketing thống nhất để sử dụng một cách hiệu quả các công cụ này. 1.4. Tiếp tục tìm hiểu và mở rộng quan hệ với những bạn hàng và khách hàng: 1.4.1. Củng cố và giữ mối quan hệ với bạn hàng, khách hàng cũ: Trong cơ chế thị trường tự do cạnh tranh, tìm được bạn hàng là công việc khó khăn, giữ được mối quan hệ làm ăn lâu dài là cả một vấn đề. Uy tín của công ty không phải chỉ ở chất lượng hàng bán mà FPT cung cấp ra thị trường mà nó gồm các hoạt động dịch vụ khác như hậu mãi, ưu đãi,...Trong công việc kinh doanh không thể nói trước quên sau hoặc tìm cách lấp liếm những sai sót của mình trước khách hàng. Cần phải giữ được chữ tín, giúp đỡ và đôi khi phải hy sinh một phần lợi ích của mình, không thể vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài cái mà FPT mất nhiều thời gian và công sức mới có thể xây dựng được. Tuy nhiên, cũng phải đánh giá tương lai, triển vọng của bạn hàng cũ, từ đó tập trung vào các mối quan hệ có hiệu quả hơn trong công tác kinh doanh cả trong hiện tại và tương lai. 1.4.2. Tìm hiểu, mở rộng quan hệ với những bạn hàng và khách hàng mới: Việc mở rộng và phát triển các mối quan hệ bạn hàng mới phải dựa trên cơ sở củng cố những mối quan hệ với bạn hàng và khách hàng cũ. Mối quan hệ được mở rộng không phải chỉ xây dựng mối quan hệ làm ăn về mặt hàng. Các bạn hàng cũ và lớn IBM, COMPAQ có mối quan hệ khá bền chặt với công ty, tạo được lòng tin ở nhau. Nhưng với xu hướng mới không thể chỉ bó hẹp trong hai hãng này mà cần phải có mối quan hệ với các hãng khác trong vùng và các khu vực khác. Muốn vậy FPT phải tạo được lòng tin ngay từ những hợp đồng đầu tiên. Mối quan hệ với những khách hàng mới giúp công ty đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh và tìm được những lợi ích thông qua việc lựa chọn lợi thế của từng công ty. 1.5. Hoàn thiện một số nghiệp vụ hoạt động nhập khẩu: 1.5.1. Ký kết hợp đồng nhập khẩu: Hợp đồng nhập khẩu đóng vai trò rất quan trọng vì nó quyết định được công ty có thực hiện được hoạt động nhập khẩu đó hay không. Hợp đồng nhập khẩu có ý nghĩa pháp lý quy định trách nhiệm của mỗi bên tham gia mua bán hàng hoá quốc tế có quyền lợi hoặc nghĩa vụ thực hiện hợp đồng nhằm thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia ký kết. Chính vì vậy người tham gia ký kết hợp đồng phải là người có đầy đủ trình độ kinh doanh và nghiệp vụ, đào tạo chính quy và tham gia kinh doanh, nắm vững luật pháp của các bên liên quan và của quốc tế. Hơn nữa cán bộ phụ trách kí kết hợp đồng phải có trách nhiệm và kinh nghiêm nhất định, nếu không hợp đồng sẽ bị đổ vỡ ảnh hưởng đến uy tín của công ty hoặc gây thiệt hại nhiều do giá trị nhập khẩu mặt hàng máy vi tính và phụ kiện thường lớn. Trong thảo luận, ký kết cần phải sáng tạo, mềm dẻo và chân thành để có thể đạt hiệu quả cao nhất. Không nhất thiết phải theo một khuôn mẫu trong đàm phán kí kết hợp đồng mà phải linh hoạt để vận dụng ưu thế của người mua. Có thể sử dụng một số chiến thuật sau: -Tạo ra sự cạnh tranh để đối phương thấy rằng họ không phải là người cung cấp duy nhất. -Từng bước chia nhỏ mục tiêu của mình, nắm bắt tâm lý đối phương rồi từng bước thực hiện mục tiêu. -Gây áp lực cho đối phương -Nên gây ra mục tiêu hơn dự tính đạt được để có thể thoả hiệp thường phải cao. -Không bộc lộ những suy nghĩ của mình mà cần quan sát diễn biến của đối phương để tranh thủ quyền chủ động. -Làm cho đối phương nhượng bộ từng bước mà vẫn đảm bảo thể diện. Trường hợp tranh chấp hợp đồng trong giao dịch nhập khẩu xảy ra không hiếm, do đó khi kí kết hợp đồng cán bộ phụ trách phải đặc biệt chú ý đến các điều khoản hợp đồng. 1.5.2. Tiếp nhận hàng hoá: Khi nhận được giấy báo tàu đến, công ty có lệnh ra nhận hàng thì cần nhanh chóng hoàn tất các thủ tục để nhận lô hàng của mình tránh tình trạng chậm trễ sẽ bị phạt lưu kho, lưu bãi và chi phí tổn thất khác. Khi nhận được chứng từ nhận hàng cần kiểm tra chi tiết phải đối chiếu với yêu cầu của chứng từ mua hàng. Trong quá trình nhận hàng cần phải theo sát hiện trường, cập nhật số liệu để có thể kịp thời phát hiện ra các sai sót để có biện pháp xử lý thích hợp. Cần phải đề nghị các cơ quan giám định hàng hoá, bảo điểm xác nhận mức độ thiệt hại, lập biên bản xác nhận hàng hoá hư hỏng do đổ vỡ ở trên tàu. Cuối cùng khi giao hàng sẽ ký “Biên bản tổng kết giao nhận hàng hoá”. 1.6. Các biện pháp phát triển nhân tố con người: Như trên đã phân tích, nghiệp vụ nhập khẩu khó khăn và phức tạp, đòi hỏi trình độ cán bộ khá cao. Hoạt động ngoại thương ngày càng phức tạp, những người phụ trách mảng này phải được đào tạo và cập nhật kiến thức thông tin. Trong chu trình kinh doanh hàng máy vi tính và phụ kiện, bộ phận nhập khẩu nằm ở đầu nguồn, vì vậy kết quả làm việc của bộ phận này ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của toàn công ty. Với các sản phẩm trình độ công nghệ cao, khả năng chúng được chế tạo trong nước còn xa, vì vậy đối với một công ty công nghệ cao như FPT, nhu cầu nhập khẩu nhiều và ngày càng nhiều hơn, bộ phận này còn đóng vai trò quan trọng trong hiện tại và tương lai. Cán bộ nhập khẩu phải đào tạo cả về kỹ thuật, nắm được cấu hình của máy, một số nhược điểm để khi nhập hàng không bị tổn thất. Ngoài ra, các cán bộ phụ trách kinh doanh sản phẩm nhập về cũng phải nắm vững được các kỹ thuật sơ đẳng của mặt hàng. Đội ngũ bảo hành, lắp đặt cần phải trau dồi kiến thức thường xuyên do máy móc có cấu tạo thay đổi liên tục và khách hàng đòi hỏi cao hơn. Cán bộ phần mềm đóng vai trò quan trọng trong các dự án quốc gia có kèm theo cả phần cứng. Nói chung đào tạo và kiểm tra trình độ chuyên môn và kiến thức chung hàng năm là việc làm thường xuyên buộc nhân viên phải tự nâng cao nghiệp vụ của mình. Chính sách thu hút nhân tài từ bên ngoài thông qua tuyên truyền, quảng cáo và phối hợp với những trường đào tạo lớn để có những sinh viên phục vụ tốt cho hoạt động của mình. Bố trí công việc cho phù hợp với năng lực của mỗi nhân viên. Ngoài ra phải có những biện pháp khuyến khích bằng tinh thần cũng như vật chất, thưởng đúng việc đúng người, thực hiện công bằng dân chủ. 2. Một số kiến nghị đối với Nhà nước và các Bộ, Ngành liên quan: Trong kinh doanh, doanh nghiệp thường gặp nhiều rủi ro do môi trường kinh doanh không ổn định. Nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là mục đích của các doanh nghiệp. Song, kết quả cố gắng của tất cả các doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức chính xác và có biện pháp ứng xử kịp thời, đúng đắn những tình huống ngẫu nhiên, bất định, những yếu tố nằm trong cũng như ngoài doanh nghiệp. Trên cơ sở những thời cơ và thuận lợi để thực hiện các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, công ty không những phụ thuộc vào nỗ lực của toàn thể cán bộ, công nhân viên mà còn phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện khách quan như các chính sách sẽ được ban hành trong tương lai của Nhà nước. Tôi xin đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước để hoàn thiện nhập khẩu ở Công ty FPT: 2.1. Hoàn thiện pháp luật về nhập khẩu: Nhà nước cần có các biện pháp xúc tiến để có thể sớm gia nhập các Công ước quốc tế đa phương và ký kết các Hiệp định thương mại với nước ngoài, nhằm tạo lập cơ sở hạ tầng cho việc tự do buôn bán, mở rộng thị trường, là cơ sở cho việc giải quyết các tranh chấp trong việc thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương. Nhà nước cần ban hành các quy định về quản lý vốn và ngoại tệ một cách chặt chẽ, để đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán, ổn định tỉ giá và bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp. Nhà nước cần hạn chế ban hành và loại bỏ các văn bản dưới luật không cần thiết do các Bộ, Ban, Ngành ban hành để tránh chồng chéo, mâu thuẫn nhau làm cho các doanh nghiệp nhập khẩu không biết phải thực hiện theo văn bản nào. Trong những năm gần đây, Nhà nước cũng đã có những sửa đổi tích cực trong cơ chế quản lý nhập khẩu, tuy nhiên văn bản còn tồn tại những vấn đề chưa hợp lý. Tính công bằng, bình đẳng của luật pháp đối với các doanh nghiệp nhập khẩu thuộc các thành phần kinh tế còn có sự phân biệt đối xử. Vẫn còn xảy ra tệ nạn tiêu cực hối lộ đi ngược với chính sách của Đảng và Nhà nước. Các mặt hàng có trình độ công nghệ cao như các thiết bị tin học phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước được khuyến khích nhập khẩu nhưng phải có sự thống nhất từ trên xuống. Đối với các linh kiện máy vi tính hiện nay phải chịu thuế suất nhập khẩu là 10% và không được giảm VAT, điều này rất thiệt thòi cho các doanh nghiệp nhập khẩu lắp ráp máy vi tính trong nước. Máy vi tính là mặt hàng chứa hàm lượng chất xám cao, Nhà nước cũng nên khuyến khích các doanh nghiệp lắp ráp để đáp ứng nhu cầu trong nước ngày một tăng và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. 2.2. Kiến nghị đối với Bộ Thương mại: -Bộ cần chủ động tổ chức các cuộc Hội thảo trao đổi về tình hình thị truờng các khu vực hàng tháng giữa Bộ với các doanh nghiệp nhằm giúp họ nhanh chóng nắm bắt được thông tin, cơ hội mới. -Bộ nên có dự đoán về tình hình trong nuớc và ngoài nước và theo sát các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trong bước để họ có thể định hướng kinh doanh. -Bộ phải là một người tư vấn đắc lực cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương không chỉ về thị trường, thông tin mà con phối hợp với các Bộ, nghành khác giúp đỡ về nắm vững và giải quyết các vấn đề tài chính và liên quan đến hình thành cũng như thực hiện hợp đồng nhập khẩu . -Đối với công ty FPT, một công ty hoạt động trong lĩnh vực tin học-lĩnh vực được Nhà nước quan tâm, vì vậy Bộ nên phối hợp với các Bộ, Ngành liên quan nhằm đưa ra các biện pháp như tín dụng nhập khẩu, thuế suất,... giúp công ty có sự thuận tiện trong công tác nhập khẩu tiêu thụ mặt hàng mà trong nước vẫn chưa sản xuất được. 2.3. Kiến nghị đối với Ngành Hải quan: Ngành Hải quan cần cải cách thủ tục hành chính và đổi mới công tác nhằm giảm bớt sự chờ đợi, giải phóng nhanh hàng hoá, giảm bớt sự đi lại của chủ hàng để hàng hoá có thể nhanh chóng được đưa về tiêu thụ đáp ứng ngay nhu cầu truớc mắt tránh được những chi phí không đáng có mà doanh nghiệp phải chịu. Việc cải cách thủ tục hành chính này sẽ giúp cho việc xoá bỏ tình trạng quan liêu, cửa quyền, phiền hà, sách nhiễu tạo điều kiện thuận tiện cho hoạt động nhập khẩu. Việc cải cách bao gồm: -Sửa đổi chính sách, chế độ quản lý hoạt động nhập khẩu, công khai hoá những vấn đề đã được cải tiến nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhập khẩu. -Tiến hành quản lý thống nhất, tránh phân chia quá nhiều khâu quản lý gây nên hiện tượng chồng chéo. -Tăng cường kiểm tra chống buôn lậu tạo sự cạnh tranh lành mạnh cho hàng hoá nhập khẩu của công ty. -Ngành Hải quan cần thanh tra, kiểm tra lại các cán bộ trong ngành để đảm bảo sự trung thực trong công việc của họ. Kết luận Trong những năm qua, đất nước đang chuyển mình trong công cuộc CNH-HĐH theo đường lối của Đảng Cộng Sản Việt nam, Việt nam mở rộng cửa đón chào các nhà đầu tư nước ngoài để học hỏi những kinh nghiệm quản lý, tiếp thu những công nghệ mới, các công ty liên doanh thậm chí 100% vốn nước ngoài đang trở thành những hình mẫu về sự bài bản trong quản lý và năng động trong kinh doanh. Trước sự cạnh tranh quyết liệt trên thương trường cùng hệ thống và kinh doanh lỗi thời, hàng loạt các công ty trong nước đặc biệt là các công ty quốc doanh đang lao đao trên thị trường. Trong bối cảnh đó, một công ty quốc doanh Việt nam như FPT, đứng vững trong thử thách, khẳng định được mình qua 13 năm phát triển với doanh số tăng, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng, số lượng nhân viên tăng cả về chất và lượng, khẳng định được sự thích nghi của mình trong thời kỳ đổi mới. So với các doanh nghiệp khác, điểm đặc thù của FPT là các hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, công ty đã tiếp thu thành công nhiều công nghệ mới trên thế giới trong các lĩnh vực tin học, CGCN tiên tiến vào Việt nam, góp phần đưa đất nước phát triển vững mạnh hơn trong kỷ nguyên mới. Máy vi tính và phụ kiện máy vi tính luôn chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị nhập khẩu, doanh thu cũng như lợi nhuận. Hoạt động nhập khẩu khá phức tạp do đó cần xác định những mặt tích cực hoặc mình có lợi thế để phát huy và hạn chế đến mức thấp nhất những tác động xấu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của FPT. Với năng lực và tầm nhìn chiến lược của các nhà lãnh đạo công ty, đội ngũ nhân viên nhiệt tình, sáng tạo và có kiến thức tốt cùng sự trợ giúp của hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 phiên bản 2000, phiên bản mới nhất hiện nay, có thể tin rằng FPT sẽ hoàn thiện được bộ máy quản lý, phát triển mạnh mẽ hoạt động kinh doanh không chỉ phần cứng mà cả ở lĩnh vực phần mềm, giữ vị trí hàng đầu tại Việt nam và từng bước trở thành một công ty có tầm cỡ khu vực và thế giới. Tài liệu tham khảo 1. Sách: -Giáo trình Thương mại quốc tế-Chủ biên: PGS.TS Nguyễn Duy Bột-Nhà xuất bản Thống kê Hà nội-1997. -Giáo trình Đàm phán và ký kết hợp đồng trong kinh doanh quốc tế-Chủ biên: GS.TS Tô Xuân Dân-Nhà xuất bản Thống kê Hà nội-1998. -Kỹ thuật Nghiệp vụ Ngoại thương-Chủ biên: Vũ Tữu Tửu -Nhà xuất bản Giáo dục Hà nội-1998. -Maketing quốc tế-Chủ biên: Nguyễn Cao Văn-Nhà xuất bản Giáo dục Hà nội-1999. -Giáo trình Kiến trúc máy tính-Chủ biên: Nguyễn Đình Việt- Nhà xuất bản Giáo dục Hà nội-1997. 2. Báo, tạp chí: -Kinh tế và phát triển Số 23 năm 1998 -Việt nam và Đông Nam á ngày nay Số 24 năm 1998 -Thời báo kinh tế Việt nam Số 105, 106,109, 127 năm 2000 -Thế giới vi tính Số 100 năm 2001 3. Báo cáo: -Báo cáo tổng kết của công ty FPT năm 1998-2000. -Báo cáo và dự báo của IDC. Và một số tài liệu tham khảo khác. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0371.doc
Tài liệu liên quan